Thứ Bảy, 28 Tháng Mười Hai, 2013

Chúa Giêsu sinh ngày 25/12 ?

Gia đình và năm sinh.

Đức Giêsu, tiếng Hípri gọi « J'hoshua = Giavê cứu chữa »; tiếng Aram = Jesua hay Jesu. Tên Hípri « J’hoshua » đến từ tên ngắn gọn nhân vật Giosuê trong Cựu ước (tiếng Hípri « Yehosua »), người thay ông Môsê đưa dân Ítraen vào đất hứa. Trước thời lưu đày Babylone, thường gọi Giosuê, nhưng sau thời kỳ lưu đày, tên gọi Giêsu thịnh hành hơn trong cộng đồng người Do thái, cho dù tên Giosuê vẫn còn được lưu giữ.

Tên gọi Giêsu rất thịnh hành trong thời bấy giờ ở Palestine cho đến thế kỷ thứ II công nguyên; vì Đức Giêsu Kitô được kitô hữu tôn kính cho nên người Do thái cũng ít dùng tên Yehosua và tên Giêsu trở nên tên gọi thịnh hành hơn. Vì quá thịnh hành cho nên thường phải xác định rõ ràng hơn ông Giêsu đó là ai, và phải thêm vào tên nơi chốn gốc con người đó chẳng hạn như « Giêsu Nazareth » hay « Giêsu Đấng Kitô (mêsia) ». Sử gia Flavius Josèphe cho biết thời Đức Giêsu trong những văn bản ông ghi lại có hơn mười nhân vật mang tên « Giêsu ». Vì thế tên Đức Giêsu không có gì đặc biệt cả. Sau thế kỷ thứ II, tên gọi Giêsu trở nên hiếm hoi hơn.

Cha tên « Joses = Giuse »[1], một tên đến từ 12 người con ông Giacóp, cha Ephraim và Manasê, và qua họ tổ phụ hai bộ tộc thuộc mười hai chi tộc Ítraen; mẹ tên « Mirjam = Maria »[2], cùng tên với bà chị ông Môsê. Bốn người anh em mang tên Giacôbê, Giosuê, Simon và Giuđa đều đến từ tên các tổ phụ thuộc mười hai chi tộc Ítraen.

Theo tin mừng Mátthêu, Đức Giêsu sinh tại Bethlehem thời « vua Hêrôđê trị vì » (2,1)[3], Hêrôđê cả bố vua Hêrôđê Áckhêlao (Mátthêu 2,22). Tin mừng Luca cũng mang công thức tương tự duy chỉ có một chút xíu khác biệt, tác giả nói rõ thêm « vua Hêrôđê, cai trị vùng Giuđê ». Luca 3,23 lại ghi « khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi ». Người bắt đầu sứ vụ vào năm 27, vậy năm sinh sẽ vào năm thứ 4 hoặc thứ 6 trước công nguyên. Ngày sinh không thể nào biết rõ hơn.

511. Đức Giêsu sinh năm nào và có phải ngày 25.12?

Khi muốn biết ngày Đức Giêsu sinh ra, tự nhiên ai cũng sẽ tìm đọc trong Tân ước. Khi đọc kỹ lại thất vọng vì không thấy tác giả nào cho biết đích xác ngày giờ Đức Giêsu sinh ra. Bản văn Tân ước xưa nhất như thư thứ nhất Phaolô gửi giáo đoàn Thêxalônica được viết vào khoảng năm 51, không thấy nói gì về ngày sinh nhật Đức Giêsu. Tìm về bốn cuốn tin mừng được viết từ khoảng năm 65 đến đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên, chỉ được biết như sau:

