Chương I : Sử và huyền sử trong truyện Họ Hồng Bàng
Toàn bộ truyện Họ Hồng Bàng được chép thành văn trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái. Về tác giả và niên kỷ của cuốn sách nầy, các nhà nghiên cứu văn học đưa ra một số giả thuyết khác nhau. Một số chủ trương rằng đây là công trình của Kiều Phú và Vũ Quỳnh vào đời Hậu Lê, thế kỷ thứ 15; một số khác lại quan niệm đó là sáng tác của Trần Thế Pháp vào thời kỳ cuối của nhà Trần khoảng từ năm 1370 đến 1400.
Căn cứ vào lời tựa của Vũ Quỳnh khi hiệu chính và sắp đặt lại cuốn sách nầy vào năm 1492, thì dường như các mẩu truyện đã được phổ biến từ thuở xa xưa trong dân gian: "Lĩnh Nam có nhiều kỳ trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người..."
Nhưng việc khởi đầu thành truyện trong dân gian và được truyền tụng đến mức độ nào và từ bao nhiêu đời trước đó thì không một dấu vết nào trong văn học giúp ta có được một chỉ dẫn rõ rệt. Dựa vào mấy câu nói cô đọng trong phần đầu của Bình Ngô Đại Cáo (1428) của Nguyễn Trãi:
"Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang"
Nhiều tác giả căn cứ vào đó để đánh giá tính cách lâu đời của câu truyện Hồng Bàng, và từ yếu tố nầy người ta hiểu ngầm rằng câu chuyện có giá trị văn hiến! Nhưng, tiếp liền theo sau câu nói, Nguyễn Trãi nêu lên: "Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc."
Tại sao Nguyễn Trãi lại không nhắc đến thời vua Hùng ở đây ? Phải chăng câu chuyện về đời Hùng và đặc biệt là những tên tuổi như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những mẩu truyện mới được sáng tác ra từ đời nhà Lê (rất lâu sau khi có Bình Ngô Đại Cáo) như nhận xét có vẻ mai mỉa của học giả Mạc Bảo Thần Nhượng Tống: "Trong Khâm Định Việt Sử, người ta đã hạ hai cụ Kinh Dương và Lạc Long xuống! Còn tôi, tôi muốn cả vua Hùng, vua Thục trở về những am cỏ, lều tranh thuở trước... Thế nhưng ta lại nên nhớ ông Liên (Ngô Sĩ Liên) là sứ thần đời Lê... và ở các nhà nho xưa, lòng trung ái cơ hồ như thiên tính... Huống chi vua của ông lại là Thánh Tông, một kẻ rất sùng nho, trọng đạo. Với vua ấy, ông có thể yêu tha thiết... Như trong lời tựa, ông đã muốn báo bổ nhà vua bằng việc viết sử. Báo bổ cách nào ? Ấy là cách nhận ngầm dân Mường là chính giống Việt Nam... Sao thế? Bởi vì Lê Lợi, Thái tổ nhà Lê, chính là một người Mường... Ấy là duyên cớ nhà viết sử của chúng ta đặt họ Hồng Bàng lên đầu Ngoại Kỷ"
Nhận xét nầy trực tiếp phê bác về tính cách mơ hồ xét về sự kiện khách quan của lịch sử, khi sử gia Ngô Sĩ Liên có sáng kiến đưa những câu truyện huyền thoại vào sử; nhưng Nhượng Tống còn gián tiếp cho rằng câu truyện ấy (Hồng Bàng Thị) là một sáng tác mới được hình thành kết hợp các tư tưởng của nhà nho và một số các truyện tích của người dân Mường.
Thực ra, nếu truy tìm lại cổ thư, chúng ta thấy nhận xét trên của Nhượng Tống không mấy chính xác. Trong cuốn Đại Việt Sử Lược (khuyết danh), thường được các nhà nghiên cứu cho rằng đã hoàn thành vào đời Trần (khoảng 1377 - 1388), tên Hùng Vương đã được nêu lên ở đầu sách: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 - 682 trước Công Nguyên - ND) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính trị dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương".
Như thế cho đến nay qua các công trình nghiên cứu, chúng ta chỉ biết rằng câu truyện Họ Hồng Bàng có lẽ chỉ được sáng tác thành văn sớm nhất vào cuối đời Trần (cuối thế kỷ 14) dựa vào một số các mẩu chuyện đã được truyền miệng trong dân gian.
Nhưng điều đáng ghi nhớ là sự kiện sử gia Ngô Sĩ Liên đã đưa toàn bộ truyện Hồng Bàng Thị vào phần đầu cuốn Ngoại Kỷ của bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Lời tựa của cuốn Ngoại Kỷ nầy được viết vào niên hiệu Hồng Đức năm thứ mười (1479), trong lúc lời tựa Liệt Truyện Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính lại ghi vào năm niên hiệu Hồng Đức thứ hai mươi ba (1492), nghĩa là mười ba năm sau. Như thế, Ngô Sĩ Liên có lẽ không dựa vào cuốn Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh hiệu chính để làm tài liệu kê cứu được, nhưng đã dựa vào một bản nào đó có trước. Và nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học và sử học đời sau thường cho rằng Ngô Sĩ Liên dựa vào tài liệu của Vũ Quỳnh để biên soạn phần Ngoại Kỷ của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) có lẽ thiếu chính xác. Thế thì câu nói sau đây của Ngô Sĩ Liên nêu đích danh Vũ Quỳnh trong Phàm Lệ về việc sửa soạn ĐVSKTT phải được hiểu như thế nào ? "Nay theo sách của Vũ Quỳnh trước thuật : Bản kỷ chép bắt đầu từ Đinh Tiên Hoàng, để tỏ ra rằng nhà vua đã thống nhất được cả nước".
Sách của Vũ Quỳnh nói ở đây hẳn là cuốn "Đại Việt Thông Giám Thông Khảo" (ĐVTGTK). Ngoài việc xếp Bản kỷ khởi từ Đinh Tiên Hoàng (968), chứ không phải từ đời Ngô Quyền (939), có thể hiểu ngầm thêm là sách đó có nói đến Hồng Bàng Thị trong phần ngoại kỷ. Nhưng một khó khăn khác lại đặt ra: Bộ sử nầy của Vũ Quỳnh lại được soạn năm 1510 theo lệnh của vua Lê Tương Dực .
Như thế, vào năm 1479, khi Vũ Quỳnh vừa đúng 27 tuổi, sau khi đậu tiến sĩ mới được một năm (1478), đã có một cuốn sách nào đó của ông (không phải cuốn LNCQ do ông hiệu chính, cũng không phải cuốn ĐVTGTK) đã được phổ biến, mà nay không còn dấu vết; hoặc giả Vũ Quỳnh đã viết ra một trong hai cuốn nầy và chỉ phổ biến hạn chế trong giới quan trường.
Nếu sự kiện về ảnh hưởng giữa Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh hiệu chính và ĐVSKTT về họ Hồng Bàng còn có nhiều nghi vấn, thì hầu như các nội dung chính của câu truyện đều đã được ghi lại ở trong hai tác phẩm.
Và một số điểm đáng lưu ý hơn nữa liên quan đến truyện họ Hồng Bàng là : Từ khi Ngô Sĩ Liên đưa câu truyện nầy vào phần Ngoại Kỷ của bộ sử ĐVSKTT, trên bình diện văn học thành văn, mãi cho đến giữa thế kỷ 20, những người cầm bút thường chỉ lưu ý đến vấn đề yếu tố lịch sử củaẠ nội dung câu truyện. Ngay cả trong cuốn Việt Nam Văn Hoá Sử Cương của Đào Duy Anh, sau phần tóm lược câu truyện một vài dòng, tác giả chỉ ghi : "Chuyện ấy tuy là hoang đường, song tất cũng có ý nghĩa... Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông Bác Cổ, mà xét xem gốc tích của dân tộc ta là thế nào" .
Ta thấy rõ ý nghĩa văn hoá được hàm ngụ ở đây dường như cũng là việc truy tìm dấu vết lịch sử mà thôi. Dựa vào các tài liệu của các bộ môn khoa sử học, dân tộc học, khảo cổ v.v. giới cầm bút mải lo truy tìm những dấu vết lịch sử của họ Hồng Bàng, và đưa ra những kết luận tích cực hay tiêu cực khác nhau; có lúc bất đắc dĩ vì tôn trọng sử cũ mà phải nêu lên, nhưng là để cho rằng nó không có căn cứ : "Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác thực" .
Hoặc đề nghị vất bỏ luôn cho xong : "Trong Khâm Định Việt Sử, người ta đã hạ hai cụ Kinh Dương và Lạc Long xuống! Còn tôi, tôi muốn mời cả vua Hùng, vua Thục trở về những am cỏ, lều tranh thủa trước. Vì tôi chẳng có một chút lòng tin tưởng gì về các ngài hết!"
Cũng trong mối bận tâm chứng minh về sự xác thực lịch sử của nội dung câu truyện, một số tác giả lại có một quan điểm trái ngược : "Truyện họ Hồng Bàng gồm nhiều sự tích xâu chuỗi với nhau, giống như kết cấu chung của sử thi thần thoại của nhiều dân tộc trên thế giới. Đây là một trong những thần thoại cổ nhất của dân tộc ta: Nội dung của nó phản ánh trang sử đầu tiên của người Lạc Việt" hoặc "bằng những phương pháp, khoa học hiện đại, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh: Thời đại Hùng Vương dựng nước là một hiện thực lịch sử ".
Việc sử dụng huyền thoại để gạn lọc truy tìm dấu tích lịch sử là một trong những phương thế hữu ích của bộ môn sử học, như giáo sư Lê Hữu Mục nhận xét trong lời Dẫn Nhập bản dịch Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính : "Ta không dám nói đó chỉ là những chuyện hoang đường, bởi vì truyện dù hoang đường đến đâu cũng chứa đựng một phần sự thực và truyện thực đến đâu cũng pha trộn đôi chút hoang đường".
Nhưng trước hết đây là một câu truyện huyền thoại; và tính cách tượng trưng của một câu truyện huyền thoại thuộc ngôn ngữ thi ca lại được sáng tác, được tiếp nhận ở một chiều kích khác, không nằm trong mục đích ghi lại một sự kiện lịch sử khách quan.
Trước những công trình nghiên cứu sử học của Trường Viễn Đông Bác Cổ và của các nhà làm văn hoá Việt Nam tự đóng khung trong phương pháp khoa học lịch sử, học giả Lê Văn Siêu nhận xét rằng : "...một phần quan trọng nhất, lý thú nhất của một nền văn minh - cái phần hồn để cho nền văn minh ấy có sự sống - đã bị khoa học bỏ qua, để chỉ lưu ý tới phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn. Phần hồn nầy, người bình dân thương gọi là "hồn dân tộc". Vũ Quỳnh và người dân Việt Nam đã cảm nhận như thế, khi một bên thì nêu lên rằng nó đã rõ ràng ở lòng người...làm giềng mối, cương thường cho cuộc sống; còn dân chúng thì đón nhận và lưu giữ trong ký ức như một gia sản văn hoá của tổ tiên. Ta tự hỏi xem sách Sáng Thế của Do Thái giáo có phải chỉ là một bộ sách khoa học về lịch sử và chỉ có giá trị dựa vào các sự kiện lịch sử của môn học nầy hay không ? Làm sao ghi chép cho trung thực được một sự kiện từ thuở hồng hoang chưa có con người xuất hiện! Và những mẩu chuyện trong Iliade và Odyssée của Homère nên xếp vào phần nào trong bộ sử của Hy Lạp đây !
Với cái nhìn vượt lên tiền kiến hạn hẹp của khoa học lịch sử, sử gia Arnold Toynbee trong cuốn Study of History đã viết về giá trị tượng trưng trong huyền thoại như sau : "Một ký hiệu (symbole) không đồng nhất với đối vật mà nó tượng trưng và không trùng hợp với nó. Nếu không phải thế, thì đây không phải là một tượng trưng của một sự vật mà là chính sự vật. Ta sẽ vấp phải sai lầm khi cho rằng một tượng trưng nhằm mô phỏng lại sự vật, trong lúc nó có mục đích không phải là sao y lại nhưng là soi dẫn. Truy tìm hiệu năng của một tượng trưng xem nó tồn tại hay phôi pha đi, không phải ở việc xem nó có sao y lại được đối vật nó hướng đến hay không. Hiệu năng của nó cần được xét xem ở việc nó có đủ sức soi dọi đối vật hay nó che mờ sự hiểu biết của ta. Tượng trưng hữu hiệu soi dẫn chúng ta, và những tượng trưng hữu hiệu là một phần thiết yếu của nhận thức chúng ta. Nếu một tượng trưng phải tác động hữu hiệu như một phương tiện của sinh hoạt nhận thức - nghĩa là như một "mẫu mực" - thì nó phải cô đọng và đi sâu vào một điểm, ví như một đồ hình dẫn đường, chứ không phải như một tấm không ảnh chụp từ phi cơ U.2"
Câu truyện họ Hồng Bàng nằm trong khuôn khổ văn chương tượng trưng nầy. Arnold Toynbee nhận định rằng tượng trưng của huyền thoại là mẫu mực soi dẫn đời sống, chứ không phải là mô phỏng lại thực tại lịch sử. Còn Vũ Quỳnh thì gọi đó là ánh sáng ghi trong lòng người để trong cuộc sống "thời việc có hệ ở cương thường, quan ở phong tục".
Như thế, có thể nói truyện Hồng Bàng là một phương cách biểu lộ của một ký ức linh động (các nhà nghiên cứu văn học gọi là Đại ký ức) của một cộng đồng, hoặc nói cách khác là một lối cảm nhận các yếu tố nền tảng, bất biến, gắn liền với bản tính con người, xây dựng nên cuộc sống cộng đồng, điều hành sinh hoạt xã hội và là mẫu mực đánh giá, phê phán hành vi con người và lịch sử của nó.
Đây là một bản hiến chương được diễn tả theo ngôn ngữ thi ca; mà ngôn ngữ thông dụng gọi là Văn hiến. Hiến cái mẫu mực, Văn là nét sáng đẹp xứng hợp với bản chất con người được thể hiện ra trong lịch sử, trong sinh hoạt. Về tương quan giữa văn hoá, văn hiến và huyền thoại, triết gia Georges Gusdorf gợi ý như sau : "Một môi trường thiên nhiên muốn trở thành một cõi người ta (un séjour), thì dữ kiện hoang tạp của cảnh trí trước mắt phải được thay thế bằng một hình ảnh của thế giới "người", nghĩa là cần một sự xếp đặt thành tư tưởng. Một qui thức (mẫu mực) của kinh nghiệm sống đã được kết tạo, cho thấy một số yếu tố tinh thần ổn định trước bao khía cạnh và biến cố đa tạp của đời sống. Từ cuộc sống có mẫu mực nầy, những nhóm người đầu tiên đã có thể thành công trong nỗ lực đấu tranh sống còn. Các triết gia và những người hiểu biết, qua từng ngàn năm thanh lọc, đã dùng ngôn ngữ sắp xếp, sửa chữa để diễn tả cuộc sống đó một cách trừu tượng" .
Văn hiến là tổng hợp những yếu tố bền vững thuộc lãnh vực tinh thần, nghĩa là gắn liền với yếu tính của con người, được một cộng đồng con người cảm nhận tin tưởng để hướng dẫn, sắp xếp cuộc sống. Những yếu tố bền vững nầy thấm nhập vào sinh hoạt đa diện của con người như cách ăn mặc, nhà ở, tập tục, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, cách sắp xếp điều hành cuộc sống gia đình và xã hội...Nhưng, văn hoá không nằm trong "cái xác", hay nói cách khác là đóng khung vào một sự kiện nào, hay một hiện tượng xã hội nào nhất định. Văn hiến, nói theo từ ngữ của Lê Văn Siêu là "phần hồn", tức là các yếu tố tinh thần bền vững, tạo sự nhất quán của toàn bộ nếp sống con người và xã hội.
Học giả Đào Duy Anh đã có lý khi phê bác quan điểm thông thường "cho rằng văn hoá là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người", và ông lại hiểu học thuật tư tưởng là các sách vở thánh hiền hay các triết thuyết được viết ra thành văn tự. Nói cách khác tác giả cuốn Việt Nam Văn Hoá Sử Cương đã giúp độc giả ý thức được sự khác biệt giữa nội dung của văn hoá và một trong những phương thức diễn đạt, mô phỏng nội dung nầy. Nhưng tiếp theo đó Đào Duy Anh lại định nghĩa : "Văn hoá tức là sinh hoạt" , và sinh hoạt ở đây được hiểu là sinh hoạt kinh tế mà thôi : "Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lý khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau vậy".
Nếu nói rằng văn hoá là sự thực hiện các yếu tố tinh thần bền vững của văn hiến (hướng dẫn sinh hoạt con người), và nếu cho rằng con người văn hoá phải dựa trên sinh hoạt kinh tế, thì hẳn phải xác tín rằng văn hiến là lao động sản xuất và hưởng dụng của cải vật chất ! Một quan niệm về văn hiến như thế đã đi quá xa với tâm thức con người Việt Nam truyền thống vốn trọng tình, trọng nghĩa; và dù cưỡng ép đến đâu cũng khó lòng tìm thấy dấu vết văn hoá nào theo tiêu chuẩn nầy trong gia sản tinh thần của tổ tiên chúng ta qua câu truyện huyền thoại dựng nước : truyện Họ Hồng Bàng.
Nếu cảm thức của dân gian gắn chặt văn hiến và huyền thoại dựng nước trong câu chuyện Hồng Bàng, thì hẳn đây không phải là có sự đồng hoá cái gốc, cái nền, cái mẫu mực căn nguyên của cuộc sống với thực trạng lịch sử vào một thời kỳ ấu trĩ, hoang sơ của cộng đồng con người. Nhưng Ngô Sĩ Liên lại nhập nhằng trong việc đưa huyền thoại dựng nước vào thuở ban đầu của lịch sử: nhập nhằng vì còn ghi rằng đó là phần ngoại kỷ. Đây là phản ảnh của tình trạng tranh tối tranh sáng giữa hai quan niệm về sử. Nhìn từ quan niệm xem sử như là một bộ môn khoa học, ghi chép lại các sự kiện xảy ra của một xã hội, dựa trên hiểu biết khách quan về sự vật, Nhượng Tống nặng lời cho rằng việc làm nầy của Ngô Sĩ Liên chỉ góp nhặt một số nhận thức băm nhau.
"Xem các phàm lệ trên nầy ta thấy các nhà viết sử đầy những chủ quan. Cái đó gây ra tự Kinh Xuân Thu của thầy Khổng; Thầy đã muốn "ngụ ý khen chê, phân biệt hay dở" trong khi viết bộ sách băm nhau đó ! Các tín đồ của thầy về sau, các nhà chép sử theo lối biên niên đều là theo một sáo ấy cả. Ta đọc xem, cũng cho biết quan niệm lịch sử của các nhà nho" .
Nhưng nhìn từ sự nhất quán của tư tưởng nho học, mà ưu tư chính là đưa sinh hoạt con người đi đúng Đạo Nghĩa được ghi khắc bền vững trong Tâm mình, thì sử gia Ngô Sĩ Liên dường như lại bất cập. Ở phần "lời bàn" về Họ Hồng Bàng, sử gia nầy dùng uy thế của thần thoại nước Tàu để biện minh về "cái thực lịch sử" của phần Ngoại Kỷ được đưa vào bộ ĐVSKTT.
"Nhưng mà các bậc thánh hiền sinh ra, tất khác với người thường... Ấy là bởi trời xui khiến... Nuốt trứng chim én mà sinh ra tổ nhà Thương... Dẫm vết chân người khổng lồ mà gây nên tổ nhà Chu... Ấy đều là chép chuyện có thực thế!"
Không những sử gia chúng ta không lý đến giá trị văn hoá đặc loại của huyền thoại, mà ý hướng viết sử của ông cũng chỉ ưu tiên tìm cái thực khách quan của lịch sử, chứ không phải để làm nổi bật cái thực của Đạo lý làm người. Mạnh Tử khi nêu lên lập luận "Nhân chi sơ tính bản thiện", thì chữ ‘sơ’ nầy không phải là thời gian lịch sử hoang sơ như J.J.Rousseau chủ trương. "Sơ" là căn nguyên văn hoá, đạo lý, ở chiều kích của "Tâm Duy Vi", cái gốc bền vững mà lịch sử che mờ. Và "Tâm Duy Vi" nầy cũng khác với "tâm duy nguy" mà Nhượng Tống dựa vào đó để đánh giá toàn bộ Xuân Thu là một lối khen chê chủ quan.
Nói tóm lại, có một quan niệm văn hiến chủ trương duy sử để hiểu và khai thác câu truyện Hồng Bàng manh nha từ việc Ngô Sĩ Liên đưa nó vào bộ sử ĐVSKTT, và một quan niệm văn hiến khác trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái đặc biệt được viết ra trong lời tựa của Vũ Quỳnh.
Và cũng có sự khác biệt về điều mà Lê Văn Siêu gọi là "hồn của một nền văn minh", một cảm thức có tính cách thi ca trong quảng đại quần chúng về giá trị "siêu lịch sử", sinh động và mới mẻ nơi câu truyện Hồng Bàng, so với các yếu tố khách quan về một thời sơ khai lập quốc của lịch sử mà Ngô Sĩ Liên và các sử gia, các chuyên gia của các bộ môn khoa học nhân văn sau nầy muốn truy cứu.
Tương quan giữa huyền thoại (đặc biệt là huyền thoại dựng nước), và văn hiến (tức là mẫu mực tinh thần điều hành cuộc sống cộng đồng), thường được cảm nhận là gắn bó với nhau, vì huyền thoại không phải là lối diễn tả thế giới vật thể, các sự kiện lịch sử xảy ra trước mắt, trong không gian thời gian nhất định, nhưng nó là một ký hiệu tượng trưng có tính cách thi ca, nâng con người lên một thực tại tinh thần, mở ra những chiều kích riêng của thế giới của "hữu thể linh ư vạn vật".
Georges Gusdorf nói đến thế giới được huyền thoại khai mở ra như sau: "Huyền thoại chỉ một cảnh giới sinh hoạt có đặc điểm là các cấu trúc của nó luôn luôn vẫn hiệu lực, không phải trên bình diện lịch sử, (nếu có thể nói như thế), nhưng trong khuôn khổ hữu thể học. Do đó nói rằng các huyền thoại lưu giữ ký ức về các sự kiện xa xưa có thể phôi phai theo thời gian thì chưa đủ. Định vị huyền thoại trong thời gian là tách rời huyền thoại với tương quan của nó trong cuộc sống con người. Hubert và Mauss đã nhận định rất chí lý : "Dường như các sự việc trong các thần thoại xảy ra bên ngoài thời gian, hoặc, nói cách khác, là trong khung cảnh toàn diện của thời gian". Đây phải là một thời gian siêu thời gian, có uy lực đối với toàn chuỗi thời gian lịch sử. Đây là thời gian của sự hiện diện toàn bích".
Như thế điểm chính để hiểu ý thức huyền thoại có thể được nêu lên thế nầy: huyền thoại là một cấu trúc có giá trị tư tưởng (hữu thể học) nhằm bảo tồn một thực tại. Những gì thiết yếu đã có đó rồi. Không phải là công trình sáng tác; chỉ cần tiếp nhận và phải tiếp nhận để sống. Huyền thoại cống hiến một chỉ dẫn có tính cách bó buộc (chiffre obligatoire) để điều hành cuộc sống. Van der Leeuw ghi rằng : "Một huyền thoại là một sự kiện phải được lặp lại". Còn M. Mircea Eliade lại đặc biệt nhấn mạnh đến điểm nầy và nêu lên nguyên lý của tư tưởng siêu hình học sơ khai như sau : "Một vật hoặc một hành vi chỉ được xem là thực khi nó bắt chước hoặc lặp lại một nguyên tượng (archétype). Nên thực tại chỉ xuất hiện khi có sự lặp lại hoặc tham dự vào nguyên tượng; những gì không có một mẫu mực nền tảng thì "không có ý nghĩa, nghĩa là thiếu chân thực".
Lượm lặt những mảnh vụn lịch sử vào thời khai sinh của một cộng đồng, hay tổng hợp của nhiều nhóm người thành một cộng đồng, để kết dệt thành một câu truyện tượng trưng gợi lên niềm tin tưởng của mình vào những giá trị, những yếu tố nền tảng hướng dẫn cuộc sống trong bất cứ hoàn cảnh, thời đại nào, đó là bản chất và vai trò của huyền sử.
Trở về nguồn, tìm lại lý lịch của dân tộc, bảo tồn văn hiến, không phải chỉ là nỗ lực nghiên cứu những sự kiện xác thực thuộc về một lịch sử đã qua (và công việc đó đã được thực hiện qua nhiều thế kỷ, đặc biệt từ một thế kỷ nay), nhưng trước hết và quan trọng hơn hết là truy tìm kho tàng ẩn kín (huyền = đen = ẩn kín), những yếu tố siêu thời gian ghi khắc trong Đại ký ức đã làm giềng mối cho cuộc sống dân tộc qua bao thế hệ, và vẫn đang linh hoạt nơi tâm thức của cộng đồng người Việt hôm nay.
Tài liệu nghiên cứu
Tựa liệt-truyện Lĩnh-Nam Chích-Quái * do Vũ-Quỳnh hiệu-đính
Quế-Dương tuy ở Lĩnh-ngoại, nhưng núi-sông kỳ, đất-đai linh, những người hào-kiệt thường thường vẫn có. Từ đời Xuân-Thu, Chiến-quốc đến nay, nước dựng chưa lâu lắm, tục nước Nam đang còn giản-lược, chưa có sử-sách để chép việc thực cho nên việc cũ bị di-vong rất nhiều, may chỉ nhờ nhân-gian khẩu-truyền mà còn lại không mất.
Kịp đến đời Tây-Hán, Tam-Quốc, Đông-Tây-Tấn, Nam-Bắc-Triều, rồi Đường, Tống, Nguyên mới có sử truyện để chép công việc, như mấy bản Lĩnh-Nam-Chí, Giao-Quảng Chí-Lược, rõ ràng có thể khảo được.
Nhưng, nước Việt ta từ xưa là đất yêu-hoang, sự biên-tập còn phần khuyết-lược. Nước Việt ta lập-quốc bắt đầu từ Hùng-Vương, mà văn-minh tiệm-tiến thì tràn-lan từ đời Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến bây giờ cho nên quốc-sử biên tập có phần tường-tận hơn, thời bản liệt-truyện nầy làm ra, không biết làm từ đời nào và người nào làm, ngờ rằng các bậc hồng-sinh thạc-nho đời Lý, Trần thảo-sáng ra, rồi các bậc quân-tử hiếu-cổ bác-nhã ngày nay nhuận-sắc lại.
