Truyện dịch Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables) - Victor Hugo

Thứ Hai, 23 Tháng Ba, 2020

Phần 1 : Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables) - Victor Hugo

Những Kẻ Khốn Cùng

Victor Hugo

 

Chương 1 : Một Con Người Chính Trực

Vào những ngày đầu tháng mười năm 1815, khoảng một giờ trước khi mặt trời lặn, một người đàn ông đi bộ vào thành phố D... Người đàn ông đó mập mạp và khỏe mạnh, tuổi khoảng từ bốn mươi sáu tới bốn mươi tám, một chiếc mũ lưỡi trai che một phần khuôn mặt sạm nắng, ông mặc một chiếc áo sơ mi bằng vải thô màu vàng, một chiếc ca vát xốc xếch nơi cổ, một chiếc quần dài đã sờn, một chiếc áo bờ lu vá nơi khuỷu tay, vác trên vai một cái túi lính thật nặng, tay cầm một cây gậy to tướng có nhiều mắt, chân không vớ đi giày đế sắt, tóc cắt ngắn và râu dài.

Tại thành phố... bấy giờ có một quán trọ xinh xắn mang bảng hiệu Croix-de-colbas là quán nổi tiếng nhất tại địa phương. Người đàn ông bước về phía đó. Tất cả các lò đều đỏ lửa. Ông chủ đang đi từ lò lửa tới đám xoong chảo, canh chừng bữa ăn tối tuyệt hảo của những người đánh xe nói cười râm ran nơi phòng bên. Ông ta ngẩng đầu lên khi người khách lạ bước vào quán và ngạo nghễ nhìn ông với vẻ dè chừng.

 - Ông muốn gì - Ông ta hỏi giọng xấc xược.

 - ăn và ngủ... Người đàn ông vừa nói vừa móc ra bọc tiền to từ áo bờ lu của mình. Tôi có tiền đây.

Ông chủ lưỡng lự một hồi. Rồi ông ta tiếp lại, giọng gay gắt hơn.

- Tất cả các phòng đều đã có người mướn và tôi không có gì cho ông ăn cả. Tất cả đều được dặn trước. Ông hãy đi khỏi nơi đây !

Giọng của ông ta khiến người đi đường rùng mình. Người đàn ông mở miệng để đáp lại, rồi ông cúi đầu nhặt lên cái túi mà ông đã đặt xuống đất và bước đi. Ông ra đường lớn. Ông đi tới một cách lo âu, lướt sát qua các ngôi nhà. Nếu quay đầu lại, chắc ông đã trông thấy ông chủ quán trọ Croix-de-colbas đứng nơi ngưỡng cửa vây quanh bởi tất cả những người khách trong quán ông và tất cả những người đi đường, đang vừa nói một cách sôi nổi vừa dùng ngón tay chỉ về phía ông Trông những cái nhìn dè chừng và sợ sệt của đám người, hẳn ông đoán biết việc ông tới sẽ sớm trở thành một biến cố của toàn thành phố. Nhưng ông không quay đầu lại, ông không thấy gì về tất cả hiện tượng, những người trĩu xuống dưới sức nặng thường không nhìn phía sau họ. Đêm dần về, ông tìm một chỗ trú khác. Quán trọ xinh đẹp đã không tiếp ông, ông bắt đầu tìm kiếm một quán rượu thật khiêm nhường. Ông vào quán đầu tiên ông gặp. Nhưng trong số những người khách ngồi vào bàn, có một người bán cá trước khi vào đây đã cho ngựa vào chuồng tại quán trọ Croix-de-colbas. Từ chỗ ngồi của mình hắn kín đáo ra hiệu cho chủ quán và rỉ vào tai ông ta mấy tiếng. Ông muốn gì đây? Chủ quán sẵng giọng hỏi người đàn ông cầm gậy và không đợi người này có thì giờ trả lời, ông ta tiếp lời ngay:

- ông hãy rời khỏi nơi đây!

- ông muốn tôi đi đâu?

- Chỗ khác !

Người đàn ông cầm lên cây gậy và cái túi, rồi bước ông đi qua trước nhà tù. Nơi cửa treo một dây xích sắt buộc vào một cái chuông. Ông rung chuông. Một cánh cửa con mở ra. Ông giữ cửa - người đàn ông vừa nói vừa kính cẩn dỡ mũ lưới trai ông có vui lòng cho tôi trú đỡ đêm nay không ? - Một nhà tù đâu phải một nhà trọ người giữ cửa nói giọng khô khốc. Ông hãy làm gì để bị bắt đi. người ta sẽ mở cửa cho ông. Và cánh cửa con đóng lại.

Đêm tiếp tục ập xuống, gió lạnh từ dãy núi Alpes thổi tới. Trong ánh sáng yếu ớt của ngày đang tắt, người đàn ông trông thấy trong một khu vườn nằm dọc theo con đường ông vừa bước tới, một cái chòi gỗ cửa thấp có vẻ là nơi ở của một người thợ sửa đường. Ông dừng bước, thở dài nhẹ nhõm. Mình ở đây được đấy ông lầm bầm. Nhưng trong lúc ông cúi xuống để lướt vào trong cái chòi, ông nghe một tiếng gầm gừ dữ dằn. Ông ngước mắt nhìn lên. Đầu một con chó gộc khổng ìô hiện ra trong bóng tối. Đây là cái cũi của một con chó. - Chỗ này cũng không ! Người đàn ông kêu lên cay đắng. Ông đã phải dùng tới cây gậy mới ra khỏi ra khu vườn bởi con chó nhào tới ông với những tiếng sủa điên cuồng, và ông lại bước đi một cách cầu âu qua các con đường gõ vào vài cánh cửa và lặng lẽ dang xa mỗi lần bị từ chối.

Ông đến quảng trường Nhà Thờ, ông đưa nắm tay ra trước nhà thờ, rồi bởi kiệt sức vì mệt và không còn hi vọng gì nữa, ông nằm trên một chiếc ghế đá dài cạnh đó. Bấy giờ một bà lão từ nhà thờ bước ra. Bà trông thấy người đàn ông nằm dài trong bóng tối.

- Đây là một cái giường rất tệ, ông bạn ạ, bà nói.

- Trong suốt mười chín năm tôi có một cái nệm gỗ, người đàn ông nói giọng căm giận, hôm naỵ tôi có một cái nệm đá. Ông không thể qua đêm như thế này được đâu; dĩ nhiên ông đang lạnh và đói. Người ta có thể cho ông tạm trú vì lòng từ thiện. - Khắp nơi người ta đã xua đuổi tôi.

- Ông đã gõ mọi cánh cửa rồi à? Bà lão vừa hỏi vừa chạm vào cánh tay người đàn ông và chỉ bên kia quảng trường, một ngôi nhà nhỏ và thấp bên cạnh tòa giám mục. Nhưng ông đã gõ cánh cửa đó chưa?

 - Chưa. Hãy gõ vào đó !

Bà lão dời bước, người đàn ông vừa nhổm dậy vừa càu nhàu và tiến đến cánh cửa mà bà lão đã chỉ cho ông. Ông gõ cửa.

- Vào đi ! một giọng đàn ông thốt lên, dịu dàng và trầm trọng. Người đàn ông đẩy cánh cửa mở toang và bước vào Với cái túi trên vai, cây gậy trong tay, người đàn ông có một vẻ thô tháp, táo tợn, mệt mỏi và dữ dội trong đôi mắt. ánh lửa-từ lò sưởi hắt thẳng vào mặt ông và trông ông dễ sợ như ma quỉ hiện hình. Trong ba người có mặt trong phòng, một giáo sĩ và hai ngươi đàn bà luống tuổi, chỉ có hai người đàn bà khẽ rùng mình. Vị giáo sĩ nhìn đăm đăm vào người đàn ông bằng đôi mắt lặng lẽ. - Thế này đây. bấy giờ người đàn ông lên tiếng bằng một giọng khàn đục và không đợi người ta nói với mình:

- tôi tên là Jean Valjean, tôi đã trải qua mười chín năm trong tù. Tôi được trả tự do từ bốn ngày nay và đang trên đường tới Pontarlier. Tôi đi bộ từ Toulon đã bốn hôm rồi. Hôm nay tôi đã đi hết mười hai dặm đường. Chiều hôm nay tôi đã vào một quán trọ rồi một quán khác, người ta đã xua đuổi tôi. Tôi đã vào trong cái cũi của một con chó, con chó đã cắn tôi và đã đuổi tôi. Tôi đã nằm trên một cái ghế đá. Đêm không sao và tôi nghĩ trời sẽ mưa và không có phép thánh nào cản được mưa cả Một người đàn bà đã chỉ nhà ông cho tôi và nói:

- "Hãy gõ vào đó?" Tôi đã gõ. Đây là đâu vậy? Một quán trọ à? Tôi có tiền, tôi sẽ trả. Một trăm lẻ chín đồng mười lăm xu mà tôi kiếm được trong nhà tù bằng sức lao động của tôi trong mười chín năm. Tôi mệt lắm, mười hai dặm đường đi bộ. Tôi rất đói. Ông có muốn tôi ở lại không Bà Magloire, vị giáo sĩ vừa nói vừa quay sang một trong hai người đàn bà đội một cái mũ bông có nếp ống viền quanh khuôn mặt tròn trịa, bà hãy dọn thêm một bộ đồ ăn. Người đàn ông bước ba bước đến gần cây đèn trên bàn. Một vẻ sửng sốt bộc lộ trong cái nhìn của ông. Ông có nghe không? ông nói nhỏ giọng lại. Tôi là một tên tù khổ sai, tôi từ cảnh tù đày về đây. Giấy thông hành của tôi đây. Màu vàng, như ông thấy đấy. Nó khiến tôi bị xua đuổi ở bất luận nơi nào tôi đặt bước tới. Ông hãy xem đây, những gì người ta ghi lên giấy thông hành của tôi, để tôi đọc cho ông nghe bởi tôi biết đọc mà, tôi đã học trong tù. Jean Valjean, tù khổ sai, được trả tự do, sinh trưởng tại Pontarlier, đã ở trong nhà tù mười chín năm. Năm năm về tội phá hoại. Mười bốn năm về tội toan vượt ngục bốn lần. Con người này rất nguy hiểm". Thế đấy. Mọi người đã ném tôi ra ngoài. Còn ông, ông tính cho tôi ăn uống và ngủ nghê hay sao? ông có một chuồng ngựa không? - Bà Magloire, vị giáo sĩ nói, vẫn nói giọng dịu dàng, bà hãy trải những tấm ra trắng lên chiếc giường trong buồng. Đoạn quay sang người đàn ông. Mời ông ngồi và sưởi cho ấm, trong chốc lát chúng ta sẽ ăn bữa khuya. Trong lúc có người làm giường cho ông . Khuôn mặt người đàn ông toát ra vẻ nghi hoặc và sửng sốt lạ thường. - Ông giữ tôi lại! ông ấp úng. Ông gọi tôi bằng tiếng "ông". Ông không bảo tôi:

"Đi đi đồ chó". Tôi lại được ăn bữa khuya. Được một cái giường và nệm và những tấm ra như mọi người. Ông là ai? Tôi sẽ trả tiền cho ông. Ông là chủ quán này phải không? - Không, tôi là một thầy tu đang ở đây. Ông hãy giữ tiền của ông, ông hãy đến gần lửa. Gió đêm rất lạnh từ trong vùng núi Alpes. Bà Magloire, cây đèn này mờ quá. Người giúp việc già cỗi biết ý chủ. Bà đi tìm hai cây đèn bằng bạc chạm trổ chỉ dùng khi có khách mời, và bà mang chúng tới khi đã thắp sáng. Trên lớp khăn trải bàn, bà dọn ra bốn bộ đồ ăn, vẻ đỏm đáng độc nhất trong ngôi nhà rất đỗi giản dị này.

- Ông thầy tu, người đàn ông nói giọng run run, ông tốt lắm. Ông đón nhận tôi, ông đốt những cây nến của ông vì tôi. Thế nhưng tôi đã không dối ông là tôi từ đâu đến. Vị giáo sĩ chạm nhẹ vào bàn tay ông. Cánh cửa này không hỏi người nào bước vào đây có tên hay không, bởi nhà này là nhà của Jésus-christ. Tôi biết điều đó trước khi ông nói.

Người đàn ông mở mắt kinh ngạc. Đúng thế sao? ông biết tên tôi à? ông kêu lên. Đúng, ông tên là người anh em của tôi.

Trong lúc đó bà Magloire đã dọn ra bữa ăn, một món súp có dầu và mỡ, một miếng thịt, những trái vả, một miếng phô mát tươi, một ổ bánh mì to bằng lúa mạch. Tự tay bà còn lấy ra thêm, theo lệ thường của chủ, một chai rượu lâu năm của vùng Mauves. Vị giáo sĩ đọc kinh trước bữa ăn. Ông mời người đàn ông ngồi bên phải của mình, còn người đàn bà thì ngồi đối diện với ông, trong suốt cảnh này bà vẫn không nói gì và vẫn giữ một vẻ mặt bình lặng và dịu dàng nơi người ta bắt gặp những đường nét cùng những biểu lộ của khuôn mặt vị giáo sĩ. Người đàn ông bắt đầu ăn ngon lành. Vị giáo sĩ và bà giúp việc nhìn ông một cách nhân từ nhưng không có chút tò mò gây khó chịu.

Những người đánh xe ăn sang hơn ông, ông linh mục à - người đàn ông nói, miệng đầy thức ăn. - Họ có nhiều nỗi nhọc nhằn hơn tôi - vị giáo sĩ ôn tồn nói. Nhưng ông đã nói là ông đi Pontarlier. Ở đó họ có một ngành công nghệ mang tính gia trưởng với những xưởng phô mát...

Trong suốt bữa ăn câu chuyện xoay quanh ngành công nghệ đó của Pontarlier. Vị giáo sĩ thấy có nhiệm vụ là không thốt lên một từ nào có vẻ thuyết giáo, trái lại ông tìm cách khuây khỏa Jean Valjean trong nỗi khốn cùng của ông, làm cho ông tin rằng ông cũng là một con người như bao con người khác. Bữa ăn kết thúc, người em gái của vị giáo sĩ, cô Baptisfine, và người giúp việc, bà Magloire, lên lầu ngủ, phòng của họ trên tầng sâu độc nhất của ngôi nhà. Vị giáo sĩ cầm một cây đèn bạc trên bàn và quay sang người khách của mình, ông nói:

- Ông đến đây, mời ông, tôi sẽ đưa ông về phòng. Họ đi qua một gian phòng cũng bày biện đơn sơ như phòng ngoài, với một cái bàn và nhưng chiếc ghế màu trắng, một cái giường sắt có màn che bằng nỉ màu lục chiếm một góc, trong một góc khác có cánh cửa mở ra phòng cầu nguyện, một pho tượng Jésus-christ với hai cánh tay đã tróc lớp mạ vàng bị đóng đinh trên một cây thập tự gỗ nổi bật trên bức tường quét vôi trắng. Một buồng ngủ đóng kín với một cái giường ở cuối nhà nguyện. - Xin ông cứ tự nhiên như ở nhà ông, vị giáo sĩ vừa nói vừa đặt cây đèn trên một cái bàn con nơi buồng ngủ. Ông hãy ngủ ngon. Sáng mai trước lúc lên đường, ông sẽ uống một ly sữa từ bầy bò cái của chúng tôi.

Bấy giờ bất chợt người đàn ông kêu lên, giọng khàn đục:

- ông để tôi ngủ gần bên ông ! Như thế này đây ! Ai bảo với ông rằng tôi không phải là kẻ giết người?

ông Myrial hay đúng hơn là đức giám mục Bienvenu như ở địa phương mọi người vẫn gọi, chủ nhân đón tiếp người cựu tù khổ sai, là giám mục tại D... Từ nhiều năm nay, lòng từ thiện vô tận của ông đã khiến ông nổi tiếng trong thành phố nhỏ có vẻ đạo mạo, nơi những người theo đảng Jacobins, những người theo chủ nghĩa đế chế và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng xâu xé nhau bằng những trò vu khống ngấm ngầm, cũng như trong những thôn xa xôi thuộc miền núi.

Ông đã bắt đầu sự nghiệp giám mục của mình tại D... bằng cách đưa hai mươi sáu người bịnh trong bịnh viện vào tòa lâu đài có những khu vườn bao quanh nơi các tổng giám mục địa phận Embrun đã đến trước ông từ nhiều thế kỷ. Bản thân ông cùng với người em gái và người giúp việc về ở trong ngôi nhà nhỏ có khu vườn con con mà hành phố vẫn dành cho việc vệ sinh công cộng. - Ông được chỗ ở của tôi và tôi được của ông, ông đã nói với ông giám đốc bịnh viện. Hãy trả lại nhà tôi. Chỗ của ông là đây.

Lương bổng ông nhận được của nhà nước trong tư cách giám mục ráng lắm cũng chỉ đủ cho ông thanh toán điều ông gọi là "những khoản chi tiêu trong nhà". Những khoản chi tiêu đó gồm việc giúp đỡ, tặng tiền cho các công cuộc cứu tế và các hội đoàn khác nhau trong giáo khu. Trong số mười lăm nghìn cung cấp cho ông, giám mục Bienvenu chỉ giữ lại một nghìn để sống và ông thường tự trách mình đã tước đoạt của người nghèo món tiền đó. Bà Magloire dù dè sẻn tiện cặn cũng phải vất vả lắm mới kham nổi những món chi tiêu trong nhà chưa kể những lần bố thí bất ngờ. Bà đã khuyên chủ nhân đòi tỉnh phải trả những chi phí về xe cộ trong thành phố và về những chuyến đi trong giáo khu. Và bà mừng rỡ khi Tổng hội đồng chấp thuận yêu cầu của ông giám mục, biểu quyết cho ông một món tiền hằng năm ba nghìn. xong những niềm vui đó đã chóng tàn bởi ngay buổi chiều đức giám mục Bienvenu đưa ra bản ghi chú này.

Chi phí xe cộ và các chuyến đi: Để đưa canh thịt cho người bịnh trong bịnh viện... 1500 trăng Dành cho hội dục anh Aix... 250 trăng Dành cho hội dục anh vùng Dragreignan... 250 trăng Dành cho trẻ lạc... 500 trăng Dành cho trẻ mồ côi... 500 trăng Tổng cộng... 3000 trăng Đó là quỹ chi thu của ông Myriel. Thật nhanh chóng, ông giám mục trở thành người quản lý tài chánh của mọi công việc từ thiện và người thủ quỹ của mọi trường hợp cùng khổ. Người bịnh, người nghèo, người khốn khổ đổ dồn về ông như về một nguồn sinh khí, ông chuyện trò nhiều hơn thuyết giảng, ông không kết án vội vã một điều gì, ông nói:

"Chúng ta hãy thấy con đường mà lỗi lầm đã đi qua." Ông còn nói: "Với những người dốt nát, hãy dốc lòng dạy họ những gì các con có thể. Xã hội trách nhiệm về đêm tối nó sản sinh. Kẻ phạm tội không phải là kẻ làm nên tội lỗi mà là kẻ làm nên bóng tối." Ông biết ngồi im hàng giờ bên người đàn ông vừa mất vợ yêu dấu, bên người mẹ vừa mất con. Ông không tìm cách xóa nhòa nỗi đau bằng sự quên lãng, mà không phóng to nó ra bằng hy vọng. Hãy chú ý đến cách các con quay về phía người chết. "Đừng nghĩ tới những gì đang thối rữa." Ông biến đổi nỗi đau thương đang ngắm nhìn một cái hố bằng cách chỉ cho nó thấy nỗi đau thương đang ngắm nhìn một vì sao.

Quan ông không có ban tham mưu gồm những tu sĩ tìm kiếm tương lai, bởi ông không có vẻ gì là một giám mục được sủng ái với mũ lễ to tướng được nhiều thánh lộc, của bố thí cùng chức vụ thuộc nhà thờ làm tăng tiến kẻ hầu người hạ bằng cách tăng tiến chính mình. Tiếng tăm của giám mục Bienvenu chỉ tạo sự cô độc cho chính ông. Một ông thánh là một người láng giềng nguy hiểm có thể khiến chúng ta lây nhiễm một sự nghèo khó không chữa trị được. Nhưng sự cô độc trong đó tham vọng của một số người đã bỏ mặc ông, ông làm cho nó trở nên sinh động bằng sự khốn khổ của kẻ khác. Dưới mắt ông, thế giới giống như một căn bịnh trầm trọng mà ông thử tìm cách băng bó vết thương, không cần đoán biết căn nguyên bí ẩn của nó. "Hãy thương yêu nhau", ông tuyên bố ngắn gọn như thế, và đó là tất cả học thuyết của ông. Điều soi sáng con người đó chính là tấm lòng. Sự khôn ngoan của ông được hình thành bằng ánh sáng đến từ đó. Mỗi buổi chiều, khi gió và mưa không cản bước ông, trước khi đi ngủ, ông ra khu vườn của mình trong một hay hai tiếng đồng hồ. Ông ở đó một mình một bóng, trầm mặc, tĩnh tâm, mở rộng tâm hồn đón nhận những tư tưởng từ cõi cao xa rơi xuống, ngưỡng vọng, trong vẻ lộng lẫy hữu hình của những chòm sao, vẻ lộng lẫy vô hình của Thượng đế. Địa phận rào kín chật hẹp đó với bầu trời làm trần đã quá đủ cho cuộc đi dạo của ông và cho mộng tường của ông. Ông còn ước vọng điều chi hơn một vài cánh hoa trên mặt đất và tất cả những vì sao kia trong bầu trời?

Chiều hôm đó, ông giám mục đi bách bộ có phần lâu hơn trong khu vườn của mình, tâm hồn bám chặt vào những điều kỳ bí lớn lao kia mà về đêm Thượng đế vẫn chỉ cho những đôi mắt còn biết mở to trông thấy. Trời đã khuya khi ông trở về căn hộ của mình; vài phút sau tất cả đều say ngủ trong ngôi nhà nhỏ. Vào khoảng giữa đêm Jean Valjean thức giấc. Ông ngồi bật dậy và đảo mắt nhìn quanh trong bóng tối, phần nào theo cách của loài mèo.

Bao nhiêu ý tưởng từ từ phác thảo trong óc ông nhưng khởi điểm và mức đến của chúng chỉ là lòng thù hận, thù hận xã hội và loài người thể hiện bằng một khát vọng thô bạo và liên tục được làm hại bất luận ai.

Đã mười chín năm nay, Jean Valjean chưa bao giờ nhỏ một giọt nước mắt. Bị kết án năm năm tù đầy vì tội trộm một ổ bánh mì, ông đã trông thấy sự khổ ải của mình kéo dài quá đáng trong những lần toan tính vượt ngục, và trong tâm hồn đen tối của ông một toà án được thiết lập. Không phải ông tự xá tội cho mình, nhưng ông lên án xã hội đã trừng phạt ông, con người đói khổ, và ông tự nhủ rằng ông có thể sẽ không ngừng ngại vào một ngày nào đó đòi hỏi loài người biện giải về dự thiếu cân bằng giữa sự thiệt hại ông gây ra và sự trừng phạt ông phải gánh chịu.

