Thứ Sáu, 02 Tháng Năm, 2025

Chúa Nhật III Phục Sinh C

Chúa Nhật III Phục Sinh C

Bài Ðọc I: Trích sách Tông đồ Công vụ (Cv 5, 27b-32. 40b-41).

Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.

Bài Ðọc II: Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan (Kh 5, 11-14).

Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”. Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.]

Vài ý chính Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

Điểm mới của Ga 21 nằm ở tầm nhìn về Giáo hội ("giáo hội học"). Cho đến lúc này, thực vậy, giáo huấn Tin Mừng thứ tư liên quan đến cộng đoàn giáo hội và sự lãnh đạo vẫn còn khá mơ hồ. Người tin được mời gọi tuân theo các điều răn Chúa Giêsu, để yêu thương và tin tưởng (14, 15-21; 13,34-35; 14, 23-24; 15, 12, 17). Sự "mơ hồ" được vượt qua trong Ga 21, nơi Giáo hội được trình bày như con thuyền của Đức Kitô phục sinh, giờ đây được Simon-Phêrô cai quản.

Một cộng đoàn đã từng viết một câu chuyện về Chúa Giêsu đã cảm thấy cần phải đưa ra những chỉ dẫn khác từ Chúa phục sinh để hướng dẫn họ. Trong Ga 21, hình ảnh Phêrô và người môn đệ được yêu mến được mô tả vừa giống nhau vừa khác nhau so với các chương 1 - 20.

Điều đáng chú ý, lần đầu tiên, một giao tiếp được thiết lập từ người môn đệ được yêu mến đến Phêrô (c. 7). Nhưng yếu tố độc đáo nhất của Ga 21 nằm ở ơn gọi đặc biệt Chúa Giêsu trao cho vị tông đồ này (cc. 15-19). Ông nhận sứ mệnh trở thành người chăn chiên, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho đàn chiên của Đấng Phục sinh (cc. 18-19). Phêrô giờ đây đã kiên quyết theo Chúa Kitô cho đến chết (cc. 19-20). Lời tuyên bố yêu mến Chúa Kitô ba lần của ông (cc. 15-17), chuyển hóa việc chối Chúa ba lần của ông (18, 15-18.25-27), là bằng chứng cho điều đó. Simon-Phêrô được trao một sứ vụ mục tử phù hợp với Chúa Giêsu. Về phần mình, người được yêu mến vẫn giữ đặc quyền làm chứng nhân đích thực về giáo lý Tin Mừng thứ tư.

Các câu 1 đến 14

Lần xuất hiện thứ ba và cũng là lần cuối cùng của Đấng Phục sinh diễn ra sau một đêm đánh cá không thu hoạch được gì (c. 3). Simon Phêrô đã chủ động ra khơi và những người khác đã theo ông. Cộng đoàn sống trong đêm tối, thất vọng vì cái chết của Thầy.

Khi trở về vào sáng sớm, những người đánh cá nhìn thấy một nhân vật đứng trên bờ. Giống như Maria Mađalêna (20,14), họ không nhận ra Người (c. 4). Như trong Lc 24,41, Đấng Phục sinh đặt câu hỏi cho những người đánh cá. Câu trả lời rất rõ ràng: "không" (c. 5). Sau khi vâng lời thả lưới bên phải thuyền, biểu tượng phẩm giá, một cái nhìn khác về sự vật, mà các môn đệ tuân theo, việc đánh cá thành công và kết quả thật đáng ngạc nhiên.

Mệnh lệnh người lạ tạo ra một hiệu quả bất ngờ. Lưới đầy cá đến nỗi những người đánh cá không thể kéo lên thuyền. Phép lạ này nhớ đến phép lạ hóa bánh ra nhiều (Ga 6,5-13).

Vào lúc này (c. 7), người môn đệ được yêu mến, được độc giả Tin Mừng thứ tư biết đến (Ga 13,23; 19, 26; 20, 2), diễn giải sự kiện như một "dấu chỉ" về hành động của Chúa Kitô phục sinh. Lần đầu tiên, ông nói với Phêrô. Vị đứng đầu các tông đồ mặc quần áo vào, rồi nhảy xuống nước. Thông thường, người ta cởi quần áo trước khi lặn. Nhưng trần truồng của Phêrô thể hiện hổ thẹn vì đã chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Do đó, như một dấu hiệu tôn trọng, ông khoác áo và vội vã đến gặp người lạ mà bạn ông đã nhận ra. Từ giờ trở đi, không còn người được yêu mến có quyền ưu tiên độc quyền để ở gần Chúa (cf. 13, 23). Điều mới mẻ sẽ được phát triển sau đó (cc. 15-19) khi Phêrô có cơ hội công khai tuyên bố tình yêu đặc biệt và chân thành của mình đối với Chúa Kitô.

