Hôn Nhân và Đời Sống Gia Đình
- Thảo kính cha mẹ
Hỏi: Đâu là ý nghĩa của giới luật: Hãy thảo kính cha mẹ? Phải chăng khi ta không vâng lời cha mẹ trong gia đình, ta đã lỗi luật và như thế ta đã phạm tội trọng?
Đáp: Vâng lời cha mẹ chắc chắn là một yếu tố quan trọng, nhưng chúng ta sẽ không bắt đầu bằng yếu tố đó khi bàn về điều răn thứ tư.
Nên lưu ý rằng: trong cả hai bản liệt kê các giới luật Cựu ước (Xuất hành, chương 20 và Đệ Nhị Luật, chương 5), người ta dùng từ ‘thảo kính’. Do đó, phải tôn trọng và yêu mến cha mẹ, phải săn sóc và cung cấp những gì cần thiết trong suốt cuộc sống của các vị.
Bổn phận thảo kính là bổn phận thuộc đạo lý. Sự toàn vẹn và sức mạnh của đời sống gia đình lệ thuộc vào tương quan này. Và trải rộng ra, sự kính trọng đối với quyền hành trong xã hội cũng dựa vào tương quan thảo kính trong gia đình mà ra.
Rõ ràng vâng lời là một phần của bổn phận thảo kính, nhất là khi chúng ta lớn lên dưới sự chăm sóc của cha mẹ, là những người có trách nhiệm trước tiên hướng dẫn chúng ta tới giai đoạn trưởng thành. Khi chúng ta còn trẻ và sống trong gia đình, chúng ta phải vâng lời cha mẹ trừ phi mệnh lệnh của cha mẹ dẫn ta tới tội lỗi.
Vi phạm nghiêm trọng một điều răn lệ thuộc rất nhiều yếu tố. Đối với điều răn thứ tư, việc bỏ bê bổn phận quan yếu đối với cha mẹ; việc liên tục không kính trọng và yêu mến cha mẹ; việc không vâng phục ý cha mẹ trong những việc đúng đắn và quan trọng… tất cả có thể là tội nặng, dĩ nhiên kèm theo ý thức đầy đủ và tự do. Hầy như các trường hợp không vâng lời cha mẹ trong cuộc sống bình thường hằng ngày còn xa mới có thể là tội nặng.
- Cha mẹ từ bỏ con cái
Hỏi: Con xin cha giải thích ý nghĩa chữ ‘xét xử’ và ‘kết án’ trong một trường hợp sau đây: Khi một cô gái phải kết hôn trong một tình thế bó buộc (lỡ rồi), tất nhiên cô ta đã phạm tội lỗi đức trong sạch. Nếu cha của cô gái tuyên bố rằng vì cô gái đã sai phạm nên cô không bao giờ được tha thứ, và trở về nhà nữa; rằng cha mẹ không bao giờ muốn thấy mặt cô nữa… Như vậy, người cha đang ‘xét xử’ hay ‘kết án’? Phải chăng kết án hay xét xử lúc nào cũng chính đáng?
Đáp: Ngoài câu hỏi trên đây, trường hợp cô nêu ra còn cần phải giải thích rõ thêm một vài điểm nữa. Thí dụ như: không có lý do nào –kể cả có thai – lại được xem là nguyên cớ bó buộc phải lấy nhau. Cho tới khi cử hành lễ cưới, hai người vẫn hoàn toàn tự do lấy nhau hay không. Trong thực tế, có một vài trường hợp, việc cô gái có thai lại thúc ép người ta đừng lấy nhau, tuy nhiên xử sự trong từng hoàn cảnh có những đường lối khác nhau. Nếu có ai có khuyến khích cô dâu trong hoàn cảnh như vậy tin rằng họ ‘phải lấy nhau’, thì người đó phạm tội cư xử bất công đối với cô cậu…
Những cô cậu trẻ quan hệ tính dục đi tới mang thai ngoài hôn nhân, thường là không ngừng nghĩ tới những người mà cô cậu gây nguy hại hay buồn khổ, trong số những người này, cha mẹ họ chịu đựng nhiều hơn cả… Dù thế, tôi vẫn khó hiểu tại sao cha mẹ lại đối xử với con cái như cô mô tả được. Phúc âm mở đầu bằng bài giảng trên núi đầy dẫy những câu nói rõ ràng của Chúa rằng một thái độ cư xử như thế đối với bất cứ tội nhân nào cũng bất chính và sai lầm.