Ngu-đinh nầy xin xét lại đầu đuôi, cứ từ chuyện mà trình bày để suy-minh thêm ý của tác-giả, như truyện Họ Hồng-Bàng nói rõ lý-do khai-sáng ra nước Hoàng-Việt, truyện Dạ-Xoa Vương bày tỏ triệu-chứng tiệm-tiến của nước Chiêm-Thành; Bạch-Trĩ có chuyện chép đời Việt-Thường; Kim-Qui có truyện chép đời An-Dương; tục sính-lễ của người Nam không gì quí bằng trầu-cau, nêu cho rõ ra, thời nghĩa vợ chồng, tình anh em càng thêm rõ-rệt. Đến mùa hạ không gì quí bằng dưa hấu, cậy có vật của mình không cần đến ân chúa, như thế là rõ-ràng. Truyện bánh chưng là để khen sự hiếu dưỡng, hạnh-kiểm Ô-Lôi là để răn sự tà-dâm. Đổng-Thiên-Vương phá giặc Ân; Lý-Ông-Trọng uy-hiếp hung-nô là biết nước Nam có người tài đáng kể. Chử-Đồng-Tử gặp-gỡ nàng Mị Nương, Thôi-Vỹ gặp-gỡ bạn tiên thì là chuyện người làm lành được có âm-chất nên xem cậy. Đạo-Hạnh, Không-Lộ, mấy truyện ấy là tưởng-lệ sự trả thù cha, bọn thuyền-sư cũng không nên bỏ sót. Mấy truyện Ngư-Tinh, Hồ-Tinh là nêu lên tài trừ yêu-quái, đức của Long-Vương cũng không thể bỏ quên. Trung-nghĩa của hai Bà Trưng, chết làm thổ-thần, nêu cao danh-dự, ai bảo không nên? Anh-linh thần Tản-Viên đã bài-trừ loài thủy-tộc, rõ-ràng hiển-dị, ai gọi không thiêng? Cùng với nước Nam-Chiếu là dòng dõi Triệu-Vũ, nước mất còn biết phục-thù, nàng Man-Nương là mẹ Mộc-Phật, năm hạn làm được mưa rào, sông Tô-Lịch có thần Long-Đậu, Xương-Cuồng có tinh Chiên-Đàn; một bên thời lập đền thờ cúng mà dân chịu được phúc, một bên thời dụng thuật trừ-khử mà dân khỏi điều họa, việc tuy quái mà không đến đản, văn tuy dị mà không đến yêu, tuy rằng có hơi hoang-đàng, nhưng tông-tích còn có căn-cứ, đó chẳng qua là để khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ điều ngụy, tồn điều chân, làm cho phong-tục thêm phần khích-lệ vậy, so với Sưu-Thần-Ký của người nhà Tấn, Địa-Quái-Lục của người nhà Đường thì cùng một ý đó.
Than-ôi ! Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?
Mùa xuân năm Nhâm-tý niên-hiệu Hồng-Đức ngu-sinh mới được bản truyện nầy, giở ra xem, không khỏi có sự lầm-lẫn như Lỗ-Ngư Âm-Đào, quên mình là quê hèn, sắp đặt và hiệu-chính lại chia làm ba quyển nhan-để là Lĩnh-Nam Chích-Quái Liệt-Truyện, cất ở trong nhà để phòng xem lại. Bằng như đính-chính và nhuận-sắc để cho việc được đầy đủ, văn được xác-thực, lời được tinh-thông, ý được xa-rộng, thời nhờ các bậc quân-tử hậu-lai hiếu-cổ, há lại không có người hay sao? Vậy nên làm bài Tựa.
Niên hiệu Hồng-Đức năm thứ hai mươi ba tiết Trọng-thu.
Yến-Xương Vũ-Quỳnh, Tiến-sĩ khoa Mậu-Tuất
Giám-sát đạo Kinh-Bắc, Ngự-sử, người Hồng-Châu, xã Trạch-Ổ.
Chương II : Huyền thoại dựng nước trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
do Vũ Quỳnh hiệu chính *
I - Tầm quan trọng của công trình hiệu chính và sắp đặt lại cuốn Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh
Theo Georges Gusdorf "Huyền thoại là một tư tưởng nhập thể; nếu phải tách huyền thoại ra khỏi kinh nghiệm sống, thì khó tránh được tình trạng làm thay đổi bản sắc của nó, bởi lẽ huyền thoại cống hiến ý nghĩa bên trong của kinh nghiệm sống nầy. Một huyền thoại được giải thích, hoặc được kể lại, thì đã mất đi yếu tố linh hoạt thiết yếu, và bấy giờ chỉ còn là cái bóng của chính nó thôi. Ngược lại, một nhận thức phản tỉnh thì được định hình rõ rệt theo thứ tự của việc trình bày bằng lời nói; nhận thức nầy hướng đến một cấu trúc nhằm giải thích một cách có hệ thống".
Ta có thể nói:
- Cảm nhận những yếu tố nền tảng, bất di dịch hướng dẫn cuộc sống cộng đồng,
- biểu lộ những niềm tin, cảm hứng đó qua những ký hiệu tượng trưng lấy từ những hình ảnh, chất liệu của thiên nhiên và của các sự kiện lịch sử nổi bật,
- bằng ngôn ngữ thi ca kết dệt thành trăm ngàn mẩu chuyện được truyền miệng trong dân gian :
đó là sự hình thành của vô số các câu truyện huyền thoại.
Nhưng nơi bất cứ xã hội, cộng đoàn nào của bộ tộc, hay của một số bộ tộc khác nhau được được tập họp thành một cộng đoàn mới, thường có những tài năng xuất chúng xuất hiện biết chọn lựa, sắp đặt, sửa chữa, tổng hợp lại những yếu tố rời rạc thành những mẩu chuyện có cấu trúc hoàn chỉnh hơn. Công việc tổng hợp nầy đi đôi với những kinh nghiệm sống chung của các nhóm, các bộ tộc khác nhau, của các lớp người vì lý do nầy, lý do khác đến cư ngụ...Qua từng ngàn năm liên lạc, sống chung ấy, một cộng đồng lớn hơn được hình thành, những mẩu chuyện của các huyền thoại khác nhau cũng được kết dệt thành một hay một số ít huyền thoại có tầm vóc phổ quát hơn. Qua nhiều thế kỷ, huyền thoại dựng nước của dân tộc ta được hình thành trong tiến trình phát triển linh động như thế. Các tác giả hay một tác giả (mà Lê Quý Đôn và một số học giả về sau ghi là Trần Thế Pháp) viết cuốn Lĩnh Nam Chích Quái vào cuối đời nhà Trần đã dựa vào một số huyền thoại có tính cách tổng hợp nầy.
Hẳn nhiên, khi viết thành văn, tác giả đã sắp xếp các yếu tố rời rạc thành một câu truyện có cấu trúc. Chưa nói đến những thêm thắt một số các chi tiết nhằm kết hợp các yếu tố khác nhau một cách linh động do tài năng văn chương riêng của mình, nguyên chỉ việc chọn lựa, sắp xếp các yếu tố sẵn có trong các mẩu truyện thành một bản văn mới, thì tác giả cũng đã thực hiện được công tác khởi đầu cho một lối nhận thức văn hoá có hệ thống...
Những cổ thư còn được bảo tồn cho chúng ta thấy qua đến đời Lê, nhận thức văn hoá có hệ thống nầy lại được qui hướng về hai lãnh vực khác nhau: Ngô Sĩ Liên đưa nó vào sử học, qua việc sao chép các truyện nầy vào phần Ngoại Kỷ của bộ Đại Việt Sử Ký toàn thư. Còn Vũ Quỳnh lại hoàn chỉnh công trình còn chưa được hệ thống hoá đầy đủ của Trần Thế Pháp, bằng việc hiệu chính và sắp đặt lại các chương, các truyện trong cuốn Lĩnh Nam Chính Quái.
Trong địa hạt văn học thành văn, câu truyện huyền thoại dựng nước do Ngô Sĩ Liên đã đưa vào sử học lại được nhắc lại để kiểm thảo về phần xác thực của nội dung bản văn trong khuôn khổ hạn chế của bộ môn khoa học lịch sử. Nhưng nhìn huyền thoại dựng nước như những tiền đề căn bản, những cái rường, cái cột nâng đỡ và tạo sự nhất quán linh động cho cuộc sống cộng đồng dân tộc, nói cách khác nhìn chúng như những giá trị văn hoá, thì hướng nhìn đó không được các bậc học giả đời sau lưu ý33. Nhưng nếu có những đứt đoạn, vắng bóng vết tích của huyền thoại dựng nước (bên ngoài ưu tư về khoa học lịch sử) trong văn học thành văn của các bậc thức giả từ hơn gần năm thế kỷ qua, thì ngược lại những nội dung của huyền thoại nầy liên tục chi phối và điều hành nếp suy tư, tình cảm và nếp sinh hoạt của dân chúng. Cho đến nay có thể nói, bên cạnh những cảm thức hồn nhiên của người Việt về gia sản tinh thần nầy, cuốn Lĩnh Nam Chích Quái được Vũ Quỳnh hiệu đính được xem là văn bản có cấu trúc hoàn chỉnh hơn cả để giúp ta truy cứu về văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Giáo sư Lê Hữu Mục, đã nêu lên công việc hiệu chính và sắp đặt cuốn Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, và đã dựa vào "nguyên tắc đứng đắn" của kẻ cầm bút để ghi lại những nhận xét sau đây : "Đã đành bản của ta phỏng đoán là bản chính rất có thể không được bố cục một cách hợp lý như bản đã được Vũ Quỳnh sắp đặt lại; bản chính, nghĩa là bản mà Vũ Quỳnh chưa hiệu đính, chưa được chia thành quyển, và thứ tự của các truyện khác hẳn với thứ tự của các truyện trong bản của Vũ Quỳnh (...) Bố cục nầy không được hợp lý vì không tôn trọng thứ tự thời gian (...) Vũ Quỳnh đã thấy những khuyết điểm nầy và đã sắp đặt theo như mục lục mà ta đọc ở sau bài tựa của tác phẩm nầy. Tuy vậy, việc làm của Vũ Quỳnh cũng không được đúng lắm; đáng lẽ ra ông phải tôn trọng bố cục của tác giả, và chỉ được phê bình những khuyết điểm của bố cục ấy một chỗ khác" .
Về phần mình trong Lời Tựa của bản hiệu đính, Vũ Quỳnh chỉ nói thế nầy : "Ngu đinh nầy xin xét lại đầu đuôi, cứ từ chuyện mà trình bày để suy minh thêm ý của tác giả..."
Việc mà Vũ Quỳnh gọi là xin xét lại đầu đuôi để suy minh thêm ý của tác giả có phải chỉ là sắp xếp lại theo thứ tự thời gian không ? Một phần nào trong việc xếp đặt nầy đã thể hiện công việc đó. Nhưng cũng không hoàn toàn nhất thiết phải như thế; như truyện Núi Tản viên (Sơn tinh và Thủy tinh) là câu truyện được ghi là vào thời kỳ đầu của họ Hùng Vương, lại được xếp là câu truyện thứ XV, tiếp theo câu truyện Man-Nương xảy ra dưới thời quan Thái thú Sĩ Nhiếp (truyện XIV). Như thế, việc "xét lại đầu đuôi" nầy hàm ngụ một ý hướng khác nữa và có lẽ ưu tiên hơn, đó là công việc hệ thống hoá xét về mặt tư tưởng. Và nếu không vì thứ tự thời gian, thì phải chăng Vũ Quỳnh đã dựa vào hình thức văn chương như giáo sư Lê Hữu Mục trong lời tựa bản dịch đã áp dụng để phân tích cuốn Lĩnh Nam Chính Quái ?
Theo lối phân tích của giáo sư Lê Hữu Mục, Lĩnh Nam Chích Quái có những chuyện thần thoại (như Hồng Bàng, Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, Phù Đổng thiên vương,Tản viên) , thứ đến là những truyện truyền thuyết (như truyện Trầu cau, Bánh dày - Bánh chưng...) và cuối cùng là những chuyện cổ tích (như truyện Lý Ông Trọng, Từ Đạo Hạnh và Minh Không...). Chúng ta tin rằng với sở học của Vũ Quỳnh, hẳn nhiên ông biết đến cách phân loại nầy, nhưng học giả họ Vũ đã không đặt nặng phần hình thức văn chương để sắp đặt lại thứ tự các câu truyện.
Việc sắp đặt lại thứ tự nầy, theo chính lối nói của Vũ Quỳnh "xét lại đầu đuôi và từ các chuyện mà trình bày để suy minh thêm ý của tác giả" đó là nỗ lực chuyển từ lối nhận thức huyền thoại (Muthos) qua nhận thức phản tỉnh, còn gọi là Minh Triết (Logos). Ta có thể nhắc lại lối diễn tả của Georges Gusdorf : "Nhận thức phản tỉnh được hình thành theo thứ tự của việc trình bày bằng lời nói (discours); nhận thức đó hướng đến một cấu trúc nhằm giải thích một cách có hệ thống".
Nhận thức nầy gồm việc tìm hiểu ý nghĩa bên trong của câu chuyện (suy minh theo ý của tác giả), chọn lựa, làm nổi bật các yếu tố mà tác giả cho là nền tảng và sắp xếp lại thành hệ thống, để có một nhận thức mạch lạc, rõ ràng dễ truyền đạt hơn. Cho đến nay chúng ta cũng chưa hiểu rõ tại sao Vũ Quỳnh lại không lấy sở học của mình về Nho học, để từ các nội dung văn hiến của huyền thoại nước ta xây dựng nên một tác phẩm minh triết theo cách trình bày của các kinh sách Trung Hoa! Nhưng dù thế nào đi nữa trong kho tàng văn học Việt Nam, Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu đính (đặc biệt ở quyển I), nếu không nói là một công trình duy nhất, thì cũng phải nhận đó là một tác phẩm có hệ thống hơn cả để diễn đạt một cách nhất quán phần nhi thượng học, nêu lên những yếu tố hướng dẫn nếp suy tư của cộng đồng người Việt.
Đọc toàn bộ các câu truyện của Lĩnh Nam Chích Quái mà Vũ Quỳnh xếp đặt lại, ta thấy mười truyện đầu làm thành quyển I như là những ký hiệu tượng trưng (symbole) về những nội dung có tính cách nền tảng, mẫu mực, làm thước đo cho sinh hoạt cộng đồng. Ở quyển I nầy, về hình thức văn chương, có những câu truyện được xếp loại là thần thoại như Hồng Bàng, Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, Đổng Thiên vương, nhưng cũng có những câu truyện truyền thuyết như chuyện Trầu cau, Bánh chưng, Dưa hấu, Bạch trĩ.
Nếu sự nhất quán của các câu truyện không phải do sự xếp đặt theo hình thức văn chương, thì nó cũng không phải chiếu theo thứ tự thời gian để ghi lại một cách nào đó sự hình thành liên tục của cộng đồng dân tộc theo chiều kích lịch sử. Truyện thứ 10 - Bạch trĩ - chấm dứt quyển I được đem vào đây như nhằm giải thích lý do của cách sắp xếp các truyện và nêu lên tiêu chuẩn của sự nhất quán của các nội dung trong quyển đầu nầy. Khi Chu Công nêu lên các tập tục riêng của người dân trong xứ của Hùng Vương để chất vấn, thì sứ giả vua Hùng, sau khi nói đến phần hữu dụng của sinh hoạt, lại gợi lên ưu tư chính của việc ông đến vương quốc nhà Chu là để tìm thánh nhân.
Thánh nhân ở đây cũng là hiện thân của điều mà trong phần lời tựa Vũ Quỳnh đã nêu lên như là nội dung cốt lõi mà cuốn Lĩnh Nam Chính Quái muốn ghi lại : "... nhiều kỳ trọng... rõ ràng ở lòng người,... thời việc có hệ ở cương thường, quan ở phong tục".
Và việc sắp xếp nầy của Vũ Quỳnh ăn khớp với Đại Ký ức của người dân qua bao thế kỷ. Nếu có một truyện (Bạch Trĩ) ít được phổ biến trong dân gian đã được Vũ Quỳnh khai thác để giải thích hay dẫn nhập vào nguồn suối ngầm của các mẩu truyện có tính cách văn hiến, thì nguợc lại các mẩu truyện khác trong cuốn I luôn linh hoạt trong cuộc sống của người dân Việt Nam như đã học thuộc từ thuở nào.
Qua đến quyển nhì (11 truyện) và kế đến là quyển ba (19 truyện), khởi đầu từ truyện Lý Ông Trọng, ta thấy như có một đứt đoạn với quyển I. Những mẩu truyện cũng mang những hình thức văn chương khác nhau như ở quyển I, nhưng nội dung đa tạp của các câu truyện phản ảnh những tâm tình, sinh hoạt xã hội, những biến cố lịch sử, những thành tích cá nhân chiếu theo những giá trị đã gợi lên ở quyển I. Có thể nói cuốn 2 và 3 là phần hình - nhi - hạ - học hay còn gọi là phần dụng, mô tả cuộc sống phong phú chiếu theo các nguyên tượng (Archétype) hay phần thể được nêu lên ở phần đầu.
Đến đây ta có thể hiểu được tại sao Vũ Quỳnh lại không tôn trọng bố cục của bản gốc Lĩnh Nam Chính Quái. Và việc làm đó của ông, nói theo giáo sư Lê Hữu Mục "là không được đúng lắm" chiếu theo những nguyên tắc thông thường của một nhà nghiên cứu và sáng tác "thuần văn chương". Nhưng trên bình diện tư tưởng và triết học, công việc làm của Vũ Quỳnh phải được xem là một công trình tiên phong xây dựng nền Minh Triết Việt Nam.
Tiếc rằng, hướng phát triển của Minh Triết dân tộc đó gần như bị đứt đoạn trong dòng lịch sử, vì công trình tiên phong của Vũ Quỳnh bị quên lãng khi toàn bộ câu truyện hầu như chỉ còn được các bậc thức giả xem là một dấu tích phôi pha, thiếu chính xác của sinh hoạt xã hội thời sơ khai của cộng đồng dân tộc.
Vũ Quỳnh đặt vấn đề nguồn gốc có tính cách Minh triết, thuộc bản tính thâm sâu con người "linh ư vạn vật"; còn Ngô Sĩ Liên thì đã chuyển huyền thoại về "nguồn gốc" thâm sâu đó thành thời kỳ lịch sử sơ khai. Sự kiện nầy giải thích nổi bực nhọc của học giả Lê Văn Siêu khi đọc thấy những công trình nghiên cứu của các bậc thức giả như "chỉ lưu ý tới phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn" 38. Và đồng thời dường như có một sự xa cách của tâm thức quần chúng nhập vào hồn dân tộc và cái nhìn tân thời của giới thức giả.
II - Chiều kích văn hoá siêu lịch sử của Lĩnh Nam Chích Quái
Như đã trình bày, ta thấy những phê bình, nghiên cứu về câu truyện dựng nước của dân tộc ta cho đến nay hầu như chỉ lưu ý đến yếu tố lịch sử. Và nếu không tìm ra được những yếu tố nào cụ thể, khách quan để xác minh được giá trị "lịch sử" có tính cách vật chất, hữu hình, thì các tác giả chuyển câu truyện nầy thành một loại "anh hùng ca" tức là một lối diễn tả tinh thần đấu tranh bảo vệ chủ quyền, hàm ngụ việc đối kháng với mối đe dọa trường kỳ của Phương Bắc, tức là nước Trung Hoa. Văn hoá dân tộc bây giờ như ngầm hiểu là một sự biện minh về lý lịch lịch sử, về chủ quyền chính trị.
Không thể chối cãi yếu tố quan trọng nầy trong tâm tư của những con người làm nên cộng đồng dân tộc; và vết tích của nó ghi lại rõ ràng trong những bản văn tiêu biểu được mỗi một người dân thuộc lòng và truyền tụng. Chẳng hạn bài thơ chữ Hán Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Trong Lĩnh Nam Chính Quái các mẩu chuyện hầu hết đều ghi dấu tâm tình nầy; nhưng nơi cuốn Lĩnh Nam Chích Quái ấy, từ hình thức văn chương đến nội dung của chúng, lại có một chiều kích siêu lịch sử được mở ra :
- Những tên gọi của các nhân vật: về hình thức ngôn ngữ là gốc tiếng Trung Hoa, nhưng hàm ngụ một ý nghĩa "minh triết" gắn liền với bản tính chung của nhân loại phổ quát, vượt lên trên các sắc thái chủng tộc, địa phương, thể chế. v.v..., nói cách khác là vượt lên biên cương lịch sử.
- Những tập tục: như ăn trầu, làm bánh, trồng dưa...trong muôn ngàn tập tục khác, không phải được nhắc lại để sao y nếp sinh hoạt xã hội, kinh tế..., nhưng được tác giả chọn làm thành chuyện truyền thuyết cưu mang một ký hiệu tượng trưng về các giá trị có tính cách nền tảng cho cuộc sống, mọi nơi và mọi lúc.
- Những xung đột giữa một công chúa Tiên Dung với cha là vua, một Mai An Tiêm với Hùng Vương, hẳn không phải là dấu chỉ về sự khác biệt của văn hóa Việt Nam và nếp phong kiến Tàu, dựa trên bình diện đấu tranh giữa hai dân tộc. Và trong câu truyện Bánh chưng, tác giả không ngần ngại thâu hoá giá trị nền tảng Thiên - Địa - Nhân làm Vương đạo.
- Rõ nét hơn cả là truyện Bạch Trĩ. Văn hoá được diễn tả cô đọng nơi mẫu mực "Thánh nhân". Một biểu tượng hùng hồn về một cảnh vực vượt biên giới địa lý, tập tục. Nói khác đi, yếu tính cốt lõi của văn hoá là cảm nhận cái "gốc" siêu-lịch sử, hoặc là một loại lịch sử toàn bính theo nghĩa chiều rộng của toàn nhân loại mọi thời, mọi nơi, và (theo nghĩa chiều sâu) là thực tế sâu kín nơi tâm hồn mọi người.
Trong ý hướng chỉ muốn nhìn và đánh giá những câu chuyện huyền thoại qua lăng kính của khoa học lịch sử, Nhượng Tống và không ít các bậc thức giả cho rằng việc kết hợp các mẩu chuyện hoang đường đa tạp của các bộ lạc khác nhau là một sự chắp nối "đầu cua tai ếch", nói cách khác là việc làm của kẻ thiếu trình độ văn hoá. Ông viết : "Nói một cách khác, trong các sử cũ của ta không hề có chép chuyện Họ Hồng Bàng cùng vua Thục; hai chuyện đó là tự Ngô Sĩ Liên chắp nối "đầu cua, tai ếch" mà chế tạo nên".
Và cũng theo học giả nầy, "cua" đó là Nho học và "ếch" đó là thần thoại người Mường. Nhưng tự căn, Nhượng Tống quên rằng câu chuyện họ Hồng Bàng không phải viết ra để trình bày một câu chuyện lịch sử (Lĩnh Nam Chích Quái không phải là một bộ sử); và việc kết hợp nhiều tình tiết ghi lại nhiều dấu vết của kinh nghiệm sống về mặt văn hoá của nhiều bộ lạc khác nhau không phải là một việc làm giả tạo của một tác giả, nhưng là sự thể hiện một cuộc thâu hoá sinh động của nhiều người khác nhau kết hợp thành một cộng đồng. Công việc thâu hoá đã thực hiện được vì nguồn mạch nối kết không phải là việc cộng lại các yếu tố đa tạp thành một mớ "đầu cua, tai ếch" rời rạc, nhưng là một trực giác văn hoá về một "gốc" ẩn kín chung có sức nối kết lại những khác biệt của sinh hoạt xã hội, lịch sử bên ngoài.
Do đó, Lĩnh Nam Chích Quái là một sự phản tỉnh có ý thức về nguồn sinh lực chung linh hoạt trong tâm thức của mỗi người, mỗi bộ lạc; sự tiếp nhận và thực thi các giá trị tiềm ẩn của nguồn sinh lực chung đó đã dần dà chứng thực qua nhiều thế kỷ, đưa nhiều người, nhiều nhóm vượt thắng được những dị biệt bên ngoài để tạo thành một cộng đồng. Ý hướng của nó có tính cách siêu lịch sử nghĩa là nhằm xuyên qua những kinh nghiệm lịch sử để khai mở điều mà Karl Jaspers gọi là cảnh vực Bao-dung-thể (Englobant), một nền văn hiến, gồm những nội dung nền tảng, mẫu mực soi dọi, đánh giá, phê bình, hướng dẫn tư duy và hành động con người trong lịch sử. Những nội dung thiết yếu mà nó chuyên chở không phải là một lý thuyết đi trước sinh hoạt, hay là sản phẩm của sinh hoạt, nghĩa là đi sau theo khuôn khổ thời gian lịch sử. Nó là một thực thể sinh động ẩn kín, gượng gọi là bên trong, bên trên; một thực thể mà nhận thức sự vật bên ngoài không đủ sức định vị được. Nên những kẻ chỉ trụ vào kiến thức sự vật và lịch sử để thiết định chân lý thì đánh giá chúng là những ý tưởng mơ hồ, huyền hoặc hay là nhận thức còn phôi pha. Và những kẻ tin tưởng và cảm nhận giá trị tích cực của chúng, thì gọi một cách thi vị là thế giới của thần thánh hay linh thiêng (linh ư vạn vật).
Lĩnh Nam Chích Quái qua nhiều hình ảnh văn chương ghi lại nguồn sâu kín nầy :
- Tên Lộc - Tục là khởi nguồn dân tộc. Lộc là ơn nhận được mà không biết từ đâu đến, ngoài công lao của Tục, tức con người trần.
- Lang Liệu thì tiếp nhận bài học Vương Đạo nơi Bánh dày - Bánh chưng, từ lời thần nhân trong một giấc mộng; và khi thức dậy thì tự nghĩ : "Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm".
- Công chúa Tiên Dung diễn tả mối tình vợ chồng vượt lên trên lễ nghi hình thức qua câu nói : "Việc nầy từ trời tác hợp, việc gì mà từ chối ?"
- Mai An Tiêm diễn tả giá trị và yêu sách của cuộc sống con người không đóng khung nơi các hình thức, thể chế qua lời phát biểu xem ra ngạo mạn: "Của cải nầy là vật tiền thân của ta, ta không trông chờ vào ơn chúa ».
"Trời đã sinh thì trời phải dưỡng, có lo gì?»