Tin mừng cựu trào nhất theo Máccô được viết khoảng năm 65, sau cuộc bách hại đạo do hoàng đế Nêrô khởi xướng. Tác giả không đá động gì đến thời thơ ấu Đức Giêsu nhưng bắt đầu cuốn tin mừng bằng việc ông Gioan Tẩy giả rao giảng. Tin mừng Gioan viết khoảng năm 110 cũng không cho biết gì về tuổi ấu thơ Đức Giêsu. Ngoài hai tác tác giả Máccô và Gioan, hai tác giả Mátthêu và Luca viết vào khoảng năm 80. Khi hoàn thành tác phẩm hai ông đã sử dụng một phần tin mừng Máccô. Họ theo sát phần lớn về đề tài cũng như bố cục, nhưng Mátthêu và Luca để ra hai chương đầu tiên trong cuốn sách nói về thời thơ ấu Đức Giêsu; và điều đương nhiên ai cũng nghĩ có thể tìm thấy trong đó về ngày Người sinh ra. Khi đọc kỹ lại càng thêm thất vọng vì không thấy hai tác giả trên cho biết ngày giờ nào Ngôi hai Thiên Chúa giáng trần.

Tin mừng Luca đặt ngày Đức Giêsu sinh ra trong niên đại chung đế quốc La mã. Dù tác giả muốn đưa ra nơi đây hoàn cảnh lịch sử chính xác[4], nhưng cũng có một vài vấn nạn. Về năm Đức Giêsu sinh ra được biết như sau theo Luca:

Dưới triều đại hoàng đế Auguste (từ năm 29 trước công nguyên đến năm 14 sau công nguyên), có một cuộc kiểm tra dân số « toàn thế giới », tức là đế quốc La mã. Cuộc kiểm tra xảy ra khi ông Quirinius làm đặc sứ toàn quyền xứ Syrie. Lịch sử xác nhận có cuộc kiểm tra dân số vào năm thứ 6 tại Palestine. Theo Luca, mỗi người phải về quê quán khai sổ bộ, tức là nơi gia đình gốc của mình. Vì vậy, ông Giuse phải làm hành trình về Bethlehem thành Đavít nơi quê cha đất tổ. Luật này làm cho dân chúng phải lũ lượt kéo nhau về quê quán gây nên rất nhiều khó khăn. Thật ra, kiểm tra dân số mang mục đích đánh thuế người dân, và bình thường đánh thuế ngay nơi người dân cư ngụ thôi. Vì vậy, nhiều nhà chú giải cho Luca đưa ra lý do với mục đích đặt Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem.

Khi đọc tin mừng Mátthêu về giai đoạn này còn thấy rõ vấn nạn hơn. Mátthêu cho Đức Giêsu sinh ra dưới triều đại vua Hêrôđê và ông này qua đời năm thứ 4 trước công nguyên. Và theo tin mừng Mátthêu, Hêrôđê ra lệnh tàn sát các em nhỏ dưới hai tuổi để chắc chắn mình sẽ không có người đối thủ. Vì thế các sử gia thường đặt Đức Giêsu sinh ra năm thứ 4 hoặc năm thứ 6 trước công nguyên. 

512. Những chứng tích lịch sử nói gì về ngày Đức Giêsu sinh ra?

Suốt ba thế kỷ đầu, các tín hữu tiên khởi không mừng lễ sinh nhật Đức Giêsu vì biến cố thương khó và Phục sinh mới quan trọng. Họ hội họp tưởng nhớ lại biến cố trên vào ngày Chúa nhật hay ngày thứ nhất trong tuần. Thời Giáo hội tiên khởi, lễ kính các tông đồ hay các vị tử đạo đều mừng vào ngày họ tử nạn chứ không phải ngày sinh ra. Dần dà có người lên tiếng Đức Giêsu lớn hơn các thánh vì là Đấng cứu độ trần gian, nên cần đi ngược lên thời gian tìm hiểu con người và hành động Đức Giêsu. Từ những ý phôi thai đó, biến cố Chúa nhập thế mới được nghĩ đến.

