Thứ Hai, 08 Tháng Sáu, 2020

ẢI NAM QUAN

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan:
 

"Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi là Trấn Nam Quan.
 

Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Đại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở.
 

Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có"Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Đình tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có"Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."

 

Theo "Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ" của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Đỗ Đình Nghiêm (Nhà in Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội, 1926):

"Cửa Nam Quan ở ngay biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Kể từ Hà Nội lên đến tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km; đến cây số 152 là chợ Kỳ Lừa; đến cây số 158 là Tam Lung; đến cây số 162 là Đồng-Đăng; đến cây số 167 là cửa Nam Quan đi sang Long Châu bên Tàu. Như vậy từ Đồng Đăng lên cửa Nam Quan có 5 km; từ Kỳ Lừa lên Nam Quan mất 15 km [về phía tây nam chợ Kỳ Lừa có động Tam Thanh, trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng Sơn] và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn lên Nam Quan là 17 km."

 

Các bức ảnh trong entry này sắp xếp không theo trình tự thời gian, mà theo trình tự không gian của chuyến đi từ Đồng Đăng sang Long Châu - Trung Quốc.

 

Trong số đó có các bức ảnh do vợ chồng Imbert chụp vào khoảng thời gian cuối năm 1906, trong chuyến đi tới vùng biên ải Trung Hoa.

ẢI NAM QUAN - 1

Hình 1: Thị xã Đồng Đăng nhìn từ đỉnh cao của trạm quan trắc, nơi đóng quân của một đội trưởng bộ binh bản xứ và một trung úy Pháp. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906 - trang Ecpad)

ẢI NAM QUAN - 2

Hình 2: Ga Đồng Đăng, ga cuối trên biên giới của tuyến đường sắt đường sắt Hà Nội - Vân Nam. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906).

ẢI NAM QUAN - 3

Hình 3: Một trong những bức ảnh của tạp chí LIFE về Việt Nam thời thuộc Pháp. Hình ảnh chuột Mickey cầm súng đứng gác giúp ta ước đoán bức ảnh được chụp vào những năm 30, khi hình tượng chuột Mickey trở nên nổi tiếng khắp thế. Bảng chỉ dẫn mang dáng hình cửa ải ghi rõ khoảng cách từ Đồng Đăng đến Ải Nam Quan do nhà Thanh dựng lên là 4 km. Hoạt động canh giữ cửa khẩu biên giới thể hiện qua số lượng binh sĩ và các xe quân sự. Ghi chú bức ảnh này thiếu sót rất quan trọng là không ghi cổng Ải Bắc Quan, hoặc là cổng này đã bị Tàu nó phá rồi. Cũng như các cột mốc biên giới ở phía Bắc, Tàu phù nó âm thầm thủ tiêu và dựng các cột mốc giả mới lấn sang bên đất Việt.

ẢI NAM QUAN - 4

Hình 4: Chỉ dẫn ghi trên tường: Đường sang Trung Hoa đi tới cổng Nam Quan. Hình này chụp từ bên đất Đồng Đăng.

 

(Hình 5: Ảỉ Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng)

ẢI NAM QUAN - 5

Hình 6: Đường lên biên giới Việt - Trung đi qua những ngọn núi. Đường mòn quanh co, gập ghềnh qua những sườn dốc nguy hiểm.

ẢI NAM QUAN - 6

Hình 7: Cùng một góc chụp với bức trước

 

ẢI NAM QUAN - 7

Hình 8: Đồng Đăng - Đồn canh của Pháp trên đường biên giới. Nhìn về phía Nam của Ải Nam Quan. Đã hiện ra vệt mờ của bức tưòng thành trên sườn dốc của ngọn núi bên phải dẫn tới điểm cao nơi đặt đồn canh của Pháp

 ẢI NAM QUAN - 8

 Hình 9: Đồn Pháp nhìn từ Ải Nam Quan

 

ẢI NAM QUAN - 9

Hình 10: Một bức trong loạt bưu ảnh "Đồn và lô cốt địa đầu Bắc Bộ" - Nam Quan: Cửa khẩu sang Trung Quốc. Đồn biên giới Trung quốc và lô cốt Pháp

 

 ẢI NAM QUAN - 10

Hình 11: Hình chụp từ cao điểm thấy rất rõ hai cửa quan.

