Trong lịch sử của nhân loại, có rất nhiều phát minh quan trọng giúp thay đổi cuộc sống, thể hiện sự tài trí và năng lực sáng tạo đáng kinh ngạc của loài người.
Tuy nhiên, công nghệ không phải là điều gì đó bất biến và trường tồn mãi mãi cùng vũ trụ. Những phát minh độc đáo chỉ tồn tại chừng nào thông tin về chúng còn được lưu giữ và truyền lại qua các thế hệ.
Khi mà “sợi dây lưu truyền” bị đứt quãng, công nghệ sẽ bị lãng quên mãi mãi bất chấp mọi nỗ lực tái tạo lại của con người thời nay. Đôi khi, việc một công nghệ nào đó bị thất truyền không phải là thảm họa, bởi hầu hết những phát minh thực sự có ý nghĩa thì được “nhân bản” ở nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Nhưng có những công nghệ biến mất theo thời gian, để lại nhiều tin đồn và truyền thuyết về siêu năng lực và công năng kỳ lạ của chúng tới mức thần thánh.
Thời cổ xưa
Ghép đá khô: Công nghệ xây tường đá của người Inca luôn khiến cho các kiến trúc sư hiện đại phải ngưỡng mộ. Những tảng đá có hình dạng không đồng đều với trọng lượng từ 120 - 200 tấn, nhưng khi đặt chúng lại với nhau thì phù hợp, vừa vặn trông giống như một trò chơi ghép hình.
Chúng được ghép lại khớp với nhau một cách đáng kinh ngạc, ngay cả một mảnh giấy cũng khó có thể chèn vào giữa các tảng đá. Thêm nữa, những phiến đá này đều được ghép khô, tức là không dùng bất kì chất kết dính nào.
Độ chính xác rất cao, với sự kết hợp của các góc bo tròn và kiểu dáng đa dạng lồng vào nhau của các khối đá, và cách mà các bức tường nghiêng vào trong (để giảm thiệt hại trong trường hợp động đất) đã làm cho các nhà khoa học bối rối trong nhiều thập kỷ.
Phương pháp mà người Inca đã sử dụng để kết nối các phiến đá liền kề đến nay vẫn còn là điều bí ẩn và những nỗ lực tái tạo lại các kỹ thuật này đã đều không thu được kết quả nào.
Luyện sắt không rỉ: Khoa học hiện đại cũng chưa thể lý giải được hiện tượng cây cột sắt 1.600 năm tuổi ở Delhi (Ấn Độ) không hề bị rỉ sau hàng nghìn năm, mà theo nhiều đồn đoán thì bí ẩn nằm ở công nghệ luyện sắt “hoàn hảo” nhưng đã bị thất truyền của người Ấn Độ.
Theo các tài liệu cổ, cột sắt Delhi được tạo ra từ thế kỷ thứ IV dưới thời nhà vua Chandragupta II (từ năm 375 đến năm 413), nhằm tôn thờ các vị thần bảo hộ của người Hindu.
Nhìn bên ngoài thì nó chỉ là một cây cột bằng sắt nguyên khối cao 6,3m và phần đế chôn sâu 1m dưới đất. Đường kính của cột giảm dần từ 48cm ở chân cột còn 29cm khi lên đến đỉnh. Ở giữa cột là một đoạn văn tự viết bằng tiếng Phạn cổ, với nội dung ca ngợi một vị vua. Công trình “không có gì đặc biệt” này trở nên nổi tiếng khắp thế giới vì “bền mãi với thời gian”.
Vì khoa học vẫn chưa tìm ra bí quyết luyện sắt không rỉ của người Ấn Độ cổ đại nên nhiều truyền thuyết đã được thêu dệt về lịch sử của cột Delhi, đa phần liên quan đến người ngoài hành tinh hay các thế lực siêu nhiên.
Thuốc giải “bách độc”: Vị thuốc giải “bách độc” Mithridates lấy tên của vua Mithridates VI (cai trị xứ Pontus từ năm 120 đến năm 63 TCN) - được mệnh danh là “Vua Độc”.
Bị ám ảnh bởi cái chết của người cha bị sát hại bởi thuốc độc trong một bữa tiệc lớn vào năm 120 TCN, vua Mithradates VI rất “mẫn cảm” với thuốc độc. Lo sợ một cái chết “không chính đáng”, vua Mithridates VI quyết định lên kế hoạch “luyện tập với thuốc độc” và tự bắt mình thực hiện nghiêm túc kế hoạch đó.
Đầu tiên, ông nghiên cứu tất cả những thảo mộc mà ông kiếm được để có những kiến thức nhất định về thuốc độc. Sau đó ông bắt đầu trộn lẫn các thảo mộc với nhau, tạo ra những chất độc có thể làm chết người.
Vua Mithradates thường xuyên sử dụng một lượng nhỏ hỗn hợp thảo mộc để giúp ông có “sức đề kháng”, tránh việc bị ám sát bởi thuốc độc. Tương truyền rằng chính ông đã phát minh ra thuốc chữa mọi loại độc tố với 65 chất thành phần, và sau này khi thua trận, mất cả vương quốc cùng vợ con, ông đã tự tử bằng thuốc độc nhưng không thành vì ông đã miễn nhiễm với mọi loại độc dược.
Cuối cùng, vua Mithradates VI phải kết thúc cuộc đời của mình bằng một thanh kiếm của một người lính. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là công thức của loại thuốc trị bách độc này đã biến mất.
Thời hiện đại
Năng lượng không dây
Ý tưởng về chuyển tải điện năng đã được đưa ra từ đầu năm 1900 bởi nhà phát minh người Serbi Nikola Tesla trước khi lưới điện được phổ biến rộng rãi.
Ngay từ những năm này, “nhà khoa học điên bị giới nghiên cứu xa lánh” Tesla đã mơ ước một thế giới không tồn tại dây dẫn điện phức tạp mà sử dụng hệ thống một tháp truyền điện và năng lượng không dây tới mọi ngõ ngách trên thế giới. Ông đã cho nhân loại thấy bộ óc siêu phàm của mình khi nghiên cứu ra một loại hạt khí loãng nhạy cảm, với khả năng phát quang và cung cấp ánh sáng cho cả thế giới.
Tiếp đó, Tesla đã bắt tay xây dựng tháp Wardenclyffe cao 29m ở New York. Ngọn tháp này được coi là bước cuối cùng trong hệ thống điện không dây của Tesla, và được kết hợp với phát minh máy thu năng lượng vũ trụ. Nếu thành công, thế giới sẽ được sử dụng điện miễn phí và không giới hạn chỉ bằng một chiếc ăng-ten thu năng lượng ở đầu cuối.
Tuy nhiên, dự án này chỉ tồn tại được 17 năm (1900-1917) sau khi nguồn tài trợ cho Tesla bị đột ngột chấm dứt không rõ lý do, thậm chí tất cả những tài liệu thí nghiệm liên quan đến phát minh này cũng đều bị đốt cháy toàn bộ.
Xe hơi hơi nước: Stanley Meyer (1940-1998), kỹ sư cơ khí đã đã phát minh ra điều mà các nhà vật lý cho là không thể thực hiện. Ông đã chuyển nước thành năng lượng Hydro để chạy chiếc xe hơi của mình và đi du lịch khắp nơi từ New York đến Los Angeles chỉ tiêu tốn hơn 80 lít nước.
Đã từng có rất nhiều công ty lớn trong lĩnh vực sản xuất ô tô và khai thác dầu khí đã ngỏ lời mua lại ý tưởng sáng tạo của ông lên đến giá trị gần cả tỷ USD, nhưng ông không trao đổi bằng bất cứ giá nào.