Các tín hữu bên Đông phương suy niệm trước hết mầu nhiệm Chúa tỏ mình cho nhân loại. Qua văn kiện ông Clément thành Alexandrie biết có một người theo phái ngộ đạo[5] tên Basilide sống ở thế kỷ thứ II tại thành Alexandrie cùng các môn đệ đã mừng lễ Chúa chịu phép rửa vào ngày 6/1. Họ mừng mầu nhiệm Đức Kitô tỏ mình nhưng chưa phải ngày sinh nhật Chúa. Tại sao họ lựa ngày 6/1 vì tin mừng cũng không nói đích xác ngày và giờ Chúa chịu phép rửa. Ngày 6/1, truyền thống Hy lạp mừng thần Dionysos bảo vệ vườn nho và rượu vang; dân Ai cập mừng thần Osiris hộ mạng kẻ qua đời, tin trong ngày này nước sông Nil mang một quyền năng thần diệu đặc biệt. Nhóm Ngộ đạo theo Basilide dựa vào đó để chọn lựa ngày Đức Giêsu chịu phép rửa: Người đã dìm mình xuống dòng sông Giođan thần diệu và tỏ mình cho dân ngoại là Đấng Kitô. Vì vậy điều chắc chắn cho đến giữa thế kỷ thứ IV, Giáo hội mừng lễ Chúa tỏ mình ngày 6/1 gồm luôn ý tưởng ngày sinh nhật Chúa với biến cố Người chịu phép rửa. Lễ bắt đầu ở phương Đông dần dần lan sang tận Rôma. Câu hỏi đặt ra: từ lúc nào Giáo hội thay lễ 6/1 thế vào ngày 25/12.

Tài liệu đầu tiên ghi lễ Chúa Giáng sinh mừng ngày 25/12 được tìm thấy trong sách Thời Ký năm 354, bộ sách lịch sử ghi lại những ngày lễ ở Rôma, những quan chấp chính, thái thú thành phố. Ngoài ra còn có hai danh sách ghi ngày sinh nhật, tang lễ: một liên quan đến các Giám mục thành Rôma, và một cuốn khác về các vị tử đạo với chỉ dẩn rõ ràng trong mỗi bảng nơi họ chôn cất. Sách được bắt đầu hình thành năm 336. Nhưng ngày 25/12 mang ý nghĩa gì?

Theo tuần hoàn thời tiết, khoảng 25/12 mặt trời xa trái đất nhất, đêm dài nhất trong năm: « ngày đông chí ». Bắt đầu từ đêm nay mặt trời chuyển hướng đi về phía bắc bán cầu và lấy dần lại sức nóng và thời hạn ban ngày dài hơn. Dịp này dân ngoại mừng sinh nhật thần Mithra (phụng tự đến từ Ba tư): vị thần sinh ra từ đá và mang ánh sáng mới. Trước đó, các hoàng đế La mã đã cho dựng những đền thờ thần mặt trời và hoàng đế Aurelius chọn ngày 25/12 biệt kính thần « mặt trời bách chiến bách thắng » (solis natalis invicti). Giáo hội tại Rôma chống lại những phụng tự trên, và muốn cho kitô hữu có một ngày riêng mừng sinh nhật Đức Kitô vì Người cũng là « Ánh sáng chiếu soi muôn dân » như lời ông già Simêon chúc tụng trong đền thờ. Bởi vậy Giáo hội chọn lấy lễ sinh nhật Chúa thế vào lễ dân ngoại. Thời hoàng đế Honorius (395-423), lễ Giáng sinh được đặt ngang hàng với lễ Phục sinh và lễ Chúa tỏ mình. Năm 440, Giáo hội quyết định giữ ngày 25/12 và năm 506 Công đồng thành Agde ra quyết nghị ngày 25/12 lễ trọng phải giữ. Sau đó đến thời hoàng đế Justinien (527-565), ngày 25/12 trở thành ngày lễ nghỉ. Ngày 25/12 mang ý nghĩa thần học nơi biến cố Đức Kitô tỏ mình cho nhân loại hơn mừng một ngày đích xác.

Từ ban đầu cho đến hôm nay, có tất cả ba ngày như sau: Các Giáo hội mừng sinh nhật Chúa ngày 25/12: Giáo hội Công giáo, các Giáo hội Tin lành, các Giáo hội Chính thống Constantinople, Alexandrie, Antioche, Lỗ ma ni, Chypre, Hy lạp và Phần Lan.

Các Giáo hội mừng Sinh nhật Chúa ngày 6/1: Giáo hội Chính thống Giêrusalem, Nga, Serbie, Bulgarie, Géorgie, Ba Lan và Tiệp Khắc.

Các Giáo hội mừng sinh nhật Chúa ngày 18 hoặc 19/1: Giáo hội Chính thống Ethopie, Copte (Ai cập), Syrie, Ấn độ và Arménie.

513. Nơi sinh.

Tin mừng Mátthêu và Luca đều khẳng định nơi Đức Giêsu sinh ra được coi như ở Bethlehem[6] xứ Giuđê. Hai tác giả khẳng định điều này nơi chương 2 mỗi cuốn Tin mừng, ngoài ra Bethlehem chỉ còn được nói tới nơi tin mừng Gioan 7,42: « nào Kinh thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đa vít và từ Bê lem, làng của vua Đavít sao? » Duy có một chút khác biệt, theo Mátthêu (2,11) khi Đức Giêsu ra đời, cha mẹ ở Bethlehem (miền nam); còn theo Luca (1,26.39; 2,4) hai ông bà sinh sống tại Nazareth (miền bắc), phải về Bethlehem[7] làm kiểm tra thực hiện thời ông Quirinius làm tổng trấn xứ Syrie.

Kitô giáo sơ khai cũng không đồng nhất về nơi Đức Giêsu sinh ra. Những điều cổ nhất có thể từ các thư Phaolô: Đức Giêsu đến theo xác thịt từ dòng tộc Đavít (Rôma 1,3). Người được sinh ra bởi một người phụ nữ (Galát 4,4). Đó là những gì Phaolô cho biết được, và không thấy tác giả nói nơi sinh ra, và gia đình Đức Giêsu. Sau Phaolô, tin mừng Máccô được coi như cựu trào nhất cũng không nói gì về thời thơ ấu Đức Giêsu như tin mừng Mátthêu và Luca. Máccô bắt đầu cuốn tin mừng với ông Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Và nếu như ai đó, lần đầu tiên đọc Tân ước với tin mừng Máccô sẽ cho Đức Giêsu được sinh ra tại Nazareth.

Hôm nay, một số sử gia đặt lại vấn đề nơi Đức Giêsu sinh ra với 3 lý do:

- Dường như Gioan không biết (7,41-42), và tại sao?.

- Tại sao Đức Giêsu lại thường được gọi Giêsu Nazareth (Máccô 1,24; Mátthêu 21,10-11), và Nazareth một làng nhỏ chẳng có tiếng tăm gì (Gioan 1,46).

- Quirinius thật sự có làm đặc sứ toàn quyền xứ Syrie, nhưng yếu tố lịch sử do Luca đưa ra không đúng lắm. Quirinius không thể nào làm kiểm tra khi Hêrôđê cả còn sống thời Đức Giêsu sinh ra. Theo lịch sử, Quirinius làm đặc sứ toàn quyền xứ Syrie khi Áckhêlao bị người La mã hạ bệ năm thứ 6 sau công nguyên; Quirinius chỉ thực hiện cuộc kiểm tra 10 năm sau khi Hêrôđê cả qua đời năm 750 theo lịch Rôma, năm thứ 4 trước công nguyên.

Với những lý do trên, nên nhiều tác giả nghĩ Đức Giêsu được sinh trưởng tại Nazareth.

Nazareth.