Một đống than hồng, cá và bánh, một lần nữa gợi nhớ đến phép lạ ở chương 6 (6, 9), đang chờ đợi các môn đệ. Trước khi dùng bữa với Đấng Phục sinh, Simon Phêrô chủ động kéo lưới đầy cá lên bờ. Như vậy, vị tông đồ tỏ ra người chịu trách nhiệm về hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Ông đồng ý và cộng tác với sứ mệnh Chúa Kitô tiền-phục sinh, Đấng đã phải chết để "quy tụ trong hiệp nhất con cái Thiên Chúa đang tản mác" (11,52). Mặc dù có nhiều cá, lưới không rách. Hình ảnh cho phép nghĩ rằng Tin Mừng khuyến khích độc giả sống trong hiệp nhất, đồng thời chấp nhận đa dạng của các Kitô hữu.

Chúa Kitô sau đó mời tất cả họ ăn sáng. Người lấy bánh và trao cho họ (c. 13) như Người đã làm trước phép lạ hóa bánh ra nhiều (6,11). Tóm lại, sau khi nhận ra Đấng Phục sinh, nhờ nhạy bén của người môn đệ được yêu mến (c. 7), giờ đây toàn thể Giáo hội được mời gọi hiệp thông với sự phục sinh qua Bí tích Thánh Thể. Tác giả của Ga 21 do đó đã thành công trong việc kết hợp cái riêng biệt với cái phổ quát của Giáo hội cho toàn bộ thời gian hậu-phục sinh.

Các câu 15 đến 19

Đoạn này, thường được gọi "sự phục hồi của Phêrô", không liên quan đến sứ mệnh các môn đệ với tư cách môn đệ, nhưngliên quan đến sứ vụ của Phêrô.

Khi hỏi Phêrô ba lần cùng một câu hỏi (cc. 15-17) (19,15-18.25-27), Chúa Giêsu không nghi ngờ tình yêu Phêrô dành cho Người (cf. 21, 7). Người muốn xem liệu tình yêu đó có thực sự được khắc ghi sâu trong tâm hồn ông không. Ba câu trả lời của Phêrô cho phép Đấng Phục sinh trao cho ông nhiệm vụ làm mục tử cho đoàn chiên của Người, vì nội dung các câu trả lời đối lập hoàn toàn với việc chối Chúa ba lần của ông (19,15-18.25-27). Theo một nghĩa nào đó, trách nhiệm Đấng Phục sinh trao cho Phêrô phục hồi ông sau yếu đuối của mình. Vị tông đồ, sau khi thể hiện sự gắn bó của mình với hình thức và nội dung tình yêu theo kiểu Gioan (cf. 14, 21.23), nhận từ Đấng Phục sinh nhiệm vụ chăm sóc những người Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình (13, 14.34; 15,12-13).

Nhiệm vụ mục tử của Phêrô phục vụ đàn chiên Chúa Kitô sẽ không thể tránh khỏi nguy cơ phải chịu tử đạo. Không cần phải nghĩ ở đây về bất kỳ "lời tiên tri" nào của Chúa Kitô theo nghĩa truyền thống của thuật ngữ. Vào thời điểm văn bản được viết, Phêrô chắc chắn đã chết tử đạo. Đó là rủi ro phải gánh chịu. Nhưng cái chết đã cho thấy Phêrô là một mục tử thực sự của đàn chiên của Đấng Phục sinh: giống như Người, ông đã hiến mạng sống mình cho họ. Ông đã "tôn vinh" Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã tôn vinh Cha của Người (11, 4; 17, 4). Từ giờ trở đi, đã đến lúc vị tông đồ thực hiện lời hứa đã nói trước cuộc Khổ nạn (13,36-37).

Jean-Philippe Kaefer

Giáo sư chú giải Kinh Thánh tại Trung tâm đào tạo giáo phận (ISCP) ở Liège

 

Bài giảng: Những Chứng nhân đích thực

Những chứng nhân can đảm...

