Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ
Nhiều học giả coi cuốn tự điển Annamiticum Lusitanum et Latinum (Việt - Bồ - La), công trình của giáo sĩ Dòng Tên, Alexandre de Rhodes, được xuất bản tại Rome năm 1651, như bản khai sinh của chữ Quốc ngữ. Như vậy chỉ còn một tháng nữa đến năm 2011 là chữ Quốc ngữ được tròn 360 tuổi. Nhân dịp này tôi xin kể qua lịch sử Dòng Tên và những hoạt động nổi bật nhất của nó ở nhiều nơi trên thế giới từ khi Dòng được thành lập cách đây gần 5 trăm năm cho đến ngày nay. Tôi cũng sẽ xin nói thêm là chữ Quốc ngữ là di sản quý báu nhất mà Dòng Tên đã để lại. Tiếc là các vua chúa thời đó đã bỏ lỡ cơ hội không biết dùng nó thay chữ Hán để thoát khỏi lệ thuộc Trung Quốc về tư duy và canh tân đất nước.
Tóm tắt lịch sử Dòng Tên
Sinh trong một gia đình quí tộc người Basque Y Pha Nho, vị sáng lập Dòng Tên Ignace de Loyola (1491-1556) hồi trẻ chỉ lo ăn chơi trác táng. Mới nhập ngũ được 8 ngày đã bị thương trong trận vây đánh thành Pampelune. Trong thời gian 1 năm nằm chờ vết thương lành, ông suy nghĩ về sự huyền bí của tạo vật và đột nhiên cảm thấy có ơn Chúa gọi nên ông đợi đến khi lành lặn hẳn đi hành hương ở thánh địa Jerusalem trước khi trở về học các trường Đại học Alcalá, Salamanque Y Pha Nho và sau đó tới Paris học Đại học Sorbonne. Năm 1534 cùng mấy đồng bạn lên gò Montmartre ở Paris thề nguyền từ bỏ nhục dục, sống nghèo khổ. Được thụ phong linh mục tại Venise năm1537 và 3 năm sau (1540) chính thức sáng lập Dòng Tên.
Tên tiếng Pháp của Dòng là La Compagnie des Jésuites. Tiếng Việt gọi là Dòng Tên (tránh gọi tên Jésus sợ phạm húy). Compagnie có nhiều nghĩa: ngoài cái nghĩa là hội, là đoàn (tiếng Anh gọi là The Society of Jesus), còn có nghĩa "Đội quân". Ông Loyola dùng những từ ngữ quân sự để muốn nói Dòng mình là một đội quân của Chúa Giê-su và mỗi giáo sĩ là một người lính của Chúa. Vị lãnh đạo Dòng (được chọn sau một cuộc bầu cử) mang danh hiệu là "ông Tướng" (le Général). Tiêu chuẩn đầu tiên của Dòng là phải có óc phục tòng như người lính phục tòng ông tướng. Tiêu chuẩn thứ hai là kiến thức: Mỗi chủng sinh phải qua 1 thời gian đào tạo rất lâu dài, ít nhất là mười năm: hai năm tiểu chủng viện, ba năm học triết và các ngành nhân văn, khoa học. Thực tập ngoài đời từ ba đến năm năm. Trở lại đại chủng viện học thêm bốn năm thần học. Nhờ được đào tạo kỹ lưỡng như vậy nên giáo sĩ Jésuite nào cũng có đủ kiến thức, đức tính và khả năng để có thể trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể thích ứng với môi trường nơi mình truyền đạo, cải tạo xã hội theo hướng của Dòng. Đồng thời đức tính phục tòng bề trên và thói quen nhẫn nại cũng giúp người giáo sĩ Dòng Tên sống một cuộc đời mẫu mực để làm gương và giáo huấn tín đồ. Nói tóm lại, người sáng lập Hội đoàn Jésuite muốn dòng của mình là một dòng ưu việt, một "đội quân" dũng mãnh về mặt giáo lý và kiến thức để có thể hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ được giao phó.
Hồi đầu Ignace de Loyola muốn Dòng Tên chỉ có mục tiêu đem kiến thức thuyết phục những người theo đạo Phản thệ hay người ngoại đạo trở về với Giáo hội La Mã. Nhưng cũng chính lúc đó các thân hào ở tỉnh Messine (thuộc đảo Sicile Ý) yêu cầu ông Loyola mở trưởng cho tỉnh (1548). Trường được nổi tiếng và kể từ đó ở Âu châu Dòng Tên thấy cần thay đổi mục tiêu là đào luyện một tầng lớp trí thức có khả năng canh tân xã hội theo đường lối Công giáo. Dòng Tên từ đó mở ra những trung tâm đại học danh tiếng cho tới ngày nay. Khi ông Loyola mất năm 1556 Dòng Tên có 1000 giáo sĩ. Một trăm năm sau số giáo sĩ lên đến 15000 với 580 trường học ở Âu, Á, Mỹ.
Những hoạt động nổi bật nhất của Dòng Tên từ khi mới được thành lập
1. Hoạt động mang nhiều màu sắc chính trị ở Âu Châu
Ở Âu Châu, Dòng Tên hoạt động đúng vào thời kỳ có những xung đột tôn giáo hoà lẫn với chính trị nên gặp nhiều sự chống đối của giới cầm quyền vua chúa cũng như giáo hoàng. Dòng bị xua đuổi, giải tán, cả thảy 30 lần:
Ở Pháp, năm 1563, Dòng Tên mở Collège de Clermont cạnh tranh với Đại Học Sorbonne lấy hết sinh viên của Đại học này vì không những dạy giỏi mà còn dạy miễn phí. Những người ghen ghét Dòng Tên tìm cơ hội để triệt hạ Dòng: Năm 1594 Jean Chatel một cựu học sinh trường Clermont lấy dao đâm vua Henri IV. Lập tức trường bị đóng cửa, các thày dạy bị đi đày, ông thầy dạy Chatel thần học bị treo cổ, xác bị vứt ngoài bãi. Mãi đến năm 1618 trường mới được vua Louis XIV cho phép mở lại với tên là Louis Le Grand (bây giờ là trường Trung học sửa soạn thi Đại học danh tiếng nhất nhì nước Pháp). Năm 1762 Trường lại bị đóng cửa vì một người làm công cho trường tên là Damien tính ám sát vua Louis XV.
Năm 1750 khi Y Pha Nho và Bồ Đào Nha ký hiệp uớc chia nhau khu tự trị Paraguay Nam Mỹ Dòng Tên huy động dân bản xứ lập quân đội chống lại liên quân 2 nước này. Bồ Đào Nha trả đũa cấm Dòng Tên được hoạt động ở Bồ Đào Nha và ở mọi lãnh thổ Bồ Đào Nha trên thế giới.
Năm 1767, vua Y Pha Nho Charles III ra lệnh bắt 5000 giáo sĩ Dòng Tên và đóng cửa 240 cơ sở của Dòng, không những ở chính quốc mà còn ở khắp mọi nơi trên thế giới thuộc thẩm quyền Y Pha Nho.
Năm 1773, cũng vì quá thành công ở Trung Quốc nên những kẻ ghen ghét dèm pha với Giáo Hoàng là Dòng Tên chấp nhận tục thờ cúng tổ tiên trái với giáo lý Công giáo. Giáo Hoàng ra lệnh giải tán Dòng. Mãi đến năm 1814 Giáo Hoàng Pie VII mới cho lập lại.
2. Những hoạt động "cách mạng" chống thực dân ở Mỹ châu
Ở Mỹ Châu hoạt động nổi bật nhất của Dòng là đã đứng về phía người dân Da đỏ Guarani ở Paraguay (Nam Mỹ) chống lại thực dân Y Pha Nho và những tập đoàn bắt người làm nô lệ. Dòng thành lập những thị xã trong cả thẩy 38 "tiểu vực" (reductions) để tạo ra một nước tự trị gồm 110,000 dân Da đỏ trên một lãnh thổ rộng bằng nửa nước Pháp, đóng thuế thẳng cho vua Y Pha Nho. Mỗi thị xã đều có khu nhà dân cư, khu công cộng gồm nhà thờ, toà hành chính, trường học... cai trị bởi một hội đồng quản trị gồm người bản xứ và qua một cuộc bầu cử trực tiếp. Tiếng bản xứ được dạy ở trường. Học sinh được tập thể dục và có những hoạt động văn hóa như diễn kịch, ca hát ... Trong xã hội mọi người đều bình đẳng không có kẻ giàu người nghèo. Không có án tử hình. Nhà nước lập quân đội gồm người bản xứ để chống ruồng bắt nô lệ. Voltaire, Montesquieu và sau này Lafargue rể của Karl Marx đều ngợi khen nước Cộng Hòa Ki-Tô này. Thời gian tồn tại của nước này cũng được 181 năm, từ 1588 cho tới khi Dòng Tên bị vua Y Pha Nho đuổi năm 1769.
3. Ở Viễn Đông, dòng Tên chinh phục các vua chúa bằng kiến thức khoa học và kỹ thuật: Ở những nước Viễn Đông theo truyền thống Khổng Mạnh như Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt (Việt Nam), Dòng Tên gặp phải sự chống đối của giới quan lại vì bị coi là muốn phổ biến những ý tưởng trái ngược với quan niệm Quân-Phu-Phụ của Khổng Tử khiến trật tự xã hội có thể bị đảo lộn. Để qua mặt giới này các giáo sĩ Dòng Tên tìm cách đến gần các vua chúa, đem những mưu kế và những kiến thức khoa học và kỹ thuật cống hiến các vua chúa để được tin dùng. Một khi đã được sự bảo trợ của các vua chúa, các giáo sĩ cũng dễ dàng xin được phép truyền đạo trong dân chúng.
Vấn đề là tuy cùng một văn hoá, hoàn cảnh chính trị ba nước Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt hoàn toàn khác nhau nên điều quan trọng nhất là phải biết tùy nghi mà hành động. Vị lãnh đạo Dòng Tên biết vậy nên đã chọn lựa và cử qua các nước này những vị giáo sĩ ưu tú nhất: François Xavier (Nhật Bản), Matteo Ricci (Trung Hoa), Alexandre de Rhodes (Đại Việt).
Tôi xin kể những hoạt động của 3 vị này:
Nhật Bản: Giáo sĩ François Xavier (1506 -1552)
François Xavier (y Javier) (1506-1552) sinh ở Navarre xứ Basque sau bị Y Pha Nho chiếm. Thù ghét Y Pha Nho nên năm 18 tuổi qua Pháp học Đại học Sorbonne. Cùng Ignace de Loloya sáng lập Dòng Tên. Được Loyola cử đi truyền giáo ở Goa thuộc địa Bồ Đào Nha ở Ấn độ năm 1542. Trong những lần đi Malacca (Mã Lai) gặp nhiều người Nhật nên nuôi ý định đi truyền giáo ở Nhật. Ngày 15/8/1549 ông lên một chiếc thuyền Trung Quốc đi tới tỉnh Kagoshima bên Nhật. Ở tỉnh này ông thường trao đổi ý kiến và bàn luận với một vị cao tăng Nhật. Sau đó ông đi Kyoto tiếp xúc với các nho sĩ Nhật trước khi đi đến vùng Yamayuchi lập nhà thờ và tới Funai trên đảo Kyushu ở. Năm 1552 nghe lời khuyên của các nhà nho Nhật là muốn cảm hóa được nhiều người Nhật theo đạo thì trước hết phải thuyết phục được người Trung Quốc, ông lên một chiếc thuyền đi Quảng Châu và bị mất trước khi tới nơi.
