Thứ Ba, 26 Tháng Sáu, 2012

Chính Thống giáo - Orthodoxe

1. Vài nét lịch sử.

 Chính Thống giáo là một truyền thống Kitô giáo bao gồm Chính Thống giáo Hy Lạp và Chính Thống giáo Nga. Chính Thống giáo tự coi là sự tiếp nối duy nhất của giáo hội Kitô giáo nguyên thủy.

 Trong thiên niên kỷ đầu của Kitô giáo, Chính Thống giáo và Công giáo Rôma cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và tây phương. Kitô giáo phát triển mau chóng trên toàn lãnh thổ Đế quốc La Mã, một phần nhờ tiếng Hy lạp là chuyển ngữ (lingua franca) được sử dụng rộng rãi trong dân chúng. Ngoài ra thông điệp Kitô giáo được xem là mới và khác với các tôn giáo cũ của người La Mã và người Hy lạp.

 Thánh Phaolô và các tông đồ đi khắp nơi trong Đế quốc, trong đó có vùng Tiểu Á, thiết lập hội thánh trong các cộng đồng kiều cư Do thái, từ thành Giêrusalem, Antioche, Rome, Alexandria, Athène, Thessalonique, và Byzance. Byzance sau này chiếm vị trí nổi bật ở phương đông, được mệnh danh là Rôma mới. Trong thời kỳ này, Kitô giáo cũng là mục tiêu của nhiều đợt bách hại, nhưng giáo vẫn tiếp tục phát triển. Năm 324, Hoàng đế Constantin chấm dứt các cuộc bách hại.

 Trong thế kỷ thứ tư, giáo phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyết Arius. Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh luận thần học bên trong giáo hội. Hoàng đế Constantin quyết định triệu tập một công đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.

 - Các Công đồng.

 Chính Thống giáo công nhận chín Công đồng, được triệu tập từ năm 325 (Công đồng Nicée) đến năm 1341 hoặc 1351 (Công đồng Constantinople thứ hai). Các công đồng này được triệu tập để giải quyết các tranh chấp thần học, đồng thời xác lập giáo lý và giáo luật cho Chính Thống giáo.

 - Các Dân tộc Slav.

 Trong thế kỷ thứ 9 và 10, Chính Thống giáo phát triển về phía Đông châu Âu, đến lãnh thổ Rus’ ở Kiev (một quốc gia thời Trung Cổ - tiền thân của Belarus, Nga, và Ukraine) nhờ những nỗ lực của hai thánh Cyril và Methodius. Khi Rastislav, vua Moravia, yêu cầu Byzance gởi giáo viên đến dạy người Moravia bằng ngôn ngữ của họ, Hoàng đế Byzantin, Michael III, chọn hai anh em Cyril và Methodius. Vì mẹ của họ là người Slav đến từ Thessalonique, cả hai đều có thể sử dụng phương ngữ Slav để dịch Kinh Thánh và các sách kinh cầu nguyện. Khi các bản dịch của họ được những người sử dụng các phương ngữ khác sao chép, một ngôn ngữ văn chương gọi là tiếng Slav giáo hội cổ được hình thành. Được sai phái truyền giáo cho người Slav ở vùng Đại Moravia, Cyril và Methodius phải cạnh tranh với các giáo sĩ người Franc đến từ giáo phận Rôma. Năm 886, các môn đồ của họ bị trục xuất khỏi Moravia.

 Một số trong những môn đồ của Cyril và Methodius như Clement, Naum (thuộc dòng dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria. Tại đây, họ được vua Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và Ukraine.

 Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng La tinh, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm.

 - Đại Ly giáo.

 Vào năm 1054, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma, và phương Đông với Giáo hội Chính Thống.

 Ngoài những bất đồng về thần học như mệnh đề « filioque », và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa La tinh và Hy lạp cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt.

Cuộc ly giáo được cho là nảy sinh từ sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople trong cuộc Thánh chiến thứ tư năm 1204. Sự kiện tàn phá giáo đường Holy Wisdom và nỗ lực thiết lập Đế quốc La tinh nhằm thay thế Đế quốc Byzantine trong năm 1204 vẫn là một mối hiềm thù giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay.

 Năm 1272 đã có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon lần thứ hai, và vào năm 1439 tại Công đồng Base. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo bác bỏ

 Theo dòng lịch sử, các giáo hội Chính Thống chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp liên kết với Alexandria, Constantinople (nay là Istanbul), cùng các thành phố khác thuộc nền văn minh Hy lạp; trong khi đó Giáo hội Rôma liên kết với La Mã thuộc văn hóa La tinh và phương Tây. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.

 Năm 2004, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II chính thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được Đức Thượng phụ Bartholomeo thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.

 - Chính Thống giáo ngày nay

 Mặc dù tính độc lập và quyền tự trị của các giáo phận là đặc điểm của cấu trúc tổ chức và văn hóa bản địa của Chính Thống giáo, hầu hết các giáo phận này đều hiệp thông với nhau. Gần đây, các mối quan hệ đã được phục hồi giữa Giáo hội Chính Thống ngoài nước Nga và Thượng phụ Moscow, hai cộng đồng này của Chính Thống giáo Nga đã tách rời khỏi nhau từ thập niên 1920, do các lý do chính trị trong thời Sô viết.

 Những bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết. Trong khi Thượng phụ thành Constantinople và các giám mục ở Bắc Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống giáo châu Mỹ, thì các giám mục Romania mở các cuộc đàm phán với Giáo hội Công giáo Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi Athos, các giám mục Nga, Serbia, cùng các chức sắc Hy lạp và Bulgaria xem phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp về thần học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.

 Chính Thống giáo ở Việt Nam đại diện bởi giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống giáo Nga) ở thành phố Vũng Tàu, nơi sinh sống và làm việc của vài trăm chuyên gia nói tiếng Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Ý kiến ủng hộ việc mở giáo xứ được đưa ra vào ngày 17 tháng 7 năm 2002 tại phiên họp của Hội đồng thánh giáo Nhà thờ Chính thống giáo Nga. Các đại diện của Bộ phận liên lạc các nhà thờ nước ngoài của chế độ quyền cha Moskva thường xuyên thăm giáo xứ ở thành phố Vũng Tàu để thực hiện việc thờ phụng chúa trong thời gian Lễ Phục sinh và các lễ nhà thờ khác.

 Vào tháng 4 năm 2007, các chuyên gia được gởi đến Việt Nam của Ban Thư ký các quan hệ Chính thống giáo của Bộ phận liên lạc các nhà thờ nước ngoài thuộc Nhà thờ Chính thống giáo Nga đã hoàn thành việc thờ phụng chúa trong Lễ Phục sinh ở giáo xứ Nhà thờ Chính thống giáo Nga ở thành phố Vũng Tàu và Tổng lãnh sự quán Nga ở thành phố Hồ Chí Minh.

 Theo các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người. Chính Thống giáo cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarussie (89%), Bulgarie (86%), Cộng hòa Chypre (88%), Gruzia (89%), Hy Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro (84%), Romania (89%), Nga (76%), Serbia (88%), và Ukraina (83%). Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, và 4% ở Litva. Thêm vào đó là các cộng đồng Chính Thống giáo ở châu Phi, châu Á, Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.

  2. Cấu trúc.

 Chính Thống giáo xem Chúa Giêsu là đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm quyền và ân sủng của Thiên Chúa được truyền trực tiếp xuống các giám mục và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi thức được khởi xướng bởi các tông đồ. Sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8,17; 1Tim 4,14; Do thái 6,2).

Mỗi giám mục cai quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của giám mục là gìn giữ các truyền thống và qui tắc của giáo hội. Các giám mục có thẩm quyền ngang nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính, các giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến giáo phận của họ.

 Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một “đại” công đồng được triệu tập qui tụ tất cả giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu tiên (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp phần định hình quan điểm của Chính Thống giáo. Những công đồng này không thiết lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi giám mục một lá phiếu.

 Dù được phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay Byzantine, tu viện trưởng, linh mục, tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước cuộc Ly giáo năm 1054, Giám mục La Mã, tức Giáo hoàng, dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem là chủ tọa công đồng và được gọi là “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”. Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ tọa công đồng được dành cho Thượng phụ thành Constantinople với danh hiệu “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”, thể hiện sự bình đẳng của chức vụ này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.

3. Giáo lý.

 A. Ba Ngôi : Tín hữu Chính Thống giáo tin Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Con và Chúa Thánh Linh lưu xuất từ Chúa Cha. Ba Ngôi là ba thân vị (hypostases) độc lập, có cùng một bản thể (ousia) – tự hữu, hằng hữu, và phi vật chất. Xác tín này được trình bày trong bản Tín điều Nicée.

 B. Tội lỗi và sự Cứu rỗi : Bản chất của con người, trước khi sa ngã, là tinh tuyền và vô tội. Nhưng hành động bất tuân Thiên Chúa của Adam và Eva trong Vườn Eden đã để tội lỗi và sự bại hoại thâm nhập vào bản chất tinh tuyền ấy. Tình trạng bất khiết này đã ngăn cản con người hưởng Vương quốc Thiên đàng. Song, khi Thiên Chúa hóa thân thành người trên dương thế, ngài đã thay đổi bản chất ấy bằng cách hiệp nhất con người với Thiên Chúa; do đó, Chúa thường được gọi là “Adam mới”. Bằng cách trở thành người, chết trên cây thập tự, và sống lại, ngài đã thánh hóa các phương tiện ân điển, nhờ đó chúng ta được trở lại với tình trạng tinh tuyền nguyên thủy và phục hòa với Thiên Chúa. Điều này Chính Thống giáo gọi là được cứu khỏi tình trạng bệnh tật của tội lỗi. Quyền năng của sự cứu rỗi giải thoát mọi người công chính khỏi quyền lực trói buộc của tội lỗi, kể từ buổi sáng thế, trong đó có cả Adam và Eva.

 C. Phục sinh.

 Sự Phục sinh của Chúa Giêsu là sự kiện căn bản trong giáo thuyết của Chính Thống giáo. Tín hữu Chính Thống giáo tin đây là một sự kiện lịch sử và Chúa Giêsu thật sự sống lại trong thân xác. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, bị đóng đinh, sau khi chết, đến ngày thứ ba ngài sống lại để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã giải thoát loài người khỏi quyền lực của hỏa ngục. Như thế, mọi kẻ tin đều có thể dự phần vào sự sống vĩnh hằng.

 D. Kinh Thánh, Truyền thống Thánh.

 Chính Thống giáo xem mình là sự nối tiếp lịch sử từ giáo hội tiên khởi được thành lập bởi Chúa Giêsu và các tông đồ. Đức tin được truyền dạy bởi Chúa Giêsu và các tông đồ mặc lấy sức sống bởi Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, được gọi là Truyền thống Thánