Thứ Tư, 12 Tháng Mười Một, 2025

14 Câu hỏi về Giáo Lý

  1. Tại sao Đức Ki-tô không chữa nhiều người hơn nữa?

Hỏi: Tại sao lại không có nhiều người hơn khần cầu Đức Giê-su chữa lành bệnh trong khi đó có vẻ như Ngài không từ chối những lời kêu xin? Theo con hình dung thì có lẽ trên con đường về nhà mình, Đức Ki-tô đã bị đám đông bao quanh, những người đã nghe nói về con người chữa bệnh thần kỳ này. Người mù, kẻ què, tất cả những người đau khổ đều tin tưởng rằng có một Đấng nào đó ở một nơi nào đó có thể cứu chữa họ. Rõ ràng là Đức Ki-tô không bao giờ thất bại trong việc cứu chữa nhưng người đến với Ngài. Một người chữa bệnh thành công thực sự ở San Francisco chẳng mấy chốc thu hút cả thành phố. Tại sao lại còn nhiều người bệnh tật bị bỏ rơi tại Israel vào thời kỳ Đức Ki-tô?

Đáp: Bạn có thể không tin, nhưng chắc chắn bạn không phải là người đầu tiên thắc mắc trước vấn đề này. Xuyết suốt các thế kỷ sau Đức Ki-tô, các Ki-tô hữu đã ghi nhận và suy gầm nhiều về sự kiện này là nếu Đức Giê-su đã cứu chữa được một người, Ngài có thể cứu chữa mọi người.

Hơn nữa, vì quyền lực cứu chữa của Ngài không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, trên lý thuyết Ngài có thể chữa lành mọi người ở trên thế giới và chấm dứt mọi khổ đau của con người.

Sự kiện Ngài đã không trừ tất cả các đau khổ và sự dữ khỏi kiếp sống con người, điều này không thể đưa đến kết luận Ngài không toàn năng, hoặc Ngài không có tình thương và lòng thương xót. Ngài đã minh chứng cách tràn đầy cả hai điều đó, trên hết bằng chính sự đau khổ của Ngài, bằng cái chết trên thập giá và sự sống lại.

Vậy, rõ ràng là những phép lạ chữa bệnh tật của Đức Giê-su có những mục đích rộng lớn hơn là chỉ xoa dịu khổ đau. Chắc một điều là Đức Ki-tô xem những hành động cứu chữa của Ngài, và những phép lạ thể lý khác, chẳng hạn cho kẻ chết sống lại, như những dấu chỉ về quyền năng tối thượng của Ngài trên tất cả mọi sự dữ.

Đối với Ngài, tất cả các hành vi này là những bằng chứng nói lên rằng không một đau đớn thể chất nào, không một sự ác của bản chất tội lỗi của nhân loại nào có thể lớn hơn quyền năng, sức mạnh của sự thiện, quyền năng mà Ngài có như Thiên Chúa. Vào lúc thuận tiện, Ngài đã liên kết rõ ràng hai ý trên, như trong dịp chữa lành người bất toại ở Luca, chương 6.

Một kết luận khác mà người Ki-tô hữu rút ra được từ việc Đức Giê-su tiếp cận với các nỗi khổ đau của nhân loại là: Ngài không đến để cất chúng đi, nhưng để mặc cho chúng một ý nghĩa, hoặc tối thiểu là giúp dân Ngài hiểu rằng đau khổ thì cần thiết, có vẻ như Ngài muốn nói với chúng ta như sau:

“Nếu Ta không cất khỏi các con mọi đau khổ, không phải vì Ta không thể làm điều đó, hoặc là Ta không yêu mến các con cho đủ. Một mầu nhiệm nằm sâu trong bản tính nhân loại và trong tâm hồn (quả tim) cả con người: Sự toàn thiện phải đi ngang qua con đường từ cái chết đến sự sống. Điều tốt nhất Ta có thể làm là nói cho các con biết điều đó, và nó cũng xảy đến với chính Ta, và chính như thế đó mà Ta mới kêu gọi các con theo Ta và tin Ta”.