Trong thời gian ngắn ngủi ở Nhật, ông François Xavier cảm hóa được nhiều người theo đạo trong số các quan chức như Shogun (Tướng quân, Mạc chúa) Otomo và nhiều daimyos (Đại danh)). Cũng nhờ vậy mà đạo Thiên Chúa trong thời gian này được truyền bá rất mau chóng nhất là ở tỉnh Nagasaki, nơi mà Dòng Tên còn được phép độc quyền mua bán tơ lụa. Trớ trêu thay Nagasaki nơi có nhiều người theo đạo Công giáo nhất cũng là nơi chịu trái bom nguyên tử 400 năm sau.
Đọc kỹ lịch sử truyền giáo ở Nhật mới thấy các Mạc chúa Nhật không thiển cận như các vua chúa Việt Nam thời ấy: Các mạc chúa và các nhà truyền giáo Dòng Tên đặt quan hệ trên nguyên tắc trao đi đổi lại: cho quyền giảng đạo miễn là đừng lấn tới chính trị và các giáo sĩ phải giúp các Mạc chúa súng ống, cách đóng thuyền, trang bị các tàu thuyền của Nhật dụng cụ đi biển. Nhờ vậy mà thương thuyền Nhật bản có mặt ở cùng Đông Nam Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương và nhất là Việt Nam (Hải Phòng, Phố Hiến, Hội An, Đà Nẵng...) Mạc chúa Mobunaga (1534-1582) lại còn lợi dụng đạo mới Tây phương để khuynh đảo những giáo phái Phật giáo mà ông ghét. Mạc chúa Hideyoshi (1536-1598), tuy ra lệnh giết hai mươi sáu người Kitô giáo Nhật nhưng vẫn sủng ái Dòng Tên nên cho phép các thương thuyền Bồ Đào Nha dựa vào thế lực Dòng này được buôn bán ờ Nagasaki (coi phim Shogun). Sự đố kỵ và tranh giành thị trường giữa người Hòa Lan theo Thệ phản và người Bồ Đào Nha theo Công giáo cũng được các Mạc chúa khai thác để chia rẽ những người Tây phương với nhau. Chỉ bắt đầu từ Mạc chúa Tokugama Leyasu (1543-1616), khi thấy có thể giao thiệp thẳng với các vua chúa và các nhà cầm quyền vùng Đông Nam Á (kể cả Phi Luật Tân thuộc Y Pha Nho) không cần sự môi giới của các nhà truyền giáo, đồng thời những kỹ thuật đóng tàu, đi biển không còn gì là bí mật nữa, mới cấm đạo trở lại. Chính sách lợi dụng những hiểu biết của Tây phương rồi vắt chanh bỏ vỏ có từ thời các Mạc chúa mấy trăm năm trước Minh Trị và vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.
Trung Hoa: Giáo sĩ Matteo Ricci (1552 -1610)
Matteo Ricci: Gốc người Ý, sinh năm 1552, chủng sinh Dòng Tên năm 1571. Sau khi được thụ phong linh mục Matteo Ricci theo vết chân của François Xavier qua Trung Quốc, coi Trung Quốc là nơi truyền giáo lý tưởng vì không có những đạo giáo như đạo Hồi, cần phải đấu tranh một mất một còn, và là nơi hai nền văn minh văn hoá Trung Quốc và Âu Tây có thể hoà hợp bổ sung nhau. Ngay khi mới tới Macao tháng 8/1582, ông đã lo học tiếng Tàu và khi được ở Triệu Thanh Phủ gần Quảng Châu cùng với mấy nhà truyền giáo khác, ông mời Tổng Đốc Lưỡng Quảng và các quan chức tới Triệu Thanh Phủ để trình bày rất nhiều dụng cụ như đồng hồ, máy móc, địa bàn địa cầu , ống kính thiên văn, vân vân, đem từ Macao qua và sau đó dùng làm quà biếu xén để lấy lòng các vị đó. Ở Triệu Thanh Phủ, ngoài thì giờ nghiên cứu và chế tạo máy móc, giáo sĩ Ricci còn lo học Tứ Thư, Ngũ Kinh để bàn cãi với các nho sĩ về những điểm tương đồng giữa Ki-Tô giáo và Nho giáo. Ông nghe lời khuyên của các vị này tự bỏ áo thày tu mặc áo nho sĩ. Năm 1593 ông dịch Tứ thư, Ngũ Kinh ra tiếng La-tinh rồi kiếm cách đi Bắc Kinh xin vào triều kiến Vua. Muốn tới Bắc Kinh phải qua nhiều người dẫn tiến và phải đi Nam Kinh trước. Ông tới Nam Kinh ngày 31/5/1595, nán lại nhà một thân hữu là ông quan họ Hoàng (Wang Zongming) cho tới tháng 9 mới đi Bắc Kinh. Nhưng ở Bắc Kinh ông không tìm được một vị triều thần nào thân cận vua để tiến dẫn ông vào triều kiến. Ông đành trở lại Nam Kinh mua nhà tọa lạc tại đây, nghiên cứu dạy học cho tới năm 1601 đời Vạn Lịch mới được trở lại Bắc Kinh và sống ở đó cho tới khi chết (1610). Ông được nhà vua cho đất táng và cho một cái chùa để các cha Dòng Tên ở.
