Thứ Hai, 27 Tháng Mười Một, 2017

Biến chứng của bệnh tiểu đường

Hỏi

- Nghe nói bệnh tiểu đường có thể dẫn đến mù mắt, bị cưa chân. Lại có người nói uống thuốc tây chữa tiểu đường có thể làm yếu thận, có đúng không?

- Phải làm sao để chữa tiểu đường mà khỏi bị biến chứng? Ngoài ra còn có các biến chứng gì khác?

- Có những người bị tiểu đường ba, bốn chục năm, mà vẫn sống đến tám, chín mươi tuổi không bị biến chứng nặng, vẫn tương đối mạnh khỏe, hoạt động so với lứa tuổi đó. Xin cho biết làm sao để đạt được điều này?

Đáp

Tiểu đường là một bệnh mạn tính có thể dẫn đến nhiều biến chứng. Cần nhấn mạnh là các biến chứng là do bệnh chứ không phải do thuốc, không uống thuốc thì chính bệnh sẽ dẫn đến hư, suy thận, chứ không phải vì thuốc. Khi vì bệnh mà thận đã yếu, thì bác sĩ sẽ cần chú ý hơn để dùng các thuốc không nên dùng khi thận đã yếu.

Các biến chứng chính của bệnh tiểu đường bao gồm:

- Bệnh tắt nghẽn mạch máu nuôi tim (coronary heart disease – bệnh động mạch vành, tức là động mạch đem máu đến để nuôi trái tim). Sự tắt nghẽn của động mạch vành trầm trọng có thể gây ra các cơn kích tim (heart attack), là tình trạng máu đến tim bị thiếu hụt trầm trọng do tắt nghẽn mạch vành làm cho phần đó của trái tim bị hoại tử, tim không bóp được bình thường, sẽ không thể bóp máu đi nuôi cơ thể, và do đó, có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng.

- Bệnh của võng mạc mắt (retinopathy), có thể dẫn đến mù.

- Bệnh thận (nephropathy), có thể làm thận bị suy. Những người bị suy thận nặng sẽ cần phải lọc thận thường xuyên (thường là ba ngày một tuần), nếu không chất độc của cơ thể sẽ ứ lại không thải ra được, dẫn đến tử vong.

- Bệnh thần kinh (neuropathy), có thể góp phần vào việc làm loét bàn chân, nếu nặng sẽ cần phải cưa chân.

Đa số các biến chứng này thường không gây ra triệu chứng gì trong các giai đoạn đầu của biến chứng.  Tuy nhiên, ta có thể phòng và theo dõi để phát hiện sớm các biến chứng này để chữa kịp thời, làm cho nó chậm hoặc ngưng phát triển nhằm tránh các hậu quả “thê thảm” kể trên.

Việc phòng biến chứng đòi hỏi sự kết hợp của việc thăm bác sĩ đều đặn để được thăm khám nhằm phát hiện biến chứng ở giai đoạn sớm nhất, thực hiện các lời dặn của bác sĩ, cố giữ lượng đường máu ở mức tối ưu một cách thường xuyên.

Làm được điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đây là điều rất quan trọng cho sức khỏe của ta trong trường kỳ, ngay cả lúc ta vẫn còn cảm thấy rất khỏe mạnh, chưa thấy triệu chứng gì cả.  Trong việc này, chính ta là người đóng vai chính, bác sĩ và các chuyên viên khác chỉ có thể giúp ta.

Đây là căn bệnh theo ta suốt đời, do đó, rất quan trọng để luôn học hỏi để hiểu rõ căn bệnh, tình trạng sức khỏe của mình, nhằm tham gia một cách chủ động và tích cực trong việc bảo vệ, duy trì và nâng cao sức khỏe của chính mình.

Những việc sau đây rất quan trọng trong việc ngăn ngừa, làm chậm lại sự tiến triển của các biến chứng:

Kiểm soát mức đường máu

Đây là một trong những điều quan trọng nhất.

Các biến chứng kể trên của tiểu đường là hậu quả của việc mức đường máu cao tác động lên các mạch máu trong một thời gian dài. Rất nhiều nghiên cứu có giá trị đã được thực hiện và cho thấy rõ rằng các bệnh nhân có mức đường máu được kiểm soát ít gặp biến chứng hơn là những người có mức đường máu cao. Do đó, giữ mức đường máu ở mức càng gần với mức bình thường sẽ càng giúp ngăn ngừa và làm chậm lại các biến chứng kể trên.