Nếu câu trả lời này không thỏa mãn bạn như một lời giải cuối cùng và toàn hảo, thì chúng ta nến nhớ chúng ta đang bàn đến câu hỏi cổ xưa và nhức nhối nhất của loài người: Sự ác (thể xác và tinh thần) từ đâu tới và tại sao nó còn tồn tại ở đây, bây giờ? Giữa rất nhiều lý do giải thích tại sao Đức Ki-tô đã làm nhiều phép lạ, có lý do này là Ngài muốn giúp chúng ta đối diện với câu hỏi trên. Nếu Ngài không cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng thì ít nhất Ngài giúp chúng ta thấy rằng, trong mầu nhiệm Thiên Chúa quan phòng, có một câu trả lời, một câu trả lời được tỏ bày –dù không rõ lắm- qua chính cái chết và sống lại của Ngài, và qua con đường chúng ta theo Ngài trong mầu nhiệm Vượt qua.

  1. Làm hòa trước khi rước lễ

Hỏi: Bài Phúc âm của một lễ Chúa nhật có câu: “Nếu anh em có điều bất bình với con, hãy để của lễ dưới bàn thờ và trước hết hãy đi làm hòa với người anh em con”. Phải chăng điều này có nghĩa là nếu một người thực sự bất bình với người khác mà chưa xin lỗi một cách nào đó, thì trước mắt người đó phải đi làm hòa trước khi rước lễ?

Đáp: Đoạn này là một trong nhiều đoạn ở Kinh thánh (Mt 5,23-25) lam sáng tỏ điều sau: các tương quan giữa chúng ta và trong những người xung quanh có tầm quan trọng hàng đầu vượt trên những hoạt động và kinh nguyện phụng vụ của chúng ta. Không được tìm cách làm giảm đi tầm quan trọng của chân lý trên. Có lẽ vì lý do đó mà Đức Giê-su nhấn mạnh đến nó như Ngài đã làm, đặc biệt trong bài giảng trên núi (Mt 5-7).

Vì một lẽ là các sinh hoạt thờ phượng của chúng ta, đặc biệt là thánh lễ, là những dấu chỉ của sự chia sẻ huynh đệ như những người con của Cha và như anh em, chị em của Đức Giê-su. Sự xúc phạm cố ý hoặc gây sự tức giận nơi anh em biết hành động phụng tự thành một sự dối trá, trừ phi chúng ta được giải quyết trước bằng một vài cố gắng hòa giải.

Hơn nữa chúng ta biết rằng mối tương quan của chúng ta với gia đình, bạn bè và các người quen biết làm thành thước đo tình thân giữa chúng ta với Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với chúng ta điều đó bằng nhiều lời, cũng như thánh Gioan đã viết: “Yêu thương anh em là điều minh chứng cho thấy chúng ta đã vượt qua sự chết đến sự sống” (1Ga 3).

Dĩ nhiên, mức độ cần thiết cho việc hòa giải trước rước lễ sẽ thay đổi tùy theo hoàn cảnh. Tuy nhiên, sự cần thiết của nguyên tắc này thì khá rõ ràng.

  1. Đối xử với người khác như người ngoại đạo?

Hỏi: Đã xảy ra một cuộc bàn cãi trong gia đình tôi về một bài Phúc âm ngày Chúa nhật. Phải giải thích thế nào về đoạn Phúc âm trong đó Đức Giê-su nói đến việc cố gắng sửa dạy người “anh em” do chúng ta chủ động hoặc với một vài người khác, và cuối cùng, với Giáo hội. Nếu người ấy không nghe, chúng ta kể họ như ‘người ngoại giáo hay kẻ thu thuế’?

Đáp: Đoạn này nằm trong Phúc âm theo thánh Mattheu (Mt 19,15-18) ở đó Đức Giê-su mô tả nhiều khía cạnh của Nước Ngài mà Giáo hội là hiện thân, nghĩa là cộng đồng của Dân Chúa trên mặt đất. Bị coi là lương dân những ai không phải là Do thái và vì thế, người Do thái xem các người này là những kẻ ngoại đạo. Những người thu thuế, đặc biệt các quan thuế, vào thời đó bị kể như những người tội lỗi, những kẻ bóc lột và phản bội. Họ bị khinh miệt như những người ngoại, những người cần phải xa lánh.

Những lời lẽ có vẻ gay gắt của Chúa phải được hiểu trong tương quan với những gì được nối liền sau đó. Đức Giê-su nói khi hai hay ba người họp nhau vì danh Ngài, Ngài sẽ hiện diện ở giữa họ và sẽ ban cho họ những điều họ cầu xin. Một phần của lời nói đó muốn nói bằng tinh thần bác ái, cầu nguyện và tin tưởng nơi Ngài sẽ hy vọng giúp tránh được mọi xung khắc đưa đến sự chia rẽ. Nếu họ đến với Ngài với một thái độ lạnh nhạt, chiếu lệ thì có thể dẫn đến sự chia rẽ.

Một yếu tố khác có thể dùng để hiểu đoạn này là sự tha thứ. Chúng ta có thể đi ngược lên một vài câu trước đó: Phê-rô hỏi có phải tha cho anh em đến 7 lần không? Đối với Phê-rô, dĩ nhiên đây là một điều quá sức quảng đại rồi! Đức Giê-su đáp lại: Chúng ta phải tha thứ mà không đòi hỏi đền đáp cân xứng, và tha thứ không ngừng, nếu chúng ta muốn được Chúa đối xử với chúng ta như thế.

  1. Khi nào Đức Giê-su ở với tôi?

Hỏi: Xin cha làm ơn giải thích cho con câu nói của Chúa: “Ở đâu có hai, ba người họp nhau vì danh Ta, Ta hiện diện với họ”. Tại sao Ngài sẽ không ở với con khi con ở một mình?

Đáp: Tôi khuyên bạn nên đọc hết chương 18 của Phúc âm thánh Mattheu, trong đó có câu mà bạn trích dẫn. Trong một loạt dụ ngôn và các lời khuyên dụ, chúng ta thấy Đức Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta về chương trình của Ngài: những người theo Ngài không phải là một đoàn lũ những cá nhân sống riêng lẻ tin vào Ngài cách này hay cách khác, nhưng trước hết họ là một cộng đồng, một ‘giáo hội’ gồm những người có liên hệ và giúp đỡ lẫn nhau. Cộng đoàn những kẻ tin này tạo nên một gia đình, một nơi mà họ có thể tìm gặp sự trợ giúp, nâng đỡ và sự thứ tha tội lỗi (18,18).

Rõ ràng là Chúa không có ý nói đừng cầu nguyện một mình. Chính Ngài cũng đã nhiều lần ra đi một mình để cầu nguyện với Cha. Đúng hơn, qua lời nói trên, Ngài muốn khẳng định rằng ngay cả khi một vài người thuộc gia đình các kẻ tin Ngài họp nhau trong kinh nguyện, vẫn có Ngài hiện diện với họ cách đặc biệt và đầy quyền năng trong tư cách Đấng Cứu Thế. Nhóm người này trở thành một ‘giáo hội thu hẹp’ hoặc đúng hơn, họ có thể tượng trưng cho sức mạnh của cả Giáo hội trong kinh nguyện.

  1. Gọi các linh mục là “Cha” có đúng không?

Hỏi: Một vài người bạn Tin lành đã nhiều lần nói với con rằng: Một trong các sai lầm của người công giáo là đã gọi các linh mục là cha. Theo họ, điều này trái với lời dạy của Kinh thánh. Chúng ta phải giải thích làm sao lối xưng hô này khi Phúc âm thánh Mattheu 23,9 viết: “Đừng gọi ai là cha trên mặt đất này, các con chỉ có một Cha ở trên trời”.

Đáp: Thói quen xưng hô ‘cha’ không phải là mới. Nó đã có từ những thế kỷ đầu của Ki-tô giáo và được sử dụng từ đó đến giờ, mặc dù danh xưng này theo truyền thống, thường được dùng cho các tu sĩ hơn là cho các linh mục triều. Người Tin lành dần dà bỏ lối xưng hô này sau cuộc cải cách.

Các lý do để gọi các linh mục là cha thì đơn giản và rất tự nhiên. Ngài là thừa tác viên ban các bí tích. Các bí tích này, nhân danh Đức Ki-tô và Giáo hội của Người, ban cho chúng ta sự sống mới và đời sống ân sủng như bí tích Thanh Tẩy, Thánh Thể, Xá giải,… Bằng sự chăm sóc dạy dỗ, nâng đỡ liên tục, Ngài nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa, sự sống mà chúng ta thông dự phần với tư cách Ki-tô hữu, theo cách thức giống như một người cha tự nhiên.

Vì lý do đó, thánh Phao-lô không do dự, ngại ngùng khi tự cho mình là cha của những người trở lại đạo: “Cho dù anh em có thể có mười ngàn thầy dạy khác về Đức Ki-tô, nhưng anh em nên nhớ rằng anh em chi có một mình tôi là Cha” (1Cr 4,15).

Ngài cũng đã hai lần gọi Ti-mô-tê là con, vì ngài đã đưa gia đình của Ti-mô-tê đến với đức tin vào Đức Ki-tô (Pl 2,22 và 1Tm 1,2).

Hiểu theo mặt chữ thì đoạn Phúc âm này của Mattheu muốn nói chúng ta không được gọi những người cha tự nhiên bằng danh xưng đó, hoặc gọi những người dạy dỗ chúng ta là thầy. Toàn bộ mạch văn cho thấy rõ ràng là Đức Ki-tô không chú tâm trên mặt cha hoặc thầy, nhưng Ngài lên án thái độ của một số nhà lãnh đạo kiêu căng, tự cho mình quan trọng và cố chất cho mình thật nhiều tước hiệu. Như một trong những chú giải đáng kính phục của Tin lành nhận xét: “Nếu người nào hiểu mệnh lệnh này theo mặt chữ thì các Ki-tô hữu không được dùng những tước vị ‘tiến sĩ’, ‘giáo sư’, cũng như ‘rabbi – thầy’ và ‘cha’ để gọi những người lãnh đạo của họ.

  1. Tội “không thể tha”

Hỏi: Trong Phúc âm Mattheu 12,31 Đức Giê-su nói đến tội “phạm đến Chúa Thánh Thần”, tội không được tha cả đời này lẫn đời sau. Đó là tội gì?

Đáp: Thánh Augustino, Thánh Toma Aquino và nhiều vị khác nghĩ rằng khi nói đến ‘tội phạm tới Chúa Thánh Thần’, Đức Giê-su muốn nói đến tội cố chấp đến cùng, nghĩa là từ chối không ăn năn về việc đã chối bỏ Chúa thông qua một tội trọng, ngay cả vào giờ chết. Có lẽ đây là lối giải thích còn phổ biến nhất, vì lẽ tội ấy là một sự từ khước hoàn toàn và chung cuộc tất cả mọi trợ giúp mà Chúa Thánh Thần ban cho để từ bỏ tội lỗi mà trở về cùng Chúa.

Có thể nói một cách khác là những ai từ chối một cách dứt khoát và có ác ý những sự trợ giúp mà Chúa Thánh Thần ban cho, để gìn giữ họ khỏi tội lỗi ngay từ đầu, người ấy phạm đến Chúa Thánh Thần. Như thánh Tông đồ nói: Có nhiều ân ban của Chúa Thánh Thần dùng để giúp chúng ta tránh được tội lỗi trong cuộc sống. Ơn trông cậy cứu khỏi thất vọng, ơn kính sợ Chúa cứu chúng ta khỏi lạm dụng lòng nhân từ và yêu thương của Chúa… Tất cả các ân huệ này –ngài nói- là những dấu ấn của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Khi chúng ta từ chối hy vọng, khi chúng ta từ chối nhìn nhận sự cao cả và quyền năng của Chúa trong đời chúng ta, thì thật ra chúng ta đang nói với Chúa Thánh Thần rằng chúng ta không cần Ngài, và chúng ta lâm vào một hiểm nguy đáng sợ, sẽ không có sự ăn năn trở lại, bởi vì khi chúng ta đang sống trong tình trạng tinh thần như thế, chúng ta không có đủ khiêm nhường để chấp nhận rằng chúng ta đã phạm tội và cần sự ăn năn.

Dẫu câu Phúc âm này có ý nghĩa nào đi nữa, chúng ta cần ghi nhớ một chân lý căn bản như sau: Nếu chúng ta đã phạm tội thì Thiên Chúa, Cha chúng ta, luôn sẵn sàng mở rộng tay đón nhận chúng ta trở về với Người và Chúa Thánh Thần là Đấng luôn sẵn sàng giúp chúng ta đi đến đó.

  1. Đức Giê-su có tuyệt vọng trên cây thánh giá không?

Hỏi: Trong Phúc âm Mattheu chương 27, Đức Giê-su kêu lớn tiếng khi ở trên cây thập giá: “Eli, eli lama sabachtani”, nghĩa là “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi?” Đức Giê-su đã nói trong ngôn ngữ nào? Đúng hơn, Ngài có thể nói: “Lạy Chúa tôi, Chúa ở đâu?” Không? Đức Giê-su mà tôi được biết không bao giờ nói Ngài bị bỏ rơi, bởi vì Ngài yêu mến và tin tưởng Cha Ngài suốt cả đời Ngài.