Bất cứ tội nào mà cô cậu phạm, nếu ăn năn thống hối đều đã được Thiên Chúa thứ tha từ lâu trước khi có ai đó biết rõ họ có thai. Vậy nếu Thiên Chúa đã tha thứ, thì họ viện vào lương tâm méo mó nào để có thể cho mình cái quyền không tha thứ? Hơn nữa, đây là lúc cô cậu cần sự nâng đỡ và tình thương của cha mẹ hơn bao giờ hết!
Sau hết, chúng ta cần phải ghét tội như chúng ta phải ghét, nhưng cũng phải yêu mến tội nhân như chúng ta phải yêu mến! Mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta xin Ngài tha thứ cho chúng ta như chúng ta cũng tha kẻ thù, kẻ xúc phạm ta. Vậy cha mẹ cô cậu có thực sự muốn Thiên Chúa cư xử với mình trong tư cách tội nhân như họ đã xử với ai đó như vậy không?
- Con cái không còn đi lễ nữa
Hỏi: Trong suốt 40 năm sống chung, chồng tôi và tôi cũng có những lúc sóng gió, nhưng nhìn chung, chúng tôi nhận thấy gia đình mình hạnh phúc.
Trong số những người con sinh ra, ba đứa hãy còn sống. Hai đứa con trai thường đi lễ, nhiều khi còn giúp lễ hằng ngày nữa. Riêng đứa con gái đi tu gần 10 năm và đã xuất. Cháu lập gia đình, li dị, hiện đang sống chung với một một người đàn ông khác. Các con tôi nói chung là tốt, nhưng bây giờ không ai đi nhà thờ nữa.
Sau nhiều năm chính mình đi lễ và rước lễ hằng ngày, giờ đây, tôi vẫn cảm thấy sự việc trên (con cái không đi lễ) làm cho tôi âu lo. Lương tâm tôi đau đớn thực sự và tôi cảm thấy như mình đã làm điều gì đó sai lỗi. Cha có thể giúp ý để tôi có thể đối phó với hoàn cảnh đó không?
Đáp: Lời than phiền của bà về lối sống và thái độ của con cái đối với tôn giáo thì nhiều bậc cha mẹ cũng than như vậy. Nhưng không phải là dựa vào đó để tự an ủi mình. Tôi xin có hai góp ý:
- Chúng ta phải trung thực nhìn nhận rằng đến một lúc nào đó, con cái sẽ phải lãnh trách nhiệm về cuộc sống của chính mình. Đến một lúc mà cha mẹ sau khi đã làm hết sức mình cho con cái thì chuyển giao trách nhiệm lên vai của chúng.
Cha mẹ không cần đồng ý hay đòi phải đồng ý với tất cả những gì mà con cái làm. Bây giờ gánh nặng đó đã được cất khỏi một khi chúng ta nhìn nhận con cái đã trưởng thành và chúng có những quyền lợi riêng, đồng thời chúng phải trả lời trước Chúa về cuộc sống của chúng.
- Ngoài ra, cha mẹ (và trong vấn đề này, bất cứ ai có trách nhiệm ở trên người khác) sẽ cảm thấy được an ủi vô cùng khi biết rằng không có hành động nào vì yêu thương mà lại hư mất. Dựa trên kinh nhiệm của con người và cách riêng là người Ki-tô hữu với gương mẫu của Đức Ki-tô, chúng ta tin rằng tình yêu có sức biến đổi.
Những hiểu quả của hành động đầy yêu thương mà chúng ta làm cho con cái có thể không luôn luôn xuất hiện đúng lối, đúng lục chúng ta mong muốn, nhưng hiểu quả vẫn còn đó và sẽ lộ ra vào những lúc, những nơi chúng ta không trông đợi và nhiều khi chúng ta chẳng biết đến nữa.