Ông Matteo Ricci lấy tên Hán là Lý Mã Đẩu (利玛窦) trở thành một nhà nho không khác gì một nho sĩ Trung Quốc, viết rất nhiều sách khoa học bằng chữ Hán dâng Vua như quyển Những nguyên lý Euclide, quyển Bản đồ - địa chí, quyển Luận về Tình bằng hữu vân vân.
Dưới triều đại nhà Thanh, các giáo sĩ Dòng Tên vẫn được lưu dụng và được sủng ái, nhất là dưới triều thịnh trị Khang Hi: Các giáo sĩ Dòng Tên giúp vua trong sự giao thiệp giữa Trung Quốc và nước Nga, giúp về kiến trúc, thiên văn, nghệ thuật (tìm ra men màu hồng - famille rose - cho đồ sứ), vẽ bản đồ Trung Quốc, vân vân. Dòng Tên chỉ bị thất sủng dưới triều Ung Chính và Càn Long. Sau đó, từ 1842 đến 1949 được dùng lại và được phép mở trường ở Thượng Hải (1842) mà trường Đại học nổi tiếng nhất là trường Aurore (Rạng Đông) nơi rất nhiều trí thức Trung Hoa được đào tạo. Tới năm 1850 Trung Quốc đã có 4 trường Đại học Dòng Tên không kể những đài thiên văn, những trung tâm kỹ thuật... Có sự ngược đời là chính óc thiển cận của giáo hội La Mã thời đấy như ngăn cấm sự thờ cúng tổ tiên, đã làm khựng lại hoạt động truyền giáo của Dòng Tên trong dân gian Trung Quốc chứ không phải là vì có sự ngăn cấm từ triều đình.
Đại Việt: Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1591 -1660)
Alexandre de Rhodes. Gốc Do Thái tỉnh Aragon Y Pha Nho. Ông thân sinh tên là Rueda chạy trốn Toà án Dị giáo qua ẩn trú ở Avignon đất của Giáo Hoàng đổi tên là Rhodes sau khi cải đạo theo Công giáo. Alexandre de Rhodes sinh ở đất Giáo Hoàng năm 1591 nên là thuộc dân của Giáo Hoàng chứ không phải là dân Pháp (chỉ sau cách mạng 1789 Avignon mới thuộc về Pháp). Học Dòng Tên ở Rome năm 18 tuổi cho tới năm 1618. Sau khi được thụ phong được cử đi Goa truyền đạo. Học tiếng Bồ Đào Nha ở Goa trước khi đi Macao cuối năm 1619. Được dự định cử qua Nhật nên học tiếng Nhật ở Macao. Cho tới tháng Tư năm 1622 tính qua Nhật, thì đúng vào lúc lệnh trục xuất các giáo sĩ của Mạc chúa Tokagama được thi hành triệt để nên Bề trên bảo ông phải đổi hướng đi Tourane (Đà Nẵng) nước Đại Việt vì ở đó đã có sẵn cơ sở Dòng Tên từ năm 1615 của hai cha Francisco Buzomi và Diego Carvalho. Cuối năm 1624 cùng năm giáo sĩ Dòng Tên khác ông tới Faifo (Hải Phố) nay gọi là Hội An, thuộc Đàng Trong dưới triều chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chỉ trong vài tháng, Alexandre de Rhodes đã thông thạo tiếng Việt, lấy tên Việt là Đắc Lộ và bắt đầu giảng đạo bằng tiếng này. Ông cũng bắt đầu lấy lại những công trình của Francisco de Pina (1585-1625) để tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ La-tinh.