Đáp: Đoạn văn này đã làm các Ki-tô hữu bối rối trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, có hai điểm có thể giúp chúng ta hiểu nó.

Điều hiển nhiên là Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ của một kẻ mang thân phận con người như chúng ta: kinh nghiệm về nỗi u sầu, nỗi cơ đơn và có thể cả nỗi thất vọng trong thời gian chịu Thương khó. Một sự hành hạ mãnh liệt trong cơn hấp hối đến nỗi nó gây nên hiện tượng đổ mô hôi máu và đưa Ngài đến gần với tâm trạng bị bỏ rơi hoàn toàn. Chúng ta nói ‘gần’, bởi vì ngay chính trong tiếng kêu của Ngài, là tâm tình biểu lộ một niềm tin sau xa, tin cả ngay khi ở trong nỗi đớn đau cùng cực: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi”.

Điểm thứ hai: Lời kêu than này của Chúa từ lâu được coi như một lời kinh trong cơn đau đớn, sự dụng Tv 22 là một trong những đoạn linh động của Cựu ước song song kỳ lạ với nỗi đớn đau của Đức Giê-su trên cây thập giá. Những lời chúng ta đang bàn tới là những câu mở đầu của Thánh vịnh này. Thánh vịnh này cũng đã được thánh Mattheu trích dẫn vài câu trước đó (câu 43), và những câu kế tiếp nói về cơn khát của Chúa làm chúng ta nhớ đến những lời này của Thánh vịnh: “Họng tôi khô rang như ngói và lưỡi tôi dính với hàm… Chúng đâm tôi thủng cả tay chân”.

Nếu quả thật, Tv 22 đã được Đức Giê-su đưa vào trong lời kêu than này, như nhiều văn sĩ Ki-tô giáo và các học giả Kinh thánh tin, thì các lời này trở thành những cử chỉ mãnh liệt nhất của đức tin, của tình yêu và của chiếng thắng mà Chúa chúng ta đã thốt ra.

  1. Tại sao lại giữ các giới răn?

Hỏi: Nếu mỗi người phải giữ 10 điều răn của Chúa để được vào thiên đàng, tại sao Đức Ki-tô lại chết trên thận giá và đổ máu ra vì chúng ta?

Thư gửi tín hữu Roma (3,24) viết: Chúng ta “được công chính hóa một cách nhưng không, nhờ ân huệ thông qua công cuộc cứu độ trong Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ máu của Chúa chớ không phải do việc tuân thủ lề luật mà chúng ta được tha mọi tội lỗi và đạt đến sự sống đời đời đó sao?

Đáp: Bạn có lý. Chúng ta giữ lề luật của Thiên Chúa và của Đức Giê-su Ki-tô, không phải để ‘mua’ tình yêu của Thiên Chúa và được chia sẻ sự sống với Người. Đó là những ân huệ nhưng không, hoàn toàn do công trạng của chúng ta.

Tuy nhiên, Đức Giê-su dạy chúng ta những điều phải làm bởi vì chúng ta là môn đệ của Ngài, là thành viên của gia đình Ngài. Nhiều lần Ngài sửa sai các kẻ theo Ngài khi họ cố ý hành động hoặc kể cả xúi giục Ngài hành động ngược lại với lối sống đó (x. Mt 7,21; 19,17; 25 và Ga 9,21).

Nói cách khác, có những cách thế nào khác đó mà các Ki-tô hữu chúng ta phải theo để sống. Và Đức Giê-su nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ phải vận dụng cuộc sống của chúng ta theo con đường đó, hoặc chúng ta sẽ không thích hợp với Nước Trời.

  1. Thiên Chúa trừng phạt chúng ta không?

Hỏi: Tôi là một giáo viên. Dù môn tôi dạy không phải là Thánh kinh, song tôi nhận được nhiều câu hỏi về sách thánh. Một lớp đã nêu lên câu sau đây ở trong sách Xuất hành: “Ta là Thiên Chúa các ngươi, là Thiên Chúa ghen tương, sẽ giáng phạt lỗi lầm của cha ông trên con cháu, cho đến ba, bốn đời”.

Điều này có nghĩa là con tôi và cháu tôi sẽ bị trừng phạt vì những gì tôi làm?

Đáp: Một trong những hiện tượng hấp dẫn của Kinh thánh, đặc biệt qua dòng lịch sử của Cựu ước, là sự thanh luyện và nâng cao từ từ sự hiểu biết của con người về Thiên Chúa và về mối tương quan giữa nó với Người.

Điều này vẫn đúng, có lẽ cách đặc biệt, trong dân Do thái từ Abraham đến Đức Ki-tô. Chẳng hạn, hơn một lần chúng ta được thấy, trong chiến tranh, quân đội Do thái đã tiêu diệt kẻ thù của họ như thế nào: đàn ông, đàn bà, trẻ em và ngay cả những con vật không biết nói đều bị giết sạch. Mà điều đó lại được xem như một việc làm được Chúa chúc phúc và đôi khi nó là một mệnh lệnh của Chúa nữa.

Tất cả các Ki-tô hữu và có lẽ đã số người lương ngày nay đều thấy lối trả thù tàn sát như thế thì hoàn toàn kinh tởm và hết sức kỳ quặc đối với nguyên tắc Ki-tô giáo. Ngay cả những thế kỷ sau này của Cựu ước, trong thời kỳ trước khi Đức Ki-tô đến, một thái độ như thế đối với kẻ thù bị xem không thích hợp với một quan điểm đứng về Thiên Chúa và về tình thương của Người đối với tất cả các dân tộc.

Có một sự phát triển tương tự trong đề tài mà bạn nói tới. Trong nhiều nền văn hóa, trong đó có Do thái cổ, một lý thuyết khá phổ biến thời bấy giờ cho rằng có tội và vô tội, thánh thiện và tội lỗi mang tính chất bộ tộc. Nếu người tù trưởng phạm tội, tất cả các người ở trong bộ tộc đó trở thành thù nghịch với Thiên Chúa, hoặc với các vị thần. Ngược lại, nếu vị tù trưởng tốt và công chính, toàn bộ tộc thông phần sự thánh thiện của ông, bất kể hạnh kiểm của các cá nhân. Với thời gian, Cựu ước dần dần từ khước lối nhìn đồng hóa cá nhân và bộ tộc này. Có lẽ tiên tri Ezekiel là người bài bác mạnh nhất thái độ này. Ông ý thức và tôn thờ sự cao cả và cực thánh của Thiên Chúa hơn bất cứ một tiên tri nào khác.

Ở chương 18, tiên tri vạch rõ sự nhân thức sai lầm về Thiên Chúa được diễn tả qua cách nói cổ: “Cha ăn nho xanh, con bị ê răng”.

Quan niệm về tội có tính chất bộ tộc đã ăn sâu đến nổi tiên tri Ezekiel phải tự bảo vệ chính mình (và Thiên Chúa) chống lại lời tố cáo của những người cho rằng đối xử với dân chúng một cách cá nhân là bất công. Ngay cả Thiên Chúa cũng phải lên tiếng: “Đường lối của Ta bất công, hay đường lối của các ngươi bất công?”.

Trước khi chúng ta quá dễ dàng phê phán một cách khắt khe những tư tưởng cổ xưa như thế, chúng ta hãy tự hỏi đã bao nhiêu lần chúng ta nghe người khác hoặc chính chúng ta chỉ trích khi đối diện với một thảm kịch xảy đến cho người thân: “Tôi đã làm gì để gánh chịu thế này?”.

Khốn thay chúng ta vẫn còn có khuynh hướng tạo ra một vị Thiên Chúa theo hình ảnh và tương đồng với chúng ta. Có lẽ đây là lý do giải thích tại sao hình ảnh về một vị Chúa hay trả thù, vừa thẩm phán vừa lý hình, phai mờ rất chậm trong lòng nhân loại!

  1. Chế độ nô lệ trong Kinh thánh?

Hỏi: Có đúng là Kinh thánh chấp nhận chế độ nô lệ không? Về vấn đề này người ta trích dẫn thánh Phao-lô bởi ngài viết: Các Ki-tô hữu nên chấp nhận nô lệ và đừng tìm cách thay đổi tình trạng này. Có vẻ như ngài thực sự ủng hộ điều đó. Đúng vậy không, thưa cha?