Ngày cả các nhà xã hội học cũng đồng ý rằng trẻ con có một bản năng kỳ là để hấp thụ và lưu giữ những giá trị mà chúng nhận được từ cha mẹ. Tuy vậy, điều này cũng không dễ dàng làm giảm những buồn chán và ý nghĩ cảm tháy thất bại của cha mẹ đối với việc giáo dục con cái. Nói cách khác, việc làm cha làm mẹ và nuôi dưỡng con cái không mang lại những kết quả thấy được ngay như chúng ta mong ước, nhưng không phải vì đó mà chúng ta xem là thất bại.
Như thư thứ nhất của thánh Gioan trong Tân ước, chúng ta tin vào sức mạnh của tình yêu –tình Chúa yêu ta, ta yêu nhau trong Chúa- Điều này có nghĩa là chúng ta cứ làm hết sức mình trong khả năng giới hạn của chúng ta, và khi ấy chúng ta tin tưởng rằng tình yêu sẽ tiếp tục hoàn tất vào đúng lúc, đúng nơi, đúng cách của nó, những gì chúng ta đã mong đợi.
- Cha mẹ tuyệt vọng
Hỏi: Nếu người con trai của mình cố tình tiến tới một hôn nhân không thành sự, cha mẹ có bắt buộc phải chấp nhận không? Cha mẹ có thể từ chối tha thứ không? Cha mẹ có thể chịu các bí tích mà trong lòng không tha thứ không?
Đáp: Bạn đang chịu đựng một tấm thảm kịch! Cha mẹ nào cũng muốn điều tốt lành cho con cái. Và, đối với cha mẹ cố đức tin đâu đậm, điều tốt lành đó là mong muốn cho con cái được thông phần ân phúc bắt nguồn từ lòng tín thác vào Chúa và Lời Ngài.
Bây giờ bạn thấy rằng con bạn đã đánh mất tất cả, ít là trong lúc này. Nhưng tôi tin rằng bạn sẽ buồn khổ hơn khi bạn cứ giữ thái độ cay đắng đó và không tha thứ. Bạn đừng do dự lãnh chịu các bí tích và luôn cầu nguyện cho có được bình an trong tâm hồn và bình an với Chúa. Cũng hãy cầu nguyện cho đứa con đó cũng những đứa con khác nữa.
Chuyện tình riêng có phải khai ra không
Hỏi: Tôi và chồng tôi lấy nhau đã được 40 năm. Trước khi lấy nhau, tôi đã có một mối tình riêng và chuyện này đã dẫn tới một tình thế rất buồn lòng. 18 tháng sau khi lấy nhau, chồng tôi đang đi làm xa đã viết thư về cho tôi hỏi xem có phải tôi đã quan hệ tình dục trước khi lấy ông ta không. Tôi thú nhận. Thế là ông tà về nhà thường xuyên hơn, hai năm sau đó, sau khi tôi đã sinh đứa con thứ hai. Khi chồng tôi tỉnh táo và làm việc, ông là một người tốt. Nhưng khi đã uống rượu vào, ông cáo buộc tôi đã tư tình và nhiều chuyện khác mà tôi không hề làm. Là người con Chúa, tôi cố gắng sống đời Ki-tô hữu tốt lành, đi lễ, và hầu như rước lễ hằng ngày, nhưng ông ta vẫn tố cáo tôi về những điều ác độc trên. Tôi không bao giờ ngoại tình và vẫn cố giữ vũng giáo ước hôn nhân.
Khi tôi trình bày với bà bác sĩ về trường hợp của chồng tôi, bà ấy bảo chồng tôi đang đối xử với tôi vì ông đã phạm một vài tội nào đó. Chồng tôi chẳng bao giờ nói với tôi rằng ông yêu tôi. Ông có viết, nhưng nói thì không. 40 năm đã là quá dài mà vẫn không nói. Tôi cần cha giúp đỡ và góp ý. Tôi rất mong cha trả lời.
Đáp: Thư của bà lại thêm một bằng chứng cho thấy không phải bất cứ điều gì nói ra được là xong. Thường thường, những lời xưng thú như thế sẽ chẳng mang lại kết quả gì, mà lại đe doạ bầu khí gia đình trong suốt cuộc sống còn lại.
Quả thực, trong trường hợp này, chỉ khi nào một bên thúc giục hay ép buộc, bên kia mới xưng thú ra. Vì thế, phải trục trặc thế nào đó thì mới đặt ra những cấu hỏi như vậy, khi đó thường cũng là lúc đã nghi ngờ tình yêu của bạn mình.
Một người chồng, người vợ bình thường có lẽ sẽ không muốn biết rõ những thông tin như thế và hơn nữa không muốn khơi lên nỗi đau mà người mình yêu phải chịu khi xưng thú ra. Bà có thẻ giữ những chuyện này giữa bà với Chúa. Bà không thể đi ngược về hay làm hồi sinh lại cuộc sống của bà nhưng có lẽ những gì tôi đã trả lời sẽ đưa bà đến viễn ảnh tốt hơn một chút.
Tôi đồng ý với bác sĩ của bà: thái độ của chồng bà trong những năm tháng qua nói lên điều gì đó về ông ta hơn là về bà. Qua lá thư, tôi thấy bà đang cố giữ vững cuộc sống. Những gì bà nói chồng bà đã luôn thiếu quan tâm đến bà, rằng bà phải nói năng thận trọng, chắc làm bà khổ tâm nhiều. Tôi hiểu điều đó. Nhưng với kiên nhẫn, yêu thương, cầu nguyện, thông cảm, tôi tin bà có thể đối phó được với tất cả.
Về việc nghiện rượu của chồng, bà không thể hành động một mình. Bạn bè hay luật sư bà tin tưởng có thể giúp ích cho bà. Bà cũng có thể liên hệ với Hội chống rượu, danh mục có trong Niên giám điện thoại. Tất cả nói cho bà hiểu rằng cần có Chúa và những người khác giúp đỡ thì mới thành công trong việc này.
- Người chồng phản bội
Hỏi: Tôi không thích nói chuyện này với cha sở, nhưng tôi cần có ai đó giúp đỡ tôi: Cách đây hơn hai tháng tôi khám phá ra chồng tôi dan díu với một phụ nữ da trắng (chúng tôi là người da màu). Sau đó, tôi biết rằng bà ta đã có thai với chồng tôi. Cha khuyên tôi phải làm gì bây giờ? Tôi rối trí quá! Tôi không thể tha thứ cho chồng tôi, và bây giờ chúng tôi sống rất bất hạnh. Chồng tôi lái xe kéo và thường đi vắng 5 ngày 1 tuần. Dĩ nhiên anh ta trách tôi đã để xảy ra như vậy. Anh ta nói vì tôi đã thờ ơ với anh khiến anh phải tìm đến người đàn bà kia để tìm thương yêu và thông cảm. Chúng tôi đã có 6 người con, từ 5 đến 16 tuổi. Xin cha giúp tôi quyết định, tôi không thể tự quyết định một mình được.
Đáp: Tôi hiểu bà đang phải chịu một đau thương khủng khiếp do chồng bà gây nên. Nhưng chắc chắn giờ đây bà không thể quyết định cách sáng suốt và khôn ngoan nếu bà không tham khảo ý kiến một vài người mà bà tin tưởng.
Mặc khác, thật khó cho tôi khi tôi phải góp ý cho bà mà lại ở cách xa bà. Thật vậy, để góp ý tốt phải hiểu rõ ý kiến của các bên liên hệ, phải xem xét tương giao của bà với chồng trong quá khứ và hiện tại… điều này cần phải ngồi lâu giờ mới đả thông hết được.
Do đó, bà đừng quá vội loại bỏ cha sở của bà như là một trong những người cần phải tham khảo. Tôi hiểu bà có những vướng mắc nào đó, nhưng bà không nên xúc phạm đến cha sở. Ngài có lẽ đã giúp cho nhiều người khác cũng ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan như bà nên chắc sẽ giúp được bà. Bên cạnh đó, bà cũng hãy tìm đến người thân hay bạn bè khôn ngoan khác, hoặc các văn phòng cố vấn tâm lý mà bà tin tưởng. Đừng quyết định một mình, bà đang cần sự nâng đỡ và khích lệ của những người quan tâm đến bà và con cái bà.
- Sự ngược đãi và hành hạ, sẽ kết liễu hôn nhân
Hỏi: Tôi đang làm đơn xin giải hôn nhân. Chúng tôi cưới nhau đã 10 năm và Chúa thương, đã có hai người con. Hiện nay, chúng tôi đang gặp một vấn đề quan trọng, đặc biệt việc chồng tôi nghiện rượu. Tôi đã không thẻ khuyên ông ta được gì. Ông ấy nói: linh mục trước đây làm đám cưới cho chúng tôi đã bảo với ông ấy rằng không phải hôn nhân nào cũng phải duy trì bằng mọi giá. Chồng tôi hành hạ tôi bằng lời nói, bằng tay chân và cả bằng súng nữa. Phải chăng việc giải hôn nhân này có thể cho phép tôi kết hôn lẫn nữa trong giáo hội công giáo, khi tôi gặp được ai đó tôi quan tâm?
Đáp: Bà chưa hoàn toàn hiểu rõ thế nào là giải hôn phối. Nếu bà đang chuyển đơn đến toà án hôn phối công giáo để xin giải hôn phối, thì một khi án giải hôn phối đã được tuyên bố, chẳng có gì cấm cản bà kết hôn với một người nào đó.
Việc toà án hôn phối công giáo giải hôn phối không có nghãi là huỷ bỏ hôn phối đã thành sự, nhưng chỉ có nghĩa là tuyên bố chưa hề có bí tích hôn phối thật sự giữa hai người. Do đó, ít là về mặt này, không gì có thể ngăn cản bà tiến tới một cuộc hôn nhân khác.
Bà chưa nói rõ xem bà đã được toà đời cho li dị chưa. Tuy nhiên, dẫu được toà đời cho li dị mà không đưa sự việc ra toà án hôn phối giáo phận, thì vẫn không được tái hôn theo luật công giáo.
Hơn nữa, các toà án đạo thường không nhận đơn xin giải hôn, cho tới khi toà đời đã cho phép li dị. Điều này nhằm tránh những lôi thôi về mặt pháp lý có thể xảy ra.
Nếu bà chưa sẵn sàng như thế, đề nghị bà tới gặp một linh mục trong vùng bà ở, trình bày trường hợp của bà và tuân theo những chỉ dẫn của ngài. Ngài sẽ giúp bà hoàn tất những gì mà án giải hôn phối đòi buộc.
- Giúp đỡ sau li dị
Hỏi: Con đang rất cần lời khuyên của cha. Con là người công giáo, và gia đình con là đạo dòng. Cách đây khoảng 9 năm, con đã lấy người không công giáo làm chồng. Sau 7 năm khổ tâm và chán nản, cuối cùng, con can đảm đối diện với thất bại và xin li dị. Con biết con có thể xin li dị sớm hơn, nhưng như thế con cảm thấy là thua trận. Ngay cả bây giờ, sau khi đã li dị hai năm con vẫn cảm thấy xấu hổ về việc đó và rất ghét tiếng ‘li dị’. Đối với con, li dị có nghĩa là chết. Chồng cũ của con không muốn từ bỏ lối sống độc thân (tự do) sau khi đã lấy con. Anh ta vẫn thích uống rượu thường xuyên với bạn bè, và chỉ trở về nhà khi nào anh ta muốn. Có nhiều lý do, nhưng cái khó nhất là chúng con khám phá ra chúng con không thể có con. Con nghĩ, chúng con có thể nhận con nuôi, nhưng anh ta hoàn toàn từ chối. Con cầu xin mãi cho anh từ bỏ ý kiến này, nhưng không được.
Nay con đã 34 tuổi rồi nên nếu Chúa muốn, con hy vọng sẽ lại lập gia đình và có con trước khi quá già. Tuy nhiên con muốn kết hôn trong giáo hội với phép lành của Chúa. Con viết thư này để nói với cha là con muốn xin tiêu hôn. Con mong ý kiến của cha nhiều lắm!
Đáp: Hiển nhiên chị đã khổ tâm nhiều trong những năm qua vì cảm thấy là mình vô ích và bị bội phản. Giờ đây, tôi hy vọng chị sẽ tìm được hướng đi mới trong cuộc sống và bỏ lại sau lưng những gì đã qua.