Thế nhưng tưởng chừng thế giới sẽ thay đổi kỳ diệu sau phát minh này thì bất ngờ và năm 1998, ông bất ngờ qua đời ở tuổi 57 khi các nghiên cứu còn dang dở. Và công trình nghiên cứu đã kết thúc tại đây. Rất nhiều bí ẩn xung quanh cái chết của ông nhưng đến nay vẫn chưa tìm được lời giải đáp.
Chiếc hộp kì diệu: Tom Ogle chỉ là một thợ cơ khí bình thường, nhưng anh đã cho cả thế giới thấy sự kinh ngạc khi phát minh ra “chiếc hộp kì diệu”. Chỉ cần thay thế bộ hòa khí của xe ô tô bằng chiếc hộp của Tom Ogle thì chiếc xe có thể chạy xa thêm vài trăm km cùng với một lượng nhiên liệu như nhau. Chiếc hộp đã được đánh giá bởi các chuyên gia hàng đầu và được cấp bằng sáng chế.
Các tập đoàn khai thác dầu mỏ đã bỏ ra hàng tỷ USD nhằm mục đích mua chuộc và mong anh dừng việc chế tạo những chiếc máy này bởi phát minh của Tom Ogle có thể sẽ làm cho họ phá sản vì không bán được nhiều nhiên liệu nữa, nhưng anh đã từ chối.
Thật đáng tiếc rằng, Tom Ogle đã bị sát hại bởi một tay súng vào năm 1981. Và cách thức chế tạo ra bộ máy siêu chế hòa khí đáng ra đã thay đổi ngành chế tạo ô tô thế giới mãi mãi nằm sâu dưới đáy mồ cùng với anh.
Cỗ máy thời gian: Vào năm 1960, Pellegrino Ernetti, một vị cha xứ người Ý cho biết, ông đã cùng với hai nhà vật lý lừng danh Enrico Fermi và Werner von Braun chế tạo ra “Chronovisor” – một cỗ máy thời gian. Cỗ máy thời gian được miêu tả trông như chiếc hộp với những chi tiết kì lạ và có thể tìm hiểu những sự kiện bí ẩn trong quá khứ.
Lý thuyết của ông cho rằng “bất kỳ điều gì xảy ra đều lưu lại một loại năng lượng, mà không bao giờ bị phá hủy”. Vì vậy, ông đã phát triển một loại máy có thể phát hiện, phóng đại và chuyển đổi loại năng lượng này sang dạng ảnh – giống như TV có thể chiếu những cảnh tượng trong quá khứ khi nó nhận được tầng sóng thích hợp.
Tuy nhiên, thay vì phát triển dự án này thì các nhà phát minh thiên tài này đã phá hủy chiếc máy để tránh những nguy hiểm khi sử dụng không đúng mục đích trước khi Pellegrino Ernetti qua đời vào năm 1994.
Thuật toán siêu nén: Nhờ trí óc siêu phàm, thiên tài công nghệ thông tin Romke Jan Bernhard Sloot người Hà Lan đã từng sáng tạo ra thuật toán thu nhỏ dung lượng thông tin vô cùng ảo diệu: từ 10GB dữ liệu được nén xuống chỉ còn 8KB.
Năm 1999, ông đã bảo vệ công trình nghiên cứu của mình trước những “ông trùm” giới công nghệ và thuyết phục họ mua nó. Romke Jan Bernhard Sloot đã cho trình chiếu 16 bộ phim được chứa đựng trong một con chip 64KB.
Ai nấy cũng không khỏi ngạc nhiên khi có mặt trong sự kiện này và họ cho rằng chắc chắn ông sẽ trở thành tỷ phú từ việc nhượng lại sản phẩm của ý tưởng. Thế nhưng chỉ hai ngày trước khi chuyển giao thuật toán lại cho đối tác, Sloot đột ngột qua đời một cách bí ẩn.
Dư luận đồn đoán rằng Sloot đã bị đau tim, nhưng cũng có thể là bị ám hại để cướp ý tưởng sáng tạo. Chiếc đĩa chứa chìa khóa bí mật về thuật toán nén dữ liệu của ông đã mãi mãi biến mất...