Những Vì Sao
Bài này trích ra từ quyển "Lettres de mon moulin" (1869) của Alphonse Daudet, rất nổi tiếng "Thư viết từ cái cối xay" .
Trong thời gian chăn súc vật tại Luberon, tôi đã từng trải qua nhiều tuần liên tiếp không trông thấy một bóng hình, chỉ một mình tôi trên cánh đồng xanh với chú chó Labri, và đàn súc vật. Thỉnh thoảng tôi có nom thấy một ẩn sĩ sống vùng Mont de L'ure đi ngang qua để kiếm dược thảo. Vài khi tôi cũng gặp mấy khuôn mặt đen nghịt của những người phu mỏ vùng Piémont; nhưng tất cả đều có dáng vẻ dửng dưng, lặng lờ. Có lẽ vì sống đời cô độc quen rồi, họ đánh mất bản tính thích chuyện trò của loài người. Họ cũng chẳng màng biết đến bất cứ câu chuyện thời sự nào đang được bàn tán trong những làng hay tại các thành phố dưới đồng bằng.
Thế nên, cứ mỗi nửa tháng, từ trên con đường lên núi, tiếng chuông của chú lừa mang thực phẩm định kỳ, rồi dần dần trên sườn núi xuất hiện cái đầu cậu bé sai vặt của nông trại, hay bộ tóc hung đỏ của dì Norade, tôi vui mừng quá đỗi. Tôi bắt họ kể những tin tức mới từ miền dưới, như các buổi lễ rửa tội cho trẻ con và những đám cưới. Nhưng điều tôi tha thiết nhất, vẫn là những gì mới lạ xảy ra chung quanh cô con gái ông chủ, cô Stéphanette, nhan sắc nhất vùng. Làm bộ như chẳng mấy lưu tâm, thật ra tôi góp nhặt nhanh tin tức về cô, nào là cô có đi dự tiệc nhiều không, có bao nhiêu chàng trai mới đeo đuổi cô ... Và, nếu có ai hỏi tôi những điều như thế có ích lợi gì cho tôi, một tên chăn cừu nghèo trên đỉnh núi, thì tôi sẽ trả lời rằng tôi đã 20 tuổi rồi, và cô Stéphanette, trong mắt tôi là người đẹp nhất trên đời mà tôi được biết.
Một sáng chủ nhật nọ, trong lúc ngóng lương thực cho nửa tháng sắp tới, tôi bỗng nhận rằng nó đến trễ hơn thường lệ. Lúc sáng tôi đã nhủ thầm: “Chắc tại nhà thờ có buổi lễ lớn", đến trưa, trời đổ cơn giông, tôi lại đóan chắc tại con lừa chưa chịu đi vì đường đang xấu lắm. Cuối cùng, khoảng ba tiếng đồng hồ sau, trời quang tạnh, cả vùng núi ướt mưa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tôi nghe lẩn vào tiếng nước rỏ tí tách từ đầu các ngọn lá và tiếng nước lũ tràn từ con suối, tiếng chuông reo vui rộn ràng của chú lừa, nghe tựa như tiếng chuông đổ ngày lễ Phục Sinh.
Thế nhưng không phải là cậu bé sai việc vặt của nông trại, cũng chẳng phải là bà già Norade cưỡi chú lừa như mọi khi. Mà là ... bạn thử đoán xem là ai nào? Cô tiểu thư của chúng ta đấy, trời ạ, cô nàng bằng xương bằng thịt, ngồi ngay ngắn giữa những giỏ mây, đôi má ửng hồng vì không khí của núi và cơn mưa giông vừa qua. "Thằng bé bị bệnh, dì Norade đi nghỉ mát tại nhà mấy người con", người đẹp Stéphanette báo tin cho tôi biết trong lúc cô nàng tuột khỏi lưng con lừa, và cô cho biết đã đến trễ vì bị lạc đường.