Trong phút chốc, Jean Valjean thoáng có ý định ngủ lại, nhưng không lâu. Tư tường ông bị ám ảnh bởi một hình ảnh: hình ảnh bộ đồ ăn bằng bạc mà bà Magloire đã đặt trên bàn mấy tiếng đồng hồ trước đây.

Ông đứng dậy, cởi giày để tránh gây tiếng động và bước rón rén về phía cửa phòng ông giám mục. Ông nhẹ tay mở cửa và bước vào.

Một tia sáng trăng vẻ quầng trên khuôn mặt bình yên của đức ông Bienvenu và tạo cho giấc ngủ của ông một vẻ yên ả cao cả và thánh thiện. Người cựu tù khổ sai ngắm nhìn chủ nhân với một vẻ kinh ngạc dữ dằn. Những ý tưởng hung bạo đã lôi kéo ông đến cạnh giường này chợt tan biến. Ông lùi lại, mắt vẫn nhìn đăm đăm người đang ngủ. Gần như máy móc bàn tay ông chụp lấy cái giỏ nơi mỗi buổi chiều bà Magloire cất mớ bát đĩa bằng bạc và đang ở trên đầu ông giám mục; đoạn ông vội vàng trở vào phòng cầu nguyện, bước qua bục cửa sổ mở ra khu vườn. Một phút sau ông chạy trốn như một con chó xuyên qua đồng ruộng bằng cách nhảy qua những tường rào và những cái hố. Hôm sau trong lúc đức ông Myriel sắn sàng ngồi vào bàn với người em gái của ông thì bà Magloire xuất hiện, tay chân run rẩy, mặt mày tái mét. Thưa đức ông! Bà kêu lên, người đàn ông hôm qua đã lên đường và mớ chén đĩa bằng bạc cũng thế. Ông ta đã trộm của chúng ta !

à ! ông giám mục chỉ buột miệng có thế. Đoạn ngước cái nhìn nghiêm nghị và dịu dàng về phía người quản gia của mình:

Và trước tiên, ông tiếp lời, mớ chén đĩa bằng bạc đó có đúng là của chúng ta không nào?

Chúng không phải của người nghèo hay sao? Và người đàn ông đó là gì, nếu không phải là một người nghèo?

Bà Magloire sắp sửa trả lời thì cửa mở: ba viên sen đầm đang tóm cổ Jean Valjean bước vào. Họ đẩy mạnh người tù tới trước. Đức ông Myriel ghìm lại một cử chỉ ngạc nhiên và bước nhanh về phía Jean Valjean. - Tại sao ông không mang theo luôn hai cây đèn bằng bạc chứ ? ông nói với một vẻ mặt khó diễn tả. Như vậy, một viên sen đầm nói giọng kính cẩn, người đàn ông này đã không nói dối, thưa đức ông, khi quả quyết rằng đức ông đã biếu ông ta bộ chén đĩa bằng bạc này phải không ạ? - Ông ấy không nói dối, hãy để ông ấy đi. Ông lấy hai cây đèn bạc mà ông vẫn thích dùng để trang hoàng bàn ông vào những ngày tiếp tân. - Hai cây đèn của ông đây, ông nói, ông hãy lấy và lên đường bình yên. Và ông tiếp lời đủ để người cựu tù khổ sai nghe, người này đang run bần bật và đang nhìn ông vẻ lơ láo, sững sờ. - Xin ông đừng quên, đừng bao giờ quên rằng ông đã hứa với tôi là sẽ dùng món tiền này để trở thành người lương thiện. Jean Valjean, người anh em của tôi, ông không còn thuộc về cái xấu nữa, tôi đã mua linh hồn ông và tôi tặng cho Thượng đế.

 

Chương 2 : Ông Madeleine

Vài năm sau thành phố nhỏ M... bầu vị thị V trưởng của mình là một trong những nhà chế biến hạt huyền và pha lê giả ngọc giàu nhất địa phương. Và "lão Madeleine" mà có người còn nhớ đã trông thấy khi ông bước vào thành phố vào buổi chiều tháng chạp, túi trên lưng và cây gậy co mất trong tay, đã trở thành ông thị trưởng. Người ta không biết gì về nguồn gốc của ông; ông là người lạ trong tỉnh. Người ta chỉ kể rằng ngày ông tới M... , bấy giờ một trận hỏa hoạn vừa bùng lên trong tòa nhà thị sảnh, người đàn ông đó đã xông vào lửa và liều cả tính mệnh mình để cứu hai đứa con của viên đại úy sở sen đầm. Nhờ thành tích đó mà người ta đã không nghĩ tới việc hỏi giấy thông hành của ông. Đó là một người đàn ông năm mươi tuổi, có vẻ ưu tư và tốt bụng. Cách ăn mặc của ông, ngôn ngữ của ông là của một người thợ giản dị, và tài sản của ông chỉ độ vài trăm quan. Nhưng ngay khi ông tới M..., ông đã sử dụng vốn liếng mỏng manh đó để phục vụ một ý tưởng khôn khéo. Trong chế biến, ông đã thay thế gôm cánh kiến bằng nhựa thông và ông đã nghĩ tới việc thay thế những vòng gài dính liền nhau của những cái xuyến hạt huyền bằng những vòng gài nối nhau một cách đơn giản. Sự thay đổi nhỏ đó đã làm giảm thiểu giá nguyên liệu một cách đáng kể và là một cuộc cách mạng. Mới không đầy năm năm, tác giả của phương thức đó đã trở nên giàu có và đã làm giàu cho địa phương. Thành phố M... biến thành một trung tâm doanh nghiệp quan trọng. Ngoài một triệu ông chi cho thành phố và cho những người nghèo bằng cách lập một bịnh viện, một ngôi trường, một viện dưỡng nhi, những quỹ cứu trợ, ông còn gửi tại laffite một món tiền là sáu trăm ba mươi nghìn trăng. Dù có tài sản và địa vị cao sang, ông vẫn giản dị như ngày đầu. Ông hoàn tất chức trách thị trưởng của mình, nhưng ngoài công việc, ông vẫn sống cô đơn, nói ít, xa lánh những lễ nghi thường tình. Trong những phòng khách cầu kỳ của thành phố M..., người ta bảo: Đó là một con người quê mùa, không thích giao du". Nhưng quần chúng lại ngưỡng mộ Ông. Đầu năm 1821 , các tờ báo ngày loan tin về cái chết của ông giám mục địa phận D..., một cái chết lành thánh ở tuổi tám mươi hai. Hôm sau, ông Madeleine xuất hiện trong y phục màu đen, với một băng tang trên mũ. Điều đó tức thì khiến ông được ngưỡng mộ trong vùng ngoại Ô nhỏ xíu Saint-germany thuộc thành phố D..., và một vị nữ tu cao tuổi trong thế giới bé bỏng đầy trang nghiêm đó một buổi chiều đã đánh liều hỏi ông:

- Ông thị trưởng chắc là em họ của đức ông quá cố? - Không, thưa bà, ông Madeleine ôn tồn đáp, nhưng trong thời trẻ của mình, tôi là đầy tớ trong gia đình của ông ấy.

Bất kể câu trả lời đó, sự chống đối ngấm ngầm trong các phòng khách cũng giảm sút và tàn lụi hẳn; lòng tôn kính đối với ông Madeleine đã trở thành nhất trí. Từ các vùng lân cận cách hàng chục dặm, người ta đến thỉnh ý ông thị trưởng. Mỗi người xem ông là một quan tòa đúng nghĩa. Sự tôn kính lan khắp vùng như một sự lây nhiễm. Chỉ có một người tránh được sự lây nhiễm đó. Đó là một viên thanh tra cảnh sát tên Javert, và ông ta chỉ đến thành phố M... khi tài sản của người chủ xí nghiệp đã hình thành và khi "lão Madeleine" đã trở thành ông Madeleinẹ Thời trẻ ông đã từng là nhân viên trong các nhà tù miền Nam. Nhờ tính thật thà, lương tâm, chức nghiệp, lòng dũng cảm, ông đã lần lượt leo lên các bậc thang nghề nghiệp. Dáng vẻ ông ta vừa vững vàng vừa khủng khiếp vừa khắc khổ vừa kiêu căng. Bất hạnh cho kẻ nào rơi vào tay ông ta; ông ta sẵn sàng bắt giữ cha mình với sự thỏa mãn trong lòng do đức hạnh mang lại. Trọn cuộc đời ông ta bám chặt vào hai từ này: canh chừng và theo dõi. Cặp lông mày ông nhô lên trên đôi mắt âm u; những chòm râu rậm rạp phủ đầy đôi má của ông ta, tạo cho ông một bộ mặt chó gộc. Quả thật Javert nghiêm nghị trông giống một con chó gộc, nhưng khi cười, ông ta trở thành một con cọp. Con người ghê gớm đó giống như một con mắt lúc nào cũng nhìn đăm đăm vào ông Madeleine, một con mắt nghi ngờ và ức đoán, ông Madeleine cuối cùng cũng nhận ra điều đó nhưng ông không tìm cách lẩn tránh cái nhìn đó và ông cư xử với Javert một cách thỏa mái và tốt đẹp Tuy nhiên một ngày nọ, thái độ lạ lùng của viên cảnh sát chừng như gây ấn tượng mạnh mẽ cho ông Madeleinẹ Đó là hôm sau một ngày mưa, mặt đất còn sũng ướt, và trên một con đường hẹp lây lội của thành phố M..., một người nông đần già, lão Fauchelevent, vừa ngã dưới chiếc xe mà con ngựa đã quị xuống. Cái ngã của người đàn ông khốn khổ đến nỗi chiếc xe chở nặng đè lên ngực lão. Người ta đã thử kéo lão ra nhưng vô ích, lão buông những tiếng rên thảm hại. Javert xuất hiện đúng lúc xảy ra tai nạn, và ông ta cho người đi tìm một con đội. Ông Madeleine tới. Mọi người kính cẩn dang ra. - Trong bao lâu mới có con đội, ông thị trưởng hỏi.

- Một khắc đồng hồ. Không thể đợi một khắc đồng hồ được. Chiếc xe càng lún xuống trong từng phút một. Cần một người thiện chí luồn dưới xe và dùng lưng đỡ nó lên. Tôi xin biếu hai mươi đồng tiền vàng cho ai có sức khỏe và tấm lòng. Phải một con người khủng khiếp mới dùng lưng nâng nổi một chiếc xe như thế, Javert nói. Rồi nhìn đăm đăm vào ông Madeleine, ông ta tiếp lời:

Tôi biết chỉ có một người làm được điều ông vừa yêu cầu. Đó là một người tù khổ sai của nhà tù Toulon. - à! ông Madeleine buột miệng, và mặt ông biến sắc - Cứu tôi với! lão Fauchelevent rên rỉ. Cứu tôi!

Ông Madeleine ngẩng đầu nhìn những người nông dân đang bất động, và ông mỉm cười buồn bã. Thế rồi, không nói lời nào, ông sụp quì gối và trước khi đám đông kịp buông ra một tiếng kêu, ông đã ở dưới chiếc xe. Một phút yên lặng và đợi chờ đáng sợ. Bỗng đâu người ta trông thấy chiếc xe nhúc nhích, từ từ nhấc lên, bánh xe ra khỏi chỗ lún được phân nữa. Ông Madeleine kêu lên, giọng tất nghẽn: "Nhanh lên ! Giúp một tay!". Bấy giờ mọi người nhào tới. Chiếc xe được đưa lên bằng hai mươi cánh taỵ Lão Fauchelevent đã được thoát nạn. Ông Madeleine đứng dậy. Ông đầm đìa mồ hôi và dính đầy bùn. Mọi người đều khóc; ông lão vừa hôn lên hai đầu gối của ông vừa khóc nức nở. Còn ông, ông có vẻ mặt đau đớn và đầy thánh thiện; và ông nhìn thẳng vào Javert bằng con mắt bình thản. Ông lão Fauchelevent đã đỡ nhiều nhưng một trong hai đầu gối của ông bị chứng cứng liền khớp. Ông Madeleine cho con người chất phác đó vào nữ tu viện thuộc khu St-antoine tại Paris với tư cách người làm vườn. Còn Javert, sau nhiều ngày nghiền ngẫm những suy nghĩ đen tối, ông ta viết một lá thư tới Paris. Với địa chỉ đề ngoài bì thư: "Kính gởi ông Chabouillet, thư ký ông cảnh sát trưởng". Một tháng đã trôi quạ Một buổi chiều nọ, ông Madeleine đang trong phòng làm việc của mình, lo giải quyết một vài công việc cấp bách của tòa thị chính thì Javert yêu cầu được nói chuyện với ông. Ông cần gì, hở ông thanh trả ông Madeleine ôn tồn hỏi.

Javert im lặng một hồi, rồi với một vẻ trịnh trọng buồn bã, cuối cùng ông ta nói:

Một hành vi phạm tội của một viên chức đối với một quan chức lãnh đạo địa phương. Tôi đến, bởi đây là bổn phận của tôi, để tường trình sự việc lên ông. Viên chức có tội chính là tôi. Quan chức lãnh đạo địa phương chính là ông, ông thị trưởng ạ. Tôi đến thỉnh cầu ông bãi chức tôi.

Ông Madeleine nhổm dậy trên chiếc ghế bành của mình, sửng sốt. Tôi không hiểu gì cả, ông nói.

- Ông sẽ hiểu, ông thị trưởng ạ. Ông còn nhớ tai nạn của ông lão Fauchelevent chứ? Tôi đã tố giác với sở Cảnh sát Paris rằng ông là một cựu tù khổ sai.

Mặt ông Madeleine tái đi, nhưng ông vẫn bật cười.

- Tôi nghĩ, Javert nói, mắt nhìn xuống một cách nhẫn nhục, tôi nghĩ tôi đã nhận ra ông là một người tù khổ sai mà tôi đã trông thấy cách đây hai mươi năm khi tôi là thượng sĩ cai tù ở Toulon, một người tên Jean Valjean khi ra khỏi tù đã ăn trộm tại nhà một ông giám mục. Từ tám năm nay ông ta đã biến mất... Tôi cứ ngỡ Cuối cùng tôi đã tố giác ông. Và người ta đã trả lời ông thế nào? ông Madeleine hỏi giọng hoàn toàn dửng dưng. - Rằng tôi điên. Jean Valjean đích thực đã được tìm ra. Đúng thế. Mùa thu năm nay tại Ailly-le-haut-clocher người ta đã bắt được một con người quê mùa tên Champmathieụ Ông ta đã trèo tường bẻ một cành táo với nhiều trái táo. Đó chỉ là một vụ thuộc tòa tiểu hình thôi. Nhưng khi chuyển con người buồn cười đó đến nhà tù Arras. một cựu tù khổ sai tên Brevet được giữ tại đó đã kêu lên khi trông thấy người trộm táo đi qua:

"Ê ! Tôi biết người đó, đó là một cựu tù khổ sai, đó là Jean Valjean ! Tụi này cùng ở chung với nhau tại Toulon mà !

Tên Champmathieu chối. Tất nhiên rồi! Người ta điều tra sâu về ông tạ Người ta biết được rằng khoảng ba mươi năm trước ông ta làm thợ tỉa cành cây tại nhiều địa phương, đặc biệt là tại Faverolles. Tại đây, người ta mất dấu ông tạ Lâu lắm sau đó, người ta gặp lại ông ta tại Auvergne, rồi tại Paris nơi ông ta bảo mình làm thợ đóng xe bò và có một con gái làm thợ giặt ủi. Thế mà trước khi vào tù vì tội danh đánh cắp, Jean Valjean là thợ tỉa cành cây tại Faverolles. Còn sự kiện khác. Valjean có tên thánh là Jean và mẹ Ông ta có tên họ là Mathieụ Không gì tự nhiên hơn khi ra khỏi nhà tù, ông ta muốn lẩn trốn bằng cách lấy tên của mẹ. Ông ta sẽ lấy tên Jean Mathieụ Ông ta đến Auvergne và cách phát âm của địa phương biến ông thành Chan Mathieu từ đó có tên Champmathieụ Người ta điều tra tại Faverrolles. Gia đình Jean Valjean không còn ở đó nữa. Những giai tầng khốn khổ đó như bùn sình hoặc bụi bặm, chúng biến mất mà không để lại dấu vết. Người ta điều tra tại Toulon. Cùng với Brevet, chỉ còn có hai người tù khổ sai từng biết Jean Valjean:

Cochepaille và Chenildieụ Người ta đưa họ ra khỏi nhà tù, người ta dẫn họ đến, và cả hai không chút ngần ngại đã nhận ra Jean Valjean ngaỵ Chính vào lúc đó tôi đã gửi thư tố giác. Người ta gọi tôi tới Arras. Người ta đưa Champmathieu đến gặp tôi... Tôi cũng đã nhận ra ông tạ Ông có chắc không? ông Madeleine hỏi.

Dạ chắc, Javert nói với nụ cười đau khổ. - Và người đàn ông đó nói sao?

- Ông ta chối bai bải. Ông ta dở trò cục súc nhưng chẳng có hiệu quả gì với ai. Vụ việc được xét xử vào ngày mai. Lão già vô lại sẽ bị kết án. Leo tường, bẻ nhánh cây, trộm táo, đối với một đứa trẻ đó là một trò nghịch ngợm, đối với một người tù khổ sai đó là một trọng tội. Không phải mấy ngày tù nữa, mà là chung thân khổ sai. Tối ngày mai sẽ có bản án. Tốt, ông Madeleine nói. Và ông khoát tay ra lệnh cho Javert lui ra. Xin lỗi ông thị trưởng, Javert nhỏ nhẹ tiếp lời, nhưng tôi xin nhắc ông nhớ tôi phải bị bãi chức. - Để xem, ông Madeleine chậm rãi nói. Đó là một sự xúc phạm mà chỉ có tôi là người phán xét. Bây giờ thì ông hãy tiếp tục công việc của ông. Tôi ra lịnh cho ông đấy Javert dời bước, vẻ cương quyết. Ông Madeleine tựa vào bàn viết của mình, đưa tay bóp trán và ngẫm nghĩ rất lâu.

Đêm đã ập xuống. Trong bầu trời lạnh lẽo của mùa thu, những vì sao lấp lánh và trong ý thức con người đang mơ màng, những tia sáng chói lọi cũng rực lên như những vì sao. Hiện tại. Qúa khứ. Những chặng đường khác nhau đó của một đời người đang sống lại trong trí nhớ đau thương kia. Ngục tù, những năm tháng khốn khổ và phẫn nộ giữa những tên cai ngục tàn bạo và những người bạn tù nhục nhã, rồi chuyến đi dài băng qua nước Pháp như một con vật bị xua đuổi, gần như bị truy nã, những lời lẽ của một vị giám mục già làm thay đổi một tâm hồn; cuối cùng là thành phố M..., nơi ông đã tới, sự khôn khéo trong công việc làm ăn ngày phát đạt, cuộc sống yên bình chỉ bị ám ảnh bởi hai ý tưởng: che giấu tên mình và thánh hóa cuộc sống của mình, hai ý tưởng đó đã biến ông thành con người nhân từ và tốt bụng làm sao, đã hướng ông về phía bóng tối và khuyên ông những điều giống nhau.

Ông Madeliene, hay đúng hơn người cựu tù khổ sai Joan Valjean, đang bám lấy hai ý tường đó trong sự bối rối khổ sở - khiến tâm hồn ông chao đảo. Nghe Javert nói trước tiên ông chỉ muốn chạy đi tự thú, kéo champmathieu ra khỏi nhà tù, nộp mình thay cho ông tạ nhưng ngay sau đó ông đã kịp ngăn chặn ý đồ cao cả đó ông đã lùi bước trước thái độ anh hùng. Và giờ đây ông xem xét tình huống và thấy nó xa lạ quá ông đã đứng dậy, đóng và khóa lại cửa như để chế ngự trước nguy hiểm có thể xảy tới, ông đã thổi tắt ngọn đèn, ánh sáng của nó khiến ông khó chịu, dường như người ta có thể trông thấy ông. Người ta là ai đây?

Đó là lương tâm của ông. Ông ngẫm nghĩ trong bóng tối. Một loạt những câu hỏi lướt qua trong đầu ông. Và ông ôm trán trong hài bàn tay để ngăn chặn chúng lại.

Tất cả những gì tôi đã làm cho tới ngày hôm nay, ông thì thầm, không là gì khác ngoài một cái lỗ tôi đào để chôn vùi cái tên của tôi trong đó. Và cái tên đó vừa vang dội bên tai tôi! Tôi đang trên bờ một vực thẳm, và ở đó có con người lạ mặt kia mà định mệnh ngỡ là tôi và đẩy xuống vực thay cho tôi. Nếu tôi để yên mọi việc, tôi sẽ không có gì để lo sợ bởi tôi cùng lúc có mặt trong nhà tù trong con người lão Champmathieu đó và có mặt trong xã hội dưới cái tên ông Madeleinẹ Ông bật ra một tiếng cười khẩy đau đớn nghe như một tiếng nức nở, và ông bất ngờ đốt lại cây nến. Tôi sợ gì chứ? ông tiếp tục thì thầm trong cơn rùng mình; bởi tôi đã thoát nạn và mọi việc đã kết thúc, còn tên Javert kia, con chó săn dễ sợ vẫn ngây người trước tôi, đã hoàn toàn mất dấu. Hắn lo bắt Jean Valjean, và tôi chẳng can hệ gì trong chuyện đó! Chính trời đã làm hết mọi việc. Chính Thượng đế muốn tôi phải tiếp tục những việc tôi đã khởi đầu, tôi phải làm điều thiện, tôi phải là bạn của người nghèo khổ và kẻ bất hạnh..., một tấm gương đáng khích lệ Vả chăng tôi không có một nhiệm vụ cấp bách là gì ? Tôi đã không hứa với người phụ nữ bất hạnh đó, người nữ công nhân có thể đang chết dần vì đói nghèo và bịnh tật đó mà tôi đã yêu cầu người ta nhận vào bịnh viện, hứa đi trời. Trong khi nếu tôi nộp mình, nếu vì bổn phận mà tôi trở lại là tên tù khổ sai Jean Valjean, đích thực đó là tôi hoàn tất cuộc hồi sinh của mình, tôi vĩnh viễn đóng chặt cửa địa ngục từ đó tôi đã bước ra. Nếu tôi không làm thế, thì trọn cuộc đời hiện tại của tôi sẽ vô ích, trọn sự sám hối của tôi cũng vất đi. Và ông giám mục sẽ nói gì đây, ông vốn đã trông thấy tâm hồn tôi, bộ mặt thật của tôi trong khi mọi người chỉ trông thấy mặt nạ của tôi?

Ông ngồi trở lại, sắp xếp lại mấy quyển sách, ném vào lửa một xấp giấy nợ của những người buôn bán nhỏ túng thiếu. Tiếp theo ông viết cho ông chủ nhà băng của mình một bức thư mà ông niêm lại và cho vào túi. Thỉnh thoảng, ông ngẩng đầu lên, chừng như lắng nghe một giọng nói, một giọng nói nghiêm khắc và đầy thuyết phục mà mỗi con người đều cưu mang nơi bản thân mình, như một quan tòa. Và trán ông đầm đìa mồ hôi.

Rời khỏi gian phòng bình yên này? ông nhủ thầm. Không dạo bước nữa trên ruộng đồng! Không nghe nữa tiếng chim vào tháng năm! Không cho quà các cháu nhỏ nữa? Tôi sẽ không đọc, không viết nữa trên cái bàn này!

Chúa ơi, thay vào tất cả những điều đó, là nhà tù, xiêng xích, áo vét đỏ, ngục tối, roi vọt của lính coi tù, đào bới ! ôi, khốn khổ làm sao!

Ông gục đầu vào ngực. Những tiếng khóc nức nở nghẽn tắt và não lòng làm tan nát lòng ông. Ông lại quay quắt trước sự chọn lựa đau lòng: ở lại thiên đường và trở thành quỷ dữ ở đó, hoặc trở về với địa ngục và trở thành thiên thần Cứ thế mà tâm hồn khốn khổ đó dãy dua trong lo lắng, muộn phiền. Ông ngủ giấc ngủ nặng trĩu. Khi ông thức giấc, một buổi bình minh, mờ đục và giá lạnh, đã nhen lên yếu ớt. Ông đứng dậy, ông cảm thấy đầu óc trống hoác, không một ý tưởng. Gần như máy móc, ông khoác chiếc rây đanh gột, cầm lên chiếc áo rộng, chiếc nón rộng vành và bước ra khỏi phòng, rồi bước ra khỏi nhà, lặng lẽ như một cái bóng. Ông đi đâu? Đến Arras. Để làm gì? ông không biết nữa. Ông tự nhủ, tôi tự mình phê phán sự vật. Hai tiếng đồng hồ sau, ông ngồi trên chiếc xe ngựa chở thư chạy nhanh trên đường về hướng Bắc. Ông nghĩ gì về trên trọn quãng đường đó? ông nhìn những hàng cây, những mái tranh, những cánh đồng được trồng trọt lướt qua trong một sự chiêm ngưỡng mơ hồ bóng đen của những cái cối xay phủ vải đầu càng bổ xung cho tâm hồn nặng trĩu của ông vẻ buồn thảm, tiêu điều Những lần dừng xe, những lần thay ngựa không gây cho ông chút cảm giác nào. Người đánh xe, sau những lần thử bắt chuyện, đã thấy mệt mỏi với sự im lặng đó và chỉ nhìn người khách quá trầm tư kia bằng một con mắt nham hiểm. Tại sao ông Madeleine lại đi Arras? anh ta tự hỏi.

Khi xe thư chạy vào dưới cửa xe ra vào của tòa nhà bưu điện tại Anas thì đã gần tám giờ rưỡi. Trước khi đến tòa án, ông hỏi thăm xem có cách nào trở về thành phố M... ngay đêm nay không. Ông giữ chỗ và trả tiền. Xong đâu đó, ông rời khỏi khách sạn và đi về phía tòa án. Khi tới đó, ông chạm mặt một nhóm luật sư đang bàn về phán quyết và việc kết án. - Đến đâu rồi, thưa ông? ông hỏi một người trong bọn họ. - Xong rồi.

Xong rồi à? ông nhấn giọng khi lập lại từ đó khiến ông luật sư kinh ngạc. - Chắc ông là một người thân, ông ta nói. Ông mong điều gì chứ, người đàn bà đó đã giết người; việc kết án bà ta là điều chắc chắn...

- Nhưng mà..., ông Madeleine tiếp lời một cách rụt rè. Vụ kia sao?

- Kìa, ông không thấy các cửa sổ sáng đèn kia sao? Vụ đó đang được xét xử. Ông Madeleine buông một tiếng thở dài, chỉ trong mấy khoảng khắc ông cảm nhận gần như tất cả những xúc động có thể có. Vụ việc chưa xong, ông không thể nói mình đang hài lòng hay buồn đau nữa.

Ông thấy cửa phòng xử án đang đóng. Nhưng khi biết ông thị trưởng thành phố M... muốn dự phiên toà, ông chánh án tòa đại hình cho mời ông vào ngay một cách trân trọng. Người ta mời ông ngồi trong nhóm luật sự Ông như không nhận ra những sự chào hỏi người ta dành cho mình, bởi ông đang chìm đầm trong một thứ ảo giác. Ông đưa mắt nhìn quanh. Những ông thẩm phán, một viên lục sự, những viên sen đầm, những bộ mặt hiếu kỳ một cách tàn nhẫn, ông đã từng trông thấy cảnh tượng này xưa kia. Ông thấy xuất hiện trở lại những dáng vẻ gớm ghiếc của quá khứ ông. Và do một trò chơi bi đát của định mệnh mà người đàn ông người ta đang xét xử kia, mọi người đều gọi cho ông ta là Jean Valjean. Lúc ông bước vào, luật sư bị cáo vùa kết thúc phần biện hộ của mình. Sự chú ý của mọi người được kích thích tới cao điểm. Từ ba tiếng đồng hồ rồi, đám đông đã chứng kiến một con người khốn khổ cực kỳ ngây ngô trĩu xuống dưới sức nặng của một vẻ chân thực khủng khiếp, hoặc con người đó cực kỳ khôn khéo chỉ có cách chống đỡ là chối bay tất cả, tội trộm cũng như tư cách tù khổ sai Luật sư biện hộ đã bênh vực khá tốt, bằng lời lẽ hoa mỹ. Nhưng trước sự đồng thanh của những lời thừa nhận, ông không dám tranh luận về lý lịch của thân chủ và ông giới hạn trong việc yêu cầu bồi thẩm đoàn tòa án không nên tỏ ra thiếu tình cảm thương hại đối với người tù khổ sai tái phạm. Ông chưởng lý đáp lại người biện hộ. Ông tỏ ra mãnh liệt và đầy văn vẻ như các ông chưởng lý thường khi vẫn tỏ ra. Và ông đòi một bản án nghiêm khắc, nghĩa là chung thân khổ sai chủ yếu dựa trên tội phạm cũ tại nhà ông giám mục địa phận D... hơn là việc bẻ cành táo đã khiến cho bị cáo bị bắt. Đã tới lúc khép lại các cuộc tranh luận. Ông chánh án đặt câu hỏi theo thông lệ: "Anh có điều gì cần nói thêm để biện hộ cho mình không?" Champmathieu đưa mắt nhìn quanh vẻ mặt ngây dại. Ông ta cuộn tròn một chiếc mũ vải bẩn thỉu trong hai bàn taỵ - Tôi phải nói điều này, ông ta nói giọng khàn đục. Tôi là thợ đóng xe ngựa tại Paris, ngay tại nhà ông Baloup. Nếu người ta không tìm ra ông ấy được nữa, điều đó chẳng phải lỗi tại tôi chút nào. Tôi đã năm mươi ba tuổi rồi Đã vậy tôi còn có đứa con gái làm thợ giặt ủi và chỉ kiếm được ít tiền. Chồng nó đánh đập nó. Nó chết. Các ông gọi tôi là Jean Valjean, Jean Mathieu à? Và còn chuyện gì lôi thôi nữa. Các ông hỏi tôi sinh trưởng tại đâu, tôi chẳng biết gì cả. Khi tôi còn là đứa trẻ người ta gọi tôi là cậu bé" bây giờ người ta gọi tôi là lão già . Đó là những tên thánh của tôi. Hãy cứ cho là vậy đi nếu các ông thích. Tôi đã ở Auvergne, tôi đã ở Faverolles - Pardi. Bộ người ta không thể ở Faverolles mà không đi tù được sao? Tôi đã nói với các ông là tôi không có ăn trộm và tôi là lão già Champmathieu. Tại sao người ta cứ truy đuổi tôi mãi thế? - Bị cáo, ông chưởng lý nói giọng nghiêm khắc, coi chừng đấy, những lởi cãi chối của anh chỉ là một thủ đoạn tệ hại thôi. Những người bạn tù cũ của anh, Brevet, Chenildieu, Cochepaille, đều đã nhận ra anh, ông vừa dứt lời vừa đưa tay chỉ ba người tù khổ sai mặc áo tơi đỏ đội mũ vải xanh đang ngồi nơi chiếc ghế dài dành cho nhân chứng giữa hai viên sen đầm. Đừng chối nữa. Ông không thuyết phục được ai đâu.

- à! Thế đấy! Champmathieu vừa nói vừa nhìn đám người chứng buộc tội với vẻ mặt ngốc nghếch. lạ kỳ thật!

ông chánh án hỏi ông ta:

- Bị cáo, anh nghe rồi chứ? Anh còn gì để nói không? Tôi nói: hay thật! Champmathieu lập lại giọng lầm bầm. Tiếng xôn xao nổi lên từ phía công chúng và gần như vọng tới bồi thẩm đoàn. Đương nhiên là lão già đã thất bại.

- Thừa phát lại, ông chánh án nói, hãy bảo mọi người im lặng. Tôi sẽ kết thúc mọi cuộc tranh biện. Bấy giở một giọng nói buồn thảm và ghê rợn vang lên - Brevet, Chenildieu, Cochepaille ! Hãy nhìn về phía này.

Mọi con mất đều hướng về điểm xuất phát của giọng nói. Một người đàn ông vừa đứng dậy trong nhóm luật sư ông cầm chiếc mũ trong bàn tay, chiếc áo rây đanh gột của ông gài nút tươm tất. Ông nhợt nhạt và hơi run. Mái tóc của ông hãy còn muối tiêu lúc ông tới Anas đã trở nên bạc trắng, chỉ trong một tiếng đồng hồ. Hai mươi người nhận ra ông và đồng thanh kêu lên. - Ông Madeleine !

Còn ông thì tiến bước về phía ba người tù khổ sai.

- Các anh không nhận ra tôi hay sáo? ông nói. Kìa, tôi thì nhận ra các anh cơ mà ! Brevet, anh còn nhớ không . - Ông ngừng nói, lưỡng lự một hồi và hỏi tiếp lời - anh còn nhớ những cái vải đeo quần bằng vải dan kẻ Ô mà, anh có được trong tù không? Còn cậu, Chenildieu, tự đặt biệt danh là "Je-ni-dieu", cậu có vai trái phỏng nặng bởi ngày nọ cậu đã nằm trên một cái lò đầy than hồng để xóa đi ba chữ:

 - Đúng thế. Chenildieu nói.

- Còn cậu, Cochepaille, cậu có ở khuỷu tay trái của cậu ngày hoàng đế đến channes: một tháng ba 1815 . Hãy kéo tay áo lên xem? Cochepaille kéo tay áo lên. Một viên sen đầm mang một mang một cây đèn tới. Đúng là có ghi ngày đó ông Madeleine quay về phía cử tọa và các thẩm phán vời một nụ cười vừa đắc thắng vừa tuyệt vọng. Mọi người đều thấy tôi chính là Jean Valjean, ông nói. Ông chánh án và ông chưởng lý, tôi biết các ông nghĩ gì. Mới đây các ông đã nghĩ rằng tôi điên. Không, tôi là một con người cực kỳ bất hạnh. Tôi đã làm hết sức mình, tôi đã lẩn tránh trong một cái tên. Tôi đã trở nên giàu có Tôi đã trở thành thị trưởng. Tôi muốn trở về với những con người lương thiện. Dường như điều đó không được. Tôi đã trộm nhà đức giám mục, đúng thế. Lòng tốt của ông ấy đã cứu tôi cũng như sự nghiêm khắc đã làm hỏng tôi. Nhưng các ông không thể nào hiểu được tôi luôn nói gì đâu. Javert, ông ấy đã nhận ra tôi. Tôi không muốn quấy rầy cử tọa thêm nữa. Tôi đi đây bởi người ta không bắt tôi. Tôi có nhiều việc phải làm. Các ông biết tôi là ai, tôi đi đâu. Ông chưởng lý, tôi vẫn thuộc quyền quyết định của ông. Ông đi về phía cửa. Không một giọng nói cất lên, không một cánh tay đưa ra để cản ông. Mọi người đều ngẩn ra. Trong cái nhìn của ông có vẻ gì siêu phàm khiến muôn người phải lùi lại và đứng về một bên trước một con người. Đến cửa ông quay lại.

Tất cả các người ở đây, các người thấy tôi đáng thương xót chứ? Chúa ơi, khi nghĩ tới điều tôi sắp sửa làm, tôi thấy mình đáng đố kỵ. Tuy nhiên, tốt hơn có lẽ tôi nên mong rằng tất cả chuyện này đừng xảy ra. Ông bước ra ngoài. Không đầy một tiếng đồng hồ sau, phán quyết của tòa án minh giải cho bị cáo Champmathieu khỏi mọi lời buộc tội, và ông này được trả tự do tức khắc. Ông ta bước đi trong sững sờ, ông ta nghĩ mọi người đều điên cả rồi và ông chẳng hiểu ra làm sao cả.

 

Chương 3 : Quán Thénardier

Trong khu rừng lớn giữa Chelles và Montfermeil Trời tối mịt và lạnh. Ngày hôm ấy, hai bốn tháng mười hai 1823, trời nắng chói chang nhưng buổi chiều khi ngọn gió bấc thổi về người ta có cảm giác như đang giữa mùa đông nghiệt ngã. Một người đàn ông đang sải bước trong đám cây cuối cùng của khu rừng. Ông dừng bước trong đám cây cuối cùng của khu rừng. Ông dừng lại trong phút chốc bên con suối và uống nước trong lõm bàn tay mình rồi tiếp bước về phía ngôi làng. Qua lớp trang phục cũng như qua toàn bộ con người, người đàn ông đó có vẻ là một thứ ăn mày lịch sự . Ông đội một chiếc mũ tròn, cũ kỹ và được chải gội cẩn thận. Ông mặc một chiếc áo rây đanh gốt bằng nỉ màu vàng đã sờn sợi ra. Nhìn vào mái tóc bạc phơ, vầng trán nhăn nheo, làn môi nhợt nhạt của ông, người ta ước lượng ông phải ngoài sáu mươi. Nhưng dáng đi vững chãi của ông, vẻ chắc khỏe trong mọi sự vận động của ông cho thay ông chỉ trạc năm mươi. Ông cầm một cây gậy nơi bàn tay và dưới cánh tay ông cắp một cái gói nhỏ buộc trong một chiếc khăn taỵ Trong đáy mắt của ông có một vẻ tĩnh lặng bi thảm. Hai tháng trước, ông đã trốn khỏi nhà tù nơi người ta đưa ông tới theo nguyện vọng của ông tại tòa đại hình và kết án ông khổ sai chung thân. Trước khi bị giam cầm vĩnh viễn ông đã hoài công cầu xin được phép đến tận Montermeil để tìm một đứa bé mà ông muốn trả về cho người mẹ đang hấp hối. Thần công lý không bận tâm với một sự ngẫu nhiên cỏn con đến thế Một người đàn bà đang chết bởi đứa con đang ở nơi cách xa chị ta, điều đó không thể làm cho luật pháp phải dừng bước được. Và Javert, người mà ông cựu thị trưởng ngỏ lời cầu xin ân huệ đó, đã chỉ nhún vai với một vẻ miệt thị độc ác. Trong gian phòng của bịnh viện nơi Fantine, người nữ công nhân đáng thương mà lòng tốt của ông Madeleine đã đưa ra khỏi cảnh khốn cùng và đói khát, nhưng chị vẫn không thoát khỏi bệnh tật và cái chết, chị đang hấp hối, viên thanh tra cảnh sát đã tóm cổ con người đang cúi sát bên chị rất lâu. Và Jean Valjean trong cơn tuyệt vọng đành đưa hai cổ tay chịu còng. Tại nhà tù ông trở thành số 9430. Nhưng khi ông đi rồi, sự thịnh vượng của tỉnh M... biến mất. Các xưởng đều đóng cửa, thợ thuyền phân tán khắp nơi. Lương bổng hạ, thất nghiệp tràn lan, vỡ nợ đều khắp, tất cả đều tàn lụi.

Bản thân nhà nước, trong việc thu thuế, nhận ra có kẻ nào đã bị đè bẹp ở đâu đó. Mặc dù vậy, Jean Valjean không thể chịu đựng số mệnh của mình quá lâu. Ông đã tự nộp mình để hoàn thành một hành động công lý. Nhưng một nhiệm vụ khác đang chờ ông. Ông đã thì thầm thề với Fantine đang ngắc ngoải rằng con gái của chị, cô bé Cosette mà chị vẫn mong đợi xiết bao trong cơn bạo bịnh của mình, sẽ được hạnh phúc, tránh khỏi sự khốn cùng và sự ruồng rẫy đã làm cho cuộc sống người nữ công nhân đáng thương phải kiệt quệ nhanh chóng. Và nhờ có lời hứa đó mà Fantine đã mỉm cười mà chết. Jean Valjean đã vượt ngục để làm tròn lời thề đó. Ông đã lợi dụng cơ hội đầu tiên trong lúc làm lao dịch nơi mạn một chiếc tàu đang sửa chữa trong cảng Toulon. Ông đã liều mạng cứu một thủy thủ đã trượt chân từ lá buồm của một cột buồm lớn và rơi xuống. Trong lúc rơi, người thủy thủ đó đã bám vào một sợi dây nhưng không thể nào rút lên được. Jean Valjean xin viên sĩ quan trực cho phép đi cứu anh thủy thủ coi buồm đang kiệt lực. Bằng một nhát búa, ông đã chặt đứt phăng sợi xích liền với vòng sắt đeo ở cổ chân ông, rồi bằng sự nhanh nhẹn của một con mèo rừng, ông lao vào đám buồm chảo của con tàu. Bám chặt vào một sợi dây, ông buông mình xuống tận con người đang kiệt quệ và đưa anh ta trở lên bằng cách cắp anh ta trong đôi cánh tay của mình. Sau đó trong lúc đám đông những người đang chứng kiến vừa nhiệt liệt tán thưởng vừa kêu lên: "nhờ ơn đức của ông này!", ông lo trở xuống để tiếp tục việc lao dịch của mình. Nhưng trong lúc ông chạy trên một trục buồm thấp, người ta trông thấy ông ngập ngừng, lảo đảo rồi rơi tõm xuống biển. Người ta hoài công tìm xác ông đến chiều, và hôm sau tờ báo ngày ở Toulon đăng mấy dòng này:

"Hôm qua một tù nhân khổ sai trong buổi lao dịch nơi mạn tàu Orion khi cứu một thủy thủ trở về đã rơi xuống biển và chết đuối. Người ta đã không tìm ra xác ông tạ Người ta đoán chừng ông ta rơi vào những cây cọc thuộc mũi đất xưởng đóng tàu. Người đàn ông đó mang số tù 9430 tên là Jean Valjean" Thật ra Jean Valjean không rơi xuống biển mà ông đã nhảy xuống đó. Bơi giữa hai làn nước, ông đã lướt đi dưới ruột con tàu đang thả neo đậu và đã trốn trong một chiếc xuồng con. Tối đến ông lại bắt đầu bơi và đến bãi biển cách mũi Trun không xa, ông vào một quán rượu là nơi cất gửi, thay quần áo của bọn tù khổ sai vượt ngục. Sau đó, lần theo một lộ trình tăm tối và khúc khuỷu ông đến Paris. Ông không thiếu tiền. Lá thư ông viết cho Laffitte chủ nhà băng trước vụ án ở Arras cho phép ông lấy lại tiền của mình. Ông chôn dấu phần lớn số tiền đó ở một nơi chỉ có ông biết và khâu dính những tờ giấy bạc còn lại trong lớp lót của chiếc áo rây đanh gết của mình. Người ta tưởng ông đã chết, ông thấy yên tâm về mình, ông chỉ còn có mỗi một mục đích: gặp lại cô bé Cosette. Ông bước xuống xe ngựa từ Chelles và đi xuyên rừng để tới nhanh hơn. Bất chợt, một tiếng rên rỉ khiến ông dừng bước. - Ôi lạy Chúa, lạy Chúa ! Một giọng trẻ con kêu lên trong hãi hùng và tuyệt vọng. Ông cúi xuống trên một bụi rậm và vầng trăng hiện ra giữa hai đám mây cho ông thấy hình dạng mảnh khảnh mà một thùng nước đầy làm cho trĩu xuống như một cụ già. Ông nắm lấy cái quai của thùng nước và nâng cô lên:

- Qúa nặng đối với cháu, ông nói, cái thùng nước mà cháu phải mang đấy. Hãy đưa cho ông thùng nước. Cô bé ngẩng đầu lên, một giọt lệ lấp lánh trong đôi mắt xanh biếc rất to của cộ Cô nhìn người đàn ông lạ mặt với một vẻ tin cậy bất ngờ. - Cháu bao nhiêu tuổi?

- Tám tuổi, thưa ông. - Cháu ở có xa không? Dạ cách đây một khắc đồng hồ ạ. - Vậy cháu không có mẹ à? Cháu không tin là có, cô bé trả lời với một tiếng thở dài. Những người khác đều có mẹ. Còn cháu thì không bao giờ có. Cháu tên gì? Cosette. Jean Valjean giật nẩy người như chạm phải điện. Ông cúi xuống cô bé và nhìn cô bằng tất cả tâm hồn mình. Một khuôn mặt gầy guộc và xanh xao hiện ra một cách mơ hồ trong ánh sáng mờ nhạt của bầu trời.

Thế ra ai, ông tiếp lời, ai đã sai cháu đi tìm nước ở trong rừng vào giờ này?

Bà Thénardier, cô bé nói và khi đọc lên cái tên đó cô thấp giọng trong một cơn run rẩy. Đó là bà chủ của cháu, bà chủ nhà trọ. Trong nhà không còn nước. Đêm nay ông nhất định đến trọ tại quán đó. Cháu hãy dẫn ông đi. Nhưng mà cháu hãy nói cho ông biết, tại nhà bà Thénardier không có người giúp việc nào khác ngoài cháu sao?

- Đúng vậy, thưa ông... Nghĩa là có hai cô gái, Eponine và Azelma. Đó là con của bà Thénardier. Họ có những con búp bê xinh đẹp cùng nhiều đồ đạc, áo quần, họ chỉ chơi, họ chỉ đùa.

- Cả ngày?

Dạ. - Còn cháu?

- Cháu thì cháu làm công việc. - cả ngày?

Cô bé ngước đôi mắt to nhìn lên và đáp giọng nhỏ nhẹ và buồn bã. - Dạ. Họ đến làng. Cosette hướng dẫn người đàn ông lạ mặt trên các con đường. Làng đang kỳ hội chợ, các cửa hiệu thắp nến sáng choang, bày ra những món đồ chơi trẻ con để thu hút khách. Trong một cửa hiệu, một con búp bê to tướng cao gần hai piê (khoảng 60 cm) mặc áo dài bằng nhiễu màu hồng với những bông vàng trên đầu, nó sáng rực trên một nền vải trắng toát. Nó có bộ tóc thật và đôi mắt bằng sứ. Cosette ném về phía nó một cái nhìn vụng trộm đầy ngưỡng mộ. Một chập sau, Jean Valjean và cô bé dẫn đường đã đến trước cửa quán "Thầy đội trận Waterlo". Đó là một ngôi nhà một tầng với vẻ ngoài buồn thiu. Một tấm bảng hiệu to tướng thể hiện một bãi chiến trường nơi đó người ta có thể mơ hồ nhận ra một người đang vác một đồng đội ở phía trên cửa.

Cosette e dè mở cửa. Trong gian phòng mù mịt khói ống tẩu, mấy người đánh xe chở hàng đang ngồi với ông chủ quán, Thénardier, người đàn ông nhỏ thó tuổi năm mươi, gầy gò xanh xao, góc cạnh, xương xẩu, với cái nhìn tinh quái, nụ cười luôn điểm trên môi. Tóm lại, một con người mạt hạng hoàn toàn, trước khi mở cái quán tồi tàn tại Monfermeil, đã đi dò đường sau các đạo quân của Napoléon, buôn bán đầu này, cướp giật đầu kia. Giai đoạn này của cuộc đời ông ta cho phép ông ta được nhiều lần đóng vai trò một người anh hùng và một người cứu nạn. Gần lò sưởi, Bà Thénárdier đang canh chừng một cái nồi, bà là người mà cô bé luôn hãi hùng khi phải nói chuyện. Đó là một người đàn bà tuổi trạc bốn mươi, đồ sộ khủng khiếp, có râu ria. Bà làm mọi việc trong nhà, dọn giường, làm phòng, giặt giũ, nấu nướng và lúc nào cũng quát tháo ầm ĩ. Bên bà, Cosette giống như một con chuột lắt hầu hạ một con voi. Bà hết mực kính trọng ông chồng luôn áp đặt lên bà tất cả âm mưu độc dịa của ông ta, và bà yêu con. Tất cả sự chân thành của bà dừng lại ở đó Người đàn ông và người đàn đó chính là sự xảo quyệt và sự hung ác kết hợp với nhau, sự móc nối ghê tởm và khủng khiếp trong đó Cosette cảm thấy mình bị nghiền nát, xé tươm. Năm năm trước, khi Fantine đáng thương giao con mình cho vợ chồng ông chủ quán này, chị không nghĩ mình đã giao đứa con gái yêu cho bọn người vô nhân đạo Thế mà chưa tới sáu tuổi Cosette đã bị Ông Thénardier và vợ buộc phải thay một người giúp việc. Tất cả chỉ có lợi cho họ: họ moi tiền người mẹ vừa làm cho chị tin rằng con mình được chăm sóc chu đáo, và họ không phải trả công cho cô bé giúp việc. Một bà chủ dã man, một ông chủ độc địa . Và giữa hai con người này, cô bé Cosetle phải làm việc đến hụt hơi, phải run sợ, phải câm nín. Kìa ! Con ranh bẩn thỉu, bà Thénardier hét lên khi thấy Cosette bước vào, sao lâu thế? Mày có muốn tao đấm vỡ mặt mày không? Thưa bà! Cosette ấp úng, có một ông đến ở trọ đây ạ Tức thì vẻ mặt cáu gắt, bậm trợn của bà Thénardier đổi sang dịu dàng, tử tế ngaỵ Tuy nhiên khi bà xem xét trang phục của người khách thì vẻ mặt dịu dàng, tử tế của bà tan biến ngay. Ông vào đi, bà nói, nhưng tôi báo trước với ông là tôi không còn chỗ đâu nhé. - Không sao bà muốn cho tôi ở đâu cũng được, ở gác trên cùng, ở chuồng ngựa, tôi sẽ trả tiền như một phòng vậy.

- Bốn mươi xu và trả trước, bà Thénardier nói giọng điếc tai.

Jean Valjean móc một đồng năm frăng từ trong túi và ném nó lên bàn. Của bà đó. Một đồng năm trăng Bà Thénardier nghĩ thầm với một sự kính trọng bất ngờ. và bà rời khỏi lò sưởi để nhường chỗ cho người khách sưởi ấm. Ông có dùng bữa ăn khuya không ạ? Bà hỏi.

Bánh mì và phô mát. Jean Valjean đáp, tâm trí ở đâu đâu ông nhìn Cosette gầy gò xanh xao trong bộ quần áo rách bươm không che kín thân thể cô run lập cập. Giữa những lỗ thủng của bộ quần áo, người ta nhận rõ dấu vết của những quả đấm hoặc ngọn roi da mà bà Thénardier đã giáng tới tấp lên cô chỉ cần một cơ hội cỏn con. Tất cả con người của cô bé này chỉ thể hiện một ý tưởng sự sợ sệt. Đôi mắt sâu hoắm của cô gần như đã lụi tắt vì mãi khóc, hai khóe miệng của cô thì đầy lo âu.

Ngồi co ro nơi chiếc bàn to, bằng cái nhìn buồn bã và thèm thuồng cô nhìn đăm đăm vào hai đứa bé con nhà Thénardier, Eponine và Azelma, vừa bước vào phòng và đang ngồi gần lò sưởi với con búp bê của chúng. Chúng ăn mặc một cách ấm áp và đỏm đáng, những bím tóc dài của chúng được trang hoàng bằng những dây băng, cả hai dều lanh lợi, sạch sẽ, mập mạp, tươi tắn và khỏe mạnh trông khá đẹp mắt. Eponine và Azelma không ngó ngàng gì tới Cosettẹ Đối với chúng, cô chẳng khác gì một con chó. Ba cô bé này cộng lại chưa tới hai mươi bốn tuổi nhưng họ đại diện cho cả xã hội loài người: một bên là sự thèm muốn, một bên là lòng khinh miệt. Bà Thénardier đang đi đi lại lại trong phòng chợt nhận ra Cosette thay vì làm công việc đã chỉ nhìn hai con bà đang nô đùa.

- à ? Tao bắt quả tang mày đấy nhé ! bà hét lên. Mày làm công việc như thế đó hả? Tao sẽ bắt mày làm việc bằng roi da đây.

Này bà, Jean Valjean ôn tồn nói, bà cứ để cháu nó chơi.

- Nó phải làm mới có ăn, bà Thénardier vừa tiếp lời vừa thẳng chân đạp vào Cosettẹ Từ sáu tháng nay mẹ nó không trả tiền cho chúng tôi nữa, nhưng nó vẫn cứ phải ăn cơ mà. Người mẹ này chẳng đáng gì cả, chị ta bỏ rơi con mình. Có lẽ chị ta đã chết rồi cũng nên. Jean Valjean chăm chú nhìn vào lò lửa. Ông còn đang mơ mộng thì giọng nói chát chúa khiếp đảm của bà Thénardier kéo ông ra khỏi sự trầm tư của mình. Hai đứa con gái nhà Thénardier đã bỏ búp bê để chơi với con mèo. Cosette không thể nào cưỡng lại được ước muốn chạm tay vào con búp bê kia, và cô chộp lấy nó. Cô đang ru nó một cách ngây ngất thì bà Thénardier đã dừng bước trước mặt cô trong cơn giận sôi bọt mép khiến bà khàn cả giọng. Cosettẻ Bà hét. Cosette run bần bật, cô đặt con búp bê xuống đất với một vẻ sùng mộ pha lẫn tuyệt vọng. Rồi cô chập hai bàn tay lại và bật khóc nức nở. Jean Valjean đứng bật dậy:

Chuyện gì thế? ông hỏi bà Thénardier. Ông không thấy à? bà này lớn tiếng, con quỷ này con mạt kiếp này tự tiện chạm tới con búp bê của con tôi với hai bàn tay bẩn thỉu khủng khiếp của nó. Cosette càng khóc nà. Người đàn ông bước thẳng tới cánh cửa mở ra đường, mở cửa và ra ngoài. Một phút chưa kịp trôi qua ông đã trở lại. Ông cầm trong hai bàn tay một con búp bê xinh đẹp mặc áo hồng mà một tiếng đồng hồ trước đây ông đã thoáng thấy trong cưa hàng hội chợ. Ông đặt nó đứng trước Cosette và nói : Của cháu đấy.

Cosette trông thấy người đàn ông đó đến với con búp bê kia như trông thấy vầng thái dương. Cô không khóc nữa, dường như cô cũng không dám thở nữa.

Bà Thénardier, Eponine và Azelma bấy giờ ngẩn người ra như những pho tượng. Cả những khách đang giải khát cũng im tiếng, một niềm im lặng trọng thể bao trùm khắp quán. Ông Thénardier lần lượt chiêm ngưỡng con búp bê và người khách. Ông đánh hơi người đàn ông đó như đánh hơi một túi tiền. Ông đến bên vợ và nói với bà thấp giọng. - Món đồ này trị giá ít lắm cũng ba mươi trăng. Chớ ăn nói dại dột. Phải nằm sát đất trước người này.

Và ông tiếp lời, lên tiếng vỗ về: Cháu Cosette, ông đây cho cháu một con búp bệ Cháu hãy nhận. Nó thuộc về cháu đấy Cosette đánh liều đến gần. Mặt cô hãy còn ràn rụa nước mắt, nhưng mắt cô đã rạng rỡ niềm vui. Cô quay sang bà Thénardier và bằng một giọng vừa tuyệt vọng, vừa lo sợ vừa vui mừng. - Thưa bà cháu được nhận không ạ? - Được chứ! bà Thénardier vừa nói vừa siết chặt hai nắm tay trong cơn uất giận. Nó là của cháu mà. Hai đứa kia hãy đi ngủ đi, bà nói với hai đứa con gái của bà bấy giờ đến lượt chúng đang nhìn Cosette một cách thèm thuồng. - Đã tới lúc đi ngủ rồi. Thưa ông, bà tiếp lời, cố tạo giọng dịu dàng, xin phép ông, tôi sẽ cho Cosette lên giường. Hôm nay cháu đã mệt lắm rồi.

Jean Valjean chỉ gục gật đầu đáp lại.

Cosette ôm con búp bê đi vào cái hốc vốn là giường ngủ của cô dưới chân cầu thang, và cô mất nhiều thời gian mới dỗ được giấc ngủ bởi hạnh phúc của cô mãnh liệt quá. Giờ khắc trôi quạ Jean Valjean vẫn trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn vào ngọn lửa. Khách đã ra về, quán đã đóng cửa.

Tôi đi ngủ đây, bà Thénardier nói nhỏ với chồng. Tôi nhẹ người khi không còn thấy con vật già đó đã mua cho một con chó thứ búp bê bốn mươi trăng thay vì bốn mươi xu theo ý tôi. Tôi hết chịu nổi rồi.

Còn lại một mình Thénardier với Jean Valjean. Khi thấy đã buồn ngủ ông lột mũ và kính cẩn đến bên Jean Valjean. - Thưa ông, ông không nghỉ sao? ông hỏi.

- à ! Jean Valjean nói. Chuồng ngựa của ông đâu?

- Tôi sẽ dẫn ông, thưa ông, Thénardier vừa đáp vội vừa cầm một cây nến. Và ông đưa người khách trọ của mình lên tầng nhất vào một gian phòng bày biện đồ đạc bằng gỗ đào hoa tâm. Lửa tí tách cháy trong lò sưởi. Thénardier đốt lên hai cây nến mới:

Đây là phòng cưới của chúng tôi đấy, ông nói. Trong năm, chúng tôi chỉ vào đây ba hay bốn lần. Chúng tôi dành nó cho khách quí. Thénardier biến mất mà không dám nói lời chào với người mà ông định bụng sẽ lột da tới nơi tới chốn ngày hôm sau.

Sáng hôm sau, vào lúc rạng đông, khi bước vào phòng lớn của quán, bà Thénardier thấy chồng đang tính tiền cho người khách mặc áo rây đanh gột vàng. - Bà hãy nhìn đây, ông nói:

Hóa đơn của ông khách số 1: ăn khuya... 3 trăng Phòng... 10 trăng nến... 5 trăng Lò sưởi... 4 trăng Phục vụ... 1 trăng ổng cộng... 23 trăng ông ấy sẽ không bằng lòng trả đâu, bà Thénardier nói. Ông ấy sẽ thấy tính thế này là quá đáng. - Bà cứ đưa giấy cho ông ấy, ông Thénardier nói. Rồi sẽ thấy mà. Tôi thì đang nợ 15 quan. Chủ nợ đang đòi đấy ông ta bước ra ngoài. Đúng lúc đó Jean Valjean bước vào. Bà Thénardier đưa cho ông giấy tính tiền vẻ lúng túng. Ông đã đi rồi sao? bà hỏi giọng ngọt ngào một cách giả dối.

Đúng vậy, Jean Valjean vừa đưa mắt hờ hững ngó vào tờ giấy tính tiền mà không cần thấy, và ông tiếp lời:Bà hãy cho tôi biết, ở đất Monfermeil bà làm ăn có khá không? -Thời thế nghiệt ngã lầm! Người đàn bà hung ác nói giọng thảm thương. Và chúng tôi phải chịu bao gánh nặng nữa chứ! Này nhé, con bé Cosette đó mà ở đây người vẫn gọi là con Sơn Ca mặc dù nó có vẻ một con dơi đúng hơn là một con chim Sơn Cạ Chúng tôi phải tốn kém cho nó biết bao. Tôi có con tôi chứ, tôi không cần phải nuôi con kẻ khác. Jean Valjean tiếp lời giọng run run dù ông cố tỏ ra dửng dưng:

- Và nếu bây giờ người ta tách nó ra khỏi ông bà thì sao?

Khuôn mặt đỏ rền và dữ dằn của bà chủ quán sáng lên:

- à! Thưa ông, xin ông cứ nhận nó, giữ nó, mang nó đi cho rảnh! Tôi không muốn thấy mặt con bé bẩn thỉu đó nữa ! Và tôi mong ông được hưởng phước lớn của thánh thần. Xong rồi. Tôi xin dẫn nó đi. Jean Valjean nói. Và ngay bây giờ. Bà hãy gọi con bé ra đây.

Cosette! bà Thénarđier gọi tọ - Tôi nợ bà bao nhiêu Jean Valjean tiếp lời vừa liếc vào tờ giấy tính tiên. 23 trăng! ông kêu lên. - Đúng đấy, thưa ông. Hai mươi ba trăng, bà Thénardier khẳng định, bà đã có đủ thời giờ để chuẩn bị cú sốc này.

Jean Valjean đặt lên bàn năm đông năm trăng. - Bà hãy đi tìm đứa bé, ông nói.

Đúng vào đó, ông Thénardier bước đến giữa gian phòng và nói giọng lạnh lùng: ông còn thiếu hai mươi sáu xụ Hai mươi xu tiền phòng và sáu xu tiền bữa ăn khuya. Còn đứa bé, tôi cần nói chuyện với ông một chút và quay ra nói với vợ - Bà hãy để mặc chúng tôi.

Khi còn lại hai người, ông Thénardier léo ghế mời Jean Valjean và vẫn đứng trước ông. Khuôn mặt ông ta lộ một vẻ chất phác và giản dị đặc biệt. Thưa ông, tôi xin cho ông biết là đứa bé đó, tôi quí nó lắm. Jean Valjean nhìn ông ta đăm đăm. Đúng thế! ông tiếp lời giọng đầy tình cảm. Chúng tôi quyến luyến nhau, ông hãy lấy lại những đồng trăm xu Tôi không thể chấp nhận việc ông dẫn con bé Cosette của chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ thấy thiếu nó, con bé đó. Đúng là nó gây tốn kém cho chúng tôi. Cộng thêm bốn trăm quan tiền thuốc men chỉ vì một trong những căn bịnh của nó. Nhưng nó không có cả cha lẫn mẹ. Tôi đã nuôi nấng nó. Tôi có đủ bánh mì cho nó và cho tôi. Ông muốn gì chứ? Điều này không cần suy luận dài dòng: tôi thương con bé đó. Vợ tôi thì nóng nảy nhưng bà ấy cũng thương nó. Từ lâu rồi chúng tôi coi nó như con của chúng tôi Tôi cần nghe nó nói chuyện líu lo trong nhà. Và rồi người ta không thể trao con mình cho một người qua đường như thế được. Ông biết không, tôi muốn biết nó đi đâu để thỉnh thoảng đi thăm nó, để cho nó biết người cha đã tận tụy nuôi nó vẫn còn đó, vẫn dõi mất trông chừng nó. Tôi không biết cả tên ông, ông phải cho tôi thấy một mẩu giấy thông hành cửa ông chứ? Jean Valjean nhìn đăm đăm vào ông tạ Ông nói giọng trầm trọng cương quyết:

- Ông Thénardier, người ta không cần một giấy thông hành để đi khỏi Paris năm dặm. Nếu tôi phải dẫn Cosette đi, tôi sẽ dẫn nó đi, thế thôi. Ông sẽ không biết tên tôi lẫn chốn ở của tôi. Ông sẽ không biết Cosette tới đâu và ý định của tôi là nó không gặp lại ông trong đời.

Tôi bứt phăng sợi dây nơi chân nó và nó lên đường ông có đồng ý không? Có hay không? Thénardier thuộc số người thoáng nhìn qua đã phán đoán ngay được tình hình. Ông nhận ra mối quan hệ sâu xa của Jean Valjean và đứa bé. Ông bất thần bộc lộ mưu chước của mình. Thưa ông, ông ta nói, phải có một nghìn năm trăm quan cho tôi mới được. Jean Valjean móc một chiếc ví cũ kỹ bằng da đen từ trong túi, rút ra ba tờ giấy bạc mà ông đặt trên bàn và giữ lại chúng dưới ngón tay trỏ to tướng của mình. - Hãy gọi Cosette tới! ông nói với ông chủ quán đang sáng mắt ra. Chập sau Cosette bước vào: Này cháu, Jean Valjean vừa mở cái gói mà ông đã mang tới hôm trước dưới cánh tay của mình, và lấy trong đó ra một chiếc áo dài len màu đen và một bộ quần áo dành cho một cô bé bảy tuổi. Cháu hãy đi mặc ngay và trở lại đây.

Chằng mấy chốc Cosette đã trở lại, tay ôm chặt con búp bệ - Chúng ta đỉ Jean Valjean nói, và ông nắm bàn tay cộ - Nhưng mà..., Thénardier mở lời, ngây ngất với chiến thắng dễ dàng của mình và tự thấy mình quá đỗi khiêm tốn trong hoàn cảnh của mình. Thưa ông, người mà tôi không biết tên, ông còn thiếu tôi nhiều điều nhỏ nhặt. Và...

Jean Valjean bình thản nói:

- Đi, Cosette. Ông cầm chắc trong tay cây gậy gai mở cửa quán và bước ra đường. Thénardier chú ý tới vẻ dình dàng của cây gậy và vóc người cao to của người đàn ông, rồi nhìn lại chính mình, với đôi cánh tay khẳng khiu và đôi bàn tay ốm yếu Và ông ta vừa trở vào nhà vừa mím môi tủi hổ. Ngày ló dạng, người dân ở Montfermeil bắt đầu mở cửa, họ trông thấy một người đàn ông ăn mặc nghèo khổ nắm tay một cô bé để tang và ôm một con búp bê màu hồng đang đi qua trên đường phố Paris. Cosette đi về đâu? Với ai? Cô không biết nhưng thỉnh thoảng cô nhìn lên khuôn mặt trầm ngâm của người đàn ông và cô cảm thấy một niềm tin thần thánh trong lòng mình.

 

Chương 4 : Cosette

Jean valjean đưa cosette tới earis. Ông tự nhủ thà mất tăm trong đại dương của một thành phố hơn là sống trong một tỉnh nhỏ nơi cuộc sống mọi người luôn chịu sự xét nét, phê phán của người bên cạnh. Ông mướn một gian phòng và một buồng nhỏ được soi sáng bởi một ô cửa sổ trên mái nhà trong khu phố Salpétrière ở đường Vignes-saint-marcel. Căn nhà ông chọn có một vẻ ngoài bẩn thỉu và ảm đạm gồm nhiều gian phòng tồi tàn có sẵn đồ đạc cho những người nghèo khổ thuê mướn.

Chính đó là nơi hai con người đào tẩu đến ở. Với Cosette đó là khởi đầu của cuộc sỏng khác thường. Không công việc phải làm, không đòn roi, không lời dọa nạt hãi hùng.

- Cháu cứ chơi đi ? Jean Valjean mỉm cười nói với cô và trong lúc đứa trẻ hoan hỉ thứ sống hạnh phúc, người cựu tù khổ sai ngắm nghía cô một cách trìu mến.

Một tình cảm mới mẻ tràn vào tâm hồn ông. Ông chưa từng yêu một thứ gì trên cõi đời này. Từ hai mươi lăm năm nay, ông vẫn sống cô độc. Những xúc động dịu dàng của tuổi trẻ nếu ông có được thì cũng đã rơi vào đáy vực.

Nhìn Cosette sống, ông thấy lòng mình rung động. Tất cả những gì thắm thiết, say mê nơi ông đều đổ dồn về cô bé đó. Ông vẫn đứng bên giường nơi cô đang ngủ, và ông run lên vì sung sướng. Ông cảm nhận tất cả những tình cảm say sưa của người mẹ và của một người ông. Đó là lần thứ nhì ông gặp gỡ một hình bóng trắng trong. Vị giám mục đã mang đến tim ông một bình minh đạo hạnh, Cosette thì mang đến một bình minh trìu mến.

Năm mươi năm cách biệt đã đặt ra một sự phân ly sâu sắc giữa người đàn ông luống tuổi đó và đứa trẻ kia. Định mệnh đã xoá nhòa sự phân ly đó. Nó nhanh chóng kết hợp hai cuộc đời mất gốc đó, khác biệt nhau về tuổi tác tương đồng nhau trong sự tang tóc. Bản năng của Cosette tìm kiếm một người cha cũng như bản năng của Jean Valjean tìm kiếm một đứa con. Hai tâm hồn kết hợp nhau để sống.

Nhiều tuần lễ trôi qua. Cosette cười nói huyên thuyên, ca hát ngay từ hừng đông. Jean Valjean bắt đầu dạy cô học. Đôi khi trong lúc cô đánh vần, ông nghĩ chính với ý nghĩ làm điều xấu, trả thù sự bất công của xã hội mà ông đã học đọc trong nhà tù. ý nghĩ đó đưa tới việc dạy một đứa trẻ đọc.

Bây giờ người cựu tù nở một nụ cười phúc hậu. Dạy Cosette đọc, để cho cô nô đùa, nói với cô về mẹ cô, đó gần như là tất cả cuộc sống của Jean Valjean.

Còn cô, cô gọi ông là "cha" và không biết ông có một cái tên nào khác.

Jean Valjean có sự thận trọng là không bao giờ ra ngoài ban ngày. Mọi buổi chiều, vào buổi chạng vạng, ông đi dạo một hay hai tiếng đồng hồ, đôi khi một mình, thường khi với Cosette, ông tìm những đường bên của các đại lộ vắng vẻ nhất và bước vào các nhà thờ vào lúc sập tối ông thường đến Saint-médard là nhà thờ gần nhất. Khi ông không dắt Cosette theo thì cô ở lại với một bà lão trọ trong một gian phòng tồi tàn cạnh phòng họ trong cùng ngôi nhà. Bà lão đó lo việc trong nhà cho Jean Valjean làm bếp, mua sắm đồ thiết dụng. Bà tin rằng ông chủ của bà là người bị khánh tận bởi trái phiếu xứ Tây Ban Nha và đã đến ở đây với đứa cháu gái. Bà đã cố thử hỏi chuyện Cosette nhưng cô bé vì tính kín đáo tự nhiên đã không hở môi. Vả chăng cô biết rất ít điều và trong hạnh phúc hiện tại, ký ức về cuộc sống đã qua của cô về cuộc sống đau khổ cũ đã xóa nhòa trong trí nhớ của cô. Tuy nhiên cuộc sống của những người ở trong ngôi nhà lại gợi tính hiếu kỳ của những kẻ ăn không ngồi rồi trong khu phố.

Một buổi chiều khi Jean Valjean trở về nhà ông trông thấy gần như trước cửa phòng mình một người ăn mày đang vừa cuối đầu vừa đưa bàn tay ra và lẩm bẩm. Ông cho ông ta tiền. Nhưng lúc ông đặt vào bàn tay đưa ra một đồng tiền, người ăn mày bất ngờ ngẩng đầu lên và nhìn ông chằm chằm. Động tác đó chỉ kéo dài trong khoảng thời gian một tia chớp. Thế mà Jean Valjean vẫn giật mình. Dường như ông đã nhận ra khuôn mặt khủng khiếp của Javert. Ông lùi lại sững sờ như hoá đá trong vài giây trước khi có thể dửng dưng dời bước.

Ban đêm ông không ngủ. Và hôm sau ông trải qua một ngày trong lo lắng và bảo Cosette giữ im lặng để ông có thể nghe từng tiếng động nhỏ trong nhà. Nhiều lần ông nhận ra một bước chân lén lút lướt quạ Ông nén hơi thở, còn Cosette thì hãi hùng mà không biết tại sao, cô im thin thít.

Trọn ngày dài cứ trôi qua như thế. Lúc sẫm tối, Jean Valjean đi tới một quyết định. Ông làm một cuộn một trăm trong mà ông cất trong tủ và cho vào túi. Đoạn ông khẽ mở hé cánh cửa, bước xuống, chăm chú nhìn mọi phía trên đại lộ. Ông không thấy một bóng người nào. Ông bước trở lên phòng mình.

- Đến đây! ông bảo Cosette.

Ông nắm tay cô và họ bước ra ngoài. Ông không biết mình đi đâu, ông không có một kế hoạch nào, một ý đồ nào. Nhưng ông đã quyết định không trở về ngôi nhà ở đường Vignes nữa. Ông vạch những lối đi ngoằn ngoèo biến hóa trong khu phố Mouttetard.

Nếu tình cờ tìm ra dấu vết của mình, người ta cũng lạc mất thôi, ông nhủ thầm. Khi băng qua đường Pontoise, ông thấy rõ, nhở ánh sáng một ngọn đèn đường, ba người đàn ông đang bước theo ông khá gần, một trong ba người đó có dáng dấp dễ sợ của Javert.

Đến đây con, ông bảo Cosettẹ Và ông vội vàng rời khỏi đường Pontoise. Ông đi vào đường Postes, về phía khu vườn cây. Một ngã cho phép ông vượt lên trước những người đang đuổi theo ông. Cosette đã thấm mệt, ông ôm cô trong hai cánh tay để có thể đi nhanh hơn. Ông tới bờ sông Seine, những con đường có vẻ vắng. Không có ai phía sau ông. Ông thở nhẹ nhỏm. Cầu Austerlitz trước mặt ông, ông đi qua nó trong bóng một chiếc xe bò cũng đi như ông ở bên phải. Rồi ông đi vào một con đường nhỏ chật hẹp và tối tăm, nhưng trước khi bước vào đó, ông thận trọng nhìn lại phía sau. Từ chỗ của mình, ông thấy cầu Austerlitz trong suốt chiều dài của nó. Bốn bóng người vừa bước lên đó.

Jean Valjean rùng mình như một con vật bị truy ra dấu vết. Ông vội vàng đi vào con đường nhỏ Che min - Vert-st-antoine, tự nhủ thầm rằng nếu ông đến những chỗ để than củi, những khoảng đất trồng trọt, những khoảng đấí không xây cất, ông có thể thoát thân. Đi được khoảng ba trăm bước, con đường có hình dạng một chữ Ỵ Ông vào đó theo nhánh bên phải dẫn về phía đồng ruộng. Hai ba lần quay lại nhìn phía sau ông không thấy gì, và ông tiếp tục bước đi, phần nào yên tâm. Nhưng khi quay lại lần nữa dường như ông thấy nơi đoạn đường ông vừa đi qua, xa xa trong bóng tối, một cái bóng đang di động. Thế à ông bất đầu chạy.

Ông vào một con đường nhỏ bên hông và sau đó ông dừng chân chần chờ: Một con đường vắt ngang tạo thành cái nền của con đường nhỏ này. Bên phải nó nối dài thành một đoạn giữa những nhà kho và những nhà chứa lúa và tận cùng bằng một ngõ cụt. Cuối ngõ cụt người ta thấy hiện ra một bức tường lớn màu trắng. Bên trái, con đường nhỏ chạy khoảng hai trăm bước thì gặp mti con đường lớn mà dường như nó là một nhánh rẽ. lối thoái có lẽ ở phía đó. Nhưng trong lúc Jean Valjean suy nghĩ tới việc rẽ phía trái, ông lại thoáng thấy nơi con đường nhỏ và con đường lớn nơi ông sắp sửa nhắm hướng đi tới, có một pho tượng đen đúa im lìm. Đó là một người đàn ông đang chận ngang, chờ đợi.

Jean Valjean lùi lại. Dĩ nhiên ông đang bị bóng ma đó rình rập. Làm gì bây giờ ? Javert có vẻ như không bao giờ mất dấu vết và sắp tới đây hấn sẽ dồn con mồi của hắn vào mê cung của những con đường nhỏ thuộc khu Petit-picpus mà hắn quá rành. Hắn đã cho một người của hắn chận lối thoát độc nhất trong lúc hắn được hỗ trợ và bám sát Jean Valjean mấy trăm bước phía sau. Mạng lưới từ từ siết lại Jean Valjean nhìn bầu trời một cách tuyệt vọng.

Ông nghe có tiếng bước nhịp nhàng của những người lính. Đó là giây phút khủng khiếp. Một khoảng không đầy một khắc đồng hồ ngăn cách Jean Valjean với vực sâu hãi hùng khi đang mở ra trước mặt ông lần thứ bạ Và nhà tù lần này không chỉ là nhà tù đơn thuần, đó còn là Cosette mất đi mãi mãi.

Con đường nhỏ nơi Jean Valjean đang chần chờ run rẩy, một bên được viền bằng mỗi một tòa nhà với những tường thành nghiêm ngặt, hẳn phải bao quanh một khu vườn ở ba cạnh kia. Một nhánh cây điền ma xuất hiện trên một chỗ lở của bức tường. Jean Valjean lao về phía chỗ lở đó, cái cây đó. Bức tường trên đó người ta trông thấy cây điền ma cao khoảng mười tám piê nhưng nó đã cũ kỹ và có nhiều chỗ ìôi lõm nơi một người tù khổ sai đáng bậc thầy trong nghệ thuật vượt ngục có thể tìm ra những cái bậc để leo lên.

Nhưng cái khó là Cosette. Làm thế nào vừa ôm cô vừa leo lên?

Phải có một sợi dây. Jean Valjean nhủ thầm. Và ông nhìn quanh, đầu óc rối rắm. Đôi mắt tuyệt vọng của ông bắt gặp ngọn đèn đường của ngõ cụt.

Vào thời đó, người ta soi sáng các con đường bằng những ngọn đèn đặt cách khoảng và có một sợi dây buộc vào đường rãnh của một cái trụ. Dùng dao chặt sợi dây, quấn một đầu quanh người Cosette sao cho khỏi không thể gây thương tích cho cô bé đối với ông là chuyện diễn ra trong một phút.

Bước chân của những người tuần thám do Javert hướng dẫn đang tiến lại gần.

Cha ơi, Cosette nói, hắt đầu lo sợ với những bước chân đi đi lại lại đó. Con sợ quá. Cái gì đang đi tới đó cha ?

- Suỵt ! Jean Valjean vừa đáp vừa rà lại những nút dây - Bà Thénardier đấy. Con đừng nói gì cả. Hãy để ta làm. Nếu con la lên, nếu con khóc thì bà ta đang rình con đấy Bà ta tới để cướp lại con.

Cosette rùng mình, sợ đến lạnh người. Jean Valjean cởi giày và vớ ném qua bức tường, cắn chặt đầu dây buộc Cosette và nương theo những chỗ lồi lõm mà leo lên dọc theo bức tường một cách lặng lẽ với một vẻ thành thục tuyệt vời. Một nửa phút chưa trôi qua ông đã quỳ gối trên bức tường. Sau đó ông kéo cô bé lên. Rồi cõng cô trên lưng, ông bò trên bức tường, đến một mái nhà áp vào đó đang đổ xuống theo một mặt phẳng thoai thoải nghiêng vừa lướt qua cây điền ma.

Jean Valjean vừa tới được mặt nghiêng của mái nhà và chưa rời bức tường thì có tiếng bước xôn xao báo hiệu đám tuần thám đã tới. Người ta nghe giọng nói vang dậy của Javert.

Hãy lục soát ngõ cụt này ! Đường Droit-mur đã có người giữ, con đường nhỏ Picpus cũng thế. Tôi cho rằng ông ta đang ở ngõ cụt này.

Bọn lính và công an đổ xô tới. Jean Valjean buông mình lướt đi dọc mái nhà vừa đỡ Cosette không biết vì hãi hùng hay vì can đảm mà cô bé nín cả thở. Hai bàn tay cô hơi bị sướt.

Hai kẻ chạy trốn đang ở trong một khu vườn có dáng vẻ lạ thường, một nửa cỏ mọc đầy, với đây đó những lối đi hai bên viền những cây nhỏ thấp bé âm u và những chiếc băng đá đen đúa vì phủ đầy rêu.

Ngôi nhà gạch mà Jean Valjean nương theo cái mái để tuột xuống, có vẻ là một nhà kho đã hoang phế.

Tòa nhà lớn chạy dọc đường Droit-mur và con đường nhỏ Picpus nhô hai mặt tiền vuông góc ra khu vườn. Tất cả các cửa sổ đều bằng song sắt, người ta không thấy có ánh sáng bên trong. Ở các tường trên có những miệng lưới ống khói như ở các nhà tù.

Việc đầu tiên của Jean Valjean là tìm lại đôi giày và mang vào chân, rồi cùng Coscue đi vào nhà kho, Cosette run rẩy nép sát vào ông. Người ta nghe đám người tuần thám đang lùng sục khắp ngõ cụt và con đường, liếng báng súng gõ vào đá, tiếng Javerl gọi ơi ới đám công an, cùng những tiếng chửi rủa lẫn với những lời lẽ mà người ta chẳng nghe được gì. Jean Valjean nín thở. Rồi những tiếng ầm ĩ cũng dần dần tắt ngấm. Tất cả chìm vào im lặng. Gió thổi xào xạc qua đám cỏ khô nơi đầu tường tạo thành một tiếng động dịu dàng, não ruột.

Jean Valjean thấy Cosette đang run rẩy. Cô bé đã lạnh cóng. Đôi mắt to của cô đã nhắm nghiền. Ông lay mạnh cộ Cô không trả lời. Hơi thở cô đã yếu lắm rồi và chực tắl ngấm.

Jean Valjean bọc cô trong chiếc áo rây đanh gột của mình. Những ý định khủng khiếp băng qua đầu ông một cách hỗn độn. Phải chăng nó sắp chết? ông cuống quít nhủ thầm.

Ông đặt Cosette nằm trên một đám củi và rơm, rồi chạy vào nhà kho, trễ lắm là trong mười lăm phút cô phải có lửa để sưởi và nằm trên một chiếc giường. Ông không còn nghĩ tới niềm im lặng phải giữ lẫn sự dè dặt. Ông tự nhủ, con tôi sắp chết. Và đúng vào lúc đó ông trông thấy một người đàn ông xuất hiện trong khu vườn.

Người này có vẻ khập khiễng và trong mỗi bước đi của ông ta người ta nghe có tiếng khua nho nhỏ. Ông đứng dậy, cúi xuống, dừng bước với những cử động nhịp nhàng như đang kéo một cái gì trên mặt đất.

Jean Valjean bước thẳng về phía người đàn ông. Ông rút bó giấy bạc trong túi bạc gi lê của mình. Người đàn ông đang cúi đầu và không thấy ông bước tới. Jean Valjean đến bên ông ta và nói lớn: Một trăm trăng ? ông được một trăm trăng nếu ông cho tôi trọ qua đêm nay.

Người đàn ông nhảy nhổm và ngước mắt nhìn lên. Ánh trăng soi rõ khuôn mặt hoảng hốt của Jean Valjean.

Kìa, ông đây mà, ông Madeleine có phải? người đàn ông nói.

Jean Valjean lùi lại. Ông mong đợi mọi điều, trừ điều đó ông hỏi giọng khàn đục.

- Ông là ai và ngôi nhà này là gì?

- Đúng rồi, khỏe thật! người đàn ông kêu lên. Ông không nhớ tôi sao? Có phải bây giờ thánh thần đã đi cả rồi chắc? Tôi là người từng được ông cứu mạng, và ngôi nhà này là nơi ông đưa tôi tới. Ông không nhận ra lão Fauchelevent này sao? Người làm vườn của tu viện Picpus... Ông thấy đó, tôi phải phủ kín những trái dưa vì sợ trời đông giá. Nhưng mà nói cho cùng ông làm thế nào để vào đây, ông Madeleinẻ Cuối cùng có thể ông từ trên trời rơi xuống lắm...

- Lão Fauchelevent, Jean Valjean vừa nói vừa nắm tay ông lão, xưa kia tôi đã cứu mạng ông. Hôm nay ông có thể làm cho tôi điều tôi đã làm cho ông không? Một niềm vui tớ mở làm biến dạng mặt mày Fauchelevent.

- Ông thị trưởng, xin ông tùy nghi sai bảo lão già chất phác này, ông nói giọng mủi lòng. Ông muốn tôi làm gì đây?

- Ông có một gian phòng không?

- Tôi có một căn lầu biệt lập ở đằng kia, sau mớ đổ nát của tu viện cũ, trong một xó không ai trông thấy. Có ba phòng.

- Tốt lắm, Jean Valjean nói. Bây giờ tôi xin yêu cầu ông hai điều. Thứ nhất ông đừng nói với bất luận ai về nhữngagì ông biết về tôi. Thứ nhì, ông đừng tìm hiểu gì thêm. Ông hứa chứ? Bây giờ ông hãy đi với tôi. Chúng ta sẽ đi tìm đứa bé.

Non nửa tiếng đồng hồ sau, Cosette hồng hào trở lại nhờ được sưởi ấm, cô ngủ trên giường - của lão làm vườn. Jean Valjean mặc lại chiếc rây đanh gột vào người và ngồi trước mặt lão Fauchelevent bấy giờ đã đặt lên bàn một miếng phô mát, bánh mì hẩm, một chai rượu và hai cái ly.

Này lão Fauchelevent, Jean Valjean mở lời, tôi phải ở lại đây, trong nhà này.

Không được đâu, ông Madeleine ạ. Đàn ông không được vào đây. Chỉ có tôi, cha tuyên úy, viên y sĩ.

Xin ông hãy hiểu cho tôi. Trong tu viện này chỉ có những nữ tu thuộc dòng tu kín. Suốt ngày các bà lo cầu nguyện.

Và rồi các bà có đám học sinh nội trú, đúng vậy, những cô bé tuổi từ bốn đến mười sáu mà họ lo việc giáo dục, và để ở lại trong nhà này, trước hết ông phải ra ngoài được - Ông bảo có những cô bé ở đây à? Jean Valjean hỏi. Và ông thầrn nghĩ:

Đây là cơ hội tốt để Cosette được học. Lão Fauchelevent, ông tiếp lời, lớn giọng, lão có nghĩ rằng tôi sẽ là một người làm vườn thích đáng không. Thời trẻ tôi đã từng làm việc với ruộng đồng, tôi đã từng tỉa cành cho cây. Con bé Cosette của tôi sẽ trở thành học sinh nội trú trong tu viện. Tôi sẽ gặp nó mỗi ngày. Lão không tin rằng điều đó có thể được sao?

- Quả vậy! Fauchelevent vừa nói vừa gãi đầu. Tôi rất được mẹ bề trên thương. Có thể bà sẽ bằng lòng nhận ông với tư cách phụ làm vườn. Tôi sẽ nói với bà ông là em tôi. Tôi có một người em đã chết tại châu Mỹ. Đây là dịp cho cậu ấy sống lại. Còn cô bé thì còn dễ nữa, nhưng với việc đó ông vẫn không ra khỏi chỗ này được. Với tôi. Ông từ trên trời rơi xuống, bởi tôi biết ông, nhưng với các nữ tu thì ông cần phải bước vào qua cánh cửa.

- Này! Jean Valjean vừa nói vừa vểnh tai nghe. Tiếng chuông đó là gì?

- Đó là chuông báo tử. Hôm nay một nữ tu đã chết.

Đó là điều giúp tôi được mẹ bề trên chấp thuận lời yêu cầu của tôi về "cậu em của tôi". Đúng thực tôi giúp việc cho giáo hội... Người nữ tu mới chết đã yêu cầu được chôn cất trong chỗ hát kinh của giáo đường. Đó là điều bị cấm đoán. Nhưng các bà muốn phớt lờ những quy định của cảnh sát. Họ bảo rằng ước nguyện của sinh linh đáng được tôn trọng hơn luật pháp. Thế là mẹ Thập tự giá sẽ an nghỉ nơi mẹ mong muốn. Có điều là ban quản trị đã gửi đến một cái áo quan, sau cuộc viếng thăm của viên y sĩ khám người chết. Cái áo quan đó, tôi phải đổ đất cho đầy để người ta không thấy nó rỗng và tôi sẽ đưa nó ra nghĩa địa Vaugirard. Chính nhờ những công việc đó mà tôi nghĩ ông sẽ được chấp nhận như người phụ làm vườn tới đây. Thế là tôi đã có cách đưa ông vào đây. Nhưng làm sao đưa ông ra khỏi đây chứ? Cái khó là chỗ này. Với cô bé thì không gì dễ hơn. Tôi có cửa sau mở ra khoảng sân. tôi gõ. Người giữ cửa mở. Tôi có cái gùi trên lưng (tôi thường mang rau đậu ra ngoài). Cô bé thay chỗ rau đậu.

Cô chỉ cần lặng im. Cô nằm dưới tấm vải bố. Tôi sẽ để cô tại nhà một bà lão bán rau quả mà tôi quen biết tại đường Chemin-vert. Bà ta điếc, và bà ta có một cái giường nhỏ. Tôi sẽ hét trong lỗ tai bà ta là tôi dẫn tới bà ta một đứa cháu của tôi. Bà ta sẽ giữ nó cho tới ngày hôm sau. Sau đó cô bé sẽ trở về với ông. Bởi tôi sẽ đưa ông trở về để nói chuyện với mẹ bề trên. Phải thế mới được Nhưng còn ông, ông sẽ làm cách nào để ra ngoài - Lão Fauchelevent, Jean Valjean ôn tồn nói, trong cái áo quan của ban quản trị Ông sẽ không đổ đất vào, ông sẽ găm một người sống trong đó. Đó là tôi.

- Ông à? Fauchelevent kêu lên trong cơn bối rối.

- Đúng, chiều dài cái áo quan là bao nhiêu?

- Sáu piê - Được rồi. Ai là người đóng đinh nó ?

- Tôi.

- Ông có một mũi khoan chứ? ông sẽ khoan vài cái lỗ nhỏ quanh miệng và ông sẽ đóng đinh mà không cần ép chặt tấm ván ở trên.

- Và nếu ông phải ho hay hắt hơi thì sao?

Kẻ đào thoát thì không ho cũng không hắt hơi bao giờ. Lão Fauchelevent, phải quyết định thôi: hoặc bị bắt nơi đây hoặc chấp nhận đi ra ngoài bằng xe đám tang.

- Thật ra, Fauchelevent làu bàu, không còn cách nào khác.

Điều độc nhất khiến tôi lo, Jean Valjean tiếp lời, là những gì sẽ xảy ra tại nghĩa địa đây?

Đó lại là điều tôi không lo, Fauchelevent kêu lên.

Tôi chắc chắn sẽ kéo ông ra khỏi huyệt. Người đào huyệt của thị xã, lão Mestienne, là một bợm say trong đám bạn tôi Chuyện này sẽ qua thôi, tôi sẽ nói cho ông rõ. Người ta sẽ tới trước sương mù một chút, khoảng ba khắc đồng hồ trước giờ nghĩa địa đóng cửa. Phu đám ma sẽ khiêng áo quan và đưa ông xuống huyệt. Linh mục sẽ đọc kinh.

Sau đó còn lại một mình tôi với lão Mestiennẹ Trong hai điều phải có một, hoặc lão sẽ say bí tỉ hoặc lão không saỵ Tôi sẽ dẫn lão tới quán Bon Coing, tôi sẽ đổ rượu cho lão say nhè. Chẳng lâu la gì đâu. Tôi sẽ lấy cái thẻ của lão ta để trở vào nghĩa địa, bởi muốn đi qua khi cửa nẻo đã đóng người ta phải trình thẻ nếu không, phải nộp phạt. Và tôi sẽ bới ông lên.

Jean Valjean đưa bàn tay ra cho Fauchelevent.

- Xong rồi, ông nói. Mọi việc sẽ tốt đẹp.

Miễn không có gì phiền hà, Fauchelevent nghĩ thầm. Nếu chuyện này mà trở nên khủng khiếp...

Hôm sau, khi trời sụp tối, một đám tang với áo quan phủ một tấm ra trắng theo sau là một linh mục trong áo lễ trắng, một lễ sinh, hai phu đám ma và lão Fauchelevent, tới cửa nghĩa địa Vaugirard. Tất cả diễn ra theo đúng ý đô của Jean Valjean. Mẹ bề trên của tu viện chấp nhận giúp đỡ người làm vườn tận tụy.

- Sau việc chôn cất, ông sẽ dẫn người em và cháu ông tới tôi, bà nói với lão Fauchelevent.

Cosette được đưa tới bà bán rau quả mà không gặp trở ngại nào. Và Fauchelevent đã đưa Jean Valjean trở về mà không ai trông thấy, trong một gian phòng ở phía dưới của giáo đường nơi đặt áo quan của nhà đòn. Thi thể của mẹ Thập tự giá được đặt trong hầm mộ của tu viện. Và giờ đây lão làm vườn đã thấy yên tâm vì trước mắt ông chỉ còn cái khó - cũng quá dễ - liên quan tới nghĩa địa.

Lão đưa mắt quanh quất tìm lão Mestiennẹ Nhưng lão này chưa tới.

Bỗng đâu trong lúc đoàn xe sắp qua ngưỡng cửa nghĩa địa, một người có dáng dấp một tay thợ thuyền, cắp trong mình một cái cuốc đến đứng sau xe tang, bên cạnh Fauchelevent.

- Anh là ai? Fauchelevent hỏi kẻ lạ mặt.

Người đào huyệt.

Nếu người ta còn sống sót sau khi lãnh một viên cạn đại bác giữa ngực, hẳn người ta sẽ có bộ mặt của Fauchelevent bấy giờ.

Nhưng người đào huyệt là lão Mestienne kia mà, lão ấp úng.

- Đúng, lão chết rồi. Thế đấy, người tiền nhiệm của tôi Mải đào huyệt chôn kẻ khác, tới ngày người ta đào huyệt cho mình thôi. Sau Napoléon có Luois XVIIỊ Sau Mestienne có Gribier. Tôi tên là Gribier.