Thật vậy, Đức Giêsu thường được gọi người « Nazarêen » hay « Giêsu Nazareth ». Trong tin mừng cũng vậy, đám dân chúng thành Giêrusalem chào đấng « ngôn sứ Giêsu Nazareth miền Galilê » (Mátthêu 21,11). Hai môn đệ trên đường Emmau buồn vì cái chết Đức « Giêsu Nazareth, một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân ». Trong tin mừng Gioan, ông Philípphê đến nói với ông Nathanaen rằng ông đã tìm thấy đấng mà các ngôn sứ loan báo đến: « Giêsu, con ông Giuse, làng Nazareth ». Và ông Nathanaen cho biết có cái gì tốt thoát ra từ Nazareth đâu (Gioan 1,45-46). Ngoài ra, còn nhiều văn bản gọi Đức Giêsu người « Nazorêen », dù có khác biệt một chút nơi nguyên âm, nhưng từ ngữ rõ ràng chỉ định Nazareth. Đôi khi cũng có từ « Nazara ». Và thánh Phaolô khi ra trước tòa đặc sứ toàn quyền, bị ông Tertullus kết án như một trong những người « cầm đầu giáo phái Nazorêen ».

Và thời bấy giờ, thường chỉ định nguồn gốc một người ở nơi được sinh ra. Chính vì Nazareth[8] không giữ một vai trò nào trong lịch sử kitô giáo, nên tên ở những văn bản xưa cũ có thể trở nên một dấu chỉ xác thực.

Dòng dõi Đavít.

Đức Giêsu thuộc dòng dõi Đavít là một đề tài thần học quan trọng trong Mátthêu. Dù vậy, không thể kết luận được tác giả bịa ra, vì đề tài cũng được Phaolô nhắc tới trong thư gửi Rôma 1,3: « xét như một người phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít ». Phaolô viết thư gửi Rôma vào khoảng cuối thập niên 50, một Cộng đoàn chưa bao giờ ông Phaolô đến thăm hay giảng dạy. Khi viết điều trên hẳn Phaolô nghĩ rằng tín hữu Rôma biết rõ lời tuyên xưng trên như lời diễn đạt đức tin ông muốn chia sẻ với họ. Một cách Phaolô muốn cho tín hữu Rôma biết ông thuộc một tín hữu chân thật, và mang cùng với họ một lòng tin giống nhau. Thật vậy, lời tuyên xưng khẳng định không còn thấy Phaolô nói tới trong các thư khác, nhưng còn thấy trong những thư mang tên ông như trong thư 2Timôthê 2,8: « anh em hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít ». Sau này, hai bảng gia phả theo Mátthêu 1,1-17 và Luca 3,23-38, dòng dõi Đavít cũng làm yếu tố chung.

Ngoài ra, tư tưởng Đức Giêsu đến từ dòng dõi Đavít cũng còn thấy trong một số luồng tư tưởng khác thuộc Kitô giáo tiên khởi như trong tin mừng Máccô 10,47[9]. Khi Bartimée biết Đức Giêsu đi qua gần chổ mình, ông kêu lên: « Con vua Đavít, xin thương xót tôi ». Khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, đám đông la lên: « vạn tuế ! chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa! chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta » (Máccô 11,9-10). Trong đoạn văn song song ở Mátthêu và Luca xác định Con vua Đavít đến, tức là vua-thiên sai. Đức Giêsu cũng chấp nhận tước hiệu qui chiếu với Thánh vịnh 110,1. Trong thư gửi người Do thái, tác giả không cho Đức Giêsu tước hiệu « con vua Đavít », nhưng Đức Giêsu được gọi « Vua - Tư tế - Mêsia » giống như ông Melchisédech, vua – tư tế ở Giêrusalem. Ngoài ra tác giả còn nói Đức Giêsu không thuộc chi tộc Lêvi nhưng thuộc chi tộc Giuđa (7,14). Điều cho thấy tác giả biết rõ truyền thống về dòng dõi nhà Đavít. Khi đọc sách Khải huyền 3,7; 5,5; 22,16, luồng tư tưởng khải huyền cũng cho truyền thống ý nghĩa dòng dõi Đavít một chỗ đứng quan trọng.

Tóm lại Kitô giáo tiên khởi mang niềm tin vào dòng dõi Đavít, và thế hệ kitô hữu sơ khai cũng khẳng định điều này sau biến cố Phục sinh. Dòng dõi Đavít cũng được giới quyền hành Do thái coi quan trọng. Tấm biển treo trên thập giá chỉ định Đức Giêsu như vua dân Do thái, và dưới triều đại hoàng đế Domitien, có những họ hàng Đức Giêsu bị tố cáo thuộc dòng dõi Đavít. Hoàng đế đưa họ trình diện trước ông thì thấy họ chỉ là những dân quê không có ý định chính trị và tha cho họ trở về (Eusèbe, Histoire Ecclésiastique 3,20). Thật vậy, lúc đó vào thế kỷ thứ II, giáo phụ Hégésippe khi nói đến các con cháu ông Giuđa còn được gọi « người anh em của Đức Giêsu theo xác phàm ». Hégésippe ghi những người bà con Đức Giêsu bị kết án trước hoàng đế Domitien (81-96) như thuộc « dòng dõi Đavít ». Những chứng từ cho biết gia đình Đức Giêsu thật sự xuống từ dòng dõi Đavít thuộc truyền thống.

Bethlehem.

Ai cũng được cho biết Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem. Hai tác giả nhất lãm Mátthêu 2,1-18; Lucac 2,1-21 ghi Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem với những từ ngữ khác biệt nhau. Ngoài hai chứng từ trên, phải chờ đến khoảng giữa thế kỷ thứ II trong tác phẩm Justin như « Apologie » và « Đối thoại với Tryphon » mới thấy nói lại việc Đức Giêsu sinh ra ở Bethlehem.

Justin lấy điều đó như lý lẽ luận chiến chống lại Do thái giáo. Lịch sử về Đức Giêsu đã được các ngôn sứ loan báo như ngôn sứ Isaia 7,14 loan báo sự sinh hạ trinh thai và ngôn sứ Mikha 5,1 báo Đức Kitô phải sinh ra tại Bethlehem. Thật vậy, Mátthêu và Luca cho ý nghĩa thần học nhiều hơn, đáp ứng câu sấm Ngôn sứ Mikha 5,1: « Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđê, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen... ». Mátthêu đặt câu sấm Mikha ở trung tâm điểm đoạn văn[10]. Theo Luca, khi nói đến nơi Đức Giêsu sinh ra, tác giả chỉ nói « thành Đavít », và khi thiên thần báo tin cho mục đồng thì họ nghĩ ngay đến Bethlehem. Vì vậy, mới cho Luca qui chiếu vào câu sấm Mikha. Theo truyền thống, bình thường thành Đavít là Giêrusalem.

Một giả thuyết mới[11].

Nhờ một cuộc khai quật khảo cổ mới đây do nhà khảo cổ Do thái Aviram Oshri nghiên cứu từ năm 1992 đến 2003, một giả thuyết mới có thể đưa đến chấp nhận việc Đức Giêsu sinh ra tại Bethleem. Giả thuyết có thể hòa giải hai cái nhìn thần học và lịch sử về vấn đề này. Aviram Oshri đã tìm thấy một ngôi làng tên Bethleem ở thế kỷ thứ I và cách Nazareth chỉ có 6km về phía tây. Làng Bethleem này nằm ở Galilê chứ không như Bethleem chúng ta thường biết tới thuộc xứ Giuđê. Bethleem ở Galilê là một ngôi làng đặc trưng Do thái và rất sầm uất thời vua Hêrôđê. Đến thế kỷ thứ VI, Bethleem-Galilê trở nên một trung tâm hành hương của người Thiên Chúa giáo. Giả thuyết có hai lợi điểm : cho tới nay chưa có những điểm cư ngụ nào được khoa khảo cổ tìm ra tại Bethleem-Giuđê; giả thuyết cũng khai sáng rõ ràng hơn câu văn trong tin mừng Gioan 7,41-43 khi có một số người Do thái không chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia vì Ngài mang nguồn gốc Galilê, chứ không thuộc nguồn gốc Bethleem-Giuđê như Đa vít : “Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Kitô." Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít sao? "Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ”.  Với kết quả khảo cổ này có thể nói hai tác giả Mátthêu và Luca đã lẫn lộn về hai ngôi làng Bethleem.