Trông cách phục sức của cô nàng, áo diện đẹp ngày Chủ Nhật, với khăn buột tóc cột thành hoa, váy ren lộng lãy, hình như cô đến chậm vì còn mãi dừng chân nơi này, nơi nọ, khiêu vũ tại buổi tiệc, chứ chẳng có vẻ chi là bị lạc lối lung tung ở các bụi rậm ven đường. Ồ, thật là một tạo vật mỹ miều! Đôi mắt tôi ngắm cô mãi mà không biết chán. Quả thật, tôi chẳng bao giờ có dịp nhìn cô gần đến thế! Thỉnh thoảng vào mùa đông, lúc mà đoàn súc vật đi lạc xuống đồng, tôi ghé vào trại để dùng cơm tối, cô đi ngang qua phòng ăn rất vội, dường như không bao giờ chuyện trò với những người làm công, dáng điệu lúc nào cũng hơi xa cách, thoáng chút kiêu kỳ. Vậy mà bây giờ, nàng đang hiện diện trước mặt tôi đây, cho riêng mình tôi thôi, có điên đầu không chứ?
Sau khi trút thực phẩm từ cái giỏ mây ra, Stéphanette bắt đầu tò mò nhìn chung quanh. Nhẹ nhàng, nàng khẽ vén chéo váy xinh đẹp lên, cô nàng bước vào không gian của tôi, cô tò mò muốn xem nơi tôi ngủ, cái ổ đệm rơm phủ da cừu, cái áo choàng tôi treo lên tường, cây thập giá, viên đá lửa nhồi. Tất cả những vật đó khiến cô lấy làm thú vị lắm.
- À, thì ra anh sống ở đây, tội nghiệp không? Làm sao để anh khỏi buồn chán, một mình như thế này? Anh làm chi? Anh nghĩ gì?
Tôi rất muốn trả lời: "Tôi nghĩ đến cô đó, cô chủ bé à". Quả thật, nói như vậy mới không dối lòng, nhưng lúc này quá đỗi xao xuyến, tôi cứ im như thóc mà chẳng tìm được câu trả lời. Hình như cô nàng cũng nhận biết thế, và cô bé lấy làm thích thú một cách dễ ghét. Cô càng khiến tôi thêm bối rối với những câu hỏi tinh nghịch như:
- "Anh chăn cừu ơi, còn cô bạn gái của anh, có thỉnh thoảng lên đây thăm anh không? Có lẽ cô sẽ cưỡi con dê bằng vàng, hay nhờ phép thần thông của tiên nữ Estérelle, chỉ khẽ nhún chân một cái là tới núi thôi ...”
Thật ra cô mới giống nàng tiên Esterelle, với tiếng cười dòn tan, vui tươi, mái đầu nghiêng nghiêng, nhất là sự vội vàng ra đi của cô cho tôi cái cảm giác buổi thăm viếng này y như là nàng tiên xuất hiện.
- Chào anh chăn cừu nhé!
- Chào cô chủ nhỏ.
Thế là nàng biến mất, mang theo cùng những chiếc giỏ mây trống trơn.
Khi bóng cô khuất trên lối mòn lưng núi, tôi có cảm giác như những hòn cuội, lăn từ chân chú lừa, rớt từng viên một lên trái tim mình. Tôi còn nghe mãi tiếng lăn của chúng thật lâu, thật lâu; và cho đến cuối ngày tôi vẫn như mơ, như mộng, không dám làm động tác chi mạnh, như sợ chúng biến khỏi giấc mơ của tôi.
Khi chiều xuống, đáy thung lũng một màu xanh thẫm, những con cừu xúm xít lại với nhau, cất tiếng kêu đàn trên đường về chuồng, tôi chợt nghe tiếng ai gọi mình từ lưng núi. Rồi tôi thấy cô tiểu thư của chúng ta xuất hiện, hết dáng điệu vui tươi lúc ban trưa, mà cô đang run lảy bảy vì lạnh, vì sợ, thân hình ướt đẫm. Chuyện là trên đường về, khi qua con suối ngập nước vì cơn bão, thế mà cô bé nhất quyết lội qua, suýt nữa bị dòng nước lũ cuốn đi. Khổ thân cô, giờ này không có cách nào về lại nông trại. Con đường băng qua núi, một mình cô thì không thể nào tìm ra lối, còn tôi thì không thể bỏ đàn cừu được.
Ý nghĩ phải ngủ qua đêm ở nơi này làm cô băng khoăng, nét lo lắng hiện rõ. Còn tôi, chỉ biết cố hết sức trấn an cô:
- Tháng Bảy, đêm rất ngắn, cô chủ à .. Cô phải trải qua một chút bực mình nhỏ thôi mà!