Trời, thần linh được nêu lên như một nguồn thực thể vượt lên những giới hạn của thời gian, không gian, lịch sử, nhưng lại gần gũi, cư ngụ nơi "bề sâu" của bản tính và sinh hoạt con người. Nên, Lạc Long Quân khi ẩn, khi hiện trong đời sống và lịch sử của dân chúng nhưng "Dân chúng lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân : "Bố đi đàng nào, không đến mà cứu chúng ta ?" thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được".
Nếu Lĩnh Nam Chích Quái đã khai mở ra được biển cả tiếp nhận các ngòi, lạch, sông tuôn về, đã hít thở được "hồn" chung linh hoạt cuộc sống của các bộ tộc dị biệt để kết hợp thành một cộng đồng qua lịch sử thăng trầm của bao thế kỷ, thì cũng chính từ nơi nội dung thiết yếu mà nó cưu mang, ta sẽ hiểu được do đâu cộng đồng ấy tiếp tục vừa sáng tạo vừa thu thái một cách linh động các kho tàng văn hoá nhân loại trong tinh thần "vô chấp" và "vô ngại".
III - Vấn đề tài liệu và phương pháp lý giải
Không phải tất cả các câu truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái 41 đều được Ngô Sĩ Liên đưa vào phần Ngoại Kỷ của bộ ĐVSKTT; nhưng những chuyện được chọn để đưa vào sử (họ Hồng Bàng, Đổng Thiên Vương, Bạch Trĩ, Sơn Tinh - Thủy Tinh) thì có những sửa đổi, hay bớt đi một vài yếu tố mà sử gia nầy xem là dư thừa xét về mặt mô tả các sự kiện. Chẳng hạn nơi Lĩnh Nam Chích Quái Âu Cơ nguyên là vợ của Đế Lai, nhưng nơi văn bản của ĐVSKTT nàng nầy là con gái của Đế Lai; mẩu đối thoại rất kỳ thú giữa Chu Công và sứ giả Vua Hùng lại bị cắt bỏ.
Như vậy, Ngô Sĩ Liên có ghi lại trung thực các mẩu chuyện nầy trong bản gốc nào đó hay không? Hay ông đã sửa đổi hoặc cắt bỏ một số yếu tố của Lĩnh Nam Chích Quái mà Vũ Quỳnh dù có hiệu chính vẫn ghi chép lại đầy đủ? Tất cả vẫn còn là giả thiết. Nhưng có hai sự kiện rõ rệt đáng lưu ý phát xuất từ chính hai bản văn hiện hữu nầy :
- Ý hướng khai thác về sự kiện lịch sử nơi ĐVSKTT và ý hướng siêu lịch sử nơi Lĩnh nam Chính Quái.
- Các tác giả về sau chỉ lưu ý bản văn của ĐVSKTT, và quên lãng ý hướng siêu lịch sử cũng như các yếu tố văn hoá trong Linh Nam Chích Quái.
Do đó trong nỗ lực đào sâu ý nghĩa của huyền thoại dựng nước, chúng tôi ưu tiên chọn bản văn của Lĩnh Nam Chích Quái.
Về mặt tài liệu, chính bản văn Lĩnh Nam Chích Quái cũng gợi lên những vấn đề khó khăn cho việc minh giải.
Hiện chúng ta có nhiều bản cổ văn của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái. Nhưng chưa ai xác định được bản nào là bản chính. Mỗi một bản thường có những sửa chữa riêng vì người chép lại đánh giá bản cũ là chép sai. Chẳng hạn như việc làm gần đây của học giả Phạm Quỳnh mà giáo sư Lê Hữu Mục đã nêu lên trong lời nói đầu của bản dịch ra chữ quốc ngữ : "Nhà học giả Phạm Quỳnh trong khi cho người sao lục những bản cổ văn thường sửa chữa lại những điểm mà ông cho là sai".
Khó khăn hơn nữa, đó là bản văn Lĩnh Nam Chích Quái được viết bằng chữ Hán. Không phải vì sự khó khăn để hiểu ngôn ngữ nầy, nhưng chính là một lối viết bằng chữ Hán, theo một thứ văn riêng mà giáo sư Lê Hữu Mục gọi là "văn lai". Về điểm nầy, giáo sư Lê Hữu Mục nhận xét như sau: "Ta thấy ngay một khuyết điểm lớn của Lĩnh nam là đã viết bằng chữ Hán; tuy vậy, ta cũng nên biết rằng Hán văn của tác phẩm không phải là Hán văn thuần túy của Trung Hoa nữa mà là một thứ văn riêng, một thứ văn lai, tuy đôi chỗ còn tuân theo văn phạm cú pháp của Hán văn".
Theo sự chân nhận của Vũ Quỳnh, ta biết rằng các câu truyện và một số tên tuổi trong đó đã được truyền miệng trước khi được kết dệt lại thành một câu truyện có cấu trúc. Do đó cùng một âm tiếng Việt có thể được hiểu và viết ra bằng Hán tự tùy theo nhận định và ý hướng riêng của tác giả. Đó là chưa nói đến một tiến trình sáng tạo khác: nơi câu truyện lúc ban đầu dân chúng đã có thể dùng một tên gọi có thực trong địa lý hay lịch sử mang một âm hoặc tiếng Trung Hoa hay ngay cả tiếng Việt thuần túy để gợi lên một nội dung khác có thể nhận ra qua một âm tương tự.
Nhà viết sử Phạm Văn Sơn (xem cuốn Việt Sử Toàn Thư) trong ý hướng tìm căn cơ câu truyện Hồng Bàng dựa vào địa lý, lịch sử đã viết : "Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ta không thể quyên chữ Kinh tức là đất Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu nầy chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh Dương vương là vua miền Châu Kinh, Châu Dương Vân... Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu. Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu giang tên một con sông nước Việt (Chiết giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu...
Nhưng hai học giả Nông Quốc Chấn và Phan Đăng Nhật trong khuôn khổ tra cứu dân tộc học thì lại phát biểu một cách khác: "Đáng chú ý là mô típ chim thủy tổ. Người-chim đẻ ra trứng, trứng nở ra người, người đẻ ra chim, chim đẻ trứng, trứng lại nở ra người. ở truyện Mường, chim mẹ đó có tên là Ây. Có lẽ Ây đã biến âm thành Âu. Và mẹ Âu cơ có lẽ vốn là mẹ Ây. Mô típ chim tổ có thể liên quan đến tên "nước" Văn Lang. Bởi vì có lẽ từ chim Kláng hay Tráng (Mường), Klang (Bana, Mơ Nông), Kalang (Chàm) mà dần dần nẩy sinh tên gọi Văn Lang".
Hai trích dẫn trên đây minh chứng là mỗi tác giả, mỗi khuynh hướng nghiên cứu đều có thể đưa ra những bằng chứng, sự kiện khác nhau để giải thích các tên gọi trong câu chuyện Hồng Bàng Thị.
Theo quan điểm chúng tôi, chúng tôi có một số nhận xét riêng liên quan đến ý hướng văn hoá hơn là lịch sử của câu truyện.
Đây là một câu chuyện huyền thoại và cũng như bao mẩu chuyện huyền thoại khác của các dân tộc, các tên gọi và các nội dung trong câu truyện thường hàm ngụ một ý nghĩa tượng trưng. Ưu tiên của ý nghĩa các tên gọi như Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế của huyền thoại Trung Hoa không phải xác minh một hay nhiều triều đại lịch sử có thật, nhưng là gợi lên khung vương Đạo Tam - Tài: Thiên - Địa - Nhân. Như thế trong câu truyện họ Hồng Bàng, phải chăng các tên gọi, dù có hay không có vương vấn với các dấu tích lịch sử hay địa lý, đều ưu tiên được chọn lựa vì âm hưởng của ý nghĩa toàn bộ nhất quán về văn hoá của câu truyện! Là một mẩu chuyện của dân gian, thì âm hưởng ý nghĩa được dân gian cảm nhận qua các danh xưng cần được xem là có giá trị thiết yếu. Chẳng hạn nói Lạc ai cũng hiểu là vui, mà Âu ai cũng nhận ra đó là buồn, dù Âu-Lạc theo âm hưởng nầy được chép cách nào đi nữa nơi văn bản.
Thứ đến, ngay cả nếu truy cứu về lịch sử, thì chúng ta không khỏi ngạc nhiên là một dấu tích lịch sử quan trọng như vậy tại sao lại vắng bóng trong những sáng tác văn học của các thời đại đi trước đời nhà Trần!
Qua các chi tiết của các câu truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta thấy có những dấu vết của rất nhiều nguồn văn hoá, mà đặc biệt là phần hình - nhi - thượng của Nho học. Có những dấu vết địa lý trong câu chuyện Hồ Tinh (Hồ Tây), Đầm Nhất Dạ... cũng có những mẩu chuyện huyền thoại của các bộ lạc địa phương, lại cũng có những dấu tích của tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo cũng như nếp sinh hoạt riêng của người bản xứ...Nhưng xếp lại thành câu truyện có đầu đuôi, mạch lạc, ngay cả việc chọn lựa một số tên tuổi trong câu truyện để tạo một sự nhất quán về tư tưởng, là việc làm của một hay một số tác giả xuất chúng vào cuối đời Trần.
Sự kiện tổng hợp các yếu tố đa biệt, kết dệt thành những câu chuyện có cấu trúc chặt chẽ, và lần đầu tiên được viết ra thành văn tự vào cuối đời nhà Trần (cuối thế kỷ 14) và được hiệu chính lại một cách có hệ thống và hầu như hoàn chỉnh vào thế kỷ 15 dưới thời nhà Lê có tầm mức rất quan trọng.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đã tự phong là Đinh Tiên Hoàng và đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Đến đời nhà Lý năm 1054, quốc hiệu được đổi là Đại Việt. Và về phía Trung Hoa, năm 1164, trước thực tế lớn mạnh của dân tộc chúng ta, họ buộc lòng phải đổi phủ ra quốc và phong Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương. Qua các thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần, gần bốn thế kỷ, xã hội của dân nước ta đã đạt được mức ổn cố và phát triển về mọi mặt. Đặc biệt về sinh hoạt văn hoá, dân gian đã biết và đã thấm nhập ba phương cách diễn đạt Đạo lý: Phật, Lão, Nho. Còn về phía triều đình, quan trường, một số tu sĩ Phật giáo cũng như những bậc thức giả sống rải rác đây đó trong dân gian thì đã có dịp học hỏi và đào sâu ý nghĩa của các sách, kinh của Tam giáo. Cuốn Đại Việt Sử Luợc (Khuyết danh) có lẽ được viết vào đời Lý đã ghi lại như sau: Vào đời vua Lý Cao Tông, năm 1179 "Nhà vua cùng bà Thái hậu (Đỗ Thái hậu thân mẫu của vua -ND) xem con em các bậc tăng quan (thầy tu làm quan -ND) thi tụng kinh Bát nhã. Nhà vua lại ngự ở điện Phượng Minh để xem các Hoàng nam thi viết bài thi của người xưa và làm toán. Đầu mùa Đông vua ngự ở điện Sùng Chương coi khoá thi Tam giáo. Các con em thi viết bài thơ xưa và làm các môn: thơ, phú, kinh nghĩa và toán".
Nếu đời Lý đã đạt được mức đó, thì đến đời Trần, đời Lê nghĩa là hai đến ba thế kỷ sau, việc học hỏi các nguồn kinh điển Tam giáo lại phải phổ biến và sâu sắc hơn nữa. Theo nhận định của giáo sư Lê Hữu Mục: "Năm 1329 Việt Điện U Linh Tập xuất hiện trong bầu không khí mới của Nho giáo vừa manh nha. Rồi sự quật khởi của nhà Minh, sự suy yếu của nhà Trần rõ rệt từ 1370 trở đi làm cho sự bành trướng của Nho học bị lâm vào một thời kỳ khủng hoảng từ 1370 đến 1400. Sự khủng hoảng về mặt ý thức hệ lấy Nho giáo làm căn bản bao giờ cũng đi đôi, ở Việt Nam, với một phong trào đối kháng chủ điểm dân tộc. Lĩnh Nam Chích Quái xuất hiện trong giai đoạn nầy".
Thực ra khi đọc bản văn của Lĩnh Nam Chích Quái, chúng ta thấy có một phần trọng yếu lấy lại tư tưởng Nho học, nhưng cũng có một phần bài bác việc ứng dụng thể chế phong kiến nhân danh Nho học. Lời nhận xét của giáo sư Lê Hữu Mục nhắc đến "ý thức hệ lấy Nho giáo làm căn bản" và "phong trào đối kháng chủ điểm dân tộc", đặt nổi sự kiện lịch sử, chính trị phải chăng đã hạn chế phần nào việc tìm hiểu sâu xa hơn về những lý do, sự kiện có tính cách văn hoá.
Sự tiếp nhận hồn nhiên những giá trị văn hoá của Tam giáo nơi quần chúng và ngay cả trong giới thức giả không phải chỉ là thể chế hình thức nghi lễ, tổ chức phong kiến của triều đình theo mẫu mực xã hội Trung Hoa. Qua thời gian, những yếu tố mà trực giác cộng đồng cảm nhận được như đã phát sinh từ một nguồn Đạo lý duy nhất của nhân loại nói chung vượt lên trên phương thức diễn đạt khác nhau, lại chan hoà vào những nội dung văn hoá của người bản xứ. Công việc thâu hoá về mặt văn hoá nầy được thực hiện một cách hồn nhiên, tạo thành một tổng hợp linh động, phong phú. Văn hoá gọi là dân tộc chính là toàn bộ tổng hợp linh động của các yếu tố đã được thâu hoá đó. Việc đối kháng về mặt thể chế ứng dụng các hình thức tổ chức, nghi lễ, nhân danh Nho học vào đời Trần, cũng như những phong trào văn học đã phá nếp xã hội quan liêu, phong kiến vào tiền bán thế kỷ 20 (như Tự Lực Văn Đoàn) không phải chỉ là những "phong trào đối kháng chủ điểm dân tộc". Lý do ưu thắng thúc đẩy việc sáng tác văn học vào cuối đời Trần cũng như gần đây vào tiền bán thế kỷ 20 là ưu tư văn hoá và nếp sống đạo nghĩa hay văn minh của xã hội.
Hơn nữa, không khí chung của các câu truyện, đặc biệt 10 truyện đầu của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính, là một khung cảnh của một xã hội ổn định, tự tin, không vướng mắc những tình cảm phê bác, đạp đổ.
Các nội dung câu truyện nhằm trình bày những yếu tố tích cực, cách trình bày lắm lúc lặp đi lặp lại một giá trị qua nhiều lối diễn tả, nhiều hình ảnh khác nhau (như câu truyện họ Hồng Bàng), giọng văn thanh thản : Tất cả phản ảnh một ý chí muốn đào sâu ý nghĩa minh triết hơn là đặt nổi ưu tư muốn biện minh hay đề cao tinh thần đối kháng.
Chúng ta hầu như chắc rằng kẻ kết dệt các yếu tố và sáng tác ra các câu truyện nầy phải là một hay nhiều thức giả vào đời Trần. Song song với các nỗ lực xây dựng nền sử học, với việc ghi chép lại những vị anh hùng các hào kiệt sáng suốt, ngay thẳng...đã làm điểm soi cho nhân dân, được nhân dân tôn vinh là thần (Việt Điện U Linh), thì cũng có những người ngoại hạng đã lấy sở học của mình để tìm hiểu, chọn lựa, sắp xếp các giá trị nền tảng điều hành toàn bộ nếp sinh hoạt của người dân, hệ thống hoá nền văn hiến dân tộc.
- Chiều kích văn hoá của Lĩnh Nam Chích Quái, - hình thức độc đáo vận dụng những chất liệu thi ca, những truyền thuyết truyền khẩu dân gian để hàm ngụ một cấu trúc tư tưởng nhất quán, mạch lạc, - sự kiện bản văn đó được hình thành rất trễ vào cuối đời nhà Trần, và được hiệu chính, sắp đặt lại vào đời Lê, đặc biệt vào triều đại Lê Thánh Tôn (cuộc sống xã hội ổn định, tâm tư con người thanh thản, văn học phát triển) : tất cả những yếu tố đó đòi hỏi một lối đặt vấn đề, áp dụng những phương pháp lý giải thích ứng hơn vượt lên khuôn khổ hạn chế của khoa sử học.
Trong ý hướng tìm hiểu nền minh triết của dân tộc Việt Nam qua bản văn Lĩnh Nam Chích Quái đã được Vũ Quỳnh hiệu chính và sắp đặt lại, chúng tôi tự hạn chế phần nghiên cứu của mình trong khuôn khổ của mười truyện đầu, tức là quyển I. Như đã trình bày ở phần trên, việc chọn lựa tài liệu hạn chế đó là kết quả của nhận định riêng của chúng tôi về giá trị có tính cách văn hiến, nghĩa là phần hình - nhi - thượng, phần thể hàm ngụ trong quyển I. Nhận định nầy không những dựa trên việc đánh giá tầm quan trọng của chính nội dung các truyện, mà cũng tương ứng với sự sắp xếp của Vũ Quỳnh, đồng thời nó có được bảo chứng nơi tình cảm thân thuộc của tâm thức dân gian xem các truyện nầy như một gia sản được ghi khắc trong Đại ký ức dân tộc.
Chương III : Chân tính con người trong ba chiều kích bất phân ly
Trời - Đất - Người
Bản văn : Truyện Họ Hồng Bàng
Cháu ba đời Viêm-Đế họ Thần-Nông tên là Đế-Minh, sinh ra Đế-Nghi, rồi đi nam-tuần đến Ngũ-Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ-Tiên đem lòng yêu-mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc-Tục, dung-mạo đoan-chính, thông-minh túc-thành; Đế-Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc-Tục cố nhường cho anh. Đế-Minh lập Đế-Nghi làm tự-quân cai-trị phương Bắc, phong Lộc-Tục làm Kinh-Dương-Vương cai-trị phương Nam, đặt quốc-hiệu là Xích-Quỉ-Quốc.
Kinh-Dương-Vương xuống Thủy-phủ, cưới con gái vua Động-Đình là Long-Nữ, sinh ra Sùng-Lãm tức là Lạc-Long-Quân; Lạc-Long-Quân thay cha để trị nước, còn Kinh-Dương-Vương thì không biết đi đâu.
Lạc-Long-Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật-tự về quân-thần tôn-ty, có luân-thường về phụ-tử phu-phụ; hoặc có lúc đi về Thủy-phủ nhưng trăm họ vẫn được yên-ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc-Long-Quân: "Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta". (Người Nam gọi cha bằng Bố, gọi quân bằng vua là từ đấy), thì Lạc-Long-Quân lập tức đến ngay, uy-linh cảm-ứng không ai có thể trắc-lượng được.
Đế-Nghi truyền ngôi cho Đế-Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên-hạ vô-sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế-Minh nam-tuần gặp được tiên-nữ.
Đế-Lai bèn khiến Xi-Vưu tác-chủ quốc-sự mà nam-tuần qua nước Xích-Quỉ, thấy Long-Quân đã về Thủy-phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu-Cơ cùng với bộ-chúng thị-thiếp ở lại hành-tại. Đế-Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình-thế, trông thấy kỳ-hoa dị-thảo, trân-cầm dị-thú, tê-tượng, đồi-mồi, kim-ngân, châu-ngọc, hồ-tiêu, nhũ-hương, trầm-đàn, các loại sơn-hào hải-vị không thứ nào là không có; khí-hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế-Lai ái-mộ quá, quên cả ngày về. Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền-nhiễu, không yên-ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long-Quân về nên mới đem nhau kêu rằng :
- Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân-dân.
***
Lạc-Long-Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu-Cơ ở một mình, dung-mạo đẹp lạ-lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi-lang phong-tư mỹ-lệ, tả-hữu thị-tùng đông-đảo, tiếng đàn ca vang đến hành-tại. Âu-Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long-Quân bèn rước nàng về núi Long-Trang.
Đế-Lai về không thấy Âu-Cơ bèn sai quần-thần tìm khắp thiên-hạ. Long-Quân có thần-thuật, biến-hiện trăm cách, nào là yêu-tinh quỉ-mị, nào là long-xà hổ-tượng, kẻ đi tìm úy-cụ, không dám lục-đảo tận-cùng. Đế-Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế-Du, cùng với Hoàng-Đế đánh nhau ở Bản-Tuyền không hơn nên tử-trận; họ Thần-Nông bèn mất.
***
Âu-Cơ ở với Lạc-Long-Quân giáp một năm, sinh ra bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai; nàng đem về nuôi-nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.
Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc-quốc liền đi lên biên-cảnh; Hoàng-Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân-binh trấn-ngự quan-tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long-Quân:
- Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.
Long-Quân hốt-nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương-Dạ; Âu-Cơ nói :
- Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc-dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò-võ.
Long-Quân bảo :
- Ta là loài rồng, sinh-trưởng ở thủy-tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm-dương hợp lại mà có con nhưng phương-viên bất-đồng, thủy-hỏa tương-khắc, khó mà ở cùng nhau trường-cửu. Bây giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau.
Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ-giã mà đi. Âu-Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong-Châu - (bây giờ là huyện Bạch-Hạc) - , tự suy-tôn người hùng-trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng-Vương, quốc-hiệu là Văn-Lang; về bờ-cõi của nước thì Đông giáp Nam-Hải, Tây đến Ba-Thục, Bắc đến Động-Đình-Hồ, Nam đến nước Hồ-Tôn-Tinh (bây giờ là nước Chiêm-Thành), chia trong nước làm mười lăm bộ là: Giao-Chỉ, Chu-Diên, Ninh-Sơn, Phúc-Lộc, Việt-Thường, Ninh-Hải, Dương-Tuyền, Quế-Dương, Vũ-Ninh, Hoài-Hoan, Cửu-Chân, Nhật-Nam, Quế-Lâm, Tượng-Quận, sai các em phân-trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc-Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quang-Lang * , con gái gọi là Mỵ-Nương, quan Hữu-ty gọi là Bồ-chính, thần-bộc nô-lệ gọi là nô-tỳ, xung thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ-đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng-Vương không đổi.
Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh đá, thường bị giao-long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng :
- Núi và loài rồng cùng với thủy-tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm-hại.
Bèn khiến lấy mực chạm hình-trạng thủy-quái ở thân-thể, từ đó tránh được nạn giao-long cắn hại; cái tục văn-thân * * của Bách-Việt thực khởi-thủy từ đấy. Ban đầu, quốc-dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang-lang, cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ-lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê là lễ thành-hôn, đem cơm nếp vào trong phỏng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương-thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.
***
Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy.
Phần minh giải
I- Hình thức văn chương của bản văn
Về hình thức văn chương của toàn bản văn Lĩnh Nam Chích Quái, giáo sư Lê Hữu Mục đưa ra nhận xét như sau : "Đó là một lối văn kể chuyện giản dị và nhẹ nhàng; không có một điển tích nào xa xôi, không có một từ ngữ nào mà ngày nay không có trong những Từ Điển Hán Việt; lối văn được viết theo lời nói thông thường nên không có tính cách bác cổ của trường thi, không có những câu đối ý đối chữ kéo dài từng hai vế đi đôi với nhau. Đâu cũng sáng sủa, gọn gàng, có tính cách Việt Nam đến nỗi nhiều đoạn chỉ cần phiên âm là thành một câu tiếng Việt (...) Kỹ thuật kể chuyện cũng không kém tài tình. Người đọc cảm thấy có một sức lôi cuốn huyền bí. Đó là nhờ ở cách tác giả dàn xếp các tình tiết của câu chuyện. Các tình tiết ấy liên tiếp nhau, ăn khớp với nhau chặt chẽ, theo một trật tự mà chỉ có một ý thức già giặn về kỹ thuật hành văn mới có thể trực giác thấy".
Nếu nhận xét trên diễn tả lối văn kể chuyện sáng sủa, nhẹ nhàng, thoát ra khỏi những kỹ thuật gò bó, khách sáo nơi văn chương bác cổ của trường thi, trong toàn bộ Lĩnh Nam Chích Quái, thì truyện Hồng Bàng lại là một điển hình nổi bật về thiên tài văn chương của tác giả cuốn sách nầy.
Câu chuyện tóm kết trong không hơn ba trang sách nhỏ, nhiều đợt truyện liên tục như một giòng nước chảy qua nhiều cảnh vực, nhiều ghềnh thác. Kỹ thuật phối trí chặt chẽ, lối kể chuyện gãy gọn như chỉ giữ lại những sự kiện thiết yếu nhất đồng thời vẫn diễn tả được nét linh động, hấp dẫn như một cuốn tiểu thuyết.
Hình thức văn chương đó phản ảnh không những tài năng hành văn của tác giả, mà còn xác minh một mức độ thâu hoá nhuần nhuyễn các nội dung chất chứa trong bản văn.
I. a - Những kỹ thuật hành văn đặc biệt của bản văn
Giáo sư Lê Hữu Mục đã đưa ra nhận xét là tác giả Lĩnh Nam Chích Quái không câu nệ hình thức đối ý, đối chữ kéo dài từng hai vế đi đôi với nhau. Tuy nhiên khi đọc qua câu chuyện Hồng Bàng, thoạt tiên ta có cảm giác về sự liên tục của diễn biến câu chuyện, nhưng ở đây điểm đặc sắc về kỹ thuật dụng văn của tác giả là trong mạch văn hồn nhiên đó, từ toàn bộ đến từng đoạn (nghĩa là từng câu truyện nhỏ được xếp lại) luôn hàm ngụ một lối phân chia thành hai cảnh vực, hai thế giới hoặc tương quan hổ tương với nhau, hoặc đối kháng nhau :
- Từ đầu bản văn đến sự xuất hiện tên Hùng Vương là một mẩu chuyện huyền thoại; phần thứ hai lại là bản văn trình bày nặng phần lịch sử, địa lý, xã hội.
- Có một câu chuyện liên tục từ Đế Minh, Lộc Tục, Sùng Lãm, Âu Cơ, song song với câu truyện Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du; và chính là nhờ sự đối chiếu nầy mà tiến triển câu chuyện và sự nhất quán của bản văn tạo nên một cấu trúc đặc biệt có hệ thống. Ngoài việc vận dụng đối chiếu song hành một cách khéo léo đó, tác giả còn dùng một câu nói đặc biệt, một mặt vừa để chấm dứt một câu truyện và chuyển qua truyện tiếp, mặt khác để nêu lên tính cách linh hoạt của Thể lòng vào trong Dụng, từ cấp phổ quát đến cá nhân cụ thể.
- "Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta".
Câu nầy đặt ở cuối phần Lạc Long Quân hiện diện ẩn kín trong xã hội nói chung.
- "Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân".
Câu nầy đặt ở phần cuối câu truyện Đế Lai từ bên ngoài đến phá hoại cuộc sống an bình của nhân dân nước Nam.
- "Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ".