Đáp: Không phải tất cả những gì chúng ta thấy người ta làm trong Kinh thánh, kể cả những người rất thánh thiện, đều tiêu biểu cho lý tưởng cao đẹp nhất của sinh hoạt nhân loại.

Cựu và Tân ước trình bày sự hiểu biết dần dà của con người về ý thức toàn vẹn của Ngôi Lời Thiên Chúa, như Ngài muốn mạc khải cho chúng ta. Rõ ràng là ngay cả bay giờ, con đường hiểu biết đó vẫn còn dài.

Đúng là các Ki-tô hữu tiên khởi đã tỏ ra bao dung đối với chế độ nô lệ và những hiện tượng xã hội xấu xa khác, hơn chúng ta bây giờ. Tuy nhiên, có lẽ sẽ đúng hơn khi nói: họ chấp nhận điều trên như một sự kiện của cuộc sống, một sự kiện không dễ gì thay đổi một sớm một chiều. Họ cố gắng sống với nó trong khi hết sức trung thành với những lý tưởng của Đức Ki-tô.

  1. Ơn ngôn ngữ

Hỏi: Ơn ngôn ngữ là gì? Cha có tin ơn đó không? Cha nghĩ gì về phong trào Hiện xuống trong đó nhiều người nghĩ rằng họ được ơn ngôn ngữ?

Đáp: Ơn ngôn ngữ là một trong những biểu hiện đặc biệt của sự hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi một cá nhân hay một nhóm qua đó cá nhân hoặc nhóm nói một thứ tiếng mà những người hiện điện ở đó không ai có thể hiểu được nếu không có một ơn tương ứng để ‘phiên dịch’. Đây không phải là một hiện tượng hiếm hoi ngay cả trong những buổi đầu của Giáo hội. Thánh Phao-lô đã bàn đến vấn đề này ít nhiều trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corinto chương 14.

Có nhiều cuộc tranh luận về ơn này nhằm tìm hiểu xem trong quá khứ cũng như trong một số trường hợp hiện nay, nó là một khả năng kỳ lạ, nói một thứ tiếng nước ngoài (có thể là một biểu tượng của truyền giáo) hoặc là những âm tiết của một trạng thái xuất thần hoàn toàn vô nghĩa đối với mọi người, trừ một số người khác cũng được linh ứng tương tự để ‘phiên dịch’ những lời lẽ ấy. Có lẽ đây là một sự kết hợp của cả hai, hoặc cũng có thể là hai ơn hoàn toàn khác nhau.

Không có vấn đề móc nối đương nhiên, nghĩa là nơi nào có ơn nói tiếng lạ, nơi đó chứng tỏ có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, và quyền năng của Người. Dĩ nhiên, như thánh Phao-lô đã vạch rõ, điều khó khăn là có thể dễ dàng đưa đến thất vọng. Một cá nhân hay những người khác có thể tin là họ đang nói thứ tiếng lạ, trong khi đó những tiếng nói phát ra chỉ là do một tình trạng qua xúc động. Vẫn theo thánh Phao-lô, dấu chỉ chứng tỏ có ơn nói tiếng lạ đích thực hay không là ở chỗ những kinh nghiệm ấy gia tăng lòng tin, có tính xây dựng, đem bình an đến cho cộng đoàn, chứ không phải một tình trạng lộn xộn.

Đối với nhiều người tham dự vào các giờ cầu nguyện đoàn sủng, (nhiều khi người ta lại dùng tên ấy để chỉ phong trào Hiện xuống), đã giúp họ sống đức tin tốt hơn và sống gần gũi thân mật với Chúa hơn. Có thể ơn nói tiếng lạ được ban cho một số người (tương đối ít) trong các buổi tụ họp đoàn sủng, nhưng đây không phải là một cái gì chính yếu và thông thường đối với họ.

  1.  Thuyết một ngàn năm

Hỏi: Đâu là ý nghĩa của đoạn trong sách Khải huyền nói rằng triều đại của Đức Ki-tô sẽ kéo dài 1000 năm? Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta, hay là nó thực sự muốn nói rằng triều đại của Ngài trên thế giới này chỉ kéo dài có 1000 năm?