Tuy nhiên, cần phải nhớ là giữ mức đường ở mức gần với bình thường này cũng có những nguy cơ của nó, trong đó điều quan trọng nhất là các cơn hạ đường máu (đường máu tuột xuống quá thấp so với bình thường). Các cơn này có thể xảy ra khi ta cố giữ đường thấp nhưng quên không ăn đúng giờ, bị căng thẳng bất ngờ, vận động thể lực nhiều hơn thường lệ, bị các bệnh cấp tính bất ngờ…

Cách tốt nhất để phòng các biến chứng nguy hiểm của các cơn hạ đường huyết là hiểu rõ căn bệnh của mình, thực hiện các biện pháp phòng ngừa các cơn hạ đường huyết này (như đã trình bày ở các phần trước), luôn giữ đường (kẹo, đường, nước ngọt…) theo trong người, để nếu bắt đầu thấy các triệu chứng của hạ đường máu (như chóng mặt, hồi hộp, cảm giác như đói bụng, toát mồ hôi lạnh, người như muốn lả ra), là dùng các viên đường dự trữ đó ngay.

Làm sao để biết được mức đường có được kiểm soát tốt chưa

Có nhiều cách khác nhau để kiểm tra mức đường máu, trong đó, hai cách chính thường được sử dụng nhất để làm được điều này gồm:

- Một là đo mức đường trong máu hằng ngày bằng máy đo mức đường máu ở đầu ngón tay (finger stick glucometer). Như đã trình bày, tùy theo bệnh, thời gian bị bệnh, và mức đường máu có được kiểm soát tốt hay chưa, ta sẽ cần phải thử máu ở đầu ngón tay nhiều hay ít lần trong ngày.

Nói chung, bệnh tiểu đường loại 1 thường đòi hỏi bệnh nhân cần phải tự đo đường ở nhà nhiều lần trong ngày hơn; bệnh nhân mới bị tiểu đường cần đo nhiều lần hơn để giúp cho việc điều chỉnh liều lượng thuốc và thiết lập một thực đơn ăn uống và giờ giấc ăn uống, thể dục, sinh hoạt thích hợp; và dĩ nhiên những người mà mức đường chưa được kiểm soát tốt sẽ cần phải đo thường xuyên hơn để có thể điều chỉnh, thiết lập một phương thức điều trị thích hợp (bao gồm nhiều yếu tố như thuốc men, sinh hoạt, thể dục, ăn uống, thăm khám định kỳ…).

Nói thì thấy có vẻ phức tạp, nhưng sau một giai đoạn đầu làm quen để thiết lập các hiểu biết và thói quen mới, nó sẽ trở thành cách sống tự nhiên của ta, và rất nhiều người đã sống tương đối rất thoải mái với những thói quen cần thiết đó.

Tùy theo từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ hướng dẫn và thảo luận với ta xem nên đo đường bao nhiêu lần trong ngày.  Khi đo, ta nên ghi vào sổ hoặc mẩu giấy (thường do bác sĩ cung cấp và hướng dẫn), khi đi gặp bác sĩ, cần đem theo; dựa vào đó, bác sĩ sẽ có thể điều chỉnh thuốc men và thảo luận về việc điều trị của ta một cách cụ thể hơn.

- Cách thứ hai giúp ta biết được mức đường máu có được kiểm soát mức đường máu có được kiểm soát tốt hay chưa, là đo mức hemoglobin A1c (còn gọi là glycohemoglobin) trong máu.  Mức hemoglobin A1c giúp ta biết được mức đường máu trung bình trong khoảng 10 đến 12 tuần trước đó.

 

Cho đến nay, nhiều nghiên cứu cho thấy (và nhiều hội các bác sĩ cũng đồng ý) rằng giữ mức HbA1c khoảng 7% trở xuống sẽ giúp hạn chế các biến chứng kể trên của bệnh tiểu đường. Ở những người lớn tuổi hoặc những người không còn sống được bao lâu, mức này có thể cao hơn chút ít. Cho dù chưa đạt được mức này, nói chung, hạ con số này xuống thấp được chút nào, sẽ giúp giảm được các biến chứng chút đó.

Thân mến,

Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng

www.nguyentranhoang.com

(714) 531-7930

Bài viết khác