 

Quan sát bức hình cho thật kỹ ta thấy: Có một căn nhà nhỏ, tường xây ... Đó chính là "CỬA BẮC QUAN" hay là "CỔNG BẮC QUAN" hay là 'TRẤN BẮC QUAN", hay là " ẢI BẮC QUAN". Có nghĩa là khách trước khi đi sang bên kia đất Trung Hoa phải trình giấy tờ ở cửa (cổng) này. Cổng này gọi là "Công quán", bây giờ gọi là "Cửa khẩu", "Cửa ải", hay là "Đồn biên phòng", hay là:"Trạm hải quan". Cổng này chính là ẢI BẮC QUAN do triều đình An nam xây lên.

 

Khoảng đất giửa "CỔNG BẮC QUAN" và "CỔNG NAM QUAN" có một bức tường thành hơi cao xây chạy lên đỉnh núi. Đó là bức tường thành ngăn chia biên giới hai nước. 

 

Tổ Tiên ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước , muốn đứng vững trước kẻ láng giểng rộng lớn hung hãn, để "thủ đất", để giữ "thế nước" mảnh đất nhỏ hẹp phương Nam, Tổ Tiên ta chỉ xây "CỔNG BẮC QUAN" nhỏ xíu chỉ bằng 1/10 "TRẤN NAM QUAN" của Tàu. Ý nói rằng: Chúng tôi không có ý nhòm ngó đất Bắc, (dù trong lịch sử thời nhà Lý, Tướng quốc Lý Thường Kiệt đã từng cất quân Đại Việt qua đánh hạ 3 thành châu Liêm, Khâm, Ung đất Quảng Châu, Quảng Tây 1075-1076. Ở đây chúng tôi cũng xin nấn mạnh ý nghĩa của từ "Trấn Nam Quan"; đấy là Tàu ở đất Quảng Châu Quảng Tây vẫn còn ngay ngáy sợ quân Đại Việt của Lý Thường Kiệt). Ý của RTo63 Tiên chúng tôi là muốn bày tỏ sự khiêm cung của một nước nhỏ, thưa dân, tài vật ít ... chỉ xây cổng nhỏ như thế thôi. 

 

Nay chúng ta hay nhầm lẫn mỗi khi nói tới vùng đất biên giới vài trăm mét vuông hai nước Việt- Hoa vì trong trí nhớ học hành, trong quán tính sai lầm riết trở nên tập tục, ta chỉ nhớ tới từ ngữ ẢI NAM QUAN. Ta cứ nghĩ rằng ẢI NAM QUAN do ta dựng lên mà đúng ra là của Tàu dựng lên để nhìn, để quan sát, để dòm ngó về mảnh đất phương Nam. Ta không tới ẢI BẮC QUAN tức là CỔNG BẮC QUAN do Vua Quan Binh lính triều đình An nam dựng lên để canh phòng bọn giặc phương Bắc.

 

Khi ta nói tới biên giới đất nước ta. ta chỉ nói từ ẢI NAM QUAN tới MŨI CÀ MAU, bọn Tàu phù nó bịt mũi cười cho thúi óc, trong bụng nó chê ta dốt, nó cười ta ngu: tự ta bán đất, bán biển của ta cho nó mà ta mà ta ngu dại không biết.

 

Dải đất chữ S của ta nếu tính từ ẢI BẮC QUAN cho tới thước đất cuối cùng là mũi NAI ở đất HÀ TIÊN (sát biên giới Cambodia). Đất của ta không chỉ dừng lại ở mũi CÀ MAU!!!

 

Từ bờ biển CÀ MAU tới thước biển cuối cùng của ta ở Mũi NAI bờ biển HÀ TIÊN dài đến hàng trăm cây số bờ biển!!!

 

Sự NHẦM LẪN THẾ KỶ này là do các nhà giáo dục trong bộ giáo dục truyền bá, viết lách dạy dỗ trong sách giáo khoa mà ra.