Chúa Sãi không chú ý nhiều về đạo giáo mà chỉ quan tâm nhiều về quan hệ thương mại, đặc biệt là với những nước ngoài. Nhờ vậy dưới triều chúa Sãi, Faifo trở thành một hải cảng quốc tế.
Mãi tới năm 1626 Dòng Tên mới cử một giáo sĩ người Ý tên là Giuliano Belditoni đi giảng đạo ở Đàng Ngoài (Đông Kinh, Tonkin). Ông này than vãn tiếng Việt khó quá nên Dòng cử Đắc Lộ đi Đông Kinh, thay thế Giuliano Belditoni. Năm 1627 dưới triều chúa Trịnh Tráng, Đắc Lộ tới Hà Nội đem theo 2 món quà để biếu Chúa là một đồng hồ và một cuốn sách của Euclide nói về hình cầu. Được lòng Chúa nên Đắc Lộ có cơ hội tới gần phủ Chúa và rửa tội cho một người em gái của Chúa với tên là Catherine. Nhà Thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được Đắc Lộ xây dựng nằm ở địa phận Thanh Hoá. Nhưng cũng lúc đó các quan lại hầu cận vua đưa ra tin đồn Đắc Lộ là gián điệp nên ông bị quản thúc ở Hà Nội cho đến năm 1630 thì bị trục xuất ra khỏi Đàng Ngoài. Trong thời gian 3 năm ở Đàng Ngoài Đắc Lộ rửa tội được chừng 7000 người.
Đắc Lộ trở về Macao dạy học từ 1630 tới 1640 và bắt đầu từ 1640 đến 1645, đi đi lại lại Đàng Trong 4 lần, phần nhiều được những gia đình có đạo bao che hay ẩn trú ở Faifo trong khu Nhật Bản. Lần thứ hai, nhờ sự môi giới của các thương gia Nhật Bản và của bà công chúa Minh Đức cô của Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) có đạo tên là Marie, Đắc Lộ đem cả một tàu đồ biếu quan đầu tỉnh là Ông Nghè Bộ nên được ở từ tháng 1-1642 đến tháng 9-1643. Nhưng lần cuối cùng khi trở lại Đàng Trong tháng 1-1644 thì bị bắt ở biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị nghi ngờ là gián điệp nên bị kết tội xử tử. Sau nhờ sự can thiệp của bà công chúa Marie Minh Đức, án tử hình được đổi thành chung thân biệt xứ và bị đuổi ra khỏi Đàng Trong tháng 7-1645.
Sau khi trở về Macao ông đi nhiều vùng quanh Ấn Độ Dương và Trung Đông trước khi tới Rome tháng 6-1649 để hoàn thiện cuốn tự điển Việt-Bồ-La và cho xuất bản. Ông mất ở Ba Tư năm 1660.