Fauchelevent bật cười. Lão tái mặt.

- à ? lão Mestienne đã chết ! Đó là một tay cừ có thể cùng anh nhắm nháp hết một vò đấy. Nào, anh bạn, chốc nữa ta đi uống với nhau nhé, để tưởng nhớ lão Mestienne.

Tôi chả uống bao giờ, Gribier đáp.

- Thế nhưng phải làm quen với nhau chứ, Fauchelevent ấp úng. Người ta không quen nhau nếu không cùng uống với nhau. Kẻ nào cạn ly tức là tức là cạn lòng mình đấy.

- Trước tiên là công việc.

Mình thua rồi, Fauchelevent nhủ thầm.

Xe tang dừng lại nơi góc nghĩa địa dành cho các nữ tu Phu đào huyệt đang cho áo quan xuống, đầu xuống trước. Fauchelevent lảo đảo, vị linh mục đọc kinh, những từ thuộc nghi lễ tôn giáo vang dội trong tai lão làm vườn như tiếng chuông cấp báo. Lão không hiểu bằng cách nào những vai phụ của vở bi kịch bỗng biến đâu mất. ý thức, một ý thức ngây dại, hãi hùng trở lại với lão khi còn lại một mình lão với người đào huyệt của thành phố, lão thấy hấn đang cúi xuống và ấn sâu cái xẻng vào đống đất Bây giờ lão kêu lên:

Tôi trả tiền.

Cái gì?

- Rượu. Rượu Argenteuil. Tại quán Bon Coing.

Để sau đã, Gribier vừa nói vừa ném một xẻng đất lên áo quan.

Fauchelevent nhủ thầm, nhưng mà nếu uống,hắn có xỉn không đây?

- Này lão, Gribier nói, bởi ông quyết cho bằng được thì tôi đồng ý. Chúng ta sẽ uống. Khi xong việc. Trước thì không bao giờ.

Hắn lại ném một xẻng đất:

- Nhưng mà đi đi chứ Fauchelevent nôn nóng kêu lên.

Khi chúng ta đã lấp đất lên người chết đã, người đào huyệt vừa nói vừa ném một xẻng đất thứ ba.

Đúng vào lúc ấy, khi xúc đất, Gribier cong người xuống và túi áo vét hắn mở hé. Cái nhìn cuống quít của Fauchelevent vô tình rơi vào trong cái túi đó và dừng lại đó Mặt trời vẫn chưa lặn khuất nơi chân trời, ánh sáng ban ngày hãy còn đủ để lão có thể nhận ra một vật màu trắng trong đáy túi hé mở đó. Đó là tấm thẻ của người đào huyệt. Fauchelevent nhanh tay chộp lấy và bỏ nó vào trong túi mình.

- Này, ông nói trong lúc Gribier ném một xẻng đất thứ tư vào huyệt. Anh có thẻ không đấy? Mặt trời sấp lặn rồi Cửa song sắt của nghĩa địa sắp đóng. Anh có biết nếu không có thẻ để ra ngoài thì bị phạt mười lăm quan không?

Gribier lục túi, lết túi rày đến túi khác rồi lộn cả túi trong ở lưng quần. Mặt hắn xanh như tàu lá.

- Chúa ơi! hắn kêu lên. Tôi không có thẻ. Chắc tôi đã quên rồi. Mười lăm frăng tiền phạt. Ba đồng trăm xu!

- Đúng là lính mới ! Fauchelevent nói, lão như đang hồi sinh, anh không phải tuyệt vọng? Có thể anh không phải nộp mười lăm trăng tiền phạt, người gác nghĩa địa không biết gì đâu. Tôi đã già. Tôi biết rõ những mánh lới cùng đường đi nước bước ở đây. Tôi sẽ cho anh một lời khuyên của bè bạn.Nghĩa địa sẽ đóng cửa trong năm phút nữa. Anh không có thì giờ để lấp đầy cái huyệt. Nó trũng đến khiếp đảm. Anh hãy chạy bay về nhà, lấy thẻ và trở lại đây. Người gác cửa sẽ mở cho anh. Anh có thẻ thì không phải nộp gì cả. Còn tôi trong khi chờ đợi, tôi sẽ giữ người chết được an toàn.

Tôi nợ Ông cả cuộc đời, lão tiền bối ạ, Gibrier nói, rất đỗi biết ơn, và hắn co giò chạy.

Fauchelevent rùng mình. Lão nhào xuống huyệt đúng hơn là bước xuống, và lão kêu lên giọng hoảng hốt.

- Ông Madeleine.

Không có tiếng trả lời. Bằng một bàn tay run rẩy lão làm vườn làm bật nấp áo quan.

Khuôn mặt của Jean Valjean hiện ra trong buổi hoàng hôn, xanh xao, hai mắl nhắm nghiền.

Tóc Fauchelevent dựng ngược:

- Ông ấy chết rồi ! ông nói nhỏ giọng như thở. Tôi dã cứu ông ấy như thế này đây. Trái đất này đã bóp nghẹt ông ấy. Tôi nói đúng mà. Ông ấy không muốn tin lôi. Chết như thế này đây, một con người như ông ấy! Thế là đâu còn Chúa thiện phúc nữa. Ông Madeleine! Ông Madeleine ! ông thị trưởng ! ông ấy không nghe tôi nói gì. Bây giờ thì ông hãy ra khỏi chỗ này.

Lão bật khóc nức nở vừa vò đầu bứt tóc. Bất chợt lão nhảy nhổm:

Jean Valjean mở mắt và nhìn lão.

Tôi đang ngủ mà, Jean Valjean vừa nói vừa ngồi dậy.

Cám ơn ông Madeleine, Fauchelevent kêu lên. Và lão sụp quỳ xuống gối.

Tôi lạnh quá, Jean Valjean nói. Chúng ta hãy ra nhanh khỏi chỗ này.

Ba phút sau họ đã ra khỏi huyệt. Cả hai người cùng chôn cái áo quan trống rỗng. Rồi họ dời bước. Đến cửa song sắt, Fauchelevent xuất trình cho người gác cửa thẻ của Gibrier và của lão. Lão định bụng ngay vào buổi chiều sẽ báo cho người đào huyệt của thành phố biết rằng lão đã thấy cái thẻ của hắn dưới đất và người gác cửa giữ nó cho hắn.

- à! ông Madeleine, Fauchelevent vừa nói vừa xoa taỵ ý kiến của ông tuyệt diệu. Giờ đây thì chẳng còn gì trở ngại nữa.

Ngay vào buổi chiều, Jean Valjean và Cosette được chấp thuận ở trong tu viện. Ngày hôm sau người ta trông thấy ở cuối khu vườn, dưới bóng cây, hai người đàn ông đang cắm cúi đào xới bên nhau.

Đó là một người em của lão Fauchelevent, các vị nữ tu bảo.

Jean Valjean đã được yên chỗ. Từ nay ông đã trở nên chính thức. Người ta gọi ông là Ultime Fauchelevent.

Nếu các vị nữ tu có vẻ gì đó như cái nhìn của Javert, các bà sẽ để ý thấy rằng mỗi lần phải mua hàng ở ngoài, luôn luôn người đi ra ngoài vẫn là người anh trong anh em Fauchelevent, người khập khiễng và không hề là người kia. Nhưng họ không chú ý đến chuyện đó.

Vả chăng cũng may là Jean Valjean lúc nào cũng lặng lẽ, ít nói, bởi từ hơn một tháng nay Javert vẫn quan sát khu phố.

Trong tu viện, Jean Valjean giống như một hòn đảo vây bọc bởi những hố sâu. Bốn bức tường của ông mai đây tượng trưng cho vũ trụ đối với ông. Ở đây ông thấy bầu trời vừa đủ để tâm hồn được thanh thản, và thấy Cosette vừa đủ để được hạnh phúc.

Mỗi ngày vào giờ chơi, cô bé được phép ở bên ông trong một tiếng đồng hồ. Bởi ông quá tốt nên cô một mực yêu kính ông. Vào giờ đã định, cô chạy về phía căn lều của những người làm vườn và cô làm cho nó tràn ngập niềm vui. Giờ chơi kết thúc, khi Cosette trở lại tu viện, Jean Valjean nhìn các cửa sổ lớp học của cô, và ban đêm, ông thức dậy nhìn các cửa sổ phòng ngủ của mình. Tất cả những gì bao quanh Jean Valjean, khu vườn im ả đơm đầy bông, những đứa trẻ nói cười vui vẻ, những phụ nữ uy nghiêm và giản dị, tu viện im ắng, tất cả dần dần tỏa vào tâm hồn ông sự im lặng, sự giản dị, niềm vui, hương thơm. Ông thường nghĩ đó là hai ngôi nhà của Thượng đế đã lần lượt thu nhận ông vào hai khoảng khắc nguy khốn của đời ông. Trọn trái tim ông mềm đi trong tình cảm biết ơn và thân thương.

Nhiều năm cứ thế trôi qua. Cosette lớn dần.

 

Chương 5 : Nhà Đại Tư Sản

Năm 1831, ông Gillenormand ngụ tại khu phố Marais, đường Filles-du-calvaire số 6. Ông Gillenormand mang đặc tính tư sản cũ kỹ của mình bằng dáng vẻ của các hầu tước thế kỷ XVIII khi mang cái tước hầu của họ. Ông đã quá tuổi 90, ông bước thẳng, nói to, trông rõ, uống rượu không pha nước. Ông còn đủ ba mươi hai cái răng và chỉ mang kính khi phải đọc ông còn một lợi tức khoảng mười lăm nghìn đồng frăng. Trong mọi câu chuyện, ông luôn lớn tiếng quát tháo, khi người ta nói trái ý ông, ông giơ gậy đánh bừa vào những người nhà của ông, như ở thời đại của vua Jouis xiv. Ông sống với một trong những người con gái của ông đã năm mươi tuổi và chưa hề lập gia đình, và mỗi khi giận, ông vẫn thường thẳng tay quất roi lên cô con gái già:

Cô này cho ông cái cảm giác cô mới tám tuổi. Người con gái khác của ông đã chết khi sinh một bé trai. Ông Gillenormand đòi nuôi dưỡng đứa cháu ngoại của mình đồng thời hăm dọa truất quyền thừa kế của nó nếu người ta không cho ông làm việc đó. Vì quyền lợi của đứa con, người cha đành nhượng bộ với cõi lòng tan nát và còn phải chấp nhận những điều kiện nghiệt ngã của lão tư sản già nua cao ngạo và cứng đầu:

Ông đã không bao giờ tìm cách gặp lại cậu con trai Marius của mình và làm cho cậu yêu thương mình. Một mối ác cảm không khắc phục ngăn cách ông Gillenormand và người con rể ông. Ông Gillenormand ngưỡng mộ dòng Bourbons và căm ghét cách mạng 1789.

Ông nói một cách quyền uy: "Cuộc cách mạng Pháp gồm toàn bọn vô lại". Ông chỉ gọi người con rể ông là "tên cướp sông Loire ?" Người con rể ông đã từng là một trong những người anh hùng trong quân đội cách mạng và đế chế. Napoléon đã gắn huy chương cho ông tại Auterlitz, sắc phong cho ông cấp bậc đại tá và phẩm trật nam tước trên chiến trường Waterlo. Với ông, Gillenormand là một lão già ngớ ngẩn. Ông sống tại Vernon và vì không được gần con, ông bắt đầu yêu hoa.

Như thế, Marius Pontmercy sống gần ông ngoại. Cậu có đôi mắt to màu nâu sẫm, dịu dàng và đầy tự tin trên một khuôn mặt xinh đẹp. Cậu run rẩy trước ông Gillenormand luôn nói chuyện với cậu bằng một giọng nghiêm khắc.

- Đây này nhóc tì, ông bảo cậu. Đồ xỏ lá, ba que, đến đây! Hãy trả lời đi, ranh con! Tao phải thấy mày, đồ vô lại! v v ông rất cưng chiều cháu ngoại của mình. Ông dẫn cậu tới các phòng khách bảo hoàng nơi ông vẫn lui tới. Tại những nơi đó, Marius thường nghe nói tới "chằn tinh đảo Corse" hoặc "hầu tước Bonaparte", vị trung tướng quân đội nhà vuạ Những người theo chủ nghĩa bảo hoàng cuồng tín đó đòi xóa sạch những trang đẹp nhất của lịch sử nước Pháp, đang ngắm dấu vết của họ trong tâm hồn đang rộng mở kia.

Sau những năm trung học, khi vào trường luật, Marius theo chủ nghĩa quân chủ và sống khắc khổ. Cậu không thích ông ngoại cậu lắm bởi sự vui vẻ và tính vô liêm sĩ của ông khiến cậu thương tổn và cậu cũng không vui gì đối với cha cậu. Dù sao cậu vẫn là một chàng trai cuồng nhiệt và thanh cao, quảng đại và tự hào, đường hoàng và trong sáng đến nghiệt ngã.

Ngày cậu vừa được mười bảy tuổi, buổi chiều khi trở về nhà, cậu thấy ông ngoại cậu cầm một lá thư trong tay.

- Cha cháu bịnh, ông Gillcnormand nói, cha cháu mong gặp cháu. Ngày mai cháu đi Vernon.

Được tin đó Marius không xúc động lắm. Đối với cậu, ý tưởng về cha cậu chỉ thể hiện qua hai lá thư mỗi năm. Những lá thư vì bổn phận do dì cậu đọc cho cậu viết vào ngày một tháng giêng và vào ngày Sinh - Georges và người ta bảo là được ghi trong tập công thức nào đó. Do đó mà cậu không vội vã gì với lời kêu gọi của đại tá Pontmercỵ Đến đỗi ngày sau, khi tới chỗ trọ tại Ve mon, cậu được một bà giúp việc già tiếp trong nước mắt ràn rua, ông đại tá đã chết hai giờ trước đó, ông đã ngồi dậy trên giường bịnh dù người làm ngăn cản, và ông kêu lên: "Con trai tôi không đến! Tôi phải đi đón nó".

Rồi ông bước ra khỏi phòng và ông đã ngã xuống trút hơi thở cuối cùng trên nền lát gạch vuông của phòng đợi.

Bên thi thể của người lính già, một vị linh mục già, người bạn độc nhất của ông, đang canh thức. Marius nhìn rất lâu người đàn ông, cha cậu, mà cậu trông thấy lần đầu và lần cuối. Khuôn mặt khả kính và uy nghi đó, thân thể nhiều nơi đầy những vết sẹo dọc ngang đó, chính cha cậu đó Vị linh mục và người tớ gái đều khóc. Mắt cậu vẫn khô khốc. Cậu chỉ thấy mình xúc động đôi chút bởi cha cậu quá xa lạ với cậu.

Ông đại tá không để lại gì. Tiền bán mớ đồ đạc chỉ xấp xỉ đủ trang trải việc chôn cất. Người tớ gái tìm thấy một mảnh giấy lộn trong một ngăn kéo và trao cho Marius. Trên đó có những dòng này, tự tay ông đại tá viết: "Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên chiến trường Waterloo. Bởi chế độ vương chính chống đối tôi trong tước hiệu này mà tôi đã phải trả giá bằng máu, con trai tôi sẽ nhận nó và giữ lấy. Chắc chắn nó sẽ xứng đáng với tước hiệu đó".

Phía sau mảnh giấy, ông đại tá viết thêm: "Cũng trong trận Waterloo một trung sĩ đã cứu mạng tôi. Người đó tên là Thénardier. Thời gian sau này dường như ông có một cái quán nhỏ trong một ngôi làng thuộc vùng lân cận Paris, tại Chelles hay tại Montèrmeil gì đó. Nếu con trai tôi gặp ông ấy nó sẽ làm tất cả những gì có thể cho ông ấy".

Marius cho mảnh giấy vào ví. Sau đám ma cậu trở về Paris và tiếp tục việc học luật, không nghĩ gì tới cha cậu nữa. Không còn thứ gì của ông đại tá nữa. Ông Gillenormand sai đem thanh kiếm và bộ lễ phục của ông cho người buôn đồ cũ. Marius chỉ còn lại miếng băng tang nơi mũ, thế thôi.

Nhưng sự lãng quên đó chỉ kéo dài được vài tháng. Một ngày nọ khi Marius đi xem lễ mi sa tại St-sulpice, trung thành với tập quán tôn giáo thời thơ ấu, một lão già trông giữ nhà thờ đến bên cậu:

- Xin lỗi cậu, ông nói. Cậu đã ngồi trên ghế tôi. Và khi người thanh niên vội vàng đứng dậy, ông tiếp lời:

Tôi rất gần bó với chỗ này, nó gợi cho tôi nhiều kỷ niệm. chính nơi gần cây cột này, trong hàng chục năm trời, thường xuyên cứ trong khoảng hai, ba tháng tôi vẫn trông thấy một người cha dũng cảm tìm đến, ông không có dịp nào khác để gặp con mình. Những cuộc dàn xếp gia đình đã ngăn cản ông chuyện đó. Ông đến vào giờ khắc mà ông biết người ta dẫn người con trai của ông đến xem lễ mi sạ Cậu trai không ngờ cha mình đang có mặt ở đó.

Thậm chí có thể cậu cũng không biết mình có một người cha, cậu trai ngây thơ đó! Còn người cha thì vẫn lẫn khuất. Ông nhìn đứa con và không cầm được giọt lệ, bởi ông yêu quý cậu. Tôi đã trông thấy cảnh đó. Với tôi đây là nơi chốn đã trở nên linh thiêng. Người cha đó đã hy sinh thân mình để có ngày đứa con trai của ông được giàu có và hạnh phúc. Người ta ngăn cách ông với cậu vì chính kiến! Đó là một vị đại tá của Bonapartẹ Ông có cái tên tương tự là Pontmarie hay Pontmercy gì đó... Ông ở tại Vernon, nơi tôi có một người em là linh mục.

- Thưa ông, Marius nói trong cơn dao động, đó chính là cha tôi.

- à! Cậu là con của ông ấy! lão già trông giữ nhà thờ kêu lên, hai bàn tay chấp lại. Thế thì, người con đáng thương, cậu có thể nói rằng cậu có một người cha rất đỗi yêu cậu Marius đưa cánh tay ra cho lão già nắm và đưa lão về chỗ trọ.

Từ hôm ấy cuộc sống chàng trai đã thay đổi sâu sắc Cậu gặp lại lão già trông giữ nhà thờ và cha xứ Vernon. Cậu yêu cầu được kể lại từng chi tiết nhỏ nhặt về ngày cuối đời của người đàn ông quý hiếm, cao cả và dịu dàng đã là cha cậu. Trong tủ sách "Người thầy" cậu đọc tất cả nhũng câu chuyện về nền cộng hòa và nền đế chế, cậu hào hứng với những trang báo cáo về quân đội vĩ đại trong đó thường xuất hiện tên tuổi Pontmercỵ Cậu tìm gặp những vị tướng mà cha cậu từng phục vụ dưới quyền.

Việc nghiên cứu đó chiếm hết thì giờ cũng như tâm trí cậu, gần như không cho cậu còn thì giờ gặp những người trong gia đình Gillenormand. Khi cậu xuất hiện trong giở ăn với vẻ mặt xanh xao và lo lắng, ông ngoại và dì cậu càu nhàu và nói với nhau:

- Marius đang bận tâm chuyện gì, nó học hành không được nghiêm túc như trước.

Marius đang ngưỡng vọng cha mình, và qua cha mình, cậu bất đầu ngưỡng vọng đất nước cậu.

Cho tới bấy giờ nền cộng hòa và nền đế chế đối với cậu chỉ là những từ quái lạ. Việc tìm hiểu các giai đoạn lịch sử đó của nước Pháp giúp cậu tỉnh táo xem xét các cuộc biến động cùng các nhân vật. Cậu thấy từ cuộc cách mạng hiện ra khuôn mặt vĩ đại của nhân dân và từ nền đế chế, khuôn mặt vĩ đại của nước Pháp. Trong thâm tâm của mình, cậu tuyên bố tất cả những điều đó đều tốt đẹp.

Tất cả những sự đảo lộn đó diễn ra trong cậu và gia đình cậu không hay biết về chuyện đó. Cậu âm thầm vứt bỏ lớp da bảo hoàng cũ kỹ của mình. Cậu trở nên cách mạng hoàn toàn và dân chủ một cách triệt để. Cậu đến một người thợ khắc và đặt làm một trăm cái thẻ mang tên "hầu tước Marius Pontmercy".

Càng đến gần cha cậu, với ký ức về ông và những gì mà ông đã chiến đấu để bảo vệ trong hai mươi lăm năm, cậu càng rời xa ông ngoại cậu. Vả chăng tính khí của ông Gillenormand luôn gây thương tổn cho cậu. Giữa họ có tất cả những mối bất hoà của chàng trai trẻ uy nghiêm đối với lão già phù phiếm. Lại nữa, Marius cảm thấy lòng mình dâng trào những tình cảm nổi loạn không tả hết được khi nghĩ rằng chính ông Gillenormand, vì những động cơ ngu xuẩn, đã tách cậu khỏi cha cậu một cách không thương tiếc.

Thỉnh thoảng Marius vẫn vắng nhà nêu ly do tham dự những buổi đi săn với bạn.

- Cháu cứ vui chơi, cháu cứ vui chơi ! ông ngoại cậu bảo. Tuổi trẻ phải đi qua thôi.

Những buổi đi săn đó có nghĩa là tới Vernon cầu nguyện và khóc trên mộ Ông đại tá. Một lần Marius đã tới tận Monttermeil và hỏi thăm ông cựu trung sĩ Thénardier của trận Waterloo, người mà cha cậu đã chịu một cái ơn quá lớn. Với Marius, cái tên Thénardier sáng rực khí phách anh hùng và lòng tận tụy. Thật ra ông chủ quán ác độc không phải là trung sĩ mà là kẻ đi tuột lại sau đoàn quân và là kẻ trấn lột xác chết. Ông ta đã lục lạo một cách tàn nhẫn trên người ông đại tá tường đâu đã chết nên bị bỏ lại nơi con lộ trũng Ohann tại Waterloo.

Chính lúc kéo ông ra từ dưới một đống xác chết để dễ dàng cướp tiền của, đồ đạc của ông hơn, Thénardier không ngờ giúp ông đại tá tỉnh lại. Nhưng cả Pontmercy lẫn Marius đều không thể nào biết được rằng một sự trớ trêu của định mệnh đã biến tên trộm ươn hèn đó thành một người cứu nạn tận tụy. Và Thénardier cứ chiếm lĩnh vị trí của mình trong trái tim nồng nhiệt của chàng trai trẻ. Marius rất đỗi buồn phiền khi biết được tại Monttẻrmeil rằng quán đã đóng cửa, rằng Thénardier bị phá sản và người ta không biết ông ra sao.

Trở về sau chuyến đi Vernon, cuộc sống của Marius chợt đổi sang một hướng đi khác với hướng đi của cậu cho tới bây giờ.