Việc đầu tiên chị phải làm ngay bây giờ, hơn cả việc xin giải hôn nhân, tôi tin chắc chị đang cần nhất là chữa lành vết thương trong quá khứ và tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn để có thể khởi sự lại cuộc sống. Tôi khẩn thiết khẩn cầu chị hãy chữa lành vết thương nơi một người bạn khôn ngoan mà chị tin cẩn hoặc nơi một trong nhiều hội đoàn được lập ra để nhằm giúp đỡ những người như chị tìm hướng đi mới. Hoặc chị tìm cả hai nơi đó. Biết bao người đã phải trải qua bao loại suy sụp tinh thần như chị và đã biết cách giúp đỡ kẻ khác ra sao để vượt qua những thảm kịch đó.
Ở Mỹ có một phong trào gọi là “Beginning Experience” nhằm giúp đỡ những người công giáo li dị, goá bụa hay ly thân…
Những chi tiết chị viết trong thư khiến tôi tôi tin rằng toà án hôn nhân giáo phận của chị sẽ nhận đơn để điều tra nghiên cứu trường hợp xin tiêu hôn của chị. Tuy nhiên, yêu cầu chị trình bày vụ việc này với linh mục nơi chị ở để ngài có thể khởi sự đưa ra toà.
Tôi hiểu chị có thể không sẵn sàng đưa vụ việc này cho một linh mục vốn biết rất rõ về gia đình chị. Vì thế, chị có thể xin một người bạn ở xứ gần đó gợi ý với một linh mục khác không quen thân nhưng có thể nói chuyện được với chị. Hãy nghe lời chỉ dẫn của ngài. Chị cũng có thể nhờ linh mục đó tìm cho những người có thể giúp đỡ chị như tôi đã nêu trên kia.
- Họp mặt những người công giáo đã từng kết hôn
Hỏi: Một giáo xứ gần nơi chúng con ở có thông báo sẽ tổ chức những buổi gặp gỡ “những người công giáo đã từng kết hôn”. Như thế có nguy hại không? Vì qua đó người ta ngầm hiểu giáo hội công nhận việc li dị, và ly thân. Một người công giáo đã li dị có thể nhận các bí tích không?
Đáp: Giáo hội –có nghĩa là tất cả những người công giáo chúng ta-, có trách nhiệm rất lớn trong việc giúp đỡ những gì có thể đối với những người đang phải trở lại lối sống độc thân và đang cố xây dựng gia đình mà chưa có người bạn đời.
Trách nhiệm này lâu này bị xao lãng, có lẽ do thái độ coi những người công giáo như thế là hạng người không đáng quan tâm tới. Bạn phải biết rằng ngày nay dưới nhiều áp lực và hoàn cảnh, nhiều người đi tới li dị hay ly thân mà không phải do chính lỗi của họ. Có những yếu tố ràng buộc hôn nhân đã vuột khỏi tầm kiểm soát của đương sự cũng giống như bà goá hay ông goá vợ đã không làm chủ được cái chết của người bạn đời của mình.
Hơn nữa, việc chấm dứt hôn nhân không có nghĩa là khỏi cần thương yêu và được yêu thương, đặc biệt trong trường hợp này họ cần các bạn về còn đang sống chung trong hôn phối yêu thương họ.
Khi con số những người công giáo goá vợ, goá chồng hay lý thân còn đang tương đối ít, thì việc không nhận ra những nhu cầu đặc biệt của họ và tìm cách gặp gỡ họ có lẽ chỉ là một vài thiếu sót nào đó thôi. Nhưng không nên như vậy nữa. Thay vì xem đó là ‘nguy hiểm’, phải coi các cuộc gặp gỡ giữa họ bây giờ mơi tổ chức là qua trễ.
Không có gì, tự nó, ngăn cản người đã li dị (chưa tái hôn) lãnh nhận bí tích xá giải và Thánh thể. Nhiều khi họ còn đến bí tích nhiều hơn nữa để học cho biết cách sống khác với lối sống đã quen lúc trước đây (tức đời sống chung hôn phối). Về việc lãnh bí tích, họ cũng tuân thủ những qui luật như bất cứ người công giáo nào khác.
Trong trường hợp này cũng như bất cứ trường hợp nào chúng ta không có quyền xét xử hay kết án ai, nhưng tốt hơn hãy làm tất cả những gì có thể để củng cố và nâng đỡ những người như vậy.
- Đừng trách cứ Giáo hội
Hỏi: Tôi giáo dục gia đình đúng giáo huấn của Hội thành và con gái tôi là một người công giáo rất đạo đức. Giờ đây, cháu nó yêu và dự định lấy một người đã li dị 7 năm. Chúng nó trình bày sự việc với linh mục, nhưng được linh mục trả lời là chúng nó không thể lấy nhau theo luật giáo hội công giáo được. Điều này là cú sốc lớn cho tôi lẫn con gái tôi, vì cháu nó nghĩ sẽ đưa chồng nó vào đạo. Giờ đây nó đã bị chối từ! Tất nhiên Giáo hội đang bỏ mất cơ hội chăm sóc họ, tôi đã từng thấy nhiều người công giáo li dị, một số lại tái hôn và họ vẫn rước lễ. Tại sao? Tại sao con gái tôi lại không được kết hôn, ít ra là bên cạnh bàn thờ chứ!?
Đáp: Bất cứ người công giáo nào, dù vốn liếng giáo lý chỉ là tối thiểu cũng phải biết giáo huấn căn bản của Hội thánh liên quan tới hôn phối. Do đó, họ phải biết rõ xem người li dị kia có gặp phải vấn đề nghiêm trọng nào không để có thẻ tìm hiểu yêu thương.
Thỉnh thoảng qua một án tiêu hay một án lệnh khác mà hai người như trên có thể lấy nhau hợp với luật Công giáo. Còn ngoài ra Giáo hội không được phép hay có quyền làm theo điều bạn yêu cầu, tức là thừa nhận hôn phối của một ông hay một bà chỉ đơn giản là họ yêu nhau và muốn cử hành lễ cưới công giáo, mà không đếm xỉa gì tới người chồng hay người vợ trước của họ.
Vị linh mục mà bạn nhắc tới rõ ràng đã cho bạn lời khuyên thích đáng. Nơi cử hành hôn phối, dù bên cạnh hay trên bàn thờ hoặc ở ghế đá công viên cũng không tự nó làm cho hôn hối thành sự. Bao lâu mà người phối ngẫu hôn phối trước còn sống, sẽ không được lấy người nào khác theo luật giáo hội nếu không có án tiêu hôn hay án lệnh nào khác xác nhận giờ đây hai người được thong dong lấy nhau.
Nếu con gái bạn còn giữ đạo thực sự như bạn giới thiệu, tôi khuyên bạn nên thúc giục cô ta đến gặp lại vị linh mục đó hay một linh mục nào khác để các ngài điều tra xem có thể đưa ra toà án hôn phối xin án tiêu hôn hay án lệnh nào khác không (như đặc ân Phaolo, đặc ân Phero)…
- Sự tiến triển của giáo thuyết về hôn nhân
Hỏi: Tôi là một phụ nữ đã 57 tuổi và không thể có con. Mới đây có một bài báo nói rằng Giáo hội công giáo dạy việc giao hợp chỉ được phép khi đôi bạn có thể và mong muốn có con mà thôi. Câu hỏi của tôi hơi lạ một chút, nhưng có luật lệ nào ‘mới’ để cho phép vợ chồng ‘gần’ nhau dù biết không thể có con, như trường hợp đôi bạn đã trung niên chẳng hạn?
Đáp: Tôi nghĩ câu trả lời của tôi còn đi xa hơn những gì bà mong đợi được giải đáp!
Thật vậy, giáo lý về hôn nhân và về quan hện tính dục trong hôn nhân đã tiến triển dần dần qua nhiều thế kỷ, và hiện nay vẫn còn tiến triển. Tuy vậy, giáo lý lúc nào cũng xem quan hệ tính dục trong hôn nhân là điều tốt. Nhưng cắt nghĩa tại sao tốt, đã có những gairi thích xem ra trái ngược nhau.
Một lối giải thích đã gắn bó hằng bao thế kỷ là: có con là điều tốt, vì thế ‘có con’ làm cho tương giao giữa vợ chồng trở nên tốt.