[1] Trong tin mừng, thiên hạ cho Đức Giêsu là con ông Giuse (Luca 3,23; 4,22; Gioan 1,45; 6,42). Hai thánh sử Mátthêu và Luca còn cho biết thêm ông Giuse là chồng bà Maria, nhưng không phải cha ruột Đức Giêsu, bởi vì bà Maria thụ thai do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần (Mátthêu 1,16.18; Luca 1,26-38).

[2] Qua hằng bao thế kỷ tên Maria đã gợi hứng biết bao nhiêu bài viết ca tụng. Nguyên gốc Hípri Myriam và thời Tân ước tên chỉ là một tên gọi rất thông thường. Trong Cựu ước, chị Môsê và Aarôn tên « Myriam, con gái ông Amran và bà Giôkebét thuộc chi họ Lêvi » (Dân số 26,59; Xuất hành 2,1 8); cũng vì vậy các nhà chú giải cho tên có nguồn gốc Ai cập Meri có nghĩa người được sủng ái. Từ nguyên Hípri Myriam có nguồn gốc « Ra'ah » (= thấy) mang nghĩa người có thiên nhãn. Luca ghi hai lần tên Maria nhưng không cho biết chi tiết về gia đình, nhân đức và tình cảm của Ngài. Vì có nhiều phụ nữ cùng mang tên Maria, nên trong tân ước thường thấy các tác giả thêm tên chồng hay tên quê quán vào để dễ phân biệt: Maria Magdala (Mađalêna), Maria Bêtania (chị bà Martha), Maria Salomê…

[3] Tin mừng Mátthêu 2,1 và Luca 1,5.26 chỉ nói trống dưới thời vua Hêrôđê. Ngày tháng sinh cũng không rõ. Đối với các thánh sử cũng như các cộng đoàn tín hữu tiên khởi vấn đề ngày tháng năm sinh không quan trọng. Thời đó, 3 đại lễ người kitô hữu mừng kính hằng năm là lễ Vượt Qua, lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống (xem Origène, Contra Celsum VIII,12.13). Niên lịch chúng ta hiện dùng được soạn bởi tu sĩ Điônixiô (Dionisius) theo lệnh Đức Giáo hoàng Gioan I vào năm 525. Ông dựa theo những dữ kiện tin mừng, và tính Đức Giêsu ra đời vào năm 753 theo niên lịch La mã. Vì thế năm 754 theo lịch La mã khởi đầu niên lịch kitô giáo. Tuy nhiên, ngày nay các sử gia đều cho tác giả đã tính sai đi mấy năm.

[4] Luca đặt Gioan Tẩy giả vào năm thứ 15 triều đại Tibère, tức là năm 28 công nguyên (Luca 3,1). Ông cho biết người Do thái bị hoàng đế Claude trục xuất khỏi Rôma (Công vụ 18,2). Luca có nói đến quan thái thú miền Giuđê là ông Félix và Festus (Công vụ 24,27); Ông biết tổng đốc Achaie Gallion (Công vụ 18,12) và triều đại Agripa II (Công vụ 26,1tt).