Tôi vội vàng nhóm một ngọn lửa lớn để hong áo cho cô, và sưởi ấm đôi chân ướt lạnh vì lội qua suối. Rồi tôi đem thức ăn tới cho cô, gồm có sữa và những khoanh phô mách nhỏ, nhưng cô bé đáng thương không màng ăn uống hay sưởi ấm. Nhìn nước mắt cô tuôn rơi, tôi cũng muốn khóc theo luôn.
Lúc này đêm đã xuống gần như khắp chốn. Chỉ còn lại trên đỉnh núi một chút bụi ánh sáng, một làn khói mờ nhạt nơi chân trời. Tôi mời cô tiểu thư vào nằm nghỉ trong túp lều bé nhỏ của tôi. Tôi thay ổ rơm mới và tôi trải một bộ da mới, rồi tôi chúc cô ngủ ngon, và ra ngoài ngồi canh cửa. Chúa chứng dám lòng con, dù ngọn lửa tình yêu đang cháy nóng tâm can, không một ý nghĩ xấu xa nào len vào tâm, chỉ có niềm kiêu hãnh vô bờ khi nghĩ đến trong góc nhỏ của khu đồng xanh trên núi này, giữa đám cừu tò mò nhìn cô bé đang ngủ, cô con gái của ông chủ, nàng như một con bê quý giá và trắng ngần, yên tâm nằm nghỉ, có tôi ngoài kia thức canh gác. Chưa bao giờ trời sâu thăm thẳm và các vì sao lại sáng như đêm nay!
Bỗng nhiên cửa lều xịch mở, và cô nàng xinh đẹp Stéphanette hiện ra! Hóa ra cô bé không ngủ được vì đàn cừu thay nhau cựa mình, xao động trên đống rơm, đôi khi lại cất tiếng kêu be he nho nhỏ trong giấc ngủ mê. Cô bảo cô thích ngồi gần ngọn lửa hơn. Tôi vội khoác lên vai cô tấm khăn choàng bằng lông cừu của tôi, và chúng tôi ngồi im lặng bên nhau.
Nếu có lúc nào bạn trải qua một đêm dưới bầu trời vằng vặc đầy sao, bạn mới hiểu là vào giờ mọi người đang yên giấc, thì cả một thế giới huyền bí đang bừng dậy trong thinh lặng và cô quạnh. Lúc ấy, tiếng suối reo vui và thanh thoát hơn, mặt hồ tĩnh mịch nhen lên những đám lân tinh. Mọi hồn thiêng của núi tha hồ bay lượn, không khí chuyển động, vang lên đó đây những âm thanh bình thường ta không cảm nhận được, hình như thân cây chuyển lớn, đám cỏ vươn cao hơn. Ban ngày là đời sống của sinh vật, nhưng ban đêm là thuộc về thực vật. Khi chưa quen, con người có cảm giác sợ hãi ... Thế nên, mỗi khi có tiếng động bất chợt vang lên, cô tiểu thư của chúng ta run lập cập và xích người ngồi sát thêm vào tôi. Rồi từ mặt ao lấp lánh từ dưới kia, vọng một tiếng kêu dài, não nuột, đến tận chỗ hai đứa chúng tôi ngồi. Cùng một lúc một ngôi sao đổi ngôi, băng qua đầu chúng tôi về cùng một hướng, tựa như tiếng thán vừa nghe thấy mang theo cùng nó một luồn ánh sáng.
- Cái gì thế? Stéphannette thì thào hỏi tôi.
- Cô chủ à, một linh hồn vừa vào thiên đàng.
Và tôi làm dấu thánh giá. Cô cũng làm dấu thánh giá, mặt ngước nhìn lên bầu trời, nét mặt đầy cảm khái. Rồi cô hỏi:
- Có thật vậy không, anh chăn cừu, có phải các anh là phù thủy, những người có lối sống khác với người thường như chúng tôi?
- Không phải vậy đâu, cô chủ ạ. Nhưng vì chúng tôi sống ở trên núi cao, gần các vì sao hơn, nên chúng tôi biết nhiều điều xảy ra hơn là người sống dưới đồng bằng.