Trươc khi đi xa hơn, chúng ta lưu ý hai sự kiện:
- Thứ nhất, trải qua dòng lịch sử cho đến khoảng hai thế kỷ mới đây ít ai hiểu biết về sinh học thai nhi. Các nhà thần học và khoa học tin rằng chung chung mọi nguồn gốc sự sống (hạt giống) đều do ở phía người nam. Trong quan hệ tính dục, người nam chuyển sự sống đó qua người nữ, ở đây, sự sống đó lớn lên cho tới khi ra đời.
Hiển nhiên quan niệm này ảnh hưởng đến giáo huấn luân lý, vì bất cứ mất mát tinh dịch nào cũng ít là giết người một cách nào đó.
- Thứ hai, từ thời thánh Augustino (thế kỷ 4) cho tới thời đại chúng ta, điều biện minh cho quan hện tính dục là việc có thể có con, triết lý này ngự trị hằng bao thế kỷ nhằm chống lại thuyết Ngộ đạo, và Nhị Nguyên (tinh thần là tốt – vật chất là xấu) là hai thuyết cách này hay cách khác đe doạ cuộc sống và quan niệm người Ki-tô hữu.
Thật vậy, vì lý do đó và vì quan hệ tính dục luôn mang lại một khoái cảm mãnh liệt, lý trí không thể kiểm soát được, mà quan hệ tính dục chỉ được phép khi có ý định có con mà thôi.
Những điều vừa nói có vẻ phức tạp và mang dáng dấp hàn lâm khoa học, nhưng chúng lại đưa tới những hệ quả to lớn về phương diện thực hành và ảnh hưởng tới câu trả lời cho bà.
Thí dụ: Thánh Giáo hoàng Gregorio Cả, chết năm 604, đã đưa ra giáo huấn trong “Quy luật Mục vụ” như sau: Vợ chồng chỉ có thể quan hệ tính dục với nhau khi muốn có con. Ngài còn thêm: nếu trong quan hện tính dục, vợ chồng còn xen lẫn những thích thú nhục dục, họ đã vi phạm luật hôn nhân, mặc dù vi phạm này không phải là tội nặng.
Vì lý luận như thế, mà cho tới cuối thời kỳ Trung cổ, các nhà thần học và luật học nổi danh vẫn dạy rằng: quan hệ tính dục trong thời kỳ có thai là phạm tội nặng. Chỉ dưới ảnh hưởng của Đức Giáo hoàng Alberto Cả (thế kỷ 13) lập trường trên mới được xem xét lại. Nhưng cuộc tranh luận cũng thật dữ dội vì nó phá vỡ truyền thống vững chắc chỉ xem ý muốn có con là lý do duy nhất biện minh cho quan hện tính dục vợ chồng, ngoài ra không còn lý do nào khác.
Chính vì thế mà đến hậu thế kỷ 15, nhà giảng thuyết lừng danh là thánh Bernadino thành Sienna vẫn còn viện dẫn “sự điều độ” của loài vật (vì loài vật chỉ giao phối có thời điểm) để minh chứng rằng loài người cũng không được quan hệ vợ chồng trong thời kỳ thai nghén.
Chỉ khoảng 300 năm gần đây, cách riêng với hai nhà thần học đáng kính là Toma Sanchez và thánh Anphong Logori, mà quan niệm cho rằng được phép quan hệ tính dục nhằm diễn tả và gia tăng tình yêu, dù không có con, mới được xem là phù hợp luân lý.
Dĩ nhiên, các giáo hoàng sau đó đã khai triển đề mục này, cách riêng là ĐGH Leo XIII với thông điệp đang ghi dấu về “Hôn nhân Ki-tô giáo” năm 1880.
Những điều tôi trình bày đi xa hơn những gì bà muốn biết. Nhưng bà cũng cần biết thêm lịch sử cảu vấn đề này trong Giáo hội còn nhiều sự phức tạp hơn nữa, vì trong mỗi thời kỳ như thế đều có những ý kiến đi ngược lại. Tuy nhiên vài nét tóm tắt trên đây có thể giúp bà hiểu rõ bối cảnh những điều bà đã đọc và những gì bà cần biết để khỏi bận tâm gì cho hôn nhân của bà.
Không cần luật lệ ‘mới’ nào cả. Việc có thể có con không còn là yếu tố cần thiết trong quan hệ tính dục của vợ chồng nữa.