Mệt mỏi sau hai đêm hộc tốc, chàng trai trẻ thấy cần lấy lại sức sau những giờ thiếu ngủ bằng cách đi bơi, cậu vội vã lên phòng mình, chỉ kịp cởi chiếc áo rây đanh gột mặc đi đường của mình và đi tắm. Nhưng trong cơn hối hả cậu đã bỏ lại trên giường mình một chiếc hộp bọc da lừa màu đen giống như một miếng mề đay mà cậu vẫn buộc giây đeo lủng lẳng nơi cổ. Cậu đã cất trong chiếc hộp đó lá thư cuối cùng của đại tá Pontmercy.

Ông Gillnormand nghe tiếng người cháu ngoại trở về rồi lại đi. Ông vội chạy vào phòng cậu trên đôi chân già yếu của ông. Vật đầu tiên ông bắt gặp trên giường là chiếc hộp bọc da lừa màu đen. Ông mở chiếc hộp và lấy ra một tờ giấy xếp cẩn thận.

- Đây là một mảnh giấy thân thương, ông nói với cô Gillnormand mà ông đã gọi tới. Nó giữ mảnh giấy này trên trái tim đó. à! Những người trẻ tuổi.

- Chúng ta hãy đọc nó xem sao, cha, người dì vừa nói vừa mang kính.

Và họ đọc: "Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên chiến trường Waterloọ Bởi chế độ vương chính... ".

Khi đọc xong lá thư đó, ông Gillenormand nói nhỏ như nói với chính mình: Đây là chữ viết của tên lính quê mùa đó.

Cô Gillenormand nắn cái túi áo rây đanh gết của Marius. Cô lấy ra một cái gói nhỏ bọc giấy xanh. Đó là những tấm thẻ của "hầu tước Marius Pontmercy".

- Đẹp lắm! người dì nói. Và hai cha con lặng nhìn nhau trong một tiếng đồng hồ, không ai nói gì.

Cuối cùng Marius trở về. Cậu thấy ông ngoại cậu đang cầm trong tay một tấm thẻ của cậu và khi trông thấy cậu, ông kêu lên, giọng nhạo báng:

- Nào! Bây giờ cháu là hầu tước đấy à? ông xin chúc mừng cháu. Thế là cái quái gì?

Marius hơi đỏ mặt, cậu đáp: Điều đó có nghĩa cháu là con của cha cháu.

ông Gillenormand dứt tiếng cười và nói giọng cứng cỏi:

- Cha của cháu chính là ông đây.

Cha cháu, Marius tiếp lời, mắt nhìn xuống, nhưng giọng cương quyết, đó là một con người khiêm tốn nhưng anh hùng đã phục vụ một cách vẻ vang nền cộng hòa và nước Pháp, đã bảo vệ hai ngọn cờ, đã nhận hai mươi vết thương, đã chết trong quên lãng và trong sự ruồng rẫy, và chỉ có một điều ngộ nhận trong đầu là đã quá yêu hai thứ bất nghĩa, đất nước của người và cháu.

Thật là quá đáng đối với ông Gillenormand. Mỗi lời nói của Marius càng làm cho lão già theo chủ nghĩa bảo hoàng thêm đỏ mặt tía tai:

Thằng bé ghê tởm? ông kêu lên. Cha mày là cái giống gì tao chẳng cầm biết. Nhưng những cái mũ đỏ đó, tất cả đều là bọn khốn kiếp, bọn sát nhân. Tao nói tất cả, mày có nghe không? Tất cả bọn ăn cướp đều phục vụ Robespierre và Bonaparte, tất cả những tên phản bội đã phản nhà vua hợp pháp. Nếu có thằng cha mày trong đó cũng mặc xác, tao căm giận nó; thằng cha tôi tớ của mày.

Marius xúc động đến tái mặt. Cha cậu vừa bị lăng nhục trước mặt cậu. Và lăng nhục bởi ông ngoại cậu!

Làm sao trả thù cho người này mà không tổn hại tới 'người kiả Trong giây phút cậu lảo đảo như đang có một cơn lốc trong đầu mình, rồi cậu ngước mắt nhìn đăm đăm vào ông ngoại cậu và hét lên giọng rền vang:

- Đả đảo bè lũ Bourbons và con heo mập Louis XVIII Louis XVIII đã chết từ bốn năm trước nhưng cậu bất chấp điều đó.

Mặt ông Gillenormand trở nên trắng bệt như tóc của ông. Ông quay về phía một pho tượng bán thân của quận công Berry đặt trên lò sưởi và kính cẩn chào nó với một vẻ uy nghi khác thường. Rồi nghiêng về phía con gái, ông nói với cô, miệng mỉm cười bình thản:

- Một hầu tước như cậu này đây và một người tư sản như cha không thể sống dưới cùng một mái nhà được.

Rồi bất ngờ ông đứng thằng, người run rẩy, mặt ông tái đi vì giận dữ, ông dang hai cánh tay về phía Marius và hét vào cậu: Mày cút đi. Marius rời khỏi nhà.

Ngày hôm sau ông Gillenormand nói với con gái:

- Mỗi sáu tháng con sẽ gởi sáu mươi đồng pixton cho kẻ uống máu đó và đừng bao giờ nói với cha chuyện đó Marius ra đi trong phẫn uất, cậu không nói lời nào và cũng không biết mình đi đâu. Cậu có trong người 30 frăng. Cậu bước lên một chiếc xe độc mã và đi cầu âu về phía khu La tinh. Trong khi xe lăn bánh trên quảng trường Sị-Miche một cách chậm chạp như thiếu dứt khoát, bất chợt Marius nghe một giọng nói kêu lên: Ngài Marius Pontmercy Xe dừng lại. Một người sinh viên tuổi trạc hai mươi lăm đội mũ lệch, mặt tươi vui, tiến đến gần.

- Tôi trông thấy cái tên này trên túi xách của anh, anh ta nói với Marius.

- Anh tìm tôi, Marius nói giọng kinh ngạc, nhưng tôi không biết anh.

Tôi cũng thế. hôm kia, anh không vào trường. Tôi cũng là sinh viên luật như anh và tôi có mặt ở đó. Ồ? đó chỉ là chuyện tình cờ thôi. Ông giáo sư đang điểm danh.

Ông Blondeau ấy mà. Anh biết ông ta nham hiểm nhường nào. Ông ta bắt đầu bằng chữ P. Việc điểm danh cũng êm xuôi, không ai vắng mặt. Blondeau có vẻ buồn.

Bỗng đâu ông ta gọi "Marius Pontmercy". Không ai lên liếng trả lời. Blondeau tràn trề hy vọng, lập lại hy vọng giọng to hơn:"Marius Pontmercy" và ông ta cầm viết.

Tôi nghĩ thầm, ông ta sắp gạch tên một chàng trai dũng cảm đây, coi chừng. Và tôi lên tiếng trả lời: "Có mặt". Do đó mà anh không bị gạch tên.

- Thưa anh! Marius nói giọng biết ơn.

Còn tôi thì bị gạch tên, người sinh viên tiếp lời.

Bởi bất ngờ Blondeau, với cái mũi tinh ranh, nhảy từ chữ P tới chữ L. Tôi tên Lesgle. Khi nghe gọi đến tên tôi, tôi Hô "Có mặt" - Này cậu, bấy giờ Blondeau vừa nói với tôi vừa mỉm cười một cách hung ác, cậu hãy chọn đi. hoặc cậu là Pontnlercy thì cậu không là Lesglẹ Nói xong ông ta gạch tên tôi. Người trẻ tuổi, ông ta tiếp lời, đây sẽ là bài học cho cậu; trong tương lai hãy đúng mực.

Tôi rất buồn..., Marius nói.

- Còn tôi thì rất hoan hỉ, Lesgle vừa nói vừa phá lên cười. Tôi sẽ không là luật sư, chính anh là người mà tôi nợ cái hạnh phúc đó. Tôi muốn đến thăm anh một cách trịnh trọng để cảm ơn. Anh ở đâu?

Trong chiếc xe độc mã này, Marius vừa nói vừa mỉm cười buồn bã.

Dấu hiệu phong lưu đấy... Nhưng tôi vừa thấy một người bạn. Ê Courfeyrac ? Đây là Pontmercy, một luật sư tương lai có một lợi tức chín nghìn trăng mỗi năm và có vẻ không hài lòng về chuyện đó..

Người sinh viên được gọi tên bước về phía Marius và xiết chặt tay cậu. Các bạn không biết đi đâu, cậu nói, xin hãy đến tôi tại khách sạn Porte-st-jacques. Các bạn đừng từ chối. Sinh viên phải tương trợ nhau. Lại nữa, anh bạn có một khuôn mặt cảm tình. anh có một chính kiến nào không?

- Anh là ai?

- Người theo chủ nghĩa dân chủ Bonaparte.

- Độ xám đáng tin cậy, Courfeyrac vừa nói vừa mỉm cười. Chúng ta vẫn là bạn thôi. Tôi sẽ giới thiệu anh với hội A.B.C. tại quán cà phê Musain, cậu ta thấp giọng, điều này sẽ giúp anh đi vào cách mạng..

Ngay buổi chiều, Courtèyrac dẫn Marius tới quán cà phê nơi một số sinh viên và thợ thuyền họp mặt để nói về chính trị để ngấm ngầm chuẩn bị một cuộc nổi dậy chống lại những người bạn của chính quyền, hội A.B.C. Có mục đích giáo dục trẻ em, thực tế là cải tạo người lớn.

Nhóm cách mạng này đáng chú ý nhờ tính sáng giá của những thành viên của nó. Thủ lãnh của nhóm là Enjobras, một thanh niên tuấn tú, như Antinoùs, con của một gia đình giàu có, chiến sĩ đích thực của nạn dân chủ và giáo sĩ của lý tưởng, tiếp đến là Combetene, triết gia ôn hòa và nghiệt ngã thích từ "công dân" nhưng lại thích từ "con người" hơn; Jean Prouvaire, một nhà thơ dịu dàng bận tâm tới những áng mây không kém gì những biến động xã hội, dễ đỏ mặt nhưng cũng rất dũng cảm.

Feuilly, người thợ làm quạt, kiếm sống vất vả với ba trăng mỗi ngày và chỉ có một tư tưởng là học tập một hoài bão là giải phóng thế giới; Courtèyrac, chàng trai gan dạ với vẻ ngoài của một tư sản và trái tim của một hiệp sĩ; Bahorel, người sinh viên trường luật luôn trốn học để lê la qua các quán cà phê; Lesgle với tính lạc quan yêu đời bất tận, sớm tiêu tới đồng xu cuối cùng nhưng tiếng cười thì không tắt bao giờ; Joly, học y khoa, được lời với tư cách bịnh nhân hơn là y sĩ; Grantaire, con người hoài nghi và uống rượu như hũ chìm, nhạo báng tất cả những hành động tận tụy, hy sinh trong các đảng phái và nói:

- Chỉ có một điều chắc chắn là ly rượu đầy của tôi.

Tất cả những con người trẻ tuổi rất khác biệt nhau đó có cùng một tôn giáo: sự tiến bộ. Tất cả đều là con đẻ của cuộc cách mạng Pháp. Những con người hời hợt nhất cũng trở nên trịnh trọng khi thốt lên cái năm đó: 89? Là những người trong hội và những người am hiểu, họ bí mật phác thảo lý tưởng: Coufeyrac giới thiệu Marius với các bạn của mình một cách giản dị.

- Một thư sinh.

Marius rơi vào một tổ ong trí tuệ. Cho tới bây giờ vẫn sống cô độc vì thói quen và sở thích, cậu phần nào e ngại đám người chung quanh cậu. Cậu nghe nói về triết học, văn chương, nghệ thuật, lịch sử, tôn giáo một cách hào hứng, bất ngờ. Khi rời bỏ những quan niệm của ông ngoại cậu để đến với những quan niệm của cha cậu, cậu ngờ đâu mình đã cố định. Giờ đây cậu nghi ngờ, một cách bồn chồn lo lắng mà không dám thú thật, rằng cậu chưa hẳn thế. Góc độ qua đó cậu nhìn mọi vật lại bắt đầu đi chuyển. Cậu phần nào khổ tâm về điều đó. Quanh cậu, không một ai trong đám người trẻ đó nói: "hoàng đế". Chỉ có Jean Prouvaire thỉnh thoảng nói Napoléon. Mọi người khác đều nói Bonapartẹ Enjobras thì phát âm: Buonaparte.

Một ngày nọ trong một câu chuyện ồn ào, Lesgle kết thúc một câu nói của Combeferre bằng cái ngày này khiến Marius rùng mình: 18 tháng sáu 1815: Waterloo ?

- Đúng thế, Coufeyrac kêu lên, con số 18 là con số định mệnh của Bonapartẹ Hãy đặt ngày 18 sương mù trước Louis XVIII các anh có tất cả định mệnh của con người.

- Đúng, Enjobras cho tới bây giờ vẫn im lặng bỗng trịnh trọng nói. án mạng và hình phạt.

Từ "án mạng" không thể chấp nhận được đối với Marius. Cậu đứng dậy, bước về phía một tấm bản đồ nước Pháp trên tường và phía dưới người ta trông thấy một hòn đảo trong một ngăn cách biệt.

- Đảo Corse, cậu nói. Một hòn đảo nhỏ đã làm nên nước Pháp vĩ đại làm sao.

Câu nói như một luồng không khí giá băng. Mọi người im bặt trong câu chuyện của họ. Enjobras đáp giọng ôn tồn.

Nước Pháp không cần một đảo Corse nào mới vĩ đại Nước Pháp vĩ đại bởi nó là nước Pháp. Marius quay sang Enjobras và bằng một giọng rung vang:

- Người ta không làm nước Pháp giảm sút chút nào khi kết hợp nó với Napoléon. Anh khiến tôi kinh ngạc.

Chúng ta hãy giải thích cho nhau nghe về hoàng đế. Anh nói về điều đó ngạo mạn như bọn bảo hoàng. Tuy nhiên anh ngưỡng vọng ai nếu không ngưỡng vọng con người khổng lồ đó đã có trong não mình số lập phương những tài năng con người? Luật học, hùng biện, lịch sử, thi ca, khoa học, ngài biết tất cả. Ngài làm đảo lộn châu âu.

Dưới uy lực của ngài, tất cả những ngai vàng phải lung laỵ Các anh hãy công bằng. Được làm đế quốc của một vị hoàng đế như thế, còn định mệnh nào huy hoàng hơn cho một dân tộc ! Chiến thắng, chinh phục, nổi sấm sét, được làm một đất nước vàng son đầy vinh quang tại châu âu gióng lên hồi kèn của những con người khổng lồ qua lịch sử chinh phục thế giới, thử hỏi còn gì vĩ đại hơn.

- Được tự do, Combelerre nói.

Marius cúi đầu. Các từ đó xuyên qua lời lẽ tuôn trào một cách hùng tráng của cậu như một lưỡi dao thép: cậu cảm thấy nó tắt ngấm nơi cậu. Enjobras đặt bàn tay lên vai cậu:

- Này người công dân, anh ta nói, mẹ của tôi là nền cộng hòa.

Buổi tối đó để lại trong lòng Marius một chuyển động sâu sắc. Cậu trở nên âm u, buồn bã. Những tư tưởng mới mẻ mà người ta nhồi nhét vào đầu cậu rồi sẽ đưa cậu về đâu? Những cái dốc đứng dàn ra quanh cậu. Cậu không đồng tình với ông ngoại cậu lẫn các bạn cậu. Cậu càng thừa nhận mình càng cô đơn gấp bội và không đến quán cà phê Musain nữa.

Nhưng những phương diện nghiêm túc của cuộc sống bất chợt tìm đến, nhắc nhở cậu những thực tại.

Để chi trả những món chi tiêu tại khách sạn Porte - St-jacques cậu đã phải bán đi chiếc đồng hồ vàng của cậu cùng mớ quần áo để thaỵ Cậu còn lại món tiền mười frăng. Tìm ra địa chỉ của cậu, dì Gillenormand của cậu đã gởi đến cậu 60 đồng piston, tức là 600 đồng trăng bằng vàng, của ông ngoại cậu cấp. Nhưng Marius đã gởi trả lại người dì số tiền đó với một lá thư đầy cung kính trong đó cậu tuyên bố đã có phương tiện để sống và tự hậu đã có thể chu toàn mọi nhu cầu của mình. Lúc đó, cậu còn ba trăng. Người thanh niên rời khách sạn vì không muốn vướng nợ.

Đã có một giai đoạn trong đời Marius phải mua một xu phô mát Bric nơi bà bán hoa quả, phải sống ba ngày với một khúc xương sườn giá 7 xu, phải chỉ ra ngoài vào buổi sụp tối với chiếc áo độc nhất đã hóa lục và vá víu nhiều mảnh, phải chấp nhận mọi công việc miễn sao chúng lương thiện.

Qua tất cả những nỗi nhọc nhằn đó, Marius đã trở thành luật sự Chàng đinh mình sẽ đến phòng Couteyrac ở vốn khá lịch sự và là nơi có một số sách luật, lại thêm những quyển tiểu thuyết, mỗi bộ tạo thành một thư viện đúng qui định. Chàng biên thư tới Couteyrac. Chàng vẫn ở trong ngôi nhà tồi tàn nơi chúng ta đã trông thấy Jean valjean và Cosette đến ở khi họ tới Paris. Cái nghèo và cái sợ tìm ra những chỗ ở giống nhau. Được món tiền 30 trăng hàng năm, chàng được ở một phòng lụp xụp không có lò sưởi nên chàng chỉ bày biện mớ đồ đạc cần thiết nhất. Chàng trả ba trăng mỗi tháng cho người ở trọ chính để bà đến quét dọn và sáng sáng mang đến cho chàng một chút nước nóng, một quả trứng tươi và một ổ bánh mì một xu dùng làm bữa ăn trưa của chàng. Vào 6 giờ chiều chàng đi ăn tại tiệm Rousseau, đường St-jacques, một đĩa thịt một dĩa rau và một món tráng miệng. Chàng uống nước. Chàng trả mười sáu xu.

Trong ba năm, nhở lòng dũng cảm, sự làm việc nhọc nhằn, sự kiên trì và ý chí sắt đá, chàng đã bước ra khỏi ngõ ngách khốn cùng. Chàng đã học tiếng Đức và tiếng Anh. Coufeyrac đã giới thiệu chàng với một hiệu sách nơi chàng đảm trách một công việc khiêm tốn.

Chàng viết những giấy quảng cáo, dịch những tờ báo ngày, chú thích những tác phẩm xuất bản, nhờ đó hàng năm chàng trả sáu trăm năm mươi trăng việc ăn, ở, mua sắm quần áo, giặt giũ. Chàng cảm thấy mình giàu có, nhân đó chàng cho một người bạn mượn mười trăng.

Khi nhớ lại những năm tháng nghiệt ngã mà chàng đã sống qua, chàng nhận ra mình không nợ ai một xu nào.

Chàng gìn giữ lòng tự hào của mình một cách đố kỵ. Chàng sống cô độc. Chàng cương quyết không gia nhập tổ chức do Enjobras đứng đầu. Chàng vẫn giữ mối giao hảo tốt đẹp, nhưng chàng chỉ có một người bạn là Coufeyrac. Vả chăng dù đã là luật sư, chàng vẫn không biện hộ. Chàng thích được tự do trong công việc nhọc nhằn tại hiệu sách hơn. Khi sửa xong những bản in thử của nhà in, chàng đi dạo và mơ mộng.

Chàng chỉ nghĩ về Gillenormand một cách nhẹ nhàng bởi sự khốn khổ đã tước khỏi chàng sự cay đắng nhưng chàng quyết không nhận thứ gì của người đã xử tệ với cha chàng. Bởi luôn bị Ông ngoại chàng ngược đãi, chàng không thể tưởng tượng rằng lão già chỉ nghĩ tới chàng.

 

Chương 6 : Ánh Sáng Và Bóng Tối

Trong những chuyến đi dạo quanh các lối đi vắng vẻ trong vườn Luxembourg, Marius, vào thời bấy giờ đã là một thanh niên đẹp trai hai mươi tuổi, chú ý tới một người đàn ông luống tuổi và một cô gái rất trẻ lúc nào cũng ngồi bên nhau nơi lối đi vắng vẻ nhất. Người đàn ông tuổi khoảng 60, có vẻ buồn bã và đức độ, trọn người ông toát ra vẻ tráng kiện và mỏi mệt của những người chiến binh đã xong nhiệm vụ, trở về ẩn dật. Trang phục của ông tươm tất và sạch sẽ. Ông có mái tóc bạc phơ. Con gái của ông đã mười lăm tuổi. Mái tóc tuyệt vời màu hung vàng viền quanh một khuôn mặt với những nét thuần khiết, với làn da mịn màng. Trang phục của nàng thanh lịch một cách giản dị và phong phú, nhưng một vài chi tiết trong cách ăn mặc cho thấy nàng không có mẹ. Quả nhiên mẹ chàng đã từng bảo một cô gái không nên mặc một chiếc áo dài bằng nhiễu.

Marius mơ tưởng nhiều đến cô gái đó. Hình ảnh của nàng đã nhẹ nhàng bước vào tâm hồn chàng tự bao giờ chàng không hay biết. Và dần dần chàng có thói quen chỉ đến vườn Luxembourg với những bộ quần áo mới hợp với chàng và làm nổi bật vẻ duyên dáng của vóc người chàng.

Khi đi qua trước chiếc ghế dài nơi cô gái và cha nàng đang ngồi, chàng cố tạo ra một thái độ tự nhiên, không bước nhanh hơn hay bước chậm hơn. Nhưng chàng khó lòng vượt qua cơn bối rối lạ thường khiến tim chàng đập mạnh và chàng đi qua, mặt đỏ rần, mắt không dám liếc nhìn người thiếu nữ xinh đẹp.

Tuy nhiên nhiều lần họ vẫn gặp nhau trong ánh mắt, và những hôm đó, Marius trốn ra khỏi khu vườn, tim đập mạnh, thái dương lùng bùng. Chàng có cảm tưởng cô gái nhìn chàng với vẻ thích thích chớ không dửng dưng lấm.

Những cuộc đi dạo hằng ngày đó kéo dài được hơn hai tháng thì ông lão cuối cùng nhận ra sự lân la của Marius nên không dẫn cô con gái đến chính xác như trước nữa. Những hôm đó, thay vì đi dạo trong nhiều giờ liền, Marius đã bỏ đi, cõi lòng dằn vặt.

Chàng muốn biết "nàng" ở đâu và một ngày nọ chàng đã đi theo họ đến tận một ngôi nhà ở đường phía Tây. Cảm thấy khó chịu, ông lão lo ngại về sự táo bạo của chàng nên dọn đi ở chỗ khác và không xuất hiện tại vườn Luxembourg nữa.

Đối với Marius, đó là một đòn khủng khiếp. Trong đầu chàng chỉ còn một ý tưởng gặp lại khuôn mặt dịu hiền và tuyệt vời đó. Chàng tìm kiếm nó khắp nơi mà không thấy. Chàng rơi thỏm vào một nỗi buồn đen tối.

Chàng chán ngắt công việc, chàng buồn nản mọi điều, ngày nào thiên nhiên rộng lớn rực rỡ sắc màu và rộn ràng âm thanh xiết bao giờ đây đã trở nên trống rỗng trước mắt chàng.

Tại sao mình theo đuổi nàng, chàng tự nhủ. Mình trông thấy nàng, mình hạnh phúc. Nàng nhìn mình. Nàng có vẻ yêu mình. Tại sao mình còn muốn hơn thế nữa?

Chàng đắm sâu trong nỗi buồn. Mùa hạ và mùa thu trôi qua.

Một buổi chiều khi trở về căn phòng lụp xụp của mình, chàng phần nào bị xô đẩy bởi hai cô gái ăn mặc rách rưới, một cô cao lớn và mảnh khảnh, cô kia nhỏ người hơn, đang chạy vội qua ngưỡng cửa.

Bọn cớm tới, một cô nói giọng nhỏ và khàn. Họ không tóm được tôi, tôi đã thoát được.

Marius đừng bước một hồi, lòng tràn ngập chán chường và thương xót. Qua thứ tiếng lóng đó, chàng biết rằng bọn cảnh sát thành phố suýt bắt được các cô gái này và họ đã chạy thoát.

Chàng sắp sửa bước tiếp thì trông thấy dưới chân chàng một cái gói nhỏ xam xám giống như một phong bì đựng giấy tờ. Chắc hẳn các cô gái bất hạnh đó đánh rơi cái này, chàng tự nhủ.

Chàng trở về phòng và mở cái gói hầu tìm ra một cái tên cho phép chàng hoàn trả mớ giấy tờ cho người đã đánh mất chúng. Chàng bắt gặp bốn lá thư không niêm phong và cùng một nét chữ. Chúng toát ra một mùi thuốc lá gớm ghiếc. Những người ký tên "Don Alvares, đại úy Tây Ban Nha tị nạn", "Bà Balizard, một người mẹ bốn con", "Gentlot, nhà văn" và "P.Fatanbon, diễn viên bi kịch", cả bốn người đều có cùng một phong cách rườm rà và cùng thứ chính tả sai sót, và cả bốn người đều cầu xin sự cứu trợ của những con người nhân đức mà họ gởi thư tới Marius cho các tờ giấy trở vào phong bì. Chàng quá buồn phiền để có thể mỉm cười trước sự lừa dối nhảm nhí mà chàng tìm thấy. Chàng ném nó vào một góc và đi ngủ.

 

Khoảng bảy giờ sáng, chàng vừa thức giấc và ăn sáng xong, và chàng thử bắt đầu công việc thì có tiếng ai khẽ gõ cửa.

Mời vào! Marius nói. Tưởng đâu đó là bà lão lo việc nội trợ của mình, chàng lên tiếng hỏi mà không rời mắt khỏi mớ bản thảo trên bàn chàng. Bà có chuyện gì cần không, bà Burgon?

Một giọng nói không phải của bà lão đáp lại:

- Xin lỗi ông.

Đó là một giọng trầm đục, rạn và rè rè, một giọng đàn ông lớn tuổi khàn khàn vì rượu. Marius vội vàng quay lại và trông thấy một cô gái.

Đó là một con người xanh xao và gầy gò, dáng vẻ bơ phờ, mắt lờ đờ, trơ tráo, ti tiện. Tuy nhiên vẻ duyên dáng của tuổi mười sáu nơi cô vẫn còn chống trả với sự già cỗi đến sớm vì sự trác táng và nghèo khó. Cô chỉ mặc một chiếc áo sơ mi và một chiếc váy buộc vào người bằng một sợi dây.

- Cô cần gì? Marius hỏi vào khuôn mặt có vẻ như không hoàn toàn xa lạ.

- Một lá thư cho ông, thưa ông Marius, cô gái trả lời bằng giọng người tù khổ sai nát rượu của mình. Và cô đưa ra cho chàng một bức thư mà bọt niêm phong vẫn còn ướt.

Marius đọc.

"Người láng giềng đáng yêu, con gái lớn của tôi sẽ nói với ông rằng từ hai ngày nay chúng tôi không có một miếng bánh mì, bốn người và vợ tôi đang bịnh. Tôi hi vọng tấm lòng nhân hậu của ông sẽ xúc động trước lời trần tình này và thuyết phục được ông trong ước muốn giúp tôi. Với lòng kính trọng đặc biệt dành cho những bậc ân nhân của nhân loại, Jondrette".

A! Marius nghĩ thầm, lá thư này có cùng nguồn gốc với bốn lá thư kia. Cùng chữ viết, cùng phong cách, cùng thứ chính tả, cùng thứ giấy, cùng mùi thuốc lá.

Cái tên Jondrette khiến Marius nhớ lại một câu chuyện gẫu của người đàn bà lo việc nội trợ cho chàng. Bà đã nói rằng gia đình Jondrette, những con người khá khốn khổ và có nhiều "dáng vẻ", họ Ở trong gian phòng tồi tàn tiếp cận với phòng chàng.

Trong lúc Marius đang nhìn cô gái bằng một cái nhìn kinh ngạc và buồn phiền thì cô đi đi lại lại trong phòng, xê dịch những cái ghế, xáo trộn những tờ giấy. Cô cầm lên một quyển sách đang mở ra trên bàn:

Tôi biết đọc mà, cô nói. Và cô đọc khá trôi chảy.

"Tướng Bauduin được lệnh đưa lữ đoàn của ông chiếm lâu đài Hougomont tọa lạc giữa đồng bằng Waterloo... " - à! Waterloo! Cô nói. Tôi biết chuyện này. Đó là trận đánh trước đây mà.Cha tôi đã tham dự trận đó. Ông phục vụ trong quân đội. Tôi đọc rành rẽ chứ hả? Tôi cũng biết viết nữa. Tôi sẽ viết một câu thử xem.

Cô châm ngòi bút vào bình mực và viết trên một tờ giấy trắng ở giữa bàn. "Bọn cớm tới kia rồi !".

- Này cô, Marius nói, chàng đã bắt đầu sốt ruột vì sự xâm nhập này, tôi có một cái gói ở chỗ kia mà tôi nghĩ là của cô.

Cô chập hai bàn tay vào nhau và kêu lên:

- May quá? Chúng tôi đã tìm nó khắp nơi.

Cô mở ra một trong những bức thư gửi "Con người nhân đức ở nhà thờ Saint-jacques du-haut-pas".

- Này, cô nói, đây là thư gửi cho lão già nọ đang đi xem lễ mi sạ Tới giờ rồi. Tôi sẽ mang nó tới lão. Có thể lão sẽ cho chúng tôi cái gì để ăn trưa nay đây. Hai ngày rồi chúng tôi chằng ăn uống gì cả. Câu nói khiến Marius sực nhớ điều cô gái bất hạnh đến tìm tại phòng chàng.

Lục túi mãi, chàng cuối cùng gom được năm frăng mười sáu xu Chàng giữ lại mười sáu xu cho bữa ăn tối trong ngày và cho cô gái năm trăng. Cô ta chộp ngay:

Tốt lắm, cô nói. Có ánh sáng mặt trời rồi đây. Tôi sẽ vừa ăn vừa đi. Cũng thế thôi, tôi sẽ đi gặp lão già của tôi Chào!

Và cô đi ra.

Marius vừa ngắm bức vách ngăn cách chàng với gia đình Jondrette vừa nghĩ ngợi. Bức vách này là một lớp thạch cao mỏng chống đỡ bằng những cái nan xuyên qua đó tiếng nói có thể nghe trót lọt. Bất chợt chàng thanh niên chú ý thấy ở gần trần nhà nơi bức vách ngăn có một cái lỗ hình tam giác do ba cái nan tạo nên một khoảng trống ở giữa. Khi đứng trên cái tủ có ngăn kéo người ta có thể qua đó nhìn thấy gian phòng của gia đình Jondrette.

Marius nghĩ, mình hãy ngó qua một chút xem những con người đó ra sao. Chàng leo lên cái tủ ngăn kéo, ghé mắt vào chỗ hở và nhìn: Điều Marius trông thấy là một gian phòng tồi tàn, so với nó, gian phòng được giữ gìn rất đỗi sạch sẽ của chàng có vẻ sung túc. Hai cái giường tồi tàn không thể tả, một cái bàn thiếu chân, một cái ghế nhồi rơm, vài mảnh sành, một cửa sổ trên mái nhà với bốn tấm kính phủ đầy mạng nhện, một .lò sưởi trên đó có một cái lò, một cái nồi, những tấm ván gẫy, những mảnh nóc vào đinh, tro và có cả chút lửa với que củi cháy dở nhả một làn khói ảm đạm. Dưới đất, dọc theo bức vách, là một cái pa nô bằng gỗ lật ngược.

Một người đàn ông khoảng 60 tuổi, ốm, nước da xanh tái, đôi mắt hung ác, một hạng người đê tiện gớm ghiếc, ông ta mặc một chiếc áo sơ mi đàn bà và một cái quần dài nhem nhuốc, đang ngồi vào bàn. Ông ta đang viết và hút thuốc. Một người đàn bà mập bự, tuổi có thể bốn mươi hoặc một trăm, đang ngồi xổm cạnh lò sưởi trên hai gót chân trần của mình. Một cô bé cao lớn đang nằm trên một cái giường.

Bất chợt cửa phòng mở toang. Cô con gái lởn xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cô hét lên đến hụt hơi.

- Lão già đến, cái lão nhân từ ở nhà thờ St-jacques! lão đến bằng xe ngựa với cô con gái ! Con đã đợi lão xem lễ mi sa ra, con đã đưa thư cho lão, lão đã đọc thư.

Ban đầu lão có vẻ ngập ngừng, sau đó lão nói được rồi, lão sẽ đến. Con phải chạy về báo cho cha biết.

Con là một cô gái khôn lanh, người cha nói. Nhưng thế chưa đủ. Nơi này trông chưa khốn khổ lắm. Mẹ tụi nhỏ đâu, tắt lửa đi ! Còn con, hãy tháo rơm độn ra khỏi ghế. Trời có lạnh không?.

- Rất lạnh, có tuyết mà..

Người cha quay sang cô gái nhỏ, hét: Nhanh lên! Rời khỏi giường, đồ ăn hại. Hãy đập một tấm kính. Đúng, đập nó đi. Tao muốn thế.

Đứa trẻ lấm lét vâng lời, vung tay đấm một tấm kính cửa sổ vỡ tan và rơi xuống đắt.

Trong lúc đó, người cha với vẻ nhanh nhẹn của một người làm trò xiếc, đã đổ nước vào mấy que củi đang cháy và chộp chiếc ghế dùng gót chân tháo tung lớp rơm độn của nó.

Bà lên giường đi ? ông ta ra lệnh cho bà vợ giọng sang sảng khiến bà ta ríu ríu vâng lời và nặng nề gieo mình trên một trong hai cái giường.

Tuy nhiên người ta nghe có một tiếng khóc nức nở trong góc:

Chuyện gì thế? người cha hét lên..

Cô con gái nhỏ đang ngồi co ro trong bóng tối, đưa ra nắm tay bết máu. Cô bị thương khi đập vỡ kính cửa sổ.

Người vợ nhổm dậy và kêu lên.

- Ông thấy những trò bậy bạ Ông làm chưa? Khi đập vỡ tấm kính của ông nó đã đứt tay.

Càng tốt, người đàn ông nói. Đã tính trước hết rồi. Bây giờ thì chúng ta có thể tiếp lão già nhân từ được rồi.

Ông ta xé toạc chiếc áo sơ mi mà bà vợ đang mặc trên người và lấy một mảnh vải quấn quanh cổ tay đầy máu của cô con gái.

Marius quan sát cảnh tượng đó với một sự kinh ngạc chán chường. Chàng muốn bước trở xuống từ tủ ngăn kéo nhưng một nỗi tò mò bí ẩn giữ chàng lại, như để chờ đợi một điều gì đó khó tin xảy ra. và chàng suýt kêu lên một tiếng, bởi lúc bấy giờ cửa phòng Jondrette chợt mở trước một ông lão và một cô gái. Đó là nàng.

Đó chính là nàng. Marius chỉ thoáng nhận ra nàng xuyên qua luồng hơi lấp lánh chợt tỏa ra trước mắt chàng. Chính con người xa vắng dịu hiền đó, ảo ảnh lồng lộng khuất lánh đó. Nàng lại xuất hiện? Dường như Marius vừa mới gặp lại linh hồn thất lạc của mình.

Nàng vẫn thế, chỉ hơi xanh xao một chút. Nàng bước vào gian phòng và đặt một cái gói khá to lên bàn.

- Này ông, người khách nói với Jondrette. Ông sẽ tìm thấy trong cái gói này mớ quần áo cũ còn tốt, vớ và mền len. Tôi thấy ông phàn nàn là đúng, ông Fatanbon ạ.

Học trò cũ của Talma, vị ân nhân thánh thiện của tôi Jondrette kêu lên bằng giọng người lái đò chợ phiên.

Xưa kia thời vận đã mỉm cười với tôi, giờ đây đến lượt sự bất hạnh. Ông thấy đấy, không bánh mì, không củi lửa, cái ghế độc nhất của tôi đã tháo rơm, một tấm kính cửa sổ đã vỡ vì thời tiết, vợ tôi bịnh liệt giường, con tôi thì bị thương. Cô bé được khuây khỏa vì có những người lạ mặt, bất đầu ngắm "cô nương" và đã im tiếng khóc.

Khóc đi chứ! La hét đi chứ ! Jondrette nói nhỏ với cô Cùng lúc, ông ta véo mạnh bàn tay đau của cô một cách nhanh gọn như làm quỷ thuật. Cô bé hét vang.

- Cô nương hãy xem cổ tay của nó, Jondrette nói với cô khách trẻ, một tai nạn đã đến với nó khi nó làm việc dưới một cỗ máy để lãnh sáu xu mỗi ngày. Rồi đây có thể chúng tôi buộc phải cưa cánh tay của nó.

Đúng thế sao? ông lão nói giọng hoảng hốt.

- Hãy nhìn lão ta kìa ? Jondrette thì thầm với bà vợ. Giữa mùa đông giá rét! ông ta tiếp lời lớn giọng, chỉ có những manh áo tả tơi này ! Rồi ngày mai là hạn chót ông chủ tôi buộc tôi phải trả món tiền theo kỳ hạn. Nếu chiều nay tôi không trả sáu mươi frăng thiếu một năm cả gia đình bốn người chúng tôi sẽ bị tống ra ngoài cửa.

Ông lão móc năm frăng từ trong túi và ném chúng lên bàn. Sau đó ông cởi chiếc áo rây đanh gết rộng màu nâu ông mặc bên trên chiếc rây đanh gột màu xanh của ông và đặt nó trên ghế:

- Ông Fatanbon, ông nói, tôi chỉ còn món tiền này trong người. Tôi sẽ đưa con gái tôi về nhà. Nhưng tôi sẽ có mặt tại đây vào lúc sáu giờ và tôi sẽ mang đến ông sáu mươi trăng.

Vị ân nhân màu nhiệm của tôi, Jondrette kêu lên.

Tôi đang ứa nước mắt đây. Ông hãy cho phép tôi đưa ông Marius suýt nhảy khỏi cái tủ để theo người con gái đáng yêu, nhưng chàng nghĩ người cha hoặc Jondrette có thể trông thấy chàng và cuối cùng chàng sẽ sớm bị bỏ lại bởi cỗ xe ngựa chạy nhanh.

Thế là chàng tứ bỏ ý định, nhưng chàng bị khuấy động không yên, chàng run lên trên cơn nôn nóng khi phải lẩn tránh. Chàng nhủ thầm rằng người cha sẽ trở lại lúc sáu giờ, bảy giờ chàng sẽ thu xếp để theo ông đến tận nhà ông để gặp lại nàng. Nàng!

Jondrette vội vã trở về phòng. Mắt ông ta sáng quắc như mắt thú rừng.

- Bà có nhận ra hắn không? ông ta hỏi vợ. Và ông ta cúi sát vào tai bà. Hãy ra ngoài cả đi, ông ta bảo hai cô gái, nhưng hãy có mặt tại đây vào lúc năm giờ. Cả hai đứa. Tao cần đến chúng mày.

Marius càng thêm chú ý. Còn lại một mình với vợ, Jondrette bắt chéo tay và kêu lên.

- Chính hắn, cũng vóc người cao to đó, cũng giọng nói đó, nhưng ăn mặc lịch sự hơn, thế thôi. Còn cô gái... thì cũng chính là con nhỏ đó, con Sơn Ca.

Trọn cuộc đời của Marius đều dồn vào đôi tai của chàng. Sự bùng nổ của cơn phẫn nộ nơi bà Jondrette sau những lời lẽ đó của chồng bà khiến chàng càng kinh hồn hoảng vía khi giọng nói người đàn bà trở nên gớm ghiếc: Khi tôi nghĩ hai đứa con gái tôi phải đi chân trần và không có một chiếc áo dài để mặc. Rồi sao chứ, con bé xinh đẹp ghê tởm đó nhìn chúng vẻ thương hại lại chính là con bé khốn khổ đó à? ồ, tôi muốn dùng guốc mà đạp cho bể bụng nó ra.

Và bà muốn nghe điều này không, Jondrette tiếp lời giọng ông ta thấp xuống nhưng nghe còn ghê rợn hơn những tiếng hò hét của vợ Ông tạ Là thời vận tôi đã tới rồi. Tôi muốn thành triệu phú như mọi người. Tôi chán cảnh đói khát lắm rồi. Hấn ta sẽ tới đây chiều nay vào lúc sáu giờ. Đó là giờ mà tên ở bên cạnh đi ăn tối. Không có người nào trong nhà: Hai đứa nhỏ thì lo rình. Bà sẽ giúp chúng tôi. Hắn sẽ thực hiện thôi.

Nếu hắn không thực hiện thì sao? Người đàn bà hỏi. Jondrette nở một nụ cười ghê sợ và nói:

Chúng ta sẽ giết hắn... Bây giờ tôi ra ngoài đây.

Tôi cần gặp mấy người bạn. Đây là một vố hấp dẫn. Bà hãy lo giữ nhà... Bà có biết rằng hắn hạnh phúc đến nỗi đã không nhận ra tôi? Chính chòm râu đã cứu tôi đấy, chòm râu cằm xinh xắn lãng mạn của tôi... Hắn đã để lại chiếc áo khoác của hắn cho tôi, tên già ngốc ấy. .Không có nó, có lẽ tôi không thể ra đường được và mọi việc có thể hỏng bét! Thế mới được việc đấy... à quên, bà hãy mua hai đấu thanh để đốt lò. Hãy lấy đồng trăm xu của con người nhân đức. Nhưng hãy mang về tiền lẻ cho tôi đấy, Tôi cần mua mấy thứ ở tiệm bán đồ lạt son ở đường Mouffetard. Hôm khác chúng ta sẽ đi ăn. Hôm nay còn nhiều điều cần phải làm hơn.

Sau đó Marius nghe tiếng Jondrette khuất dần trong hành lang và vội vã bước xuống cầu thang. Bấy giờ chuông một giờ đã đổ tại St-médard.

Phải chân bọn người khốn nạn này lại, Marius nghĩ thầm trong cơn khiếp đảm. Phải cứu nàng, và cha nàng nữa. Phải báo cảnh sát. Marius lặng lẽ rời khỏi phòng. Rồi chàng bước vội về phía đồn cảnh sát gần nhất, ở đường Pontoise.

Lúc đang đi trên đường Petit-banquier chàng nghe có tiếng nói vọng ra từ những khu đất trống ven con đường. Chàng đi chậm lại, tuyết làm cho bước chân chàng bớt gây tiếng động. Tường khá thấp, chàng nghiêng người và trông thấy hai người đàn ông có vẻ là dân lang thang. Một người có râu mặc áo bờ lu, người kia tóc tai bờm xờm ăn mặc rách rưới.

- với atron-minette, vụ này không thể thất bại được Phần mỗi người là năm trăm trăng đấy, và trong trường hợp rủi ro thì năm năm, mười năm là cùng. Chưa tính cỗ xe ngựa của lão Chose.

Marius vừa tiếp bước vừa nghĩ ngợi. Chàng thấy câu chuyện của hai người đàn ông đang ngồi trên tuyết kia có phần liên quan đến những ý đồ ghê tởm của Jondrette. Chàng tới đường Pontoise và khi bước vào đồn cảnh sát chàng xin được nói chuyện với ông cảnh sát trưởng. Ông ấy không có ở đây, một thầy đội nói, nhưng có một thanh tra thay ông ấy. Anh hãy theo tôi.

Ông thanh tra cảnh sát là một con người cao lớn. Râu dày và xám viền một khuôn mặt vuông với đôi mắt sáng quắc. Ông gây cho người khác cảm giác sợ sệt lẫn tin cậy. Marius kể ông nghe câu chuyện, tất cả những gì chàng biết về âm mưu.

- Có phải trong cái phòng cuối hành lang không?

Ông thanh tra hỏi bằng một giọng chứng tỏ rằng ông biết rõ ngôi nhà. Chắc Patron-minette có liên quan ít nhiều tới câu chuyện phải không?

Đúng là tôi có nghe nhắc tới cái tên kỳ dị đó mới đây, chàng trai nói. Và chàng kể lại mẩu chuyện trao đổi giữa hai kẻ lang thang trên đường Petit-banquier.

Người tóc tai bờm xờm chắc hẳn là Brujon, và người có râu là Demi-liard, ông thanh tra nói sau phút nghĩ ngợi. Còn lão Chose dường như tôi đã trông thấy lão Anh có trông thấy một tên ăn mặc sang, lượn qua đó không? Một tên to lớn đồ sộ trông như một con voi trong thảo cầm viên? Một tên ác ôn mũi lệch?

- Dạ không, Marius nói, những người đó là ai?

Anh có sợ những người đó không? ông thanh tra hỏi thay vì trả lời.

- Không sợ hơn ông đâu! Marius đáp giọng hơi gay gắt vì chàng bắt đầu để ý thấy viên cảnh sát vẫn chưa gọi chàng bằng "ngài".

- Anh có chìa khóa ngôi nhà không? ông thanh tra vừa hỏi vừa nhìn đăm đăm vào Marius nhưng với một vẻ ngưỡng vọng. Tốt, hãy đưa nó cho tôi. Còn anh hãy giữ lại hai khẩu súng này. Chúng đã nạp đạn. Anh hãy quay về điểm quan sát của anh. Bọn đó sẽ đến. Hãy cứ để cho chúng vào. Khi phán đoán tình hình đã đúng lúc, anh hãy bắn một phát chỉ thiên. Tôi và mọi người sẽ có mặt tại đó Hẹn sáu giờ nhé? Tôi có đủ thì giờ. Anh đừng quên đấy. Pằng! Một phát súng.

Ông hãy yên tâm, Marius đáp.

Và khi chàng trai đặt tay lên chốt cửa để bước ra ngoài, ông thanh tra gọi chàng: Nhân tiện, từ đây đến lúc đó có cần gì tôi, anh hãy đến hoặc cho người đến đây. Anh cứ hỏi thanh tra Javert.

(còn tiếp phần 2)

Truyện khác

Những món ăn nhẹ làm bằng nồi chiên không dầu

Những món ăn nhẹ làm bằng nồi chiên không dầu

03/10/2024

Thời gian gần đây, nồi chiên không dầu là thiết bị nấu ăn được rất nhiều người quan tâm bởi không chỉ tiện lợi, nhanh chóng mà còn tốt cho sức khỏe người sử dụng, hạn chế dùng dầu mỡ khi nấu ăn.

Art