[5] Các nhà nghiên cứu cũng gặp phải nhiều vấn đề trong việc định nghĩa Ngộ đạo. Từ Ngộ đạo gom lại một số cộng đoàn vào đầu thế kỷ công nguyên tuyên xưng những giáo thuyết khác nhau. Nhưng họ có một số điểm tương đồng coi Đức Giêsu hay một đấng cứu độ nào đó đến mặc khải sự thật về hiểu biết (tiếng Hy lạp « gnosis ») về thế giới, về con người và mối tương quan lẫn nhau với Thiên Chúa. Chỉ những ai đi vào học hỏi mới được hiểu biết đó và được cứu rỗi. Các nhà nghiên cứu cũng đang tranh luận tìm nguồn gốc phái Ngộ đạo. Phần nhiều các học giả cho Ngộ đạo ra đời từ cuộc gặp gỡ giữa tư tưởng Hy lạp và các tôn giáo đông phương. Và cụ thể hơn đối với kitô giáo, Ngộ đạo đến từ sự gặp gỡ giữa Do thái giáo và các cộng đoàn kitô hữu gốc Do thái. Có thể nói Ngộ đạo kitô giáo thoát ra từ Do thái giáo.

Vào năm 1945, tại miền thượng Ai cập, đã khám phá ra 46 cuốn sách bằng tiếng Copte và cuốn cổ nhất đến từ thế kỷ thứ IV, và nhờ đó giới nghiên cứu biết được rõ ràng hơn về nhóm Ngộ đạo. Đó là những tài liệu đầu tay vì hầu như chắc chắn các tài liệu đều đến từ thư viện một cộng đoàn ngộ đạo.

[6] Bethlehem, hay Bêlem (Ả rập بيت لحم, Hípri: בית לחם, Hy lạp: Βηθλεέμ) có nghĩa « nhà bánh », một thành phố nằm ở tây ngạn sông Giođan, cách Giêrusalem 10km về phía nam. Thành phố Bethlehem nằm ở độ cao 765m trên mặt biển, tức là cao hơn Giêrusalem 30m. Thành phố Bethlehem thuộc miền Giuđê, đầu tiên được gọi Ephrath (Sáng thế 35,16,19; 48,7; Rút 4,11), cũng còn được gọi Bethlehem Ephrata (Mikha 5,2), Bethlehemjudah (1Samuen 17,12), và « thành vua Đavít » (Luca 2,4).

[7] Đường đi từ Nazareth về Bethlehem dài 150km.

[8] Sau thời đại Đức Giêsu, làng Nazareth cũng trải qua nhiều biến cố. Trong cuộc chiến chống quân La mã năm 67, Nazareth bị tàn phá. Kế tiếp, làng Nazareth lại bị người Ba tư đô hộ và vào năm 1263 hoàn toàn bị người Sarrazins phá hủy. Dòng tu Phanxicô đến Nazareth vào năm 1620 đưa cho Nazareth vực dậy, và trở nên một trong những trung tâm hành hương quan trọng của Thiên Chúa giáo. Ngày nay, Nazareth hoàn toàn đổi mới chứ không còn như một trấn làng thời Đức Giêsu. Các cuộc khai quật giúp tìm thấy lại dấu vết cũ cũng như những trung tâm được xây cất vào các thời kỳ khác nhau tại nơi được coi như nhà Đức Maria nhận được truyền tin từ thiên sứ Gabriel. Tại đó, từ năm 1960-1969, được xây cất vương cung thánh đường Truyền tin thật đồ sộ và hoành tráng về phương diện nghệ thuật.

[9] Xem thêm Máccô 12,35-37; Mátthêu 9,27; 12,23; 15,22; 20,30; 21,9,15; 22,42-45 và Luca 3,31; 18,38-39; 20,41-44; Công vụ 2,25-31; 13,22-23.

[10] Tác giả cũng làm như thế với đoạn văn trốn sang Ai cập qui chiếu ngôn sứ Hôsê 11,1; và tàn sát các trẻ thơ vô tội với ngôn sứ Giêrêmia 31,15.

[11]   Le Monde de la Bible, spécial numéro 200, Débat L’archéologie contredit-elle la Bible ?, Mars-Avril-Mai 2012, page 52.

 

Bài viết khác