 

Một phần lớn sự nhầm lẫn là thói quen gọi từ ẢI NAM QUAN cũng vì do một số bài hát của một số nhạc sĩ miền nam VN đặt ra. Họ chỉ biết sáng tác, chỉ biết đặt lời hát cho thuận nốt, cho thuận dòng nhạc. Âm thanh phát ra từ ẢI NAM QUAN thật ra dễ nghe dễ hát hơn từ ÀI BẮC QUAN. có thể các nhạc sĩ tài tử này họ cũng không học lịch sử cho đến nơi đến chốn, cứ thế mà sáng tác, rồi bộ thông tin, bộ văn hóa, các đài phát thanh, các ca sĩ cứ thế mà phát hành, nhai nhải. Ngay trong các bài học dạy về địa lý lịch sử của ta ngày xưa cũng vậy, học sinh chỉ biết đất nước ta "TỪ ẢI NAM QUAN TỚI MŨI CÀ MAU!!!"

 

Cho đến nay vẫn chưa thấy sách giáo khoa nào giảng dạy đất nước ta từ "ẢI BẮC QUAN" cho tới "HÀ TIÊN."

 

Một sự nhầm lẫn thế kỷ không thể tha thứ được!!! 

 

ẢI NAM QUAN - 11

Hình 12: Toàn cảnh Ải Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng. Đã thấy rõ hai cửa quan: cửa của Việt Nam nhỏ bé, khiêm nhường, một tầng mái, cửa của Trung Hoa lớn hơn, hai tầng mái. Một dải tường thành chạy lên núi từ hai bên cửa quan Trung Hoa. Trên con đường chạy về cận cảnh bức ảnh có một số nhân vật đang di chuyển. Rõ ràng, mặc dù về mặt tự nhiên đây là vùng rừng núi, nhưng cả người Pháp và nhà Thanh đều chủ ý để khu vực cửa khẩu trơ trọc nhằm theo dõi mọi biến động.

ẢI NAM QUAN - 12

Hình 13: Ải Nam Quan (trước) năm 1905. Dù hướng chụp chính diện làm cho cửa quan của Việt Nam lẫn vào công trình đồ sộ của nước lớn Trung Hoa, nhưng vẫn thấy rõ ba tầng mái của hai cửa quan. Hai phía Ải Nam Quan của Việt Nam cũng có hai bờ tường chạy về hai ngọn núi, nhưng ngắn hơn và có hình bậc thang.

 

ẢI NAM QUAN - 13

Hình 14: Khoảng cách chụp gần lại, phân biệt rất rõ hình dáng của hai cửa ải

ẢI NAM QUAN - 14

Hình 15: Hướng chụp từ trên điểm cao cho thấy giữa hai cửa quan là một vùng đệm. Bưu ảnh gửi đi ngày 6.03.1907

 

ẢI NAM QUAN - 15

Phụ ảnh với chú thích của người sử dụng

ẢI NAM QUAN - 16

Hình 16: Vị trí chụp từ đường đi.

 

ẢI NAM QUAN - 17

Hình 17: Việc ghi thời điểm chụp bức ảnh này là ngày 2 tháng 8 năm 1940 như phụ ảnh dưới hoàn toàn không có cơ sở. Đến cuối năm 1906 cửa quan của Trung Hoa chỉ còn một mái lầu (xem hình 2...6), nhưng trong bức ảnh này ta vẫn thấy rõ hai mái lầu giống như các bức ảnh chụp trước đó.

ẢI NAM QUAN - 18

Hình phụ: có thể suy luận ngày 02 tháng 8 năm 1940 là ngày đăng bức ảnh này trêm một tài liệu (báo) nào đó, chứ không phải ngày chụp.

ẢI NAM QUAN - 19
Hình 18: Khoảng cách từ phía người chụp rút ngắn lại

 

ẢI NAM QUAN - 20

Phụ ảnh: Bức tô mầu hình 16

ẢI NAM QUAN - 21

Hình 19: Một bức bưu thiếp rất đẹp và có giá trị bởi dòng lưu bút của người sử dụng cho biết vị trí Ải Nam Quan và vị trí Ải Bắc Quan, Ải Bắc Quan nhỏ như cái trạm kiểm soát do triều 9di2nh An Nam xây cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 17 km. Phíasau là Mục Nam Quan của Tàu xây.

ẢI NAM QUAN - 22

Hình 20: Một tốp lính và sĩ quan Pháp trước cổng Ải Bắc Quan.

