LỤC BÁT
CUNG TRẦM TƯỞNG
Nhà thơ. Tên thật Cung Thúc Cần. Sinh năm 1932 tại Hà Nội. Vào Sài Gòn năm 1949. Du học Pháp và Hoa Kỳ. Cựu Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa. Ðã cộng tác với các tạp chí Thế Hệ, Tân Phong, Sáng Tạo, Hiện Ðại, Thế Kỷ 20, Khởi Hành, Nghệ Thuật, Văn, Thời Tập, The American Dialogue, The Journal Of The Asian American, Renaissance Frogtown Times , Menschen Rechte. Chủ trương nhà xuất bản Con Ðuông, in được một số tác phẩm bằng ronéo, phổ biến hạn chế. Hội viên Văn Bút Hải Ngoại (đã tham dự đại hội Văn Bút Quốc Tế tại Prague,Tiệp Khắc, năm 1993. Hội viện liên kết của Văn Bút Pháp.Hội viên danh dự của
Văn Bút Quốc Tế. Dẫn chương trình Văn Học Nghệ Thuật Thế Giới của đài Phát Thanh Quốc Gia VN từ 1959 -1962. Diễn thuyết, đọc thơ tại đại học các nước Ðức, Pháp, Mỹ.Tốt nghiệp Kỹ sư, Phó Tiến Sĩ Khoa Học, Hậu đại Học về Quản Trị An Ninh Quốc Gia. Bị tập trung 'cải tạo' 10 năm. Hiện sống tại Saint Paul, Minnesota, USA.
Tác Phẩm đã xuất bản :
Tình Ca (Cùng Phạm Duy, Nguyễn Cao Uyên), Lục Bát Cung Trầm Tưởng (thơ, Con Ðuông), Thám Hiểm Không Gian (dịch, Dziên Hồng), Bài Ca Níu Quan Tài (thơ), Lời Viết Hai Tay (thơ 1999), Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Ðỉnh Thơ (2003)
Có bài trong các tuyển tập , tác phẩm :
Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại (Trần Tuấn Kiệt, 1962), Văn Học Hiện Ðại (Cao Thế Dung, Quần Chúng, 1969), Thi Ca Tiền Chiến Và Hiện Ðại (Bảo Vân 1978), 20 Năm Văn Học VN Hải Ngoại (Ðại Nam, 1995), Du Tử Lê - Tác Phẩm Tác Giả (1997), Thơ Văn Hải Ngoại Năm 2000 (Văn Mới 2000), Thơ Tình Bốn Phương (Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên, nxb Trẻ1994), Thơ Tình Việt Nam Và Thế Giới (Nguyễn Hùng Trương, Thanh Niên,1998), Ngày Xưa Hoàng Thị (Văn Nghệ, VN 1995)...
(Tác Giả Việt Nam – Lê Bảo Hoàng
Giới Thiệu Lục Bát Cung Trầm Tưởng
Làm thơ Lục Bát là đu bay, là di trên giây. Thành công và thất bại chỉ cách nhau khoảnh khắc phân, ly. Nếu Lục Bát là một dàn phóng đã đẩy một số ít nhà thơ lên ngôi thi hào thì Lục Bát cũng là con ngựa bất kham đã quật ngã nhiều thế hệ thi nhân.
Từ ngày tất cả khuôn vàng thước ngọc bị bẻ gãy trong văn nghệ, người thi sĩ có khuynh hướng, khi bắt được ý thơ, là trao đến cho người đọc ở tình trạng nguyên thủy không dồn ép, không sơn mạ. Mỗi bài thơ là một hình thức trình bày. Một ngàn bài thơ là một ngàn thể thơ khác nhau. Thế mà Lục Bát vẫn giữ vững ngôi vị hoàng tử của các thể thơ. Các bài Lục Bát tuyệt diệu vẫn còn trị vì trong vương quốc thi ca Việt Nam không biết đến bao giờ.
Lục Bát của thi ca là vĩ cầm của âm nhạc: vĩ cầm tập trung trên phím đàn nhỏ bé tất cả hòa âm trong vũ trụ. Lục Bát trong hai câu sáu tám có khả năng diễn đạt tất cả giai sắc của bầu trời, uẩn khúc của hồn người...Lục Bát là một nhan sắc tuyệt trần, ai cũng muốn làm tình, hoặc để mãi mãi sợ hãi vì bất lực, hoặc để suốt đời đam mê. Các thi sĩ của hôm nay, sau khi đã mệt mỏi khai phá những vùng đất mới cho thi ca, lại trở về nghỉ ngơi dưới bóng mát của cây Lục Bát, lại thả cho con diều Lục Bát ngày càng bay cao vào những vùng trời lạ.