Kể từ lễ Phục Sinh, một từ liên tục xuất hiện: "Chứng nhân...". Trong bài đọc một, Phêrô, nhân danh các tông đồ, dám đưa ra sự liên kết tuyệt vời khi nói: "Chúng tôi và Chúa Thánh Thần...". Đối với ông, chính Chúa Thánh Thần làm cho việc làm chứng trở nên khả thi, chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lòng can đảm để chia sẻ đức tin, dám tiếp tục con đường hy vọng và tỏa sáng tình yêu trong cuộc sống hàng ngày... Thật vậy, Phêrô khẳng định: "Về phần chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân của tất cả những điều này, cùng với Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người" (Cv 5, 32). Những chứng nhân không thiếu lòng can đảm. Bởi vì mặc dù các tông đồ bị cấm nói về Chúa Giêsu phục sinh, họ vẫn tiếp tục làm điều đó. Sự ngược đãi và nhục mạ không thể khiến họ nản lòng. Thật vậy, các Tông đồ đã bị bắt, bị đánh đòn... "Nhưng khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, họ vui mừng vì được coi xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41). Hôm qua cũng như hôm nay, các môn đệ của Đấng Phục Sinh phải trở thành, nhờ Thánh Thần đã nhận được, những chứng nhân của Đức Kitô phục sinh. Những chứng nhân đích thực có khả năng chèo ngược dòng.

Trong Giáo hội sơ khai, có nhiều vị tử đạo. Có những lo sợ Giáo hội non trẻ này sẽ chìm đắm trước thế giới thù địch. Liệu có thực sự có tương lai không? Phải chăng Đức Kitô chỉ là một ảo tưởng êm đềm? Những tông đồ xuất sắc nhất cũng bị cám dỗ bởi chán nản... Làm thế nào, giữa một thế giới như vậy, Giáo hội có thể trở thành một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn hy vọng và một cộng đoàn tình yêu? Các bài đọc của Chúa nhật thứ 3 này cho chúng ta một số hướng dẫn trả lời.

Dám xây dựng một cộng đoàn đức tin

Thất bại của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đã để lại dấu vết... Phêrô nghĩ đến việc quay lại công việc cũ của mình. Ông nói với các tông đồ khác: "Tôi đi đánh cá đây. Họ đáp: Chúng tôi cùng đi với anh" (Ga 21, 3). Nhưng không có Chúa Giêsu, việc đánh cá là vô ích! Không có Đức Kitô, cuộc sống con người không hoàn toàn trọn vẹn... Chúa Giêsu chủ động gặp gỡ lại. Phêrô mất thời gian để hiểu hiện diện tích cực của Chúa... Ông cần lời chứng của Gioan: "Chính Chúa đó!" (Ga 21, 7a).

Một cộng đoàn của hy vọng, tình yêu và tương lai

Chúa Giêsu tập hợp Phêrô và sáu môn đệ khác quanh đống lửa, quanh bữa ăn. Chúa Giêsu chủ động. Người sẽ đưa ra chỉ dẫn, chỉ định một người phụ trách nhằm tạo ra một động lực mới và chỉ ra con đường một tương lai mới. Bằng cách mang lưới đầy cá vào thuyền, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy Người vẫn ở bên cạnh họ và một cộng đoàn hy vọng là điều có thể. Cộng đoàn phải dựa trên tình yêu. Từ tình yêu chân thành của người môn đệ đối với thầy mình, mở ra những triển vọng tương lai.

"Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Chúa Giêsu không nghi ngờ tình yêu Phêrô dành cho Người. Không phải ông đã là người đầu tiên nhảy xuống nước để gặp Chúa Giêsu trên bờ sao? Ba câu trả lời của Phêrô đối lập với ba lần chối Chúa chuẩn bị cho trái tim ông đón nhận nhiệm vụ mới làm mục tử. Chúa Giêsu trao cho Phêrô một sứ mệnh quyết định: "Hãy chăn dắt các chiên của Thầy". Từ nay, Phêrô sẽ dẫn dắt con thuyền, với nguy cơ đến tính mạng của mình. Những lời của Đức Kitô đã báo trước những thử thách ông sẽ gặp phải và cái chết tử đạo của ông. Phêrô sẽ chứng tỏ qua cuộc sống rằng ông là một mục tử đích thực của đàn chiên của Đấng Phục Sinh: giống như Người, ông đã hiến mạng sống mình cho họ. Ông đã tôn vinh Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã tôn vinh Cha của Người.

Noi gương Phêrô và các môn đệ khác, chúng ta hãy trở thành những người giương cao lá cờ thông điệp từ Đấng Phục Sinh. Nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần, với những phương tiện chúng ta có, hãy trở thành những chứng nhân trung thành. Hãy làm việc để thổi bùng đức tin, làm sống lại hy vọng, không ngừng xây dựng lại những "cộng đoàn tình yêu" trung thành làm chứng cho sự hiện diện của Đấng Phục Sinh.

Ghislain Katambwa Kabondo

Bài viết khác