Đáp: Chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy lúng túng nhiều khi đọc sách Khải huyền nếu chúng ta quên đây là một cuốn sách của những thị kiến và của những biểu tượng cực kỳ rắc rối và nhiều khi hoàn toàn bí nhiệm. Trong lịch sử Ki-tô giáo, nhiều nhóm trong đó có những nhóm khá lớn, đã hiểu đoạn này theo mặt chữ (Kh 20). Họ tin vào con số 1000 (từ tiếng Latinh: mille anni = 1000 năm) thời gian mà Đức Ki-tô trị vì và sau đó Ngài sẽ đưa những người được cứu chuộc vào thiên quốc sau cuộc thảm bại cuối cùng của ma quỷ.

Trong nhiều dân tộc cổ đại, có nhiều con số thường được xem như là biểu tượng của một thời gian không thể đo lường, một thời gian vô hạn. Có lẽ ý tưởng về sự kết thúc của con số tròn 1000 dựa trên một cuốn sách ngoài Kinh thánh, có tựa đề: “Các bí mật của Enoch”. Trong cuốn sách này, thế giới được mô tả kéo dài trong 7000 năm mà thời hiện giờ là thời 1000 năm cuối cùng.

Trừ vài trường hợp ngoại lệ, những người theo thuyết 1000 năm, ngày càng hiếm khi 1000 năm đầu tiên sau Đức Ki-tô đã qua đi. Và như thế, hiển nhiên đoạn văn trên phải có một ý nghĩa khác.

  1. Armageddon

Hỏi: Một người khác đạo nói với chúng con về một trận chiến ở Armageddon, trận chiến được giả thiết sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Bà nói Kinh thánh đã ghi như thế nhưng không giải thích gì hơn ngoài việc người ta tin đó sẽ là một trận chiến khủng khiếp nhằm phân tách kẻ lành, người dữ. Cha biết bà ấy muốn nói gì không?

Đáp: Sách Khải huyền chương 16 nói về một cuộc chiến vào thời kỳ cuối của thế giới ma qủy cùng các vua chúa trần gian – “ngày lớn lao của trận chiến Chúa, Thiên Chúa tối cao” – Biến cố này xảy ra ở một nơi gọi là Armageddon.

Cũng như đối với nhiều phần khác của cuốn sách đầy ẩn dụ cao siêu này, ở đây thật khó xác định được nơi chốn trên bình diện địa lý và lịch sử. Lối chú giải thông thường là chữ Armageddon đề từ chữ “har Mageddo” Do thái có nghĩa: “núi Mageddo”. Mageddo vốn là một pháo đài cổ của Palestine kiểm soát con đường chính băng qua dãy núi Carmel. Vì thế, nó chiếm một chỗ trọng yếu dọc theo con đường quan trọng hàng đầu về quân sự và thương mại giữa Ai cập và những nước giàu có ở vòng cung trù phú.

Mageddo bị đánh chiếm đi chiếm lại nhiều lần trong dòng lịch sử lâu dài, và một cách nào đó, nó trở thành danh từ chung đồng nghĩa với bãi chiến trường. Vì lý do đó, có thể nó trở thành một biểu tượng cho cuộc “xung đột cuối cùng” giữa một bên là Thiên Chúa và các bạn hữu của Ngài, bên kia là những người theo ma quỷ.

  1. Tận thế

Hỏi: Khi nào tận thế xảy đến? Giáo hội dạy gì về điều đó không?

Đáp: Hàng ngàn lời tiên báo sai lầm đã kích động thế giới vào thời điểm này hoặc thời điểm khác. Điều này bắt buộc chúng ta phải xác tin rằng Thiên Chúa, trong chương trình của Người, không muốn cho chúng ta biết thời điểm của tận thế, ngay cả khi không xảy ra chuyện gì.

Có thể là 100 hoặc 100.000 năm nữa, chúng ta không biết được. Kinh thánh chỉ nói cho chúng ta biết về những hoàn cảnh sẽ xảy đến trước ngày tận thế. Dầu vậy thật khó khám phá ra được những gì các tác giả Kinh thánh thực sự muốn nói.

Tuy nhiên, những ai chạy theo thời điểm để tuyên bố “ngày tận thế đã gần đến”, họ phải nhớ một điều là Kinh thánh cũng như Giáo hội không nhằm để thỏa mãn sự tò mò vô ích của chúng ta, nhưng trước hết, muốn nhắc nhở chúng ta rằng ngày chúng ta lìa trái đất này (không phải là ngày nó cháy tan tành ra tro) là ngày tận thế, cho bạn và cho tôi.

Bài viết khác