Gần như đã thành một thông lệ, các nhà thơ muốn tự hào đã đạt đến một kích thước nào đó, đều phải thử lửa với Lục Bát: Nguyên Sa nghển cổ nhòm vào Lục Bát, Tô Thùy Yên yêu trộm Lục Bát, Hoàng Anh Tuấn chọc ghẹo Lục Bát, Thanh Tâm Tuyền tán tỉnh Lục Bát, Bùi Giáng làm ảo thuật với Lục Bát. Hình như họ phải trải qua môn thi Lục Bát để được xác định là thi nhân Việt Nam. Họ phải đi vào Lục Bát dù phải lột hết che phủ để tài năng xuất hiện trần truồng.
Từ nhiều năm nay, Cung Trầm Tưởng là nhà thơ thích đánh đu với Lục Bát. Qua tập Tình Ca và các sáng tác khác, nhiều người đã cho rằng Lục Bát và hồn thơ Cung Trầm Tưởng là một cuộc hôn nhân thành tựu. Cung Trầm Tưởng đã đưa Lục Bát vào mỹ viện để lột xác. Cung Trầm Tưởng đã khoác cho Lục Bát những chiếc áo mới nhất của thời trang. Cung Trầm Tưởng đã trao tặng Lục Bát những trang sức diễm kỳ nhất của thời đại.
Nhưng ở trong cuộc đuổi bắt đam mê ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng đã không để tuột mất cái hồn muôn thuở của Lục Bát, cái khí phong bàng bạc đã khiến thi ca Việt Nam lồng được hương sắc rực rỡ vào trong bầu trời bát ngát của thi ca ðông Phương. Ý tôi muốn nói ở Lục Bát Cung Trầm Tưởng phảng phất một giao hòa nào đó giữa cái hồn nhiên trong sáng của ca dao dân tộc, cái hào hoa tuyệt vời của thi bá Nguyễn Du, cái trầm mặc não nề của khúc Cung Oán thuở xưa và một “mang mang thiên cổ sầu”
Về ðây
về đây tôi lại gặp tôi
lang thang lối cũ, trước đồi sau nương
ngô đồng lã ngọn thuần lương
trời cao không đỉnh, mến thương không bờ cố tri khóm hạnh bây giờ
vẫn bừng hoa nở đứng chờ lối xưa
vẫn hanh vàng nắng tỏa vừa
hiu hiu tùng rủ bóng chưa hao gầy về đây tôi lại về đây
non lên thắm nhớ, chiều đầy
khoan dung chân vui lối rộn khôn cùng
gần xa trời mở vòng cung
thâu vào chân phương lòng thấy nao nao
với muôn thương mến lên cao hôn trời
Khoác Kín
chiều đông tuyết lũng âm u
bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
nhớ ngày tàu cũng đi luôn
ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
phương xa nhịp sắt bon bon
tầu như dưới tỉnh núi còn vọng âm
sân ga mái giọt âm thầm
máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào
mình tôi với phố non cao
với cồn tuyết lạnh buốt vào xương da với mây xuyên nhợt ánh tà
với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu
tôi về bước bước đăm chiêu
tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm
Nghìn Xưa
hôm nay trời quá đìu hiu
ngày đi sớm để tiêu điều quán không
vang núi dội sông chiêng khua rừng rú vọng buồn lính thú trong hồn mênh mông
hồn se như sóng đầu sông
cuối heo may lạnh mùa đông xám về vội vàng thổi ấm đam mê
đốt lên cho bớt não nề nghìn xưa
Chiều
ngày lăn bóng quá lưng đèo
cây hoen lá thắm, xóm nghèo quán không còn trơ biếc núi ngồi trông
sương giăng xóm ngủ, mù buông lũng chiều thuyền nằm bến cũng xiêu xiêu
con sông tới giấc mắc triều lên nhanh hồn tôi cái dĩa thâu thanh
tròn nguyên nét nhạc, trung thành ý ca đồ rê mi pha xon la...