So với François Xavier (sau được phong thánh) và Lý Mã Đẩu (Matteo Ricci), cuộc đời của Đắc Lộ gian khổ hơn nhiều vì phải sống chui lủi trong đám người chài lưới cùng khổ chứ không được các vua chúa, các giới quyền quí sủng ái như 2 vị trên. Nhưng cũng vì sống 20 năm hoà mình trong quần chúng ở cả 3 miền đất nước, Trung-Nam-Bắc, nên tiếng Việt của ông là tiếng Việt của người dân, tiếng nôm na chứ không phải tiếng Hán Việt thơ phú của giới nho sĩ. Cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của ông phải được kể là một công trình vĩ đại trong lịch sử văn hoá thế giới vì nhờ nó mà các nhà ngữ học biết được những từ ngữ tiếng Việt cổ cách đây 400 năm. Ông cũng là người độc nhất dùng 5 dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, để ghi thanh điệu tiếng Việt khiến một khi biết đọc chữ quốc ngữ là biết đọc đúng tiếng Việt và nhờ vậy thanh điệu tiếng Việt ở 3 miền Trung-Nam-Bắc mỗi ngày một thống nhất.
4. Dòng Tên ngày nay
Với hơn 20,000 giáo sĩ, Dòng Tên đứng thứ nhì trong số những dòng thuộc đạo Công giáo. Nhưng nếu kể số trường Đại học Cao đẳng và Trung học mà Dòng Tên thiết lập ở 112 nước trên thế giới, Dòng Tên phải được kể là lớn nhất trong địa hạt giáo dục. Những trường do Dòng Tên thiết lập đều có danh tiếng quốc tế: Thí dụ như Đại Học Georgetown Mỹ nơi mà Clinton và hai bà bộ trưởng ngoại giao, Madeleine Allbright của Bill Clinton và Condoleezza Rice của George W. Bush theo học. Số những nhân vật nổi tiếng trên thế giới trên đủ mọi địa hạt chính trị cũng như văn hóa trong lịch sử cũng như hiện đại được đào tạo ở những trường Dòng Tên không sao kể hết được: Chỉ cần kể trong lịch sử Pháp có nhà cách mạng Robespierre và thời đại này có Fidel Castro.
Ngoài địa hạt giáo dục, các linh mục Dòng Tên cũng có tiếng trong nhiều lãnh vực kể cả chính trị như ở Trung Nam Mỹ với lý thuyết thần đạo giải phóng, đã có hồi bị coi là lý thuyết cộng sản trá hình. Nhân vật nổi tiếng hiện giờ ở Trung Quốc là một linh mục Dòng Tên 93 tuổi được chính phủ Trung Quốc phong làm giám mục Thượng Hải trái với ý của Tòa Thánh Vatican.
Kết luận
Nhờ chúa Sãi có óc tương đối rộng rãi cho phép các giáo sĩ Dòng Tên được lập cơ sở ở Hội An mà chữ quốc ngữ được ra đời ở đàng Trong. Tiếc là sau đó các vua chúa Việt Nam, nhất là chúa Trịnh đàng Ngoài, vì quá phụ thuộc tư duy Tàu, văn hoá Tàu, nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tận dụng những kiến thức về khoa học và kỹ thuật của các giáo sĩ Dòng Tên như các vua chúa Nhật và Trung Quốc. Nhưng cơ hội lớn nhất đã bị bỏ lỡ là đã không nghĩ dùng chữ quốc ngữ, chỉ có 24 chữ cái, để thay thế chữ Hán, một thứ chữ tượng ý gồm 80 ngàn chữ, khó mà có thể học và nhớ hết được. Chữ Hán chỉ hợp với Trung Quốc, một nước mà mỗi miền nói một thứ tiếng khác nhau chỉ có thể hiểu nhau bằng bút đàm. Nếu biết dùng chữ quốc ngữ ngay từ cách đây gần 400 năm để mọi người dễ dàng biết đọc biết viết, để phổ biến những tư tưởng và những kỹ thuật mới mẻ của Tây phương, thì hai miền đàng Trong và đàng Ngoài đã trở thành một quốc gia rộng lớn, nói cùng một tiếng Việt thuần nhất, và đất nước được canh tân trước Nhật Bản của thời Minh Trị 250 năm. Việt Nam đã là một nước hùng mạnh nhất nhì Đông Nam Á chứ không như bây giờ vẫn nằm trong vòng cương toả của Tàu về tư duy, kinh tế cũng như chính trị.
Phong Uyên