Mặt cô vẫn đăm đăm nhìn lên trời, tay chống cầm, mình khoác tấm chăn cừu, trông cô giống như một thiên thần chăn chiên vậy.
- Nhiều sao ghê! Thật đẹp quá! Chưa bao giờ tôi thấy nhiều sao như thế! Anh chăn cừu à, anh có biết tên của chúng không?
- Biết chứ cô chủ! Này, ngay trên đầu chúng ta là giải Ngân Hà, con đường của thánh Jacques. Ông ta đi từ nước Pháp thẳng đến xứ Tây Ban Nha. Chính Thánh Jacques de Galice đã vẽ đường cho người hùng Charlemagne đi đánh trận với quân Sarrasins. Xa hơn tí, cô thấy kìa chiếc xe ngựa chở linh hồn (sao Hùng) với bốn cái trục sáng chóị. Ba ngôi sao đi đằng trước là ba con thú, và ngôi sao bé tí là người cưỡi xe. Cô có thấy chung quanh chúng một loạt ngôi sao rơi rụng xuống không? Ấy là những linh hồn mà Thượng Đế không muốn chúng đến cạnh Ngài. Xa hơn chút nữa, là ngôi sao của Ba Vuạ, là ngôi sao dùng làm đồng hồ cho những người như chúng tôi. Chỉ cần nhìn chúng, là tôi biết bây giờ đã quá nửa đêm rồi! Đàng xa nữa, phía ngôi sao hôm, là sao Jean de Milan, ngọn đuốc của các vì tinh tú. Giới chăn cừu chúng tôi đã truyền miệng câu chuyện như thế này: Một đêm nọ, anh chàng Jean de Milan, cùng ba vị vua và ngôi sao Văn Học được mời đến dự đám cưới của người bạn chung. Sao Văn Học gấp gáp đi trước, vì thế vì nó nằm ở vị trí cao nhất. Nhìn trên xa kìa, tận trên đỉnh trời cao đó. Ba ông vua nằm phía dưới, đang theo đuôi chàng Văn Học, còn cậu lười biếng Jean de Milan, vì ngủ dạy trễ nằm tận cuối cùng. Cậu tức giận, bèn ném cây gậy lên. Vì thế vì sao "Ba Vua" còn được gọi là "Cây Gậy của chàng Jean de Milan" . .. Nhưng mà cô chủ à, ngôi sao đẹp nhất trong các vì sao, là sao của chúng tôi, “ Ngôi sao của những người chăn cừu “, mọc lên để soi đường lúc tờ mờ sáng, khi chúng tôi lùa đàn cừu ra đồng, và lúc hoàng hôn xuống chúng tôi đem cừu về. Chúng tôi gọi nói là cô nàng Maguelonne. Nàng Maguelonne chạy theo chàng Thổ Tinh, và cứ bảy năm lại làm đám cưới với chàng một lần.
- Thôi đi anh chăn cừu, các vì sao mà cũng làm đám cưới à?
- Đúng thế đây, cô chủ à!
Đúng lúc tôi cố tìm cách giải thích cho cô hiểu thế nào là đám cưới của các vì sao thì tôi cảm giác có một cái gì vừa mát lại vừa êm, nhẹ nhàng đè lên vai tôi. Đó là cô chủ, mệt mỏi ngả đầu và thiếp trên vai tôi, với tiếng xột xoạt dễ thương của áo đăng ten, cùng mái tóc quăn. Cô tựa người vào tôi như thế, yên ả, cho đến khi màu tro nhạt trên bầu trời tan biến vào tia nắng mặt trời đầu ngày. Tôi nhìn cô ngủ, lòng hơi xao xuyến, nhưng may thay đã được các vì thánh che chở trong buổi tối an lành này, với toàn ý nghĩ cao đẹp. Chúng quanh chúng tôi, các vì sao tiếp tục cuộc hành trình lặng lẽ, ngoan ngoãn như một đàn cừu khổng lồ. Bỗng nhiên tôi có cảm giác là một trong những vì sao đó, vì sao xinh đẹp nhất, rực rỡ nhất, đã lạc đường, sa xuống vai tôi mà ngủ yên lành.
Alphonse Daudet
Trần Viết Minh-Thanh chuyển dịch