ngẫm từng âm điệu nghe ra chiều buồn
Tĩnh Vật
ngủ trong hồn, ngủ ngoài mưa
cái khuya im vắng bốc vừa đôi tay
ngủ phương lan, ngủ hiên dài
vóc sương lưng gió đã cài hoang liêu ngủ chim sâu, ngủ nắng chiều
hình con én mộng bóc nhiều phiêu du ngủ rêu bồn, ngủ mùa thu
hồn đôi cánh hạc bay từ không trung
Ngoại Ô
về nơi che phủ mái đầu
một vùng trời nặng, lá nhầu nhợt mưa
lối ren cỏ búi lưng lừa
mùa đi bỏ lại gốc dừa cội măng
tháng dư. buốt xẻ đôi đằng
nửa chì mưa đục, nửa băng đá cồn
chiều về lại lẻ lũy đồn
mình trơn đứng tuột, nóc hồn nằm ươn
Nghĩa ðịa
ngồi trông lống bống mưa rơi
cây me mục nát nói lời cổ sơ
bãi nhăn nhàu vết lăn xưa
một xe thổ mộ nằm trơ mộ gầy
ngồi trông úp xuống trần mây
cỏ xanh bia mộ đã đầy ngút quên
chiều nhòa về xứ không tên
thời gian hoá đá chồng lên tuổi đời
ngồi trông vút bóng chim dơi
rối ghê lạnh cả đất trời thâm sâu
suơng khắp sô lấp phủ đầu
che hồn ẩm mốc nỗi sầu âm dương
Mưa Tháng Tám
anh ôm em ủ mình dây
gió mưa ẩm đục xô đầy trong tim
tóc sương rêu phủ môi chìm
anh nghe mưa gió vỗ mềm vai em
thôi thôi cái ngủ buông rèm
hồn em tháng tám đã thèm xa xôi
mắt then khuya kín cửa rồi
anh đi, gió núi mưa đồi chôn em
Kỷ Niệm
trở về kỷ niệm xanh rêu
hồn tôi du mục cắm lều đêm nay
rượu về khói thuốc nồng say
đèn lung linh ánh buồn lay lắt buồn
ngó sông lại tưởng nhớ nguồn
niềm hoang vu đã về luồn kế
đêm thơ khuya khát nẻo êm đềm
căng thao thức ý căng thêm tiếng lời
ơ thờ lạnh thấu muôn nơi
nằm nghiêng ván mỏng, ngóng trời,
trời câm ngóng nghe đời cũng lặng thầm
riêng thời gian vẫn còn thâm buốt hoài
nỗi mình khó chẻ làm hai
đêm không nhắm mắt thấy dài cô đơn
Thân Phận
sống là một thứ đi buôn
mang thân bán vốn, còn hồn cho thuê mỗi ngày một giấc ngủ mê
sớm đi ảo mộng, tối về cưu mang bát cơm miếng cháy khê vàng
miệng chua khó nuốt, địa đàng khó lên trăm năm trăm thứ tủi phiền
vấn vương rồi cũng vô duyên một đời
đêm nằm nghĩ biển thèm khơi
nghe mây hồn dạt nước trời mênh mông
ðêm Sinh Nhật
mưa đêm rơi lạnh Sài Gòn
mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi ?
mưa hay trời cũng thế thôi
đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang
hồn tu kín xứ đa mang
chóng hao thân thể, sớm vàng lượng xuân
niềm tin năm tháng vơi lần
lửa thương yêu cũng nguội dần hương xưa
đêm nay trời khóc trời mưa
gió lùa ẩm đục, trời đưa thu về
trời hay thu khóc ủ ê ?