Câu nầy trực tiếp gọi tên Lạc Long Quân là chồng, là cha đẻ của 100 con.
Qua hình thức xếp đặt, kết dệt các yếu tố của bản văn, nếu xét về mặt lịch sử mà thôi, ta thấy có những điểm quan trọng xem ra không mấy sáng tỏ. Nơi phần đầu Lạc Long Quân xuất hiện, đã có dân, có nước. Nhưng đến phần Lạc Long Quân chiếm vợ của Đế Lai là Âu Cơ để sinh hạ được 100 con như tạo một dân mới. Như thế, dường như lúc sau nầy mới là khởi thủy của dân nước chứ không phải lúc đầu !
Tình trạng mập mờ trong việc xác minh nguồn gốc dân tộc phải chăng là kết quả của một sự sắp xếp vụng về các câu truyện huyền thoại của các bộ tộc khác nhau? ; hay ở đây chỉ vì tác giả muốn ghi lại các mẩu chuyện huyền thoại dân gian để diễn đạt ý nghĩa văn hoá một dân tộc theo nghĩa là cộng đồng nhân loại trong chân tính của con người? Nếu phải ưu tiên tìm sự nhất quán siêu lịch sử, thì việc thẩm định giá trị văn hoá của bản văn cần dựa trên một tầm quan trọng tích cực ở một chiều kích thứ hai.
I. b - Các tên gọi trong cấu trúc của bản văn
Về các tên riêng chỉ người, cũng như các địa danh trong phần đầu câu truyện (nghĩa là phần huyền thoại), chúng ta sẽ ngạc nhiên vì hầu hết đều là danh xưng hoàn toàn Tàu, mặc dù được phát âm theo lối Hán Việt. Các nhà nghiên cứu trước đây cố tìm một số các chỉ dẫn có tính cách lịch sử để xác minh về tên gọi của một số nhân vật như Kinh Dương Vương, Âu Cơ 49 nhưng đấy cũng chỉ là những giả thiết còn cần nhiều nghiên cứu chính xác hơn để có thể khẳng định.
Ở đây, trong khung cảnh của một câu chuyện huyền thoại, với một lối trình bày có tính cách tượng trưng của toàn khối bản văn, ta sẽ khám phá thấy các danh xưng hàm ngụ những ý nghĩa văn hoá cô đọng; nếu xếp các tên gọi theo bối cảnh của câu truyện, ta ngạc nhiên thấy có một sự nhất quán của một hệ thống tư tưởng kết dệt qua các ý nghĩa tượng trưng của các danh xưng nầy. Sự kiện đó thường thấy xảy ra trong các bản cổ văn của bất cứ những tác phẩm văn hoá nào trong lịch sử của các nền văn minh cổ xưa, Hy lạp, Lưỡng hà, Do thái, Trung hoa hay Ấn độ... Trong nhãn quan truy nguyên văn hoá nầy, ta có thể nói tác giả Lĩnh Nam Chích Quái đã tài tình chọn lựa những danh xưng, hoặc từ các dấu tích xa gần của lịch sử, hoặc dựa vào một số hình ảnh, ngôn ngữ hay ý niệm có tính cách văn hoá mà ở mức độ nào đó dân chúng đã quen thuộc, để vừa tạo nên một câu chuyện có đầu đuôi mạch lạc, vừa hàm ngụ một ý định trình bày một hệ thống Minh triết.
Trong cấu trúc đối đãi song hành của câu truyện ta có những cặp tên gọi đối ứng:
Phần I
- Đoạn một
Cháu ba đời Viêm Đế Họ Thần Nông (Thần Nông 4)
Đế Minh + Vụ Tiên
- Đế Nghi - Lộc Tục
- Phương Bắc - Phương Nam
- Đoạn hai
- Đế Nghi - Lộc Tục
= Kinh Dương Vương +Long Nữ
- Đế Lai+Âu Cơ - Sùng Lãm
= Lạc Long Quân
- Đoạn ba
- Đế Lai - Lạc Long Quân + Âu Cơ
về phương Bắc đến núi Long Trang
- Đế Du đánh nhau - đẻ một bọc 100 trứng
với Hoàng Đế - sau bảy ngày nở 100
ở Bản tuyền con trai
- Đoạn bốn
Long Quân về Thủy phủ
Âu Cơ lại tìm về hướng Bắc
Long Quân đến gặp mẹ con Âu Cơ ở Tương Dạ
50 con theo Long Quân ở Thủy phủ
50 con theo mẹ Âu Cơ ở trên Đất.
Phần II
- Đoạn năm
Âu Cơ ở Phong Châu với 50 con
- Lãnh thổ nước Văn Lang
- Cơ cấu tổ chức cộng đồng quốc gia
- Sinh hoạt, tập tục của nhân dân.
Kết luận Bách Nam là Thủy tổ của Bách Việt
Ta thấy: Các tên gọi ở phần đầu có tính cách tượng trưng. Các tên gọi ở phần hai có những căn cứ lịch sử. Bách Nam và Bách Việt là phối trí ý nghĩa hai phần trên.
II- Giải thích ý nghĩa của bản văn
Trong nội dung nhất quán của hệ thống tư tưởng của Lĩnh Nam Chích Quái, đặc biệt theo sự xếp đặt lại của Vũ Quỳnh nơi 10 truyện ở Quyển I, ta thấy có những chỉ dẫn về nội dung tư tưởng tổng quát soi dẫn cho việc chọn lựa các tên gọi và cách bố trí đặc biệt của bản văn họ Hồng Bàng:
- Nền tảng Vương Đạo: Trời + Đất + Người, sẽ khai triển trong câu truyện Bánh dày - Bánh chưng.
- Nội dung thâm sâu của đạo lý con người vượt lên trên các tập tục luân lý hình thức; sự kiện đó sẽ thấy rõ trong truyện Đầm Nhất Dạ nơi thái độ của Công chúa Tiên Dung và Mai An Tiêm.
Với những chỉ dẫn nầy, ta trở lại ý nghĩa các tên gọi phối trí đặc biệt trong truyện họ Hồng Bàng để truy tìm hệ thống tư tưởng mà tác giả Lĩnh Nam Chích Quái muốn hàm ngụ.
Phần I
- Đoạn một: Đây là nỗ lực trình bày thuyết Tam Tài (Trời - Đất - Người), tương quan nền tảng của các chiều kích nhân sinh, giềng mối của Đạo lý và tư tưởng. Theo huyền thoại Trung hoa, khởi thủy là Phục Hi (chiều kích trời) tiếp đến là Thần nông (chiều kích đất) và sau đó là Hoàng đế (chiều kích người). Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái lại có một lối diễn tả đặc biệt về thuyết Tam Tài của người Việt khi đưa Thần Nông (chiều kích đất) hàm ngụ Viêm Đế (chiều kích trời= sự sống của trời - viêm là ấm) đem lại ánh sáng Đế Minh trong lòng người (chiều kích người ).
Tiếp đó tác giả cho thấy qua lịch sử, nếp sinh hoạt văn hoá của Trung hoa đã đi lệch đường khi giản lược đạo người vào hình thức tập tục, luân lý nhân vi, cơ chế xã hội (qua tên gọi Đế Nghi). Có lẽ trong tinh thần dung hợp Đạo học của Lão giáo, đồng thời với ý muốn bảo tồn phần Thể uyên nguyên của Nho học (mà Tống Nho đã quá chú trọng phần Dụng nên lãng quên), tác giả đã chọn hình ảnh đạo người chân thật qua hiện thân của Lộc Tục.
Lộc Tục là con của Đế Minh (người) và Vụ Tiên (trời), danh hiệu Lộc Tục lại hàm ngụ sự qui hợp của Trời (Lộc) và Đất (Tục)..., những chi tiết đó rõ rệt cho thấy tác giả muốn đưa ba yếu tố của Tam Tài thành một thể duy nhất với ba chiều kích. Nói cách khác việc trình bày tư tưởng trong thuyết Tam Tài nầy có tính cách tượng trưng, diễn tả các chiều kích Minh triết của nhân tính toàn diện, chứ không phải nhằm mô tả tiến trình phát triển văn minh theo phạm trù bản thể và nguyên nhân hậu quả của sự hiểu biết về thế giới vật chất hay dựa vào tiến hoá của lịch sử.
- Đoạn hai : Vương đạo Tam Tài lại được diễn tả qua quan điểm Âm - Dương, hình thành nên con người Mẫu Cao Đẹp là Sùng Lãm. Kinh Dương là những tượng trưng Thuần Dương (Trời). Kinh là nét dọc, hướng đi lên. Thủy Phủ - Động Đình - Long Nữ là những tượng trưng cho Thuần Âm (Đất). Sùng Lãm (Sùng là cao trọng đáng tôn kính bên trong, Lãm là đẹp đẽ xuất hiện ra bên ngoài) tượng trưng cho bậc chí nhân. Sùng Lãm có tên Lạc Long Quân tượng trưng hình ảnh chí thành của nhân tính:
Lạc : gợi lên hạnh phúc viên mãn (= Mỹ).
Long : nguồn gốc thần thánh (= Chân).
Quân : quyền năng, phong cách tuyệt vời của con người trong xã hội (= Thiện).
Nhưng Lạc Long Quân ở xa, giấu mặt đồng thời lại gần với dân và giúp dân. Nói cách khác đây là chiều kích thâm sâu bên trong soi dọi và điều hành cuộc sống bên ngoài.
Và bên ngoài đó là thực tế của cuộc sống: dân khổ vì yếu tố phương Bắc, tức là xã hội nhân vi, ngoại lai (Đế Lai) xâm nhập và đe dọa. Thực tế bên ngoài đó cũng là một Âu Cơ (có thể là Ưu Cơ nghĩa là lo lắng, khổ đau, những toan tính khó khăn) chịu sự khống chế của một Đế Lai từ Bắc phương đến.
Thật kỳ lạ, tại sao Âu Cơ, mẹ của con người, lại là từ Bắc phương đến cùng Đế Lai và là vợ của người nầy?
Vì nặng lòng với lễ nghi, luân lý hình thức, và đóng khung ý nghĩa của câu truyện trong khuôn thước nầy, nhiều nhà sử học đã chuyển lý lịch của Âu Cơ thành em gái của Đế Lai thay vì giữ lại vị thế là vợ của Vua Phương Bắc. Thật ra, ở đây giống như trong câu chuyện nàng Công chúa Tiên Dung, tác giả không chú tâm đến việc truyền đạt một loại luân lý hình thức, nhưng là nêu lên một ý nghĩa minh triết thâm sâu hơn. Trong truyện nầy, tác giả cũng không lưu tâm đến nguồn gốc giống tộc hay một ưu tư luân lý xã hội nào khác hơn là nêu lên thân phận của nhân loại, của mỗi người trong cuộc sống trần thế. Thánh Kinh Do Thái giáo và Kitô giáo, trong bản văn Sáng Thế đã mô tả thân phận đó qua hình ảnh bùn, đất. Âu Cơ, người mẹ kỳ lạ của nhân loại, một thực thể hữu hình, tự căn bản là người đàn bà ngoại lai, chịu thử thách và khống chế của ảo ảnh, nhân vi, ràng buộc với Đế Lai. Đây phải chăng là con người trong cái khung của "thiên hạ" theo quan điểm của Đạo Đức Kinh, là nhân sinh mang nặng cái nghiệp chướng của Karma theo thuyết nhà Phật, là một nàng kiều gian truân của Nguyễn Du sau nầy! Và trong nỗi âu lo của nhân sinh, con người kêu đến Lạc Long Quân để cứu vớt.
- Đoạn ba : Sau tiếng kêu cầu, Lạc Long Quân xuất hiện và từ nơi cái nhìn của kẻ chí nhân nầy, nàng Âu Cơ trở nên đẹp đẽ để kết hợp với vị vua ẩn mặt ở núi Long Trang.
Long Trang tức là nơi cư ngụ của Rồng, nhà của bậc thần thánh. Từ đấy Âu Cơ thoát khỏi nanh vuốt và sự khống chế của Đế Lai. Qua duyên gặp gỡ nầy, Đế Lai trở về Phương Bắc. Nền văn minh giả tạo vì hung hăng đó lưu lạc dông dài qua hình ảnh Đế Du để rồi chấm dứt trước nguyên lý của Trời - Đất, qua hình ảnh Bản Tuyền (Suối Uyên nguyên).
Đoạn văn tiếp theo ghi đậm trong Đại-ký-ức của dân gian qua mẩu chuyện Một Mẹ Âu Cơ với trăm con. Một năm chung sống giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ tại Long Trang là tượng trưng cho một thời gian hoàn mãn, thời gian nguyên thủy và cũng là thời chung điểm; các nhà nghiên cứu về văn hoá cổ xưa gọi là Một Năm Cao Cả (Grande Année); thời giao hoà lý tưởng giữa Trời - Đất - Người.
Bọc một trăm trứng, theo các nhà dân tộc học có thể là điển tích lấy lại từ huyền thoại của người Mường. Đó là nói đến hình ảnh của Cái trứng. Còn con số trăm, dường như số nầy thường được nhắc nhở nhiều lần khi nói đến các bộ tộc về phía Nam nước Tàu. Số nầy còn được lặp lại ở câu kết khi nói đến Bách Nam, Bách Việt. Theo cảm nhận chung của dân gian, cái bọc được hiểu là một bào thai, gợi lên ý niệm về sự khởi thủy, nguồn gốc chung. Gốc chung nầy nối kết những khác biệt của một trăm cái trứng. Và cảm thức đó mạnh mẽ đến độ để gọi người đồng hương, ngôn ngữ Việt Nam dùng lại chữ Tàu là đồng bào, nghĩa là cùng một bọc, một nguồn, một mẹ. Từ cảm thức đó, ta quay ngược lại để hiểu rằng ưu tư nổi bật của tác giả là chọn một hình ảnh thi ca, huyền thoại để diễn tả tương quan gắn bó giữa các con người khác nhau, giữa các bộ tộc khác nhau phát xuất từ một nhân tính chung. Sử gia Ngô Thời Sĩ nhận xét và đánh giá rằng "việc tựa hồ lạ mà không phải lạ và cũng không nên tự cho là hẹp hòi như con hạ trùng thì mới phải" 50 Tuy tác giả gượng bênh vực câu truyện của Lĩnh Nam Chích Quái, qua việc đề cao gốc tích cao cả đáng tự hào của dân tộc, nhưng phải chân nhận là sử gia nầy đang bị chi phối bởi một lối truy tìm lý lịch khác với ý định của Trần Thế Pháp hay Vũ Quỳnh. Khi nói con người vốn là bùn đất trong sách Sáng Thế Ký của Thánh Kinh Do Thái, hoặc khi dùng hình ảnh cái bọc trăm trứng, các tác giả nầy không nhằm truy nguyên bản chất con người như các nhà vật lý học, sinh vật học hay ngay cả sử học. Đây là tượng trưng theo lối nói thi ca để diễn tả một ý nghĩa mà hình ảnh được dùng gợi lên, khác với đối vật của chính hình ảnh đó.
Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh viết truyện nầy vào đời Trần và đời Lê, một thời đại mà kiến thức về sự vật không thể nói là man khai. Phải chăng vì tầm nhìn của các sử gia chúng ta về sau quá chật hẹp không biết đến một khung trời văn hoá nào ngoài kiến thức về sự vật mà thôi !
Sau chi tiết về con số một năm, tác giả còn dùng số bảy để chỉ thời gian từ trứng nở thành người. Trong cuốn "Tự điển tượng trưng" 51 các tác giả cho thấy con số 7 được hầu hết các nền văn hoá dùng dể chỉ đến một sự tiến hoá tuyệt vời của nhân sinh.
"Trong các truyền thuyết và huyền thoại, só nầy có thể gọi lên bảy hình thái của vật chất, bảy cấp độ của ý thức, bảy giai đoạn của tiến hoá (...) (ở cấp 7) ý thức về nhân sinh: đưa toàn bộ sinh hoạt về đời sống trường cửu và cứu độ".
Riêng trong khung cảnh văn hoá Đông Nam Á, số bảy đi liền với chữ hoá - (thất hoá). Trong bản văn ghi : "hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai". Truyện còn nói thêm là một trăm con người phi thường nầy không phải cho ăn, cho uống mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn. Đây là mẫu mực tượng trưng cho sự tôn trọng phẩm giá của mỗi con người, mỗi bộ tộc, từ chính việc họ là người được sinh ra đời. Một sự hoàn thành từ nguyên thủy nơi chính bản tính là người của mỗi cá nhân, không lệ thuộc các yếu tố nào bên ngoài như chủng tộc, màu da, hoàn cảnh xã hội, tuổi tác v.v... Nói cách khác, tự nơi bản chất làm người, mỗi nhân vị đã được đạt đến "thất hoá", và cần được tôn trọng trong phẩm chất cao quí nầy.
- Đoạn bốn : Long Quân lại về Thủy Phủ và Âu Cơ cùng các con ở một mình.
Cảnh giới địa đàng Long Trang sống chung giữa Long Quân và Âu Cơ như là một thuở ban sơ lý tưởng thời Minh triết mà Lão Tử gọi là "Tích chi", Mạnh Tử gọi là "Nhân chi sơ", Khổng gợi lên "Thời Nghiêu Thuấn", sách Sáng-thế Do Thái giáo mô tả là thuở ban đầu con người tiếp cận với Giavê Thiên Chúa, cảnh giới đó như chỉ còn là hình ảnh lưu lại trong Đại-ký-ức.
Âu Cơ là thân phận nhân loại tại thế: Một mặt nhớ về Lạc Long Quân, nhưng mặt khác cũng tiếc nuối Phương Bắc, quê của Đế Lai. Nàng vì cô đơn, khó khăn của cuộc sống, như dân Do Thái xưa, sau khi đã được giải thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, vẫn gặp nguy cơ muốn quay về vùng đất cũ của Pharaon, vùng đất oan nghiệt của Đế Lai.
Nàng đã muốn quay về Phương Bắc, nhưng đó không phải là nơi cư ngụ thật sự của nàng và các con nàng. Và kỳ lạ thay Lạc Long Quân, niềm vui và hạnh phúc của nàng thì ở Thủy phủ, dấu mặt. Nhưng niềm hy vọng của nàng là trong nỗi cơ cực, nàng gọi đến Lạc Long Quân, thì chàng lại đến.
Trong câu truyện Hồng Bàng, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân là người ẩn kín nhưng luôn gần con người, bảo vệ cứu thoát con người. Tác giả nhấn mạnh điểm nầy qua ba lần lặp lại những lời kêu van của nhân dân cũng như của mẹ con Âu Cơ. "Bố ở phương nào...".
Sự hiện diện ẩn kín của nguồn Chân lý, Hạnh phúc hoàn mãn, Ánh sáng dẫn đường...trong cuộc sống con người là mẫu số chung ghi khắc trong Đại-ký-ức nhân loại qua sự diễn tả của bất cứ nền văn hoá nào: Logos của Héraclite, Trung Dung trong Nho học, Đạo của Đạo đức kinh, Thiên Chúa ẩn mặt của Do Thái giáo...
Lạc Long Quân đến với mẹ con Âu Cơ, khi nàng kêu cầu, tại Tương Dạ.
Tương Dạ = Đêm gặp gỡ.
Nhưng Dạ theo tiếng Việt còn có âm hưởng là tâm lòng mình.
Cả hai nghĩa nầy phối hợp cho ta thấy là cảnh giới ẩn kín bên trong, nơi con người gặp gỡ Một Ai mà "mắt của ban ngày", của sự hiểu biết sự vật không hề thấy. Sách Thượng Thư gọi cảnh vực nầy là "Trung" hay là "Tâm Duy Vi".
Và cũng chính từ ý nghĩa của Lạc Long Quân ẩn kín nầy, ta hiểu được phần tiếp khi nói đến 50 con theo cha về Thủy phủ và 50 con theo mẹ về Phong châu. Theo lối giải thích thông thường, khi nói đến 50 con ở trên đất và 50 con ở dưới nước, người ta có khuynh hướng cho rằng đây là lối diễn tả tình huynh đệ của người miền núi và kẻ ở đồng bằng. Nhưng những giải thích có tính cách xã hội học đó dường như không nằm trong nội dung nhất quán của bản văn
- Thủy tộc có phải gợi đến đồng bằng hay không? Nếu năm mươi con theo mẹ ở trên đất, đất ở đây có phải chỉ là vùng cao nguyên miền núi hay không ? Nếu chỉ là cao nguyên miền núi, thì Hùng Vương và nước Văn Lang được hiểu thế nào trong tương quan với những người đồng bằng? Không phải là dân cư phần lớn kết hợp nên cộng đồng nước Văn Lang là người ở đồng bằng hay sao?
Giữa những nhận xét quá thiên về khoa học lịch sử và những câu hỏi vừa nêu, khó lòng tìm ra được những giải đáp thoả đáng.
Trong mạch văn chuyển từ phần I đến phần II, từ huyền sử (hướng đến một khung cảnh văn hoá phổ quát của nhân loại, và với lối diễn tả tượng trưng) đến sử khởi từ các tên gọi như Phong Châu, Hùng Vương, Văn Lang và các địa danh, danh xưng các vai trò điều hành xã hội đến những sinh hoạt cụ thể, ta thấy Âu Cơ, Lạc Long Quân, 100 con nằm ở phần I, nghĩa là phần huyền sử.
Lạc Long Quân là hình ảnh người Cha ẩn kín, chiều kích thâm sâu nơi mỗi người. Âu Cơ là hình ảnh Mẹ muôn người, chiều kích mở ra của cuộc sống con người trong thời gian, nơi nhân thế. Nên Âu Cơ ở đây không có tương quan gì với chế độ mẫu hệ theo khuôn khổ các chế độ gia đình và xã hội cả. Nhận xét nầy ăn khớp với khung cảnh xã hội phụ hệ trong toàn bản văn Lạc Long Quân; và năm mươi con về Thủy phủ đúng hơn là để nói đến hình ảnh một thế giới khuất mặt. Có lẽ tác giả đã gợi lên mối tương quan của kẻ đã chết (50 con ở Thủy tộc với cha), với thế giới con người đang sống (50 con ở trên đất), một giả thiết ăn khớp với niền tin tưởng chung của nhân gian hơn.
Do từ lối nhận xét nầy qua phần II, nơi lịch sử con người tượng trưng qua hình ảnh Âu Cơ, Hùng Vương thực sự là vua của toàn thể cộng đồng (50 con sống trên đất, nơi dương thế) không giới hạn thuộc bộ tộc nào, không phân biệt ở đồng bằng hay trên miền núi.
Phần II
- Đoạn năm
ở phần nầy, tác giả mô tả chi tiết hơn điều đã nói ở đoạn 2 phần I.
"Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ty , có luân thường về phụ tử phu phụ..." (đoạn 2, phần I).
Như thế theo ý tác giả, xã hội Việt Nam (qua hình ảnh Âu Cơ) cụ thể đã nghe theo lời dạy của Lạc Long Quân khuất mặt, ngụ ý rằng lịch sử của cộng đồng dân tộc Việt Nam được soi dẫn bởi đạo lý bên trong, điều hành đúng theo Cương Thường ghi khắc nơi lòng người (xem phần dẫn nhập của Vũ Quỳnh).
Trước hết đó là trật tự xã hội, tiếp đó là nếp sống sinh hoạt, phong phú, hài hoà trong tương giao gắn bó của ba chiều kích Trời - Đất - Người.- Câu kết : Tác giả dùng chữ Bách Nam để gọi tên nguồn gốc (Thủy tổ) của Bách Việt.
Nếu chữ Bách Việt thường dùng một cách quen thuộc để gán chỉ các bộ tộc ở phía nam Trung Hoa về mặt địa lý, thì chữ Bách Nam là một từ riêng của Lĩnh Nam Chích Quái. Trong toàn bộ câu chuyện huyền thoại ở phần I, tác giả đã làm nổi bật sự dị biệt văn hoá của Phương Nam và văn hoá của Phương Bắc. Phương Nam vừa là biểu thị một vùng địa lý, nhưng nơi câu truyện còn có nghĩa là nơi cư ngụ của Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, và nơi ẩn náu cho Âu Cơ. Phương Nam tượng trưng nầy là Nhân đạo qui hợp Đất - Trời, nơi gặp gỡ Lạc Long Quân và Âu Cơ, đối lại với một Phương Bắc tượng trưng cho một thể chế xã hội xơ cứng, hình thức (Đế nghi), giả tạo và gây tai hoạ (Đế Lai, Đế Du) cho nhân phẩm. Nên Bách Nam tượng trưng nầy chính là Thủy Tổ, tức là nguồn sinh lực văn hoá điều hành nếp sinh hoạt của dân tộc Bách Việt trong lịch sử.
Cũng nên nhắc lại là tác giả không ưu tư cổ súy một tâm tình, một hình thức dân tộc quá khích nào để xây dựng nên câu truyện. Nếu Thánh Kinh Do Thái giáo nêu lên một Ai Cập như là vùng đất kềm hãm con người trong vòng nô lệ, thì Ai Cập đó là hình ảnh của thân phận con người sống trong tội lỗi, chứ không có một tơ vương chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi nào trong đó; nơi Lĩnh Nam Chích Quái, Phương Bắc chỉ là một tượng trưng cho một thế giới giả tạo, nhân vi, có thể áp dụng cho bất cứ ai, bất cứ xã hội nào vào bất cứ lúc nào trong cuộc sống nhân loại.
Hồng Bàng Thị, tên gọi của câu truyện nầy, cũng là tên đặt cho Phương Nam, tức là Bách Nam thủy thổ cho Bách Việt. Nay từ nội dung chung của toàn bộ bản văn tên gọi đó có thể được giải minh như sau :
- Thị, không phải là một họ, nghĩa là tên gọi của một gia đình như Lê, Lý, Trần, Nguyễn. Thị ở đây được hiểu là một dòng giống, một dân theo nghĩa văn hoá, như ta thường nói dòng giống anh hùng, dân tộc thần thánh...
- Hồng Bàng: Vì tính cách khá bất ngờ chỉ xuất hiện trong Lĩnh Nam Chích Quái, danh hiệu Hồng Bàng hầu như là sáng tác riêng của tác giả cuốn sách nầy. Sáng tác dựa trên cơ sở dân tộc học (như mô típ chim được thấy nơi dấu tích của các Trống đồng, hay dựa vào các huyền thoại người Mường về Totem chim....) hay dựa vào một nguồn hứng khởi nào khác, tất cả đều còn là giả thiết.
Theo quan điểm của chúng tôi, những khám phá trong khuôn khổ của việc truy cứu lịch sử, với những tên như đất Kinh, đất Dương, đất Âu...hay những trùng hợp rất xác xuất của một số tên gọi trong Lĩnh Nam Chích Quái nơi phần huyền sử với các âm của thổ ngữ các dân tộc thiểu số, cũng như với các mô típ chim tổ, chẳng hạn...tất cả những dữ kiện đó không có gì mâu thuẫn với công việc sáng tác rất thư thái, tự do của một tác giả tận dụng các chất liệu nầy để xây dựng một câu chuyện hàm ngụ một sứ điệp văn hoá trong một chiều kích và ý nghĩa khác hơn. Nhưng chính việc chọn lựa một số tên, một số hình ảnh trong muôn ngàn yếu tố lịch sử khác để xây dựng một nội dung nhất quán theo ý mình có lẽ đáng làm cho ta lưu ý hơn cả.
Như thế, ta có thể dựa vào ý nghĩa chung có tính cách nhất quán của bản văn để hiểu rằng Hồng Bàng là một từ Hán Việt gây nên một âm hưởng về một cái gì phổ quát nguyên sơ.
Hồng là cao cả, to lớn,
Bàng là rộng khắp.
Một cách nào đó, có thể hiểu Hồng Bàng Thị là một lối nói thi ca diễn tả nhân loại tính phổ quát và cao cả của con người, từ nơi bản chất uyên nguyên của nó (nhân chi sơ) và thấy được trong những tương giao đầy tình nghĩa, sinh hoạt phong phú tự do và nhịp nhàng của xã hội trong lịch sử. Nội dung của chính bản văn mà ta đã trình bày ở phần trên xác minh cho lập luận giải minh nầy.
Chương IV : Chiều kích Đất
Bản văn: Truyện Ngư-Tinh
Trong biển Đông-Hải có loài Ngư-tinh, mình dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như chân rết, biến-hóa vô-cùng, linh-dị khó dò được; mỗi khi đi đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng đều sợ-hãi.
***
Thời thượng-cổ có loài cá mặt giống như mặt người, thường đi chơi trên bờ Đông-Hải, hóa thành hình người, ngôn-ngữ thông-hoạt dần dần sinh lớn ra người trai gái, lấy cá tôm, hến ốc làm vật ăn; lại có giống người mọi sinh ở hải-đảo lấy sự bắt người làm sinh-nhai, cũng thành ra người, cùng với đàn ông đổi chác các phẩm-vật như muối gạo, áo quần, dao búa, thường qua lại ở biển Đông-Hải; trong đó có núi Ngư-Tinh, miệng, răng nhô ra ngoài bờ biển; ở dưới núi có một chiếc hang lớn, đó là nơi cư-trú của Ngư-Tinh; thuyền nhân-dân qua lại phần nhiều bị hại; phong-ba hiểm-yếu, họ không có đàng nào mà tránh; muốn mở một lối đi ngả khác thì họ lại gặp cát đá không thể nào đào được.
Một đêm kia, có tiên xuống moi đá làm kênh cho sự thông-hành của loài người được tiện-lợi; kênh sắp được đào xong thì Ngư-Tinh hóa ra một con gà trắng gáy ở trên núi; quần tiên nghe thấy ngỡ là trời gần sáng nên đều tự-nhiên bay đi hết, nay gọi là đường Phật.
***
Đào-Kinh-Long 53 thương dân bị hại mới làm một con thuyền lớn, ra lệnh cho Thủy-Dạ-Xoa cấm thần biển không được làm gió sóng, chèo thuyền đến núi Ngư-Tinh, giả đem một người đến cho Ngư-Tinh ăn; Ngư-Tinh há miệng toan nuốt thì liền có một khối sắt nướng đỏ liệng vào trong miệng; Ngư-Tinh vùng-vẫy nhảy đến thuyền; Long-Quân chém được khúc đuôi, lột da treo lên trên núi, nay gọi là Bạch-Long-Vỹ; khúc đầu trôi ra ngoài biển, hóa ra chó mà chạy mất; Long-Quân lấy đá lấp biển thì chém được, nó bèn hóa ra đầu chó, nay gọi là Cẩu-Đầu; khúc mình trôi vào Man-Cầu, nay gọi là Cẩu-Man-Cầu là bởi đó vậy.
***
Truyện Hồ-Tinh
Thành Thăng-Long ngày xưa gọi là đất Long-Biên, đời Thượng-cổ đã có người ở rồi. Đến đời vua Lý-Thái-Tổ chèo thuyền ở bến sông Nhị-Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, nhân đó mới đặt tên là Thăng-Long và đóng đô ở đấy, tức là kinh-thành ngày nay vậy.
Buổi đầu, chỗ đất này về phía Tây có một ngọn núi đá, dưới núi có một cái hang, có một con hồ chín đuôi sống hơn một nghìn năm thành ra yêu-quái, biến-hóa vạn-trạng, có lúc hóa người, lúc hóa khỉ, đi khắp cả nhân-gian.
***
Lúc bấy giờ ở dưới chân núi Tản-viên có giống người mọi gác cây kết cỏ mà ở; trên núi có một vị thần được người mọi phụng-thờ. Vị thần ấy dạy cho người mọi cày ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi là Bạch-y-man 54. Hồ chín đuôi hóa ra người áo trắng nhập vào trong bọn mọi, cùng lũ mọi ca-hát, dụ-dỗ được người con trai con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá; người mọi lấy làm khổ-sở về việc ấy.
***
Long-Quân mới sai bộ-hạ Thủy-phủ dâng nước lên đánh phá núi Tiểu-Thạch-Sơn, đào thành một cái đầm lớn, chính giữa thành có một chiếc vực sâu, gọi là Thi-Hồ-Trạch (nay là hồ Tây) rồi lập chùa quán để trấn yểm nữa (nay là Thiên-niên-quán); bờ phía Tây bên đầm thì đồng-nội bằng-phẳng, ruộng ao cày cấy, gọi là Lỗ Hồ-Động. Chỗ nào cao-ráo thì đều có dân-cư, tục gọi là Hồ-thôn. Còn cái hang nay gọi là Lỗ-Hồ-Đàm vậy.
***
Truyện Mộc-Tinh
Thuộc địa-giới Phong-Châu, về đời thượng-cổ có một cây đại-thụ tên là Chiên-Đàn, thân cao nghìn tầng, cành lá sum-sê không biết mấy nghìn dặm, có chim thước làm ổ ở trên cây nên chỗ đất ấy đặt tên là Bạch-Hạc. Cây Chiên-Đàn trải qua không biết mấy nghìn năm đến khi khô-hủ thì hóa làm yêu-tinh, biến-hiện dũng-mãnh, hay thương-xót nhân-dân.
***
Kinh-Dương-Vương dùng thần-thuật thắng được yêu-tinh.
***
Nhưng yêu-tinh nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác, biến hóa bất-trắc, thường ăn người sống, dân phải lập đền thờ mà cầu-đảo. Mỗi năm đến ngày ba mươi tháng chạp dùng một người sống làm lễ tế thì con tinh ấy mới chịu thôi, mà nhân-dân cũng được yên-ổn, tương truyền với nhau là Thần Xương Cuồng. Địa-giới phía Tây-Nam gần nước Mi-Hầu, người trong nước khiến Bà-Lộ-Man (nay là Phủ Diễn-Châu) cướp lấy một người Lào nạp làm lễ tế, năm nào cũng lệ thường như vậy. Kịp đến khi Tần-Thủy-Hoàng sai Nhâm-Ngao sang làm quan Lệnh Long-Xuyên, Nhâm-Ngao đổi cái lệ đó, cấm không được đem người sống mà tế. Thần giạn, thần giết đi, từ đó về sau sự tế thần lại càng kính cẩn. Đến đời Đinh-Tiên-Hoàng, có một Pháp-sư tên là Dũ-Văn-Mâu người Tàu, tu-hành chín-chắn, tuổi hơn bốn mươi, đã chu-du các nước, thông hiểu nhiều ngôn-ngữ, tập được phép nanh vàng răng đồng, khi sang đến nước ta thì đã tám mươi tuổi; Tiên-Hoàng lấy lễ thường mà đãi-đằng. Dũ-Văn-Mâu dạy lấy kỹ thuật phỉnh thần Xương-Cuồng rồi giết đi. Phép ấy gọi là: Thượng-kỵ, Thượng-can, Thượng-thát, Thượng-toái, Thượng-câu, Thượng-hiểm, hoặc làm người ngã ngựa, hoặc làm đứa con hát, mỗi năm đến tháng mười một, làm một cái Phi-lâu cao mười hai trượng, giữa trồng một cây cọc, rồi lấy gai đánh một sợi dây lớn, dài một trăm ba mươi sáu trượng ba thước, lấy mây chẻ nhỏ vấn ra ngoài, hai đầu mối dây chôn cứng dưới đất, đoạn giữa gác lên trên cọc, Thượng-kỳ là đạp trên dây, đi mau hai ba dạo mà không ngã, đầu bịt khăn đen mình mặc quần đen. Thượng-can là lấy sợi dây dài một trăm năm mươi trượng, có ba ngả, hai người cầm cờ đi lên trên sợi dây, hễ gặp nhau ở ngã ba thì tránh đi, lên xuống không ngã. Hoặc làm phép Thượng-thát là lấy cây gỗ lớn vuông vắn một thước ba tấc, bề dày bảy phân, đặt lên trên một cây cao mười bảy thước. Thượng-thát ở trên bay nhảy hai ba lần, tới lui nghiêng-ngửa. Hoặc làm phép Thượng-toái là lấy tre đan một cái lồng hình như nơm cá, dài ba thước, chu-vi bốn thước, Thượng toái gieo mình vào trong, đứng dậy mà không ngã. Hoặc là phép Lạc-mã là người cỡi trên ngựa cho ngựa phi, rồi cúi mình xuống lấy vật để trên mặt đất mà không ngã. Hoặc làm phép Thượng-câu, Thượng-hiểm là một người nằm ngửa, lấy chân cái sào dài, khiến đứa trẻ leo lên. Hoặc làm phép Xướng-nghi là hội trẻ nhỏ lại đánh chiêng trống, rồi ca-vũ ngâm xướng ồn-ào huyên-náo và giết sinh-vật để tế thần. Thần-tinh đến ăn và xem các trò; Pháp-sư niệm bí-chú, tuốt gươm chém đi. Thần Xương-Cuồng và tất cả bộ-hạ đều bị giết hết.
Từ đó miễn được cái họa dân người hằng năm, mà sinh-hoạt của nhân-dân được bảo-toàn vậy.
Phần minh giải
I - Thứ tự của ba mẩu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh
Theo nhận xét của giáo sư Lê Hữu Mục trong bài dẫn nhập của bản dịch cuốn Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính 55 thì các truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh được xếp rải rác vào các số 15, 16 và 22 trong bố cục của bản chính, nghĩa là bản gốc. Và như chúng ta đã từng nhận xét trước đây, bố cục toàn cuốn sách được Vũ Quỳnh sắp xếp lại không hẳn dựa theo tiêu chuẩn thời gian như lời bình của dịch giả họ Lê. Chẳng hạn truyện Núi Tản Viên (Sơn Tinh - Thủy Tinh) được ghi là vào thuở ban đầu của họ Hùng Vương và là một chuyện thần thoại, thì được xếp vào truyện thứ 15, sau câu truyện Bánh Chưng (số 8), nghĩa là sau Đời Hùng Vương thứ ba 56. Ngay cả trong 3 truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh được xếp theo thứ tự 2, 3, 4 thì hai truyện đầu nói đến Lạc Long Quân, và truyện thứ ba lại gợi lên nhân vật Kinh Dương Vương (là cha của Lạc Long Quân). Những chứng cớ đó cho thấy việc sắp xếp lại bố cục cuốn sách nầy của Vũ Quỳnh hàm ngụ một lý do khác, đó là lý do về sự mạch lạc của hệ thống tư tưởng. Ba câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh đặt nổi mối tương quan giữa con người và trật tự tự nhiên và những nguy cơ của việc hiểu lầm tương quan nầy như là chiều kích duy nhất của nhân tính.
Dựa vào cách hành văn của ba câu truyện, rõ rệt ta thấy tác giả của bản chính (có lẽ là Trần Thế Pháp) đã cố gắng kết hợp các mẩu chuyện dân gian để xây dựng nên một cấu trúc tư tưởng.
Nhưng đối chiếu với câu chuyện Hồng Bàng Thị, và so sánh bố cục của từng truyện trong ba truyện nầy, ta thấy lối hành văn của Lĩnh Nam Chích Quái có những điểm đặc biệt đáng lưu ý:
- Tuy có sự hiện diện của các nhân vật tượng trưng, thần thoại, nhưng bản văn Hồng Bàng Thị thể hiện một lối diễn tả văn chương cô đọng; các chi tiết đối ứng gắn bó với nhau thành một hệ thống mạch lạc. Có thể nói đây là bản tóm lược của một luận đề triết học được diễn tả một cách thần tình qua các chất liệu của văn chương tiểu thuyết.
- Ngược lại ở hai truyện Ngư Tinh và Hồ Tinh và phần đầu của truyện Mộc Tinh, từ lối diễn tả liệt kê các chi tiết bóng nổi, những hình ảnh thuộc trí tưởng tượng dân gian, đến việc đối chiếu các mẩu chuyện với các địa danh có liên quan nội dung câu chuyện, hình thức văn chương ở đây thoạt tiên cho ta có cảm tưởng như phát xuất từ một cảm hứng khác. Hơn thế nữa phần hai của câu truyện Mộc Tinh lại đưa thế giới thần thoại nối kết giã tạo vào một khung cảnh lịch sử (lúc đầu nhắc đến Tần Thủy Hoàng, Nhâm Ngao, sau đó là Đinh Tiên Hoàng) với sự can thiệp của một pháp sư tên là Dũ Văn Mâu từ Trung Hoa đến, và được tường thuật bằng một lối diễn tả rườm rà, mạch văn đứt đoạn, nội dung tư tưởng hầu như mâu thuẫn với hai câu truyện Ngư Tinh và Mộc Tinh trước đó.
Phải chăng phần hai truyện Mộc Tinh nầy đã được viết ra do một người nào khác hơn là tác giả của chuyện Hồng Bàng Thị ?
II - Hình thức văn chương và bố cục các truyện
II 1- Truyện Ngư Tinh
Câu truyện được sắp xếp làm bốn phần :
- Phần 1 : Mở đầu với việc xác định địa dư là biển Đông Hải; giới thiệu Ngư Tinh, to lớn và có hình thù quái dị, có uy lực, hại người "ai cũng đều sợ hãi".
- Phần 2 : Mô tả một Ngư Tinh, vừa loài vật, vừa có hình người, vừa có uy lực sát hại như ác quỷ.
- Phần 3 : Tiên trên trời xuống giúp người hoá giải nạn Ngư Tinh, nhưng không thành công.
- Phần 4 : Đào Kinh Long, tức Lạc Long Quân dùng uy lực của mình chém đuôi, lột da, và cuối cùng giết chết Ngư Tinh.
Hình ảnh văn chương trong truyện nầy diễn tả Ngư Tinh rất linh hoạt, đầy màu sắc ghê rợn ăn khớp với sức tưởng tượng của dân gian. Gs Lê Hữu Mục, khi nhận xết các câu truyện thần thoại trong Lĩnh Nam Chích Quái có ghi : "Các nhân vật trong truyện còn mang những kích thước kỳ dị của thời đại ban sơ, không khí còn thơm mùi đất mới; cả thế gian đang bừng nở trong ánh nắng buổi đầu 57. Nhận xét nầy áp dụng thích đáng cho bản văn truyện Ngư Tinh. Thêm vào đó, ở phần hai, khi mô tả uy lực ma quái của Ngư Tinh, tác giả chen vào những sinh hoạt cam go nguy hiểm của dân chúng đi lại trân biển Đông Hải.
Hai tình cảm nổi bật của dân chúng trước Ngư Tinh là sợ hãi và bất lực.
II 2- Truyện Hồ Tinh
Bố cục trong truyện gần giống với truyện Ngư Tinh.
- Phần 1: Mở đầu bằng việc xác định vùng địa dư là thành Thăng Long; mô tả câu truyện rồng dẫn đường vua Lý Thái Tổ để giải thích tên gọi vùng đất nầy.
- Phần 2 : Giới thiệu nhân vật "con hồ chín đuôi" yêu quái, biến hoá thành người, thành khỉ để bắt nhốt dân cư trong vùng vào hang.
- Phần 3 : Một vị thần áo trắng tên Bạch-y-man được mọi người phụng thờ, không thể khống chế được "hồ chín đuôi".
- Phần 4 : Long Quân sai bộ hạ Thủy phủ dâng nước lên trừ được Hồ Tinh.
Câu truyện được diễn tả tóm lược hơn câu truyện đầu, nhưng một ít chi tiết ở phần cuối lại gợi lên nếp sống làm nông của dân chúng : "...hồ phía Tây bên đầm thì đồng nội bằng phẳng, ruộng ao cày cấy, gọi là lỗ Hồ Động chỗ nào cao ráo thì đều có dân cư, tục gọi là Hồ Thôn".
II 3- Truyện Mộc Tinh
Chuyện nầy có thể chia làm 2 phần lớn.
Phần 1 : Tóm lược một câu truyện đại thể giống như nội dung của 2 truyện trước.
Khởi đầu giới thiệu vùng địa lý là địa giới Phong Châu. ở đây có một cây đại thụ ma quái tên là Chiên Đàn, cao lớn, biến hoá thành yêu tinh, có uy lực làm hại dân. Kinh Dương Vương dùng Thuần Thuật thắng được yêu tinh.
Phần 2 : Yêu tinh chưa thua hẳn, lại còn biến hoá, ăn thịt người. Dân lập đền thờ...dâng tế người sống hằng năm, gọi tên nó là Thần Xương Cuồng.
Tiếp đến lại chuyện Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao sang làm quan Lệnh Long Xuyên, cấm không được đem người tế lễ. Nhưng Thần giận, Thần giết đi và dân lại sợ.
Đến đời Đinh Tiên Hoàng, có một pháp sư từ Tàu đến tên là Dũ Văn Mâu, dùng các phép Thượng kỵ, Thượng-can, Thượng-thát, Thượng-toái, Thượng-câu, Thượng-hiểm, dụ được Thần Xương Cuồng đến xem ca vũ rồi niệm chú mà giết đi.
Nhận xét : So sánh với hai câu truyện đầu ta thấy phần 2 nầy về mặt hình thức văn chương lẫn nội dung không ăn khớp với sự nhất quán của bản văn: Điểm nghịch lý ở đây là pháp thuật của một pháp sư Dũ Văn Mâu nào đó từ Tàu đến lại uy lực hơn Thần thuật của Kinh Dương Vương.
Sự can thiệp của các nhân vật lịch sử như Tần Thủy Hoàng, Nhâm Ngao, Đinh Tiên Hoàng không thích ứng để ghép vào một câu truyện tượng trưng, thần thoại.
Lối văn liệt kê các chi tiết rườm rà, kéo dài bằng hai truyện cộng lại để giải thích một cách tẻ nhạt các loại pháp thuật không ăn nhập vào đâu, rõ rệt là ngược lại với các hình ảnh đầy màu sắc thiên nhiên trong hai truyện đầu.
Qua phân tích nầy, ta có thể giả thiết một cách đứng đắn rằng, phần hai của truyện nầy là một sự ráp nối thêm thắt của một tác giả về sau khi sửa chữa các câu truyện. Chi tiết nầy có thể hữu ích cho việc nghiên cứu về xã hội học để tìm hiểu ảnh hưởng của các hình thức bùa chú, pháp thuật từ Trung Hoa tràn đến nước ta. Nhưng trong khuôn khổ truy tìm một hệ thống tư tưởng nhất quán có giá trị Minh triết của Lĩnh Nam Chích Quái, chúng tôi quyết định bỏ qua phần hai câu truyện nầy.
III - Phân tích ý nghĩa của ba câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh
III 1- Bố cục đặc biệt của các câu truyện
Tên gọi Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh trước hết gợi lên hình ảnh của các khung cảnh thiên nhiên, những môi trường sống tự nhiên của cộng đồng người Việt: Đông Hải và sinh hoạt của lớp người sống bằng nghề đánh cá, đi lại trên biển; đất Long Biên và sinh hoạt của lớp người ở đồng bằng sống bằng nghề nông nghiệp; địa giới Phong Châu và sinh hoạt của lớp người ở miền thượng du, sống bằng nghề làm rẫy, hái trái cây rừng và săn thú...
Các tên gọi nầy thể hiện một hình thức thần-nhân-hoá một con thú hay một loại cây tiêu biểu cho một khung cảnh thiên nhiên; về phương diện xã hội học, đó là một hiện tượng tâm lý rất phổ quát của các cộng đồng con người vào thuở ban sơ. Nhưng đặc biệt ở đây tác giả không phải nhắm vào mô tả các sự kiện khách quan của khung cảnh thiên nhiên, hay sinh hoạt xã hội vào thủa hồng hoang nầy. Tác giả nhắc đến các sự kiện khách quan để gợi lên một tương quan bất cập, tiêu cực: Thiên nhiên trở thành một mối đe dọa đến sinh mạng con người, uy lực thiên nhiên tạo sợ hãi, và uy lực đó được con người cảm nhận như một sức mạnh ma quái làm tê liệt sức đề kháng của mình.
Ở truyện Ngư Tinh, tác giả nêu lên sự can thiệp của "Tiên xuống moi đá làm kênh cho sự thông hành của loài người được tiện lợi".
Ở truyện Hồ Tinh, tác giả ghi lại sự can thiệp của "một vị thần dạy cho người mọi cày ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi là Bạch y man".
Nhưng việc làm đầy thiện chí của các vị tiên thánh nầy không đem lại kết quả. Câu chuyện đến đây nhắc chúng ta nhớ lại những nội dung tương tự trong Kinh Thư của Trung Hoa và kịch phẩm "Prométhée bị trói" của kịch giả Hy Lạp Eschyle.
Trước thiên tai là lụt lớn gây thiệt hại cuộc sống an lành của người dân, Vua Nghiêu nhờ Bá Cổn trị thủy. Nhưng Bá Cổn không thuận với trời, không hoà với người cho nên chín năm làm không được công trạng gì 58. Sau Vua Thuấn nhờ thầy Vũ gợi ý "khơi các con sông ở 9 châu, đào sâu các ngòi, lạch ở các ruộng, ra đến sông..." 59 . Câu truyện đó được Vua Thuấn giải minh và kết luận rằng: "Nhân tâm duy nguy; đạo tâm duy vi. Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết Trung".
Văn hoá Hy Lạp diễn tả cũng một câu truyện đó với một kết luận khá bi quan như sau: Nhân vật thần thoại Prométhée của kịch giả Eschyle vì thương con người khổ đau nơi dương thế đã bất chấp ý trời là Zéus để đề nghị những thuốc cứu giả tạo, tạm thời:
Prométhée - "Vâng, ta đã làm dứt nỗi hãi hùng của con người trước cái chết.
Ca Trưởng - Ông đã dùng phương thức nào để chữa trị ?
Prométhée - Ta đã đặt nơi lòng họ những mơ ước hão huyền.
Ca Trưởng - Ông thật đã cho con người hay chết món quà đáng quí!
Prométhée - Ta còn làm nhiều hơn thế nữa: đã biếu cho chúng lửa.
Ca Trưởng - Và nay lửa sáng chói ở trong tay những sinh vật phù du!
Prométhée - Vâng, và bọn chúng, từ lửa nầy, sáng chế nhiều nghề, thực hiện nhiều tài cán...".
Và sự thất bại của trò bù trừ giả tạo nầy được diễn tả qua hình phạt mà Prométhée phải gánh chịu trường kỳ: bị trói đưa lên đỉnh núi Caucase, để phượng hoàng của Zeus mỗi ngày đến moi gan.
Văn hoá nguyên thủy của Trung Hoa cũng như thời bi kịch Hy lạp cảnh giác rằng thiên nhiên, thời gian, nếu là một thành tố cấu tạo, dưỡng nuôi con người, thì thành tố đó cũng có thể là một mối đe dọa, gây tai họa và ngay cả làm chết con người. Và chính từ tương quan khó khăn, bi thảm đó, con người thoáng nhận ra Một Nguồn gốc ẩn kín: "Đạo Tâm Duy Vi", chân lý tuyệt đối làm con người ước mong, tưởng nhớ, nhưng không thể sở đắc, chế ngự được do tự sức mình.
Nơi ba câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh con người bị chơ vơ giữa thiên nhiên: Thiên nhiên không những được diễn tả như là mối đe dọa cho con người, nhưng còn gây cho con người một tâm thức rối loạn. Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh như mặc lấy quyền uy của một Đào Kinh Long tức là Lạc Long Quân ẩn mặt. Và chính vì nhận thức lầm uy quyền thần thánh nơi thiên nhiên nên quyền uy đó trở thành một thứ ma lực, phỉnh gạt làm hại con người.
Trước thực tế khó khăn, con người đi tìm phương thuốc cứu chữa. Sophocle, văn hào Hy Lạp, mô tả rằng thân phận con người trong thời gian như nhân vật Oedipe mất gốc (gốc đó là cha của ông, tên là Laios ; nhưng ông đã giết đi rồi). Oedipe vô tình chuyển đổi nỗi thiếu vắng nguồn gốc và lý lịch mình bằng việc dùng tài trí chế ngự thiên nhiên, thiên nhiên ấy được tượng trưng qua nhân vật Jocaste, tức là chính mẹ của Oedipe. Phương thức cứu chữa của Oedipe đã tạo tai họa cho dân thành Thèbes.
Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái trong các câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, lại nêu lên phương thức cứu tạm thời của dân cư trong vùng qua niềm tin chơn chất của ngay cả người lương thiện vào các bậc thần minh: Các Tiên từ trời xuống ở truyện Ngư Tinh, Bạch-y-man vị nhân thần luôn luôn cứu nhân độ thế, được người mọi phụng thờ ở truyện Hồ Tinh... Trên bình diện xã hội học, ta có thể đã nhận ra rằng sinh hoạt về kiến thức sự vật đã thịnh hành trong văn minh Hy Lạp thời Sophocle, và tâm tình sùng tín ngây thơ và bất cập đã phổ biến mạnh mẽ nơi tâm hồn người dân Việt Nam, đặc biệt vào thời đại sáng tác nên cuốn Lĩnh Nam Chính Quái. Nhưng ở đây điều đáng lưu ý là yêu sách Minh triết của các tác giả các truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh lại giống với yêu sách tôn giáo của nhân vật Gióp trong Kinh thánh Do Thái giáo. Tác giả mạnh dạn nêu lên rằng thiện chí của con người, tập tục, niềm tin thần thánh còn mơ hồ chưa đủ để giải quyết những khó khăn của con người trước thiên nhiên và cuộc sống; không trả lời hết những thắc mắc về một nền Đạo lý căn đế và phổ quát liên quan đến thân phận con người trong thời gian. Giải pháp tối hậu phải là chân tánh qua hình ảnh Lạc Long Quân.
Phương thức đặt vấn đề một cách rốt ráo như thế cho phép ta đưa ra các nhận định sau đây :
- Các mẩu chuyện dân gian xem ra còn thô thiển nầy kỳ thực đã được hệ thống hoá một cách nghiêm túc về mặt tư tưởng.
- Tác giả của các câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh cũng như phần đầu của truyện Mộc Tinh và tác giả truyện Hồng Bàng Thị là một người: Lối diễn tả linh động khác nhau về mặt văn chương giữa các bản văn chỉ phản ảnh tài năng phong phú của tác giả, uyển chuyển thích ứng với nội dung của mỗi bản văn mà thôi.
- Ở các truyện sau nầy, tác giả không lặp lại lời kêu van cầu cứu Lạc Long Quân, nhưng toàn khối nội dung câu truyện Hồng Bàng Thị hàm ngụ trong đề mục nầy.
Giải pháp rốt ráo mà Lĩnh Nam Chích Quái nêu lên đó là Lạc Long Quân: Toàn Mỹ, Toàn Chân, Toàn Thiện của chân tính . Trước nguy cơ của con người đối diện với thiên nhiên, Lạc Long Quân lại đến và tạo nếp sống hài hoà an bình cho dân trong vùng, tận diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh. Ở truyện Ngư Tinh, Lạc Long Quân được gọi là Đào Kinh Long. Học giả Lê Hữu Mục chỉ ghi trong phần chú thích rằng Đào Kinh Long chính là Lạc Long Quân, mà không gợi thêm một lối giải thích nào về tên gọi nầy. Nhưng ở truyện Mộc Tinh, thay vì Lạc Long Quân, tác giả lại ghi tên nhân vật cứu độ đó là Kinh Dương Vương. Ta thấy ít nhất, ở đây chữ kinh gợi lên một nét hàng dọc, hướng đi lên, chiều kích thường hằng, vĩnh cửu, bên trong, tức là yếu tố "trời" trong ba yếu tố của Tam Tài : Đất - Trời - Người. Nhưng Lạc Long Quân lại còn là biểu thị cho sự hội tụ của Tam Tài nữa.
Đối chiếu với câu truyện mở đầu sách Lĩnh Nam Chích Quái, truyện Hồng Bàng Thị, ta thấy nội dung ba câu truyện kế tiếp Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh cũng không khác với nội dung cuốn đầu; nhưng bố cục và lối diễn tả văn chương khác nhau :
- Nội dung chung của các câu truyện là nhân tính toàn diện được thể hiện qua ba chiều kích bất khả phân ly Đất - Trời - Người.
- Ở truyện Hồng Bàng Thị, Viêm Đế, Thần Nông, Đế Minh, (Trời - Đất - Người) được nêu lên ở phần đầu như là một trực giác về nhân tính nguyên sơ. Tiếp đó là hành trình của cuộc sống con người thể diễn cam go trong lịch sử. Đây là một bố cục có tính cách diễn dịch, đi từ nguồn đến ngọn, từ thể đến dụng. Nhưng ở trong các câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh, tác giả dùng lối qui nạp, nghĩa là đi từ hoàn cảnh thực tế con người trong vũ trụ thiên nhiên, qua thời gian và lịch sử để chứng thực tiến trình khai mở dần hồi các chiều kích của nhân tính.
- Nơi truyện Hồng Bàng Thị, bước sai trật của nhân tính trong lịch sử được nghiệm thấy từ một thực tế đã xảy ra rồi nơi xã hội cô đọng, qua hình ảnh Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du. Có thể nói Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du là hình ảnh của cuộc sống nhân vi, giả tạo đã từng được gợi lên trong Đạo Đức Kinh (Lão Tử), thế giới bá đạo theo quan điểm của Nho học, Karma, hành tạo nghiệp chướng trong triết lý nhà Phật, hoặc là vương quốc thành Thèbes của Oedipe, tức là hình ảnh con người vì vô minh đã quên và diệt nguồn chân lý (được tượng trưng qua hình ảnh Oedipe giết Laios trong kịch bản của Sophocle). Bằng một lối diễn tả khác, trong câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, tác giả Lĩnh Nam Chính Quái không vận dụng lối văn luận thuyết để phê phán về sai - đúng, tốt - xấu, nhưng mô tả thực tại cam go mà con người phải gánh chịu, nói theo ngôn ngữ của Martin Heidegger là thân phận cụ thể của con người tại thế (Da-sein) một hữu thể dòn mỏng, bơ vơ bị "đôi vào cuộc sống" (un être jeté). Con người, sợ hãi, lo âu đi tìm lối thoát.
Đây hẳn là con đường tìm đạo của một Tất Đạt Đa trước khổ đau của hiện sinh. Như bước đầu Ngài đã tìm giải pháp nơi khổ hạnh với sự chỉ dẫn về phương pháp thiền định của hai vị ẩn sĩ trong rừng là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta 62. Dân cư vùng biển Đông Hải, dân cư đất Long Biên cũng đã kêu cầu đến quyền lực của vị Thần Bạch-Y -Man trên núi Tản Viên, nhưng thiện chí của con người, niềm tin dễ dãi vào Thần minh mơ hồ, huyền hoặc và ngay cả kỹ thuật tu đức, tự chúng vẫn không đem lại một giải pháp tối hậu.
- Giải pháp tối hậu là Đào Kinh Long hoặc Lạc Long Quân. Theo bố cục của câu truyện, Đào Kinh Long không phải là một đợt tìm tòi kế tiếp, nhưng một sự can thiệp bất ngờ. Có thể nói có một tiến trình đi tìm từ nơi con người và có một kinh nghiệm gặp gỡ. Hai sự kiện không đối kháng nhau nhưng khác nhau. Đào Kinh Long gợi lên sự gặp gỡ một chiều kích ẩn kín; mà nếu thiếu vắng chiều kích nầy thì hiện sinh sẽ là bào ảnh, nhân vi (xem tư tưởng nhà Phật và Lão), là đêm tối theo nghĩa Thánh Kinh Thiên Chúa giáo : "Họ ra đi, lên thuyền; đêm đó, họ không bắt được gì" (Gioan 21,3). Các chữ trong tên gọi Đào Kinh Long gợi lên công việc làm của Thầy Vũ trong Kinh Thư, đào sâu lòng sông, và được Vua Thuấn giải minh là "Duy tinh, duy nhất, doãn chấp quyết Trung". Và Đào Kinh Long đó cũng là cũng là nội dung của chữ Tâm trong phần cuối của Truyện Kiều :
"Có Tài mà cậy chi tài !
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
....
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Đào Kinh Long, hay Lạc Long Quân không phải là một ai, một vật gì thuộc phạm trù "bản chất" đối tượng của kiến thức con người về sự vật. Triết gia Martin Heidegger đã nhận ra rằng truyền thống siêu hình học Tây phương đã dựa vào phạm trù bản chất nầy nghĩa là dựa trên nền tảng của thắc mắc vật nầy là gì "quid est". Truyền thống suy tư nầy tiền kiến rằng mỗi vật thể trụ vào bản thể của mình "ens qua ens", đồng nhất tính với chính mình, ổn cố trong bản chất cô đơn đóng kín đó, và được nhận ra như thế đó là chân lý. Theo ông, con đường suy tư truyền thống đó là một sự hiểu lầm và sử dụng lầm về nội dung tư tưởng .
Với một lối diễn tả khác triết gia Georges Gusdorf gợi ý rằng : "Huyền thoại thiết định một lối hiểu biết truyền thống, vừa nhất quán lại vừa tãn mạn làm mẫu mực hướng dẫn đời sống đồng thời làm mẫu mực cho kiến thức, nơi lối hiểu biết đó các ưu tư thuộc về thân phận con người (motivations humaines) là những yếu tố ưu thắng vượt lên trên các chủ đề về thiên nhiên vật lý".
Điều mà Martin Heiddeger nêu lên khi cho rằng tư tưởng siêu hình học Tây phương là một sự hiểu lầm ở đây có thể được hiểu là tư tưởng triết học đã từ lâu được đồng hoá với việc truy tìm bản chất của vật thể; và vô tình trong khuôn khổ đồng hoá minh triết với kiến thức về sự vật, con người và thần thánh đã bị đóng khung trong thế giới những vật thể vô hồn và đóng kín. Hệ quả là có một sự chuyển đổi các mối tương quan nguyên sơ, làm tha hoá các chiều kích của nhân tính: vật thể như con cá, con chồn hay cây cỏ được mang một hình thù quái dị, giả tạo, tưởng như là người, như là thần (Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh), nhưng tất cả chỉ là thế giới của nhân vi và ảo giác.
Tư tưởng, minh triết nơi Lĩnh Nam Chích Quái không phải không lý đến sự hiểu biết về sự vật, nhưng nói theo ngôn ngữ của Georges Gusdorf ưu tư chính yếu là ý nghĩa của cuộc sống và thân phận con người. Tư tưởng là tiếp nhận một hơi thở, một cảm năng, tức là hội tụ và phát triển các mối tương giao toàn diện làm cho con người sống đúng thân phận mình. Sự sống đó (sens) là năng lực của các mối tương giao, ta còn gọi là những chiều kích nối kết con người với Trời và Đất và đồng loại.
Lạc Long Quân là Sùng Lãm, nơi tụ hội của Kinh Dương Vương (Trời) và Long Nữ (Đất) cư ngụ nơi thời gian, không gian, nhưng vượt lên thời gian và không gian. Khi một trong ba chiều kích nầy bị quên lãng, thì tư tưởng là sức sống con người sẽ bị rối loạn, làm xuất hiện nhiều thế giới của Ngư Tinh, Hồ Tinh Mộc Tinh, và nhiều loại tinh ma khác.
III 2- Tương quan giữa người và thiên nhiên
Trong bản văn truyện Hồng Bàng Thị, tác giả Lĩnh Nam Chích Quái mở đầu bằng câu : "Cháu ba đời Viêm đế họ Thần Nông tên là Đế Minh". Viêm đế là hình ảnh của sự sống của Trời (Viêm là hơi nóng bốc lên) ban cho sự sống của người (Đế Minh), và tiếp liền tác giả mô tả sự sống đặc biệt đó của nhân tính là sự qui tụ và phát huy của ba mối tương giao : Thần Nông (Đất) - Vụ Tiên (Trời) - Lộc Tục (Người). Tam Tài nầy trùng hợp với Tam Tài của văn hoá Trung Hoa: Phục Hi (Trời), Thần Nông (Đất), Hoàng Đế (Người). Nhưng điểm dị biệt ở hai nền văn hoá nầy là phương cách diễn tả: Văn hoá Trung Hoa xếp Phục Hi ở đợt khởi thủy, còn văn hoá Việt Nam xếp Thần Nông vào vị trí đầu. Và trong toàn bộ bản văn Lĩnh Nam Chích Quái, tiếp theo bài tổng luận (truyện Hồng Bàng Thị) Vũ Quỳnh xếp ngay liền các truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh.
Như ta đã trình bày phần trên, ba yếu tố Đất - Trời - Người trong các truyện nầy đều gắn bó với nhau, hàm ngụ cùng một nội dung như câu truyện đầu, nhưng đề tài nổi bật được nêu lên là nói đến mối tương giao của con người với trật tự tự nhiên. Hơn thế nữa trong mỗi câu truyện trong ba truyện nầy, tác giả mở đầu bằng việc xác định ngay tức khắc một khu vực địa lý thiên nhiên :
- "Trong biển Đông Hải" - (Ngư Tinh)
- "Thành Thăng Long ngày xưa gọi là đất Long Biên" - (Hồ Tinh)
- "Thuộc địa giới Phong Châu về đời thượng cổ" - (Mộc Tinh)
Nét đặc biệt đưa Thần Nông thiên nhiên ở vị trí đầu như thế cho thấy tâm thức của người Việt có lối cảm nhận trực tiếp và diễn tả qui nạp, nghĩa là đi từ nhận thức khả giác, kinh nghiệm cụ thể để dần hồi khám phá những chiều kích ẩn kín, phổ quát, cao rộng hơn. Và đây cũng là một lý do giải thích tại sao các tác giả văn học nước ta vào các đời Trần, Lê không bắt đầu bằng việc sáng tác những Kinh, Sách theo mẫu mực lý thuyết có tính cách phổ quát, trừu tượng của văn học minh triết Trung Hoa (chẳng hạn cuốn Đạo Đức Kinh, Trung Dung...).
Nhưng ngoài khuynh hướng tâm lý yêu mến thiên nhiên, quen thuộc lối diễn tả bằng những hình ảnh của sinh hoạt cụ thể hằng ngày, phải chăng truyền thống văn hoá Việt Nam, đặc biệt nội dung minh triết trong Lĩnh Nam Chích Quái nhấn mạnh rằng yếu tố vật chất, thiên nhiên chi phối và quyết định nhân tính và vận mệnh của con người? Và thứ đến, phải chăng đã có những manh mối trong các bản văn của Lĩnh Nam Chích Quái cho thấy đây là một lối diễn tả thô sơ của một học thuyết duy nhiên (naturalisme), hay duy vật (matérialisme) theo cách hiểu của truyền thống triết học Tây phương. Như ta đã trình bày ở phần trên, ưu tư văn hoá hay còn gọi là tư tưởng truyền thống Việt Nam không nhằm truy tìm bản chất sự vật theo đường hướng của siêu hình học cổ truyền Tây phương.
Qua các bản văn chúng ta vừa nghiên cứu, không có một đọan văn nào, câu nào trong đó tác giả cố tâm nhằm truy cứu, mô tả hay định nghĩa một đối vật nào bất kỳ. Cũng vì thế nếu quen với lối suy tư dựa vào kiến thức sự vật, ta sẽ rất ngạc nhiên là trong một bản văn khai nguyên về nguồn gốc dân tộc, tại sao không có những yếu tố xác minh về sự hình thành con người theo nguyên tắc nhân quả. Việc diễn tả con người từ bọc lớn một trăm trứng thường được hiểu là một kiến thức hồ đồ, một trình độ khoa học còn ấu trĩ. Nhưng khung cảnh tư tưởng, lối diễn tả thi ca của toàn bản văn có cho phép ta có nhận xét đó không? Những từ ngữ như trời tròn, đất vuông, mẹ tròn, con vuông, có phải để diễn tả sự vật khách quan theo tiêu chuẩn khoa học hay nhằm gợi lên một ý nghĩa khác ?.
Viêm Đế, Thần Nông, Đế Minh, Lộc Tục...không phải là ai hay vật gì để có thể truy cứu, mà chỉ là những tượng trưng cho ý hướng mở ra của cuộc sống con người. Nói cách khác tư tưởng là đạo, là con đường sống của chính con người. Thiên nhiên, vật chất không hề được đặt nổi lên như một đối tượng riêng để truy cứu như ba đối tượng nghiên cứu của siêu hình học chuyên biệt trong truyền thống triết học Tây phương: Con người, Thượng Đế và Vũ trụ; lại càng không được quan niệm là một yếu tố duy nhất và nguyên thủy làm nên một vật thể là con người, khống chế toàn bộ cuộc sống con người. Thần Nông (đất) biểu thị cho chiều kích của nhân tính trong khuôn khổ trật tự tự nhiên nghĩa là thời gian, không gian cụ thể; giản lược nhân tính trong chiều kích đó mà thôi, thì Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh sẽ xuất hiện, nghĩa là nhân tính bị thoái hoá. Ở đây chúng ta không thấy dấu tích của việc đánh giá thiên nhiên, vật chất như một phản đề của tinh thần, xuất hiện để từng giai đoạn thăng tiến, hoàn thành nhân tính toàn diện như biện chứng pháp của Hegel, lại càng không phải là thiên nhiên vật chất trong duy vật biện chứng pháp của Marx.
Tình trạng sa sẩy của con người trong lịch sử, khi chỉ biết đến thời gian - không gian và thế giới vật chất (tức là thế giới trong tầm tay sử dụng của con người), khi quên lãng hay đánh tráo chiều kích ẩn kín, hướng thượng (= Trời), là một nguy cơ trường kỳ gắn liền với thân phận con người bất kỳ ở thời đại nào. Do đó các mẩu chuyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh luôn có giá trị văn hiến, vì chúng không phải là một bản văn mô tả tâm thức của một nhóm người trong một giai đoạn lịch sử, nhưng là biểu tượng của nhân tính phổ quát vượt thời gian và không gian.
Điểm lưu ý thứ hai là việc lầm lẫn hai nội dung chủ thuyết duy nhiên và tình trạng hồn nhiên-tự nhiên. Thiên nhiên trong chủ thuyết duy nhiên (naturalisme) là vật chất và sức mạnh nội tại của nó được đánh giá như là thành tố tác tạo nên bản chất của nhân tính. Còn chữ tự nhiên (spontané, originel) được gợi lên, chẳng hạn trong truyện Đầm Nhất Dạ (ảnh hưởng tư tưởng Lão Trang), là nhân tính nguyên sơ không có sự phê phán, can thiệp sửa đổi do hành vi sai trái của con người. Tự nhiên trong Lĩnh Nam Chích Quái là sống đúng đạo, tức là sự dung hợp toàn vẹn ba chiều kích Đất - Trời - Người.
Trong truyện Hồng Bàng Thị, Lạc Long Quân là tượng trưng cho các mối tương quan của nhân tính siêu việt mà duy nhiên thuyết không biết đến. Nhân vật nầy không xuất hiện liên tục trên đất (vật chất, thiên nhiên), không hề biết đến sự chết, nghĩa là không bị ràng buộc với giới hạn của thời gian. Ông biểu thị cho chiều kích "Linh ư vạn vật" của nhân tính.
Khi cố chuyển chiều kích siêu việt nầy vào sự tiếp nối liên tục của các hiện tượng trong thiên nhiên vật chất (như quan điểm phục diễn đời đời của Nietzsche, hay đà sinh lực của vũ trụ), con người đã 'làm trái đạo', đã tự tạo ra một thế giới nhân vi sai trái, trái với tự nhiên, trái với bản tính nguyên sơ. Và trong thế giới nhân vi đó, ta thấy con cá, con chồn hay cây cỏ dường như có thể thay được cho Lạc Long Quân trong ma lực của Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh!
Tóm kết lại toàn bộ nội dung ba câu truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh là sự diễn tả thân phận con người trong khung cảnh thiên nhiên và lịch sử. Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh là nghiệp lầm lẫn Tuyệt-đối Ẩn-kín với vũ trụ, không gian - thời gian bên ngoài; các hình ảnh tượng trưng ấy là tài và tai trong thân phận nàng Kiều của Nguyễn Du. Tiên trên trời, Bạch-Y -Man sẽ là Thúc Sinh, Kinh Kệ, Từ Hải...Và tất cả thế giới nhân vi đó như phải chìm chết đi như Kiều trên sông Tiền Đường để kiến - ngộ được một chân trời chân thực của Đạo Tâm, của sự dung hợp chiều kích trọn vẹn của nhân tính nguyên sơ qua hình ảnh Lạc Long Quân.
Chương V : Các tương quan của Đạo Người Truyện Trầu Cau
và Đầm Nhất Dạ
Bản văn : Truyện Trầu Cau
Đời thượng cổ có một chàng tên là Quan Lang, trạng mạo cao lớn, Quốc vương cho họ là Cao, nhân lấy chữ Cao làm họ, sinh được hai trai, người đầu tên là Tân, người thứ tên là Lang, học với thầy đạo sĩ họ Lưu.
***
Nhà họ Lưu có một người con gái, tuổi chừng mười bảy hay mười tám muốn tìm đôi bạn, nhưng không biết người nào là anh em, bèn bưng một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn để xem ai là anh ai là em. Thấy người em nhường cho người anh ăn trước, nàng bèn ghi nhớ lấy, đem tình thực trình bày với cha mẹ. Cha mẹ gả cho người anh kết làm vợ chồng, tình ái càng ngày càng thân mật.
***
Sau đấy, người em thấy anh đãi xử mình không bằng lúc xưa, đem lòng hờn giận mới bỏ anh mà đi. Đi đến một nơi thôn dã bổng gặp một cái suối lớn; không có thuyền để sang ngang, người em ngồi một mình khóc ròng rồi chết hoá thành một cái cây. Đến khi người anh mất em mới bỏ vợ đi tìm thì thấy em đã chết bèn gieo mình bên gốc cây mà tự tận hoá thành một tảng đá quấn quanh gốc cây. Sau đấy, người vợ lấy làm lạ sao chồng mình đi đã lâu mà không thấy về liền bỏ đi tìm, thấy chồng đã chết, nàng cũng gieo mình ôm lấy tảng đá mà chết luôn, hoá ra một sợi dây leo vấn vít trên đá, ngọn lá mùi thơm và cay. Cha mẹ Lưu Thị đi tìm con, đến đó cũng than khóc, rồi lập đền thờ ở chỗ ấy mà thờ, người đương thời đi qua đấy, ai cũng đốt nhang vái lạy, khen là anh em hoà thuận, vợ chồng tiết nghĩa.
***
Trong khoảng tháy bảy tháng tám, khí nóng còn nồng, Hùng Vương đi tuần hành thường nghỉ chân ở đây để tránh nắng. Trông thấy trước đền im mát, dây lá phủ trùm, Vương lên tảng đá đứng ngắm nghía, hỏi ra mới biết công việc như thế, Vương lập tức bảo cận thần hái một trái cây và hái một lá dây leo, Vương thân nhai đi rồi nhổ trên đá, thấy có sắc đỏ tươi biết là vị ngon mới lấy đem về, bảo lấy đá lửa nung đá làm vôi, cùng với trái cây, lá dây hợp làm một mà ăn, thấy vị ngọt béo, thơm cay, môi mép sinh đỏ, mới truyền ban ra thiên hạ, phàm những lễ giá thú, hội đồng lớn nhỏ, đều phải lấy vật này làm trước. Từ bấy giờ nước Nam có tục ăn trầu cau là bắt đầu từ đấy vậy.
* * *
Truyện Đầm Nhất Dạ 65
Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được một người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng hai tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi quên cả ngày về.
***
Lúc bấy giờ Chử Xá Lang 66 có người tên là Chử Vy Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:
- Ta chết thì chôn lỗ cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ.
Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, lạnh đói khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buôn đi qua, đứng vào giữa nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bổng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn tránh vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm. Tiên Dung vào trong màn, cổi áo múc nước dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:
- Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này ở trong huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng ? Thôi ngươi hãy dậy mà tắm rửa đi.
Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương xót bảo làm vợ chồng, Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:
- Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối ?
Những người tháp tùng đem việc ấy tâu lên với Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng:
- Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ giá 67 với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa; từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa.
Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa).
Thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ; có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:
- Qúi nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngoài biển mà mua vật quý, sang năm sẽ được lời một thoi.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:
- Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mua hàng đem về làm kế sinh nhai:
Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để chở Đồng Tử về. Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:
- Linh thông tại đây đó.
Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gập úp nón lên trên mà che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xã, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt. Sáng ngày, ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những vật hương hoa ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án ngữ. Tiên dung cười rằng:
- Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun giủi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.
Lúc bấy giờ những người mới tập họp sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn: ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian trông không thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị.
Sau đến đời Nam Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu Quang Phục làm tướng đem binh ngăn giữ. Quang Phục suất chúng 68 tàng ẩn trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cưỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối, cưỡi thuyền độc mộc mà đột xuất đánh phá cướp lấy lương thực, làm kế trì cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường giặc không đánh được, Bá Tiên than rằng:
- Đời xưa gọi là đầm nhất dạ thăng thiên, ngày nay lại là cái đầm nhất dạ đạo kiếp.
Gặp lúc Hầu Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lương triệu Bá Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương Sằn thống lĩnh quần chúng.
Quang Phục trai giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thoát thấy thần nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:
- Ta lên trời nhưng linh dị còn ở đây, người có lòng thành cầu đảo, ta đến giúp để bình loạn tặc.
Rồi cởi vuốt rồng đưa cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay lên trời; Quang Phục y như lời dặn đem binh đột kích binh Lương đại bại, chém được tướng Dương Sằn ở trận tiền, binh Lương lui chạy. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vương, đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn.
Phần minh giải
Học giả Lê văn Siêu, trong tác phẩm nghiên cứu Văn minh Việt Nam đã lấy hình ảnh cây đa để gợi lên sinh lực văn hóa dân tộc Việt nam và sức thu thái nhuần nhuyễn những tinh hoa của tam giáo Nho-Phật-Lão như sau : "Tựa hồ như cây đa hút nhựa ở cành cây mà thông rễ xuống đất, đến khi bám rễ sâu được vào lòng đất thì rễ ấy lại thành thân cây để đưa nhựa lên nuôi cành lá ở trên. Bấy giờ nhìn cái thân cây ấy thì khó nhận ra nó là rễ hay nó là cây."
Nhận xét nầy của học giả Lê văn Siêu ăn khớp với hai câu truyện Trầu Cau và Đầm Nhất Dạ trong Lĩnh Nam Chích Quái. Đây là những mẩu truyện mà khi nghe qua, mỗi người Việt Nam cảm thấy như phát xuất từ nơi bề sâu, nơi Đại-ký-ức của chính lòng mình; nhưng truy cứu nội dung của từng truyện, khảo sát bố cục của chúng ta lại thấy đây là một chuỗi liên tục những mẫu mực văn hóa Nho-Lão-Phật thấm nhập một cách linh động vào thân-cây là tâm hồn và nếp sống người Việt-Nam. Linh động đến độ hầu như đồng hóa đúng như học giả Lê văn Siêu nhận xét: "Bấy giờ nhìn cái thân cây ấy thì khó nhận ra nó là rễ hay nó là cây".
I - Vị trí Trầu-Cau và Đầm Nhất Dạ trong bố cục toàn bộ của Lĩnh-Nam Chích-Quái
Theo Phan Huy Chú trong Lịch-Triều Hiến Chương Loại Chí, ở bản chính Lĩnh Nam Chích Quái truyện Trầu-Cau mang tựa đề là Tân Lang xếp vào truyện thứ 5 và truyện Đầm Nhất Dạ có tên là Chử Đồng Tử xếp vào truyện thứ 11. Vũ Quỳnh xếp lại thứ tự, đặt hai câu truyện nầy đi liền nhau tiếp theo bộ ba truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh. Tựa đề được sửa đổi lại với tên Trầu Cau và Đầm Nhất Dạ.
Chúng ta đã thấy ở truyện thứ nhất, Hồng Bàng Thị, một luận đề tóm kết về nhân tính toàn diện trong ba chiều kích Thiên-Địa-Nhân, tổng lược phần Thể cũng như phần Dụng. Tiếp đến, tác giả xếp liền ba truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh để khai triển chiều kích của nhân tính mở ra trong tương quan với thiên nhiên, được biểu thị qua nguyên tượng (archétype) Thần Nông hay là Đất.
Ở trong hai câu truyện Trầu Cau và Đầm Nhất Dạ nầy, đề tài nổi bật là chiều kích của nhân tính trong mối tương giao giữa những con người cụ thể với nhau, tương quan xây dựng nên cộng đồng, đặt nổi nền tảng cộng đồng xã hội, trong cuộc sống gia đình : Nơi truyện Trầu Cau ba nhân vật chính là anh em Tân, Lang và cô gái nhà họ Lưu; và trong truyện Đầm Nhất Dạ ta sẽ thấy các hình thái đặc trưng của tương giao con người qua những biến chuyển của vợ chồng Tiên Dung Mỵ Nương và Chử Đồng Tử. Chiều kích nầy được văn hóa Trung Hoa biểu thị qua nhân vật huyền thoại Hoàng Đế, hàm ngụ một ưu tiên cho sinh hoạt của cộng đồng lớn có tính cách quốc gia. Nhưng trong thực tế lịch sử, ít nhất vào thời Trần, Lê, truyền thống văn hóa Trung Hoa uyên nguyên dường như đã bị che khuất, xuyên tạc, bởi một xã hội thực tế chỉ nhìn thấy phần Dụng, phần hình thức bên ngoài, nặng về nghi lễ giả tạo và phiền toái. Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái, trong truyện Hồng Bàng Thị đã không nhắc đến Hoàng Đế, nhưng thay bằng nhân vật Đế Nghi, gợi lên những bước sa sẩy của một xã hội vụ hình thức, vô nhân đã từng được cảnh giác trong cuốn Đạo Đức Kinh; và truy nguyên mẫu mực của tương giao giữa người với người để làm thành cộng đồng xã hội qua hình ảnh Lộc-Tục. Lộc-Tục gây âm hưởng khác hơn là Hoàng Đế. Lộc-Tục có ngoại vi lớn hơn cả dân tộc, gợi lên cộng đồng con người phổ quát, từ nếp sống gia đình, bè bạn đến thân phận của toàn nhân loại trong cuộc sống ở dương gian. Lộc-Tục lại còn nhắc nhở tính cách bất phân ly của các chiều kích Đất-Trời nơi nếp sinh hoạt con người : Lộc là Duyên, là sức sống trào lên từ cảnh vực ẩn dấu, nguồn sống uyên nguyên, trai trẻ, bất ngờ, nhưng-không, là ơn của Trời. Tục là nỗ lực của con người, là thực tế lịch sử. Nhân vật nầy là con cháu Thần Nông (Đất) và Vụ Tiên (Trời). Những chi tiết đó cho thấy ưu tư của tác giả muốn nhấn mạnh đến mối tương quan chặt chẽ Đất-Trời-Người, làm nên Đạo, tức là cương thường cho cuộc sống. Điều mà trong sách Trung Dung đã nói đến: "Đạo dã giả bất khả tu du lỵ dã; khả lỵ phi Đạo dã".
Điều đặc biệt ở trong Lĩnh Nam Chích-Quái, là Đạo Người chân thật đó không được diễn tả ra trong khung cảnh ưu thắng của việc vị trị nước (như Nho-Lão nhấn mạnh) cũng không phải là bận tâm giải thoát cá nhân, hoàn thành nhân cách cho riêng mình để đạt đến mức thần, tiên hay người toàn hảo. Đạo người là mối tương giao giữa Tân, Lang và cô gái nhà họ Lưu, là mối tình Tiên Dung Mỵ Nương và Chử Đồng Tử, là mối tiếp cận cụ thể giữa những con người bằng xương bằng thịt trong bất cứ hoàn cảnh nào, nơi khung cảnh rộng bao la như mối tình nhân loại, hay trong khuôn khổ nhỏ hẹp, ngày ngày của cuộc sống vợ chồng. Thiện-hảo phát xuất và phát triển nơi tương quan nầy. Nói cách khác đi, tìm thiện hảo cho riêng mình, giả thiết không có cộng đồng xã hội, không có những người thân cạnh mình, nếu không nói là điều không tưởng, thì ít nhất cũng không phải là ưu tư mà tác giả Lĩnh Nam Chích-Quái truy tìm.
II - Truyện Trầu-Cau
II. 1- Hình thức văn chương của truyện Trầu-Cau
II - 1.a - Các tên gọi và khung cảnh câu truyện
Các tên Tân, Lang, cũng như việc dùng đến tập tục ăn cau-trầu cho thấy khung cảnh được chọn là cuộc sống hôn nhân và gia đình. Hai chữ Tân-Lang lúc bấy giờ có lẽ đã trở thành quen thuộc trong dân gian để chỉ người thanh niên mới cưới vợ.
Nhưng điểm đặc biệt trong câu truyện là sự hiện diện của người cha cô gái nhà họ Lưu; ông ta là một đạo sĩ, một người theo trường phái Đạo Lão. Điểm đặc biệt ở đây là người cha đạo sĩ đó đồng ý với người con gái của mình về việc trắc nghiệm xem ai trong hai người Tân và Lang là anh, qua việc người em nhường cho anh ăn trước. Câu truyện xem ra đơn giản, nhưng thực sự tác giả đã dùng chi tiết nầy để mô tả sự dung hợp hài hòa giữa Nho và Lão. Hẳn nhiên đạo sĩ là hình ảnh của tư tưởng Lão giáo, và sự nhường nhịn trên dưới, anh em là nét đặc trưng của trật tự xã hội trong khung cảnh xã hội nhà Nho.
Ở phần chính câu truyện (phần giữa), ta cũng thấy ngạc nhiên tại sao người chồng là Tân lại không biến thành cây cau, tượng trưng cho người nam, mà lại biến thành những hòn đá vôi. Hơn thế nữa, trong toàn bộ câu truyện, dường như tác giả muốn xây dựng các mối tương giao tích cực, thế mà kết quả của phần chính câu truyện lại bi thương qua dấu vết của ba cái chết. Thêm vào đó, dường như có sự bất bình nơi người em, đến độ buồn bực quá phải bỏ nhà ra đi, nhưng tác giả lại lấy sự ca tụng của dân chúng để đánh giá câu truyện nầy là mẫu mực của "anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa". Những thắc mắc như thế buộc ta phải tìm một hướng giải thích sâu rộng hơn về mặt văn hóa.
Một điểm khác trong truyện nầy có giá trị về phương diện xã hội học đó là vai trò chủ động của người phụ nữ trong khung cảnh xã hội Việt-Nam. Trong việc quyết định hôn nhân, quản lý nếp sống gia đình, là cộng đồng nền tảng của xã hội Việt-Nam, cô gái nhà họ Lưu chủ động hoàn toàn. Hơn thế nữa, khi gặp khó khăn của gia đình Tân và Lưu Thị, thì dường như chỉ có phía nhà gái quan tâm. Trong toàn bộ câu của Lĩnh Nam Chích Quái, sự kiện nầy còn thấy ở nơi vai trò hoàn toàn chủ động của Tiên Dung Mỵ Nương. Đây hẳn là dấu tích chứng minh rõ ràng chỗ đứng bình đẳng, đôi lúc còn ưu thế trong một số khung cảnh sinh hoạt, của người phụ nữ trong nếp sống hằng ngày của dân tộc ta. Nhưng từ những sự kiện nầy để xác định ngay rằng trước đây định chế gia đình Việt-Nam vốn là mẫu-hệ thì dường như thiếu căn cứ. Theo ý chúng tôi, cộng đồng dân tộc Việt-Nam được hình thành qua nhiều đợt tập hợp các cộng đồng nhỏ với những nếp sinh hoạt định chế rất dị biệt. Nhưng dựa vào khung cảnh toàn khối bản văn Lĩnh Nam Chích Quái, phản ảnh cả một tiến trình dung hợp để hình thành một cộng đồng có một nếp văn hóa thuần nhất, thì ta thấy từ xa xưa định chế gia đình ưu thắng là phụ hệ; đặc biệt là dấu tích nơi việc người con mang họ của cha.
II 1b - Bố cục và nội dung chính của truyện Trầu-Cau
Khởi đầu câu truyện, tác giả nêu lên hai chi tiết quan trọng để vào đề :
- Đời thượng cổ
- Quốc vương đặt tên cho Quang Lang là Cao
Phần hai mô tả quyết định chủ động tìm chồng của Lưu Thị, phối hợp Nho-Lão, ý muốn của Lưu Thị và sự đồng ý của cha mẹ.
Phần ba : phần chính của câu truyện. Người em buồn bã ra đi; người anh và tiếp theo là người vợ của anh đi tìm. Ba người chết bên nhau thành cây cau, đá vôi và cây trầu. Dân chúng ngưỡng mộ gương anh em hòa hợp, vợ chồng tiết nghĩa. Phần bốn Hùng Vương ăn thử cau trầu với vôi, và truyền lịnh thiên hạ giữ lấy tập tục nầy trong các buổi lễ giá thú, hội đồng lớn nhỏ.
Qua phần mở đề và phần kết tác giả muốn nêu lên một bối cảnh xã hội Việt-Nam thật xa xưa và có tổ chức chặt chẽ. Ta thấy khung cảnh xã hội nầy như một thời Nghiêu Thuấn mà Khổng Tử thường gợi lên qua các mối tương giao thầy-trò, cha mẹ-con cái, anh-em, vợ-chồng, vua-dân, thái độ của dân chúng- đạo nghĩa, Nho-Lão... Nói tóm lại đây là cảnh thái hòa. Và toàn bộ những tương giao tốt đẹp đó phát xuất từ nội dung chính của câu truyện (ở phần ba), ứng dụng vào cuộc sống xã hội từ gia đình, làng xã đến cả quốc gia (ở phần kết).
II 2 - Truy tìm ý nghĩa của truyện Trầu-Cau
Qua phần trình bày bố cục bản văn, rất linh động và khéo léo, tác giả mở đầu với việc giới thiệu nguồn gốc câu truyện rất xa xưa (đời thượng cổ) và kết luận với nỗ lực muốn kéo dài tập tục ăn trầu như một nghi lễ quan trọng trong các mẫu mực tiêu biểu của các mối tương quan xã hội (phàm những lễ giá thú, hội đồng lớn nhỏ đều phải lấy vật nầy làm trước). Thêm vào đó là cố gắng của tác giả liệt kê nhiều mối tương quan xã hội khác nhau, nhiều cấp khác nhau. Như thế rõ rệt tác giả muốn đưa ý nghĩa của nội dung câu truyện ứng dụng cho bất cứ hoàn cảnh sống nào của con người trong thời gian.
Ý nghĩa cô đọng nầy được diễn tả trong phần ba của câu truyện. Xét về mặt văn chương, phần ba như tách rời ra khỏi ba phần : một, hai và bốn. Ba phần sau nầy có thể xếp vào bất cứ mẩu chuyện truyền thuyết nào, các yếu tố xảy ra hẳn là tưởng tượng thôi, nhưng có thể đó là một sự kiện bình thường của cuộc sống con người. Phần ba, trái lại, là một lối văn huyền thoại: người chết hóa thành cây, thành đá vôi... Và yếu tố khung cảnh huyền thoại đó thúc đẩy ta phải đào sâu ý nghĩa tượng trưng của chúng.
Trước hết có sự kiện khác thường như ta đã nêu ở phần trên, là thay vì lấy nhân vật của Tân để nói cây cau, Lưu Thị để nói đến trầu nhằm gợi lên hôn nhân, nam nữ, âm dương, thì tác giả lại chuyển Tân làm đá vôi, Lưu Thị là cây trầu và người em là Lang làm cây cau. Trong quan điểm âm-dương, tam-tài, và nơi hình ảnh của Cau-Trầu-Vôi, ta thấy Cau được mọi người nghĩ ngay đến yếu tố Trời, Trầu yếu tố Đất còn Vôi tạo nên sắc đỏ tươi như máu hẳn đó là hình ảnh cuộc sống con người.
Với lối xếp đặt các nhân vật đi kèm với các tượng trưng nầy, dường như tác giả không nhằm mô tả một mẩu chuyện tình duyên trai gái hay mẫu mực hôn nhân mà thôi. Ngược lại, hôn nhân cũng như bất cứ tương quan nào cũng lấy ý nghĩa ẩn kín trong câu truyện là giềng mối để qui chiếu.
Giềng mối đó vẫn là Tam Tài: Đất - Trời - Người kết hợp. Câu truyện khởi đầu ở phần ba hàm ngụ hai yếu tố Đất và Người (Lưu Thị và Tân) gắn bó bên nhau mà lơ là và quên sự hiện diện của Lang (Trời : cây cau). Cũng như ba câu truyện trước, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, hoàn cảnh thực tại của con người trong thời gian được cảm nhận như là thiếu vắng Trời.
Phần tiếp là sự tìm kiếm của ba yếu tố Đất-Trời-Người để có lại một sự kết hợp vĩnh viễn. Sự kết hợp nầy tạo nên sự sống với nhiều màu sắc đỏ tươi, mùi vị thơm ngon. Nhưng chữ "chết" được nhắc lại nhiều lần ở đoạn nầy như đi lạc ra ngoài khung cảnh tốt đẹp, hài hòa, sinh động của toàn câu truyện. Phải chăng tác giả chịu ảnh hưởng của Nam Hoa Kinh cho rằng sống-chết đều chỉ là việc tự nhiên của Trời-Đất, không thấy có một cái gì bi thương, tiêu cực trong đó ? Để trả lời, chúng ta lấy phần đầu và phần kết câu truyện huyền thoại nầy (nơi phần ba) để thấy được phần mạch lạc riêng của nó. Nói rằng người em buồn bực bỏ đi trong phần đầu, tại sao lại kết luận là "người đương thời đi qua đấy, ai cũng đốt nhang vái lạy, khen là anh em hòa thuận!"
Như thế, chuyện người em buồn bực bỏ ra đi lại tượng trưng một chiều kích và nội dung khác hơn là mô tả chính các sự kiện được viết ra : Nội dung đó là mối liên hệ với Trời ẩn kín và con người dễ quên chiều kích nầy. Chết ở đây nói lên sự biến thể, thay đổi khung cảnh chia-cắt để bước vào thế giới mới có tương giao gắn bó. Chết còn gợi lên ý nghĩa của nỗ lực truy tìm đến cùng tột, "gắn bó đến chết mới thôi". Không những chết gợi lên sự nối kết vĩnh viễn giữa tình yêu anh-em, vợ-chồng, mà mục tiêu chính của nội dung câu truyện là sự gắn bó bất phân ly của ba yếu tố Đất-Trời-Người hiện diện trong bất cứ một mối tương quan nào giữa con người với nhau, đồng thời là nỗ lực liên lĩ của con người trong lịch sử tìm gặp cho được sự phối hợp hài hòa, toàn diện đó của nhân tính.
Tuy đã gợi lên thực tế người đang xa trời trong khung cảnh thực tế của lịch sử, nhưng toàn bộ nội dung bản văn tắm gội trong một niềm lạc quan; nếu không nói hoàn cảnh xã hội đã quá tốt đẹp, thì câu truyện cũng gợi lên niềm hy vọng không đắn đo về một nhân tính toàn diện có thể thực hiện trong tầm tay nỗ lực của con người. Dẫu có thể châm chước cho nhận thức quá lạc quan nầy, khi định vị nó trong khung cảnh của một câu chuyện huyền thoại; nhưng nếu đối chiếu với những bản văn sơ nguyên của các nền văn hóa như Hy lạp, Do thái, ta lại không thấy được cảm thức bi kịch, nơi thân phận hữu hạn của con người trong thời gian vừa khắc khoải ước mơ Tuyệt-đối, vừa thấy chơi vơi không tìm được điểm tựa nào nơi sức lực hữu hạn của mình để bắt gặp Tuyệt-đối chân thật ở giữa thực tế lịch sử. Bản văn nầy phải được xem như là một lối trình bày linh động, theo đúng tâm tư cảm thức dân tộc ta, để gợi lên cùng một nội dung đầy lạc quan trong chương đầu sách Trung Dung của Nho gia, hơn là thân phận khắc khoải của con người trong câu chuyện Oedipe Làm Vua của Sophocle, hay Prométhée Bị Trói của Eschyle. Nó bắt gặp phần đầu sách Sáng-thế của người Do thái khi con người nguyên sơ có được mối tương quan tốt đẹp Đất-Trời-Người nơi vườn Địa đàng, nhưng chưa đề cập đến thực tế của thân phận con người tại thế, với vinh quang và gánh nặng của tự do, khắc khoải về khổ đau và sự chết... trong phần hai của đoạn Kinh Thánh vừa kể.
Dẫu sao câu truyện Trầu-Cau không đứng riêng một mình. Tác giả Lĩnh Nam Chích-Quái, nhất là qua sự sắp xếp lại của Vũ Quỳnh, đã gắn liền câu truyện nầy với truyện Đầm Nhất Dạ. Lối trình bày lạc quan về một mẫu mực "phải như thế", trong truyện Trầu Cau, theo cung cách của Nho gia trong chương đầu sách Trung Dung sẽ được tiếp nối với kinh nghiệm cụ thể của hành trình con người trực giác khung trời của Đạo, thực hiện Đạo trong cuộc sống nhân thế đầy thách đố và cam go, được diễn tả trong truyện Đầm Nhất Dạ.
* * *
III - Truyện Đầm Nhất-Dạ
III. 1 - Hình thức văn chương
III 1a - Khung cảnh chung của câu truyện và các tên gọi
Ta thấy ở trong truyện Trầu Cau, khởi đầu tác giả dùng một số kỹ thuật văn chương để gợi lên một khung cảnh xa xưa, bất định : Thời thượng cổ, con người chưa có họ đến độ cần vua Hùng ban cho, và khi nhắc đến vua Hùng, thì cũng không xác định vua Hùng nào. Nhà nghiên cứu về tôn giáo học Mircea Eliade trong cuốn le Mythe de l'éternel retour 74 đối chiếu nhiều mẫu văn hóa trong nhân loại qua lịch sử, đã thấy bất cứ đâu cũng có một lối trình bày tương tự về một thời hoàng kim (= Âge d'or, in illo tempore, il était une fois...) nguyên sơ nầy. Thời mà Thánh kinh Do thái gọi là thủa địa đàng chưa có ý niệm về thời gian, sự chết; Khổng Tử thường dùng một hình ảnh hầu như toàn thiện của lịch sử đó là thời Nghiêu Thuấn, Mạnh Tử thì gọi là thủa sơ nguyên (= nhân chi sơ, tính bản thiện); văn hóa Hy lạp dùng hình ảnh của Đại-ký-ức (đặc biệt trong bi kịch Hy lạp và triết học Platon), tượng trưng cho nguồn cảm hứng của thi ca và là khởi nguyên của tư tưởng.
Và vì mẫu mực uyên nguyên nầy, nên dấu tích của nó qua tập tục ăn trầu được đánh giá là một lễ nghi đi trước và luôn phải lặp lại nơi lịch sử, như một hình thức nối kết thời gian với vĩnh cửu, sự kiện xã hội với ý nghĩa văn hóa (phần kết truyện Trầu Cau).
Ở trong truyện Đầm Nhất Dạ, chúng ta lại bước vào một khung cảnh khác: Về thời gian đã có sự xác định cụ thể.
Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu đời thứ ba (cũng như cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông trong truyện Hồng Bàng Thị) nghĩa là vào thời vua Hùng Vương thứ tư. Số bốn nầy là chứng tích của một thời gian hạn định, cuộc đời con người có sinh, có chết. Chúng ta thấy con số bốn tượng trưng gợi lên một hình ảnh hữu hạn của thời gian nơi hầu hết các Kinh sách Trung Hoa và Do Thái. (như các ký hiệu: địa phương, phương là số 4. Dân lưu lạc 40 năm trong sa mạc... ). Trong cuốn Tự Điển Các Tượng Trưng của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, số 40 và 4 được giải thích ý nghĩa như sau :
số 40- " Đây là con số của sự trông đợi, của chuẩn bị, của thử thách và hình phạt. Đây hẳn là khía cạnh tiên khởi vừa ít được người ta lưu ý đến nhưng lại là khía cạnh quan trọng hơn cả" .
số 4- "Các ý nghĩa tượng trưng của số bốn gắn liền với những ý nghĩa của hình vuông và thập tự."
Phải chăng đây cũng là ý nghĩa chính nơi con số tượng trưng 4000 (4000 năm văn hiến) mà người dân Việt-Nam thường nhắc đến mỗi lần nêu lên tương quan giữa văn hóa và lịch sử.
Trở lại câu truyện Đầm Nhất Dạ, ngoài việc xác định khung cảnh lịch sử qua chi tiết xác minh thời của Hùng vương thứ 4 (tuy rằng đây cũng là một lối nói tượng trưng), tác giả còn ghi thêm tên của một vùng đất, một làng, một chợ, một ngọn núi, một cái vùng đồng bằng nhất định : Chử Xá lang, Hà-Lõa thị, Tự-Nhiên châu, Quỳnh-Viên sơn.
Tuy có mục tiêu nhằm nói đến cuộc sống cụ thể con người trong thời gian, không gian qua những chỉ dẫn của các chi tiết nầy, các tên gọi như Hùng vương thứ 4, Chử Xá lang, Hà-Lõa thị ... rõ rệt là những hình ảnh tượng trưng. Đặc biệt nơi tên gọi hai nhân vật chính là Tiên Dung và Chử Đồng Tử và nơi tên gọi của vị sư Phật Quang, mục đích văn hóa hàm ngụ trong đó không thể nào chối cãi được.
Các tên gọi phần lớn ghi đậm khung cảnh đạo Lão: Tiên Dung, Chử Xá Lang, Chử Vy Vân, Chử Đồng Tử, Hà Lõa, Tự nhiên, Nhất Dạ Trạch... Các tên gọi ở đoạn cuối có âm hưởng nhà Phật: Quỳnh Viên sơn, Phật Quang...
III 1b - Một ưu tư muốn vượt lên trên những tiền kiến về văn hóa, xã hội
Trong truyện nầy tác giả Lĩnh Nam Chích-Quái (và qua đó là tâm thức bàng bạc của người dân Việt-Nam thời bấy giờ) có một nhận thức về ảnh hưởng các nền văn hóa Nho, Lão, Phật khác, và hầu như ngược lại với quan điểm của giới thức giả thời bấy giờ (và ngay cả ngày nay). Đạo Nho được tiếp nhận như một yếu tố văn hóa, không phải là các nghi lễ rườm rà, hình thức của vua quan, không khí hà khắc, vô nhân trong khung cảnh gia đình, hoặc là một mớ kiến thức điều hành một xã hội phong kiến phải học thuộc để đi thi, làm quan. Ảnh hưởng Nho học trong truyện Trầu-Cau là một trực giác về một cảnh vực uyên nguyên của nhân tính ghi khắc trong lòng của mỗi người. Nhưng khi đối chiếu trực giác bên trong đó với khả năng thực hiện của con người, thì Lĩnh Nam Chích Quái dường như đánh giá rằng Nho học bất cập trong nỗ lực nối kết nầy. Nói cách khác theo từ ngữ của Kinh Thượng Thư, giữa "Tâm duy vi" và "Tâm duy nguy" có một khoảng trống bao la, làm cho con người thực tế quờ quạng. Trong sách Trung Dung, người ta nhắc lại lời Khổng Tử than: "Đạo kỳ bất hành hỹ phù!"
Những gì được viết ra trong kinh sách Trung Hoa để ứng dụng Đạo, những điều kiện xem là nếp truyền thống Nho-gia qua các tổ chức, sinh hoạt chính trị, xã hội xuyên qua các thế kỷ, tác giả Lĩnh Nam Chích-Quái lại nhìn chúng như một sự hiểu lầm và ứng dụng lầm. Bước trật chân của việc ứng dụng Nho học trong lịch sử được Lĩnh Nam Chích Quái gợi lên trong các hình ảnh tiêu cực của Đế Nghi, Đế Lai, và còn được diễn tả rõ hơn trong các truyện Đầm Nhất Dạ, truyện Dưa Hấu (thái độ vượt lên trên khung cảnh Nho gia của Tiên Dung và Mai An Tiêm), vai trò chủ động của phụ nữ, sự vắng bóng những ưu tư nghi lễ hình thức...
Ngược lại, Đạo Lão và Phật Học theo tiền kiến xã hội là một lý thuyết trừu tượng, mơ hồ, không lý đến sinh hoạt con người cụ thể trong xã hội, tệ hơn nữa còn bị đồng hóa với mê tín như nhận xét của học giả Đào Duy Anh : " Những điều mê tín thuộc về đạo giáo nguyên vốn có từ đời thượng cổ..." 77, thì Lĩnh Nam Chích-Quái lại hiểu là những nỗ lực nối dài trực giác bên trong đem ứng dụng vào nếp sống cụ thể của con người trong lịch sử.
Việc cảm nhận Tam giáo Nho-Lão-Phật một cách đặc biệt như thế có thể nêu lên như một nét đặc trưng của văn hóa Việt-Nam trong khung cảnh văn hóa chung của vùng Đông Nam Á.
III 1c - Bố cục và nội dung truyện Đầm Nhất Dạ
Câu truyện được chia làm bốn phần :
- Phần một : thật dài nói đến cuộc gặp gỡ và kết hợp giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử.
- Phần hai : khá mâu thuẫn, nói về việc vợ chồng Tiên-Dung và Đồng Tử nghe theo lời đường mật của một nhà buôn.
- Phần ba : duyên gặp gỡ giữa Đồng-Tử và nhà sư Phật Quang = thế giới mới của con người hành đạo (một khung cảnh huyền thoại)
- Phần bốn : đưa câu truyện chuyển qua một sự kiện khác trong lịch sử.
Trước khi đi vào phần phân tích bố cục nầy, vì tôn trọng bản văn còn lưu lại, nên chúng tôi thấy cần đưa ra một nhận xét về giá trị trung thực của toàn bản văn. Cũng như phần cuối trong truyện Mộc Tinh, phần bốn của truyện Đầm Nhất-Dạ là một sự vá víu đi ngoài mạch văn của toàn bộ câu truyện. Về nội dung, toàn truyện Đầm Nhất-Dạ là một truyện truyền thuyết và có thêm những yếu tố huyền thoại. Có lẽ vì trong câu truyện có tên gọi Dạ-Trạch trùng hợp với một địa danh cùng tên liên quan đến công việc đánh quân Lương của Triệu-Quang-Phục (vào thế kỷ thứ 6, Triệu-Quang-Phục được người trong nước gọi là Dạ-Trạch Vương) nên đã có một hay nhiều sáng kiến nối hai mẩu chuyện vào nhau (đặc biệt, đây là việc làm mà Mạc Bảo Thần Nhượng Tống gọi là ghép "đầu cua - tai ếch" của sử gia Ngô Sĩ Liên trong phần Ngoại Kỷ của cuốn Đại Việt sử ký toàn thư. Chương: Đời Tiền Lý). Dẫu xét từ tiêu chuẩn nào bất kỳ từ nội dung đến hình thức, chúng tôi cũng không thấy có một lý do gì để ghép hai câu truyện nầy với nhau ngoại trừ chỉ có mấu mốc là chữ Nhất-Dạ. Do đó, chúng tôi giả thiết rằng phần bốn nầy không phải đã nằm trong bản sáng tác lúc ban đầu của tác giả Lĩnh Nam Chích- Quái, và không thấy có lợi ích chi về mặt văn hóa để truy cứu; và vì thế sẽ không còn nhắc đến phần nầy trong các phần nghiên cứu kế tiếp.
Trở lại câu truyện Đầm Nhất-Dạ với ba phần liên tục của nó.
- Phần một : Những hàng đầu của phần thứ nhất nhằm nói đến lý lịch của Tiên Dung. Tiên Dung Mỵ Nương (người con gái đẹp như tiên) đúng là hiện thân cho mẫu mực lý tưởng trong cuốn Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nàng đẹp, tuổi mười tám, biểu tượng cho sinh lực tự nhiên nơi con người. Hai thái độ nổi bật nơi con người ấy là :
- nguyện không thích lấy chồng
- và chỉ thích ngao du thiên hạ.
Thân phận người con gái trong khung cảnh xã hội Nho gia thịnh hành lúc bấy giờ là sống để lấy chồng sinh con và ở trong nhà. Lấy chồng như một qui ước xã hội đòi buộc; ở trong nhà như khuôn phép của Nho gia. Tiên Dung là một Trang Tử đặt lại vấn đề về luân lý truyền thống đó: Dừng lại nơi nền luân lý qui ước, chỉ biết có thói quen hình thức của đoàn lũ có phải là ý nghĩa trọn vẹn của Đạo không ?
Điểm thứ hai đáng lưu ý là phong thái tự do, tiêu diêu, thường được văn hóa Trung Hoa tượng trưng qua nét ông Tiên trường thọ. Nay tác giả Lĩnh Nam Chích-Quái khoác mặc "nét tiên" đó lên nhân vật Tiên Dung, một cô gái và đang tuổi xuân xanh. Nhân vật chính thứ hai là Chử Đồng Tử (người đàn ông chưa vợ sống trong bãi cát). Thông thường mẫu người quân tử là kẻ có học hành, thi cử làm quan, có vợ con, dấn thân nhận lãnh những trách nhiệm ngoài xã hội. Không phải chúng ta thường có hình ảnh người quân tử là người ăn học, làm quan triều đình hay sao? Ở đây nhân vật Chử Đồng Tử sinh ra trong thân phận nghèo hèn, chỉ biết khung cảnh của đồng lầy nơi thôn xóm, nơi khung cảnh gia đình của anh (Chử Xá lang). Trong câu truyện, khi gặp nàng Tiên Dung, Chử Đồng Tử trần truồng. Khác với nàng Tiên Dung vượt lên trên qui ước xã hội để sống cảnh tự do bao la của cõi trời, phổ quát, Chữ Đồng Tử cam chịu hoàn cảnh thiếu thốn giới hạn của đời sống. Chàng không phản kháng xã hội, nhưng lại chí trung với Đạo lý khi sống chí hiếu với cha; chàng thuận theo, chí hiếu đến độ chấp nhận trần truồng; thay vì lấy khố của người cha đã từ trần để che mình, thì Đồng-Tử để cả khố như thế mà chôn cha bởi lòng thấy chẳng nỡ. Chàng mặc lấy sự trần truồng và thiếu thốn của nhân vật tượng trưng cho Đất, cho thân phận trần tục của con người. Ở đây ta lại thấy nét âm, đất, không phải luôn là hình ảnh người đàn bà, nhưng là người đàn ông (khác với lối biểu thị truyền thống Trung Hoa).Và ở đây, khác với trong truyện Trầu Cau, không phải "trời" ẩn giấu, che mặt trong cuộc sống xã hội, nhưng chính Chử Đồng Tử (tượng trưng cho đất) lại phải đi tìm chỗ trốn trước sự hiện diện của Tiên Dung (yếu tố trời).
Tiên Dung đóng lều tắm, hẳn nhiên là cởi trần; và nước chảy làm cát trôi đi, lộ ra Chử Đồng Tử trần truồng. Và tác giả Lĩnh Nam Chích Quái lấy sự kiện nầy làm dấu chỉ cho duyên kết hợp đất - trời, thành vợ chồng. Và duyên nầy, theo ý của Tiên Dung, là : "Việc từ trời tác hợp, việc gì mà từ chối."
Cuộc tác hợp uyên nguyên nầy, dưới con mắt của Hùng Vương, (ở đây là tượng trưng cho qui ước xã hội) được xem là vô đạo: lấy tiền của mình cho kẻ nghèo, cho người nghèo bình đẳng với mình. Từ sự đánh giá thuần xã hội nầy, việc làm của Tiên Dung là bất công, phi lý và vô đạo. Và một sự kiện như thế không thể tương hợp với cuộc sống "bình thường", theo nếp suy nghĩ của nhân thế: "từ nay mặc kệ nó, không cho nó trở về nữa".
Ở đây tác giả nhấn mạnh đến sự bất tương hợp trong thực tế của xã hội con người trước chân lý. Chân lý uyên nguyên đó là nơi cư ngụ của Tiên-Dung và Đồng-Tử, được gợi lên trong tên gọi là Hà-Lõa. Hà là con sông, là thời gian sơ nguyên của con người, và Lõa là tình trạng trần truồng, nguyên sơ. Hà-Lõa cũng không khác hình ảnh Địa đàng khi người nam, người nữ nhìn nhau mà không hổ ngươi; là khung cảnh thái hòa "vào thủa ấy" (in illo tempore) trong truyện Trầu Cau.
- Phần hai : Nơi đây không có biểu tượng con rắn cám dỗ Adam và Eva, nhưng là lời thuyết phục của con người thương gia. Người thương gia dụ dỗ Tiên Dung - Chử Đồng Tử phải làm giàu hơn nữa, mặc dầu cuộc sống hai người yên ổn ở Hà Lõa rồi. Truyện kể là nếu bỏ vốn một sẽ lời ra mười trong một năm. Tiên Dung vốn không màng phú quí, đã từng thoát ly mọi ràng buộc để ngao du, nay là một người phụ nữ "so đò cò kè", kết buộc cuộc sống mình với số lượng của cải mong sẽ thu được. Nàng mất đi cả lương tri và phán đoán khi nêu lên một lời biện minh kỳ lạ, mâu thuẫn : "Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho; bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai."
Dẫu mâu thuẫn, nàng vẫn một mực nêu lên; và lạ thay Chử Đồng Tử cũng nhiễm phải lối suy nghĩ tổng hợp các mệnh đề mâu thuẩn nầy.
Không phải việc "buôn bán làm kế sinh nhai" là mâu thuẫn với sự kiện "ăn mặc là của trời cho", nhưng xuyên qua câu nói sau nầy có hai tâm tình và khung cảnh thế giới khác nhau : Trước khi gặp nhà đại thương, Tiên Dung - Đồng Tử đã mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch. Và cuộc sống đó vẫn ở vùng Hà Lõa. Nhưng khung cảnh sau khi gặp người nhà buôn lớn nầy là "cuộc sinh nhai" được đồng hóa hoàn toàn với cuộc chạy đua chỉ biết tìm lợi tức nhân tăng. Cuộc phiêu lưu đó chia rẽ Chử Đồng Tử và Tiên Dung, đẩy Chử Đồng Tử xa vùng Hà Lõa, làm mất đi ý thức "ăn mặc của trời cho", nghĩa là quên trời.
- Phần ba : Trong cuộc phiêu lưu của Đồng Tử bên cạnh người nhà buôn, giữa biển, hai người có duyên gặp một nhà sư trẻ Phật Quang. Nhà sư cư ngụ trong một am nhỏ, nơi mà người đi buôn đường xa trên biển ghé múc nước uống. Am nhỏ lại xây trên hòn núi giữa biển tên là Quỳnh Viên Sơn (núi của vườn quỳnh).
Biển và cuộc phiêu lưu là tượng trưng môi trường sinh hoạt con người trong trần thế. Am nhỏ có nhà sư Phật Quang cung cấp nước uống cho người lữ khách, một hình ảnh rất linh hoạt để gợi lên một nguồn sinh lực mới. Gặp sư Phật Quang, uống nước nguồn suối nầy, Chử Đồng Tử dừng lại, quay đầu về Hà Lõa. Chàng trao vàng cho người đi buôn, và nhận quà tặng của nhà sư đi xây dựng một cơ nghiệp mới: lên đường với cái gậy và cái nón.
Với cái gậy và cái nón nầy, Đồng Tử về gặp lại Tiên Dung và câu truyện bắt đầu bước vào một khung cảnh huyền thoại Hai người rời Hà Lõa, gậy nón lên đường làm người lữ khách tìm Đạo. Một hôm trên đường đi, vào canh ba, hai người hốt ngộ thấy một thế giới mới mở ra, đầy đủ như một thành trì lớn. Hùng Vương hay tin ngờ là Tiên Dung - Đồng Tử làm loạn đem quân tới đánh. Hai người không phản kháng. Đêm đến, quân lính Hùng Vương đóng ở bãi Tự Nhiên cách thành quách của Tiên Dung - Đồng Tử bởi một con sông lớn, chứng kiến một ngọn gió mạnh đưa thành quách và hai người về Trời. Sáng ngày, cơ sở thành quách chỉ còn lại là cảnh trí thiên nhiên của một cái đầm lớn. Đầm nầy có tên Nhất-Dạ-Trạch.
III 2- Truy tìm ý nghĩa truyện Đầm Nhất Dạ
Phần đầu
Trong khuôn khổ xã hội học, Tiên Dung có thể được xem là hình ảnh của một nữ anh hùng giải phóng phụ nữ ngày nay. Nàng không lấy chồng và thích ngao du thiên hạ, bất chấp những qui luật xã hội và ý của vua cha. Nhưng đây không có một tơ vương gì về nhu cầu diễn tả một nếp sống xã hội hay phản ứng tâm lý cả. Tiên Dung trong Lĩnh Nam Chích Quái là tượng trưng cho dấu tích của Đại-ký-ức ghi khắc trong lòng người. Nàng được gọi là tiên, là yếu tố không phát xuất từ nơi xã hội con người, nhưng từ cảnh vực bên kia bờ đến. Nàng đẹp, nét đẹp đó gợi lên sự thèm muốn một đà sinh lực thần tiên. Nàng là hình ảnh của tự do đi chu du thiên hạ, là năng lực vô giới hạn, vượt lên trên mấu mốc, biên giới của thời gian, không gian. Và đặc biệt hơn cả là chính nàng đi trước, chủ động đến tìm Chử Đồng Tử để kết hợp với chàng.
Câu nói của nàng với Chử Đồng Tử, "Việc nầy tự trời kết hợp, việc gì mà từ chối ? " tóm kết nội dung mà Tiên Dung tượng trưng. Con người hướng lên với Trời, con người tác hợp với con người, con người mở ra với thiên nhiên, là do tự trời chủ động và đi bước trước.
Sự xuất hiện đột ngột của Tiên Dung vượt ra lên trên khuôn mẫu thường tình của cuộc sống và xã hội, cho thấy Minh Triết không phải là sản phẩm của một chuỗi các biến hóa liên tục từ thiên nhiên vật chất lên đến tư tưởng. Có thể nói, trong khung cảnh tự nhiên và xã hội, Minh Triết là một sự xuất hiện bất ngờ, một cuộc gặp gỡ kỳ lạ (= hốt ngộ) vượt ra ngoài qui luật tính toán, chờ đợi của thân phận Chử Đồng Tử là con người trong trần thế.
Đến đây ta thấy Lĩnh Nam Chích Quái khám phá một điều chưa nói, hay không bàn đến, trong tư tưởng của đạo Lão. Trong sách Đạo Đức Kinh, Đạo được trình bày như trong lời sấm, mở bức màn tối của xã hội để chỉ cho thấy Đạo Thường luôn có đấy: (un il y a). Con người quay về, làm theo việc của Đạo, thì Đạo làm cho đồng với Đạo.
Đạo trong Đạo Đức Kinh dường như không năng động lắm trong việc tìm cứu người! Lĩnh Nam Chích Quái mô tả Đạo chủ động hơn khi đặt nổi sự xuất hiện bất ngờ đến với con người trước. Thứ đến, nhân vật Chử Đồng Tử ghi đậm dấu tích của khung cảnh thế giới văn chương Lão giáo, nhưng Chử Đồng Tử đó không triệt để và bi quan quá đến độ phải đập phá hết dấu tích tích cực của Đạo nơi cuộc đời. Sách Đạo Đức Kinh viết rằng :
" Thiên địa bất nhân
dĩ vạn vật vi sô cẩu.
Thánh nhân bất nhân
dĩ bách tính vi sô cẩu "
Chử Đồng Tử thì lại chí hiếu với cha, là biểu tượng của lương tri hồn nhiên, lòng thành thực nơi tâm con người. Có một xã hội giả hình của Hùng Vương thứ tư, nhưng thực tế trong nhân loại còn có những tâm hồn trong trắng, chân chất ngay thẳng và quảng đại. Và Trời chọn nơi những tâm hồn nầy để đến canh tân lại xã hội.
Tóm lại, phương thức diễn tả Minh Triết, tư tưởng của Lĩnh Nam Chích Quái phát xuất từ kinh nghiệm của những lương tri bình dị, những kinh nghiệm sống thực tế, hơn là lối trình bày bác học, từ chương của kinh sách Nho-Lão.
Chử Đồng Tử tên gọi đó có nghĩa là Cát-Đất, (chử = đất cát; đồng = đứa trẻ, gợi lên tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ). Chử Đồng Tử nghèo nàn, ăn xin là hình ảnh của sự đón chờ, hy vọng và của ý thức về hoàn cảnh thiếu thốn. Chữ Tục trong Lộc-Tục hàm ngụ cùng một ý đó. Trước sự xuất hiện đột ngột của Tiên Dung, Chử Đồng Tử sợ hãi lấy cát vùi che thân mình. Chàng sợ hãi vì thấy mình trần trụi, vì thấy có sự cách biệt thân phận đất-trời. Và con người trần trụi của Chử Đồng Tử cũng gợi lên cảm thức vô chấp, không tiền kiến, tâm trống rỗng của bậc chí nhân.
Việc gặp gỡ, được tác hợp thành chồng vợ với Tiên Dung đối với thân phận con người bùn đất là ơn, là lộc từ Trời. Trong Kinh Dịch, phần cuối của soán từ quẻ Bát-Thuần-Khôn ghi : "an trinh, cát". Đây đúng là lời mô tả thân phận của một Chữ Đồng Tử trinh nguyên (đồng ; trẻ nhỏ), nhu thuận tiếp lộc của trời, và đó là cát, tức là gặp điều lành. Và sự tác hợp đất trời nầy giải thích rõ ý nghĩa của chữ Lộc-Tục, con người uyên nguyên nguồn gốc của dân tộc.
Nhưng trong cuộc gặp gỡ ấy, Tiên Dung cũng trần truồng. Chi tiết đó cho thấy chiều kích siêu việt của Trời thông ban cho con người một cách dư đầy, không che dấu. Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái dùng phản ứng tức giận của Hùng Vương thứ tư để gợi lên sự ngỡ ngàng, không hiểu nổi của ân-lộc nầy, khi Tiên Dung lại kết hợp với Chử Đồng Tử. Đối với phán đoán thông thường của nhân thế, con người trần tham dự được cuộc sống của thần thánh là chuyện ảo tưởng, không thể chấp nhận được. Ân huệ nầy quá mức con người, là một sự phung phí, vô thường đến từ Trời. Và vì thế, khi Minh Triết cảm ứng gợi lên tình trạng kỳ diệu nầy, thì nó phải rước lấy sự phẫn nộ của xã hội qua hình ảnh tượng trưng của Hùng Vương thứ tư.
Nhưng qua đến phần thứ hai, vốn trời cho con người, ân lộc qua tượng trưng là Tiên Dung lại bị chuyển đổi do bàn tay con người. Tác động chuyển đổi đó tượng trưng qua nhân vật người đại thương gia. Tiên Dung và Đồng Tử không còn bằng lòng với địa đàng Hà Lõa, nhưng dùng vốn trời cho để xây dựng một nếp sống giàu có riêng theo ý mình, tạo một chân trời theo dục vọng và dự kiến riêng, nhằm quên phúc lộc ban đầu. Ở đây, cũng chính Tiên Dung là người chủ động nghe theo lời khuyên của thương gia trước. Chử Đồng Tử chỉ tuân hành ý của Tiên Dung. Thông thường, với quan điểm hẹp hòi đánh giá thấp thời gian, không gian, vật chất, thân xác, chúng ta dễ có tiền kiến là điều sai trái phát xuất từ phần được xem là hạ đẳng. Tiền kiến đó không phải chỉ là nét đặc trưng của một lối đạo đức ứng dụng sai tư tưởng triết học Platon trong khung cảnh văn hóa truyền thống Tây phương. Đây là một tiền kiến phổ biến trong hầu hết các khung cảnh truyền thống của các nền văn hóa xã hội con người. Lĩnh Nam Chích Quái có một quan điểm khác khi minh nhiên gọi tên sự sai trái là một Tiên Dung biến thể do thương nhân. Nhưng thương nhân là Karma, là ngã chấp, cũng như con rắn trong vườn Địa đàng; là chính ước muốn của con người xóa bỏ cảnh hòa hợp Đất - Trời - Người trong vùng Hà Lõa, để tạo thế giới riêng của mình. Trong khung cảnh xã hội Việt-Nam thời bấy giờ, nghề buôn bán được xem là một hình thức sinh hoạt thấp nhất, vì cô đọng sự tính toán cò kè của con người và xa lạ với đất - trời nhất. Lĩnh Nam Chích Quái mượn lấy hình ảnh tiêu cực nầy để gợi lên điều mà đạo Lão gọi là nhân vi, nhà Phật gọi là hành tạo nghiệp, Kinh Thánh Do thái gọi là phán đoán của con người thay cho lòng yêu thương của Giavê.
Lời của Tiên Dung bấy giờ nhằm thuyết phục Chử Đồng Tử cũng không khác lời Evà nói với Adam. Nội dung chính là chuyển vai trò của Trời thành vị thế riêng của mình. Kết quả cho thấy sống theo nhân tính không còn có nghĩa là nhận lấy ân lộc của trời để kết hợp với mọi người, nhưng là xây dựng thế giới riêng qua việc sở đắc và làm chủ các tài vật. Đây là sự mô tả thân phận con người tại thế. Câu chuyện được diễn tả trong phần nầy là cảnh thường nhật xảy ra trong cuộc sống, khác với khung cảnh có phần huyền thoại ở phần trên.
Phần ba là một cuộc gặp gỡ bất ngờ, không kém cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở phần đầu. Nhưng điểm khác ở phần nầy là sự kiện xảy ra rất gần với cuộc sống bình thường. Phật Quang, ánh sáng của kẻ đã gặp, lại biếu cho Đồng Tử một nguồn nước mới trên con đường phiêu lưu lầm lạc của anh. Ánh sáng nầy không phát xuất từ nơi khung cảnh xã hội trên đất, nhưng từ nơi một hòn đảo xa xăm ngoài biển cả. Nguồn nước cũng không phải của sông, lạch trên đất nhưng từ trên núi trào vọt lên trong một chiếc am nhỏ. Khung cảnh tĩnh mịch ngược đời nầy như làm dừng lại những háo hức mù quáng của cuộc sống quần chúng, đô hội. Nó gợi lên cái chân chất bên trong tâm hồn, ghi khắc những dấu tích của thời gặp gỡ giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử lúc ban đầu. Chử Đồng Tử, sau lần gặp gỡ nầy, liền trả vàng lại cho thương nhân, quay thuyền về Hà Lõa gặp Tiên Dung.
Tư tưởng là gặp, gặp cái rất mới so với cuộc sống thường ngày, nên khởi nguyên tư tưởng trong thân phận con người trong thời gian, xã hội là một tiếng sét, một sự rúng động làm ngạc nhiên. Nhưng cái rất mới đó lại rất cũ, vì nó là chân lý bao bọc lấy con người từ muôn thủa nhưng con người không hay biết hay cố quên đi. Các nền văn hóa lớn đều mô tả con người đi vào Minh Triết như là sự quay về : hồi đầu trong tư tưởng nhà Phật, quay trở lại, thay đổi tâm tình trong tư tưởng Do thái và Kitô-giáo, phản phục trong Đạo học, nhớ lại trong triết học Platon, doãn chấp quyết Trung trong Kinh Thư...Trong đoạn nầy một điểm đáng lưu ý nữa là vai trò của nhà sư nhỏ Phật Quang đối với cuộc đổi thay trong cuộc đời Chử Đồng Tử. Ánh sáng mà nhà sư nầy gặp, nhà sư trao lại cho người đồng loại. Con người cần đến con người trong bước đường tìm Đạo. Con người lại có bổn phận truyền ánh sáng của Đạo cho kẻ khác: Sau khi tiếp nhận ánh sáng, Chử Đồng Tử trao ánh sáng đó lại cho Tiên Dung.
Đến phần thứ tư, câu truyện lại chuyển đến một khung cảnh hoàn toàn có tính cách huyền thoại. Quà tặng của nhà sư giao cho Chử Đồng Tử là cây gậy và chiếc nón. Cây gậy biểu tượng cho thân phận nghèo khó, của kẻ lữ hành trên dương thế. Và đó chính là ý nghĩa của Đất, là thời gian lưu chảy và có giới hạn. Cái nón tròn là tượng trưng cho trời che trên đầu mình, gắn bó với thân phận kẻ lữ hành trong cuộc sống. Nhưng con người không sống một mình, không tìm Đạo, hành Đạo một mình. Chử Đồng Tử sánh vai cùng đi với Tiên Dung. Trời - Đất - Người cùng đồng hành là Đạo.
Cảnh thái hòa trời - đất - người tuyệt diệu đó được tượng trưng qua một cảnh tượng như thần tiên: Cảnh tượng lạ lùng xuất hiện khi hai người dừng chân ngủ giữa đường vào canh ba trong đêm, nhằm gợi lên một cảnh vực mới khi con người cảm nhận được sự hòa hợp đất trời. Đây không phải là giấc mơ về một thế giới nào khác xét về mặt sự kiện của sự vật bên ngoài ( réalité ontique). Nhưng đây là khung trời mới - đất mới của nhân tính chân thật (réalité ontologique), một cõi người ta sống đúng thân phận cao cả của mình trong cuộc sống bình thường.
Thêm một lần nữa, nếp sống mới của Tiên Dung - Chử Đồng Tử làm cho Hùng Vương lo sợ và phải dùng quân lính dẹp phá. Lời thật mất lòng, chân lý làm xã hội nhiều lúc khó chịu. Tư tưởng, Minh Triết khó lòng đi đôi với dư luận quần chúng. Và điều chân lý làm khó chịu, có phận vụ thức tỉnh con người đang mê, không phải đồng hóa với một sự chống đối giữa hai thái cực có-không, phải-trái trong khung cảnh phán đoán của con người và khả năng nhận thức sự vật. Lĩnh Nam Chích Quái mô tả rằng trước bạo lực của vua cha, Tiên dung cười, vì nàng thấy nơi vua cha có sự hiểu lầm. Nàng không dùng vũ lực chống lại vũ lực, vì nàng hiểu sức mạnh của chân lý, ở một khung trời, nơi một cảnh vực khác với sức mạnh và sự đánh giá của tiền kiến và nhận thức hữu hạn của con người xã hội.
Phần kết của câu truyện có tính cách chung-mãn-luận (eschatologique). Trước hết là sự kiện quan quân buộc phải dừng lại ở bãi Tự Nhiên, vì ngày sắp tối, mà thành quách của Tiên Dung và Chữ Đồng Tử lại ở bên kia bờ cách một con sông lớn.
Trước hết, Lĩnh Nam Chích Quái cho thấy giới hạn của thế giới ban ngày, tức là xã hội nhân vi không tự mình đi được vào đêm của cảnh vực người đã giác ngộ. Bãi Tự Nhiên gợi lên một giới hạn có đó mà không hiểu lý do tại sao và không cách gì thay đổi được: như tự nhiên có sự giới hạn cuộc sống con người nơi cái chết không thể tránh khỏi và không hiểu tại sao; như tự nhiên rồi quyền lực trần thế sẽ không thể diệt phá được sức mạnh của chân lý...
Và trong khung cảnh ban ngày của kiến thức con người, cái đầm vẫn là cái đầm cũ (khi sáng ra). Còn thành quách của Tiên Dung và Chử Đồng Tử chỉ xuất hiện một đêm (Nhất Dạ) và lại bay lên trời, nghĩa là một cảnh giới luôn còn xa lạ, nhưng là nơi cư ngụ của kẻ đã gặp, đã sống một nguồn cảm hứng khác đến từ bên kia bờ, một đêm so với ánh sáng giả tạo của tài trí con người thuần xã hội.
* * *
Qua phần phân tích hai câu truyện Trầu Cau và Đầm Nhất Dạ, chúng ta lại thấy nổi bật tính cách nhất quán về tư tưởng của toàn bộ bản văn Lĩnh Nam Chích Quái. Nhân tính trọn vẹn trong ba chiều kích Đất - Trời - Người trong bản văn Hồng Bàng Thị; tương quan đất - người trong ba truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh; và tương quan người với người gắn bó với trời và đất lại được khai triển một cách linh động nơi hai câu truyện dân gian, bình dị nầy: Trầu Cau và Đầm Nhất Dạ. Qua lối hành văn thần kỳ độc đáo, tác giả Lĩnh Nam Chích Quái một mặt diễn tả sự liên tục, có hệ thống của một nền nhân sinh quan của Minh Triết dân tộc, từ trực giác sơ nguyên đến tiến trình hiện sinh tìm về bến chung mãn; mặt khác lại trình bày những nét tinh hoa của Nho-Lão-Phật, các giá trị phổ quát và sức mạnh liên đới của cộng đồng nhân loại về mặt văn hóa, và đặc biệt là xác định thế nào là Minh Triết, thế nào gọi là tư tưởng, văn hóa theo quan điểm của truyền thống dân tộc Việt-Nam .
(xem tiếp phần 2)
Nguyễn Đăng Trúc