 ẢI NAM QUAN - 23

 

Hình 21: Cận cảnh Ải Bắc Quan. Chính người Pháp chụp ảnh còn sai lầm giửa Ải Nam Quan và Ải Bắc Quan. Bức ảnh tr6en thấy rõ ràng về hai cổng ải. Trạm nhỏ phía trước chính là Ải Bắc Quang. Phia sau to lớn hai tầng chính là Mục Nam Quan. Người Pháp gọi là cổng Nam Quan. Ta gọi là Ải Nam Quan. Thật ra ta phải gọi là Mục Nam Quan mới nói lên thâm ý của Tàu (nhìn về phương Nam)._

ẢI NAM QUAN - 24

Hình 22: Hoạt động bang giao diễn ra nơi cửa khẩu có vẻ rất hòa hảo. Còn nhớ sau Công ước Thiên Tân 1885, người Pháp đã xúc tiến một dụ án rất tham vọng: xây dựng mạng lưới đường sắt từ phần lãnh thổ Đông Dương sang Vân Nam. Tuyến đường này khánh thành ngày 31 tháng Ba năm 1910. Ảnh tr6en cho thấy dân chúng tụ tập trước cổng Bắc Quan của An Nam.

ẢI NAM QUAN - 25

Hình 23: Một bức ảnh vô cùng quý hiếm với cận cảnh hình trang trí trên cửa ải Bắc Quan.

 

ẢI NAM QUAN - 26

Hình 24: Đây là một cận cảnh  Ải Bắc Quan.

ẢI NAM QUAN - 27

Hình 25: Vùng đệm nằm giữa hai cửa quan. Hướng chụp vẫn từ phía Việt Nam. Người chụp đứng trên sườn núi, ngay sau phia bức tường đá. Quả là người Trung Hoa rào rậu rất kĩ. Trấn Nam Quan (cửa quan của Trung Hoa) xây liền sau bờ tường thành chạy từ trên ngọn núi đá vôi xuống. Chỗ cao nhất của bờ thành gần tới mái của cửa quan. Bên trái bức ảnh, ở lưng chừng núi có một công trình giống ngôi miếu (ở hình số 15 ta đã có thể nhìn thấy nó).

ẢI NAM QUAN - 28

Hình 26: Đây chính là Mục Nam Quan, Pháp và ta hay gọi là Ải Nam Quan có hai tầng lầu.

 

ẢI NAM QUAN - 29ẢI NAM QUAN - 30

Hình 27: Viên quan nhà Thanh phụ trách Trấn Nam Quan

ẢI NAM QUAN - 31

Hình 28: Một viên quan nhà Thanh chỉ huy quân đội trấn giữ cửa ải

ẢI NAM QUAN - 32

Hình 29: V.iên quan nhà Thanh cùng tùy tùng mang cờ phướn khi sang giao tế vùng đất thuộc Pháp

ẢI NAM QUAN - 33

Hình 30: Sang địa phận Trung Hoa. Đối diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang.
 

Bức bình phong này che chắn khôgn cho người ở cổng Bắc Quan dòm ngó sang đất Tàu.
 

Quan chức Pháp trong bộ Âu phục trắng, cưỡi ngựa trắng và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các nhân vật trong ảnh. Hãy chú ý đến cụm nhà ngói có tường bao ở góc trái bức ảnh có thể là nhà ở của quan quân Trung Hoa.

ẢI NAM QUAN - 34

Hình 31: Bức ảnh có dòng lưu bút đề ngày 9.08.1907. Các quan chức Pháp - Hoa chụp ảnh kỉ niệm bên bức bình phong

ẢI NAM QUAN - 35

Hình 32: Những đứa trẻ Trung Hoa trong đất Mục Nam Quan. Mục này được tu sửa thêm do các viên quan trông nom, nhưng vẫn còn giữ bức bình phong che chắn. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906)

ẢI NAM QUAN - 36

Hình 33: Thời gian trôi qua thể hiện qua chiều cao cây cối. Ta dễ dàng nhận thấy Trấn Nam Quan chỉ còn một mái lầu và xuất hiện hàng lan can.

 

ẢI NAM QUAN - 37

Hình phụ: Dấu bưu điện 1911. Hãy để ý đến hai người đàn ông mặc Âu phục mầu trắng đứng gần bức tường bao của cụm nhà trước cổng quan. Vóc dáng, tư thế, và đồng phục cho biết họ có thể là những viên chức Pháp làm việc tại văn phòng quản lý biên giới. Cụm nhà nhỏ nơi họ đứng trước kia Quan Đế Miếu (miếu thờ Quan Công) và Đền Chiêu Trung.
 

Năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 văn phòng được xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp, nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu”. Công trình vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng thông tin không rõ ràng, có phần mâu thuẫn về niên đại lịch sử khiến Pháp Quốc Lầu có một lai lịch mờ ám (Đọc thêm tại đây)

 

 ẢI NAM QUAN - 38

Hình 34: Trấn Nam Quan nhìn từ điểm cao phía Trung Hoa. Vẫn thấy rõ bức bình phong và cụm nhà ngói trước cổng quan. Trên đỉnh núi bên trái có một danh trại khá lớn.
 

Hình 35: Toàn cảnh Trấn Nam Quan bên phía Trung Hoa. Ngôi làng trong thung lũng nằm hai bên con đường nhỏ, phía trước là khu doanh trại. Cuối con đường chính dẫn về phía Trấn Nam Quan vẫn thấy cụm nhà nơi đặt văn phòng quản lý biên giới Pháp - Trung. Thời điểm này văn phòng chưa được xây lại thành toà nhà 2 tầng mà người ta quen gọi là Lầu Pháp Quốc.

ẢI NAM QUAN - 39

Phụ ảnh: Dòng lưu bút ghi ngày 17.04.1911. Bưu cục Lạng Sơn đóng dấu ngày 19.04.1911

 

ẢI NAM QUAN - 40

Hình 36: Ngôi làng Trung Hoa hay Việt Nam???(trong khung mầu vàng của phụ ảnh 34). Hai dãy nhà lá nằm bên con đường lát đá. Đây có lẽ là khu dân cư, cuối đường có một khu nhà ngói khang trang hơn có lẽ là doanh trại hoặc khu gia binh

ẢI NAM QUAN - 41

Hình 37: Ngôi làng nhìn từ điểm cao

ẢI NAM QUAN - 42

Hình 38: Xử trảm một người Hoa tại khu vực Ải Nam Quan

ẢI NAM QUAN - 43

Hình 39: Một lễ hội người Hoa ở Lang Cang Tchap gần Mục Nam Quan
 

Xen vào loạt ảnh của Union Commerciale Indochinois, chụp cùng một thời gian, đánh số từ 228 đến 233, miêu tả con đường từ Ải Nam Quan sang Long Châu, là những bức ảnh của vợ chồng Imbert Edgard chụp cuối 1906

ẢI NAM QUAN - 44

Vợ chồng Imbert được những người Trung Hoa đưa tới ngôi làng Loc Kan Thiap.

ẢI NAM QUAN - 45

233. Đường đi Long Châu chạy qua khu vực những đồi cỏ

 

ẢI NAM QUAN - 46

232. Phong cảnh đường đi Long Châu

ẢI NAM QUAN - 47

229. Một dinh thự trên đường đi Long Châu. Không rõ Loc Hang Thiap là địa danh gì?

ẢI NAM QUAN - 48

Vợ chồng Imbert chụp ảnh trước dinh thự của chỉ huy tên Sen ở Loc Hang Thiap

ẢI NAM QUAN - 49

Cùng người đồng hương và chủ nhà Trung Hoa đến thăm một nhà hát ở Loc Hang Thiap

ẢI NAM QUAN - 50

228. Những ngôi miếu....
 

Ải Nam Quan do Tàu xây ngày xưa có phải là Hữu Nghị Quan ngày nay? Người ta sẽ chẳng tranh cãi khi xung quanh nó không có những bức màn bí ẩn. Dù thế nào, trong tâm thức mỗi chúng ta dải đất hình chữ S bắt đầu từ Mục Bắc Quan đến Mũi Cà Mau.

 

 

Bài viết khác

Những món ăn nhẹ làm bằng nồi chiên không dầu

Những món ăn nhẹ làm bằng nồi chiên không dầu

03/10/2024

Thời gian gần đây, nồi chiên không dầu là thiết bị nấu ăn được rất nhiều người quan tâm bởi không chỉ tiện lợi, nhanh chóng mà còn tốt cho sức khỏe người sử dụng, hạn chế dùng dầu mỡ khi nấu ăn.

Art