cổ cao áo kín đi về buồn tôi
Tuổi Thượng ðài
xuân này tuổi sắp ba mươi
mình cao vóc hạc, môi cười phong sương
ít hân hoan, lắm chán chường
từ tôi phá đổ thiên đường tuổi thơ
đầu trơn chưa cất điện thờ
suy tư còn lắm chần chờ viển vông
từ lâu quên thắp pháo bông
tuổi ba mươi phiến đá chồng lên vai
nửa văn chương, nửa cuộc đời
một tâm hồn loạn hai người đọ găng
đòn say còn lắn hung hăng
kiểng khua rứt cuộc, thấy nằm trọng thương
Nấm Xanh
sáng nay trời đẹp nguyên trinh
mùa xuân thơm ngát, ái tình lên ngôi
rộn ràng tỉnh giấc thôi nôi
tội nhân tiền sử nằm phơi trần truồng
núi rừng chào hỏi chim muông
cây xanh lá mới phật phồng gió vui
nụ hồng ngợp nắng lên môi
tôi nghiêng tim rỏ ngọt bùi tiếng ru
đất trời mở cuộc giao du
đời sau địa chấn nở dù nấm xanh
Biển
sớm nay giàu thịnh là tôi
thiên nhiên riêng bãi cát ngồi làm thơ
ý vui lòng để then hờ
nghe xa xa vỗ sóng bờ pha lê
sóng dâng còn ngán môi kề
đêm hôm bãi nhớ, sớm về viễn khơi
sớm đi khơi rộng ý đời
thêm mênh mông nước cho trời để chân
trời hiền khép một vòng thân
trông cao xa ấy mà gần tâm tư
Kiếp Sau
bù em một tháng trời gần
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
bù em xuôi ngát vần thơ
vẫn nguyên trắc trở lúc giờ xa nhau
bù em một tháng trời mau
và ngôi sao cuối khuất sau địa cầu
thôi em xanh mắt bồ câu
ngực thon mình nhỏ xin hầu kiếp sau
Công Chúa
hoa xuân nồng, trái xuân ngon
mùa xuân công chúa hương còn ở đây
em đi chiều biếc chân mây
sao hôm năm cánh rơi đầy mắt nâu
da thơm, xác thịt chưa sầu
em mang xiêm áo nàng hầu của vua
hân hoan trời đất nô đùa
đường ân ái cũng thêu thùa lá đưa
anh ngồi nghĩ nắng rồi mưa
vẽ thêm tâm tưởng cho vừa ý em
Bãi Ru
học em được tính lo xa
tình yêu tươm tất, bình hoa bày bàn
lỡ mai mây có rã tan
còn đây thân thể rung đàn em nghe
bằng không gió núi mưa khe
đêm đêm gãy cánh bông xòe ru em
Viễn Du
chiều về ngồi đỉnh non cao
lao xao từ lá rạt rào đến tim
biếc xanh mầu xứ của chim
trời trăm phương lộng đi tìm viễn du
đi cho mộng thoát lao tù
rũ bung thân xác cho bù đớn đau
chiều về cười lả lơi lau
hồn lâng lâng nhẹ ý phau bạt ngàn
bụi vàng vùi lấp dương gian
dưới xa nghe đổ lầu tàn hoàng hôn
Mục lục: 1.về đây/ 2.khoác kín/ 3.nghìn xưa/ 4.chiều/ 5.tĩnh vật/ 6.ngoại ô/ 7.nghĩa địa/
8. mưa tháng tám/ 9.kỷ niệm/ 10.thân phận/ 11.đêm sinh nhật/ 12.tuổi thượng đài/ 13.nấm xanh/ 14.biển/ 15.kiếp sau/ 16. công chúa/ 17.bài ru/ 18.viễn du
Giới thiệu Tác Giả
Tên thật: Cung Thúc Cần ngày sinh: 28-02-1932
nơi sinh: Hà Nội
tác phẩm đã xuất bản: Tình Ca (1958)
tác phẩm dự trù xuất bản: Thơ Cung Trầm Tưởng
sở thích: mầu rượu chát, mặc áo quần bà ba, đi guốc mộc, hút thuốc bastos, uống bia, không thích ăn rùa rắn, la cà quán cà phê. Ưa chuộng bơi lội, yêu mùa thu và bãi biển, mến vẻ đẹp tự nhiên, đặc biệt là mình dây nước da bánh mật.
địa chỉ: số 4 đường Tản Viên, cư xá sĩ quan Không quân, Tân Sơn Nhất, Sài Gòn - hộp thư B3
Ngỏ
Trong hoàn cảnh khó khăn chung, cơ sở CON ðUÔNG đang cố gắng vượt mọi trở ngại để chuyển đến tay những người yêu văn nghệ các sáng tác đắc ý nhất của các văn nghệ sĩ tên tuổi cùng giới thiệu những tài năng mới không phân biệt bộ môn, phe nhóm, tuổi tác. CON ðUÔNG đã có những khuyết điểm xin quí vị và các bạn lượng thứ.
Mọi ý kiến xây dựng và chỉ trích đều được nhóm chủ trương vui vẻ đón nhận. Thư về: Con ðuông , 11 Pasteur Cần Thơ
Con ðuông
xin chân thành càm tạ:
Anh Trần Nhựt Chấn, anh Phan Lương Năng, anh Viên Linh, anh Chu Tấn đã giúp đỡ trong những bước đầu
ghi chú; đánh máy theo bản chụp lại, từ một trong một trong một trăm tập Lục Bát Cung Trầm Tưởng, sở hữu của nhà thơ Thành Tôn gởi tặng, nhận ngày 19 tháng 7 năm 2007.
Trích trang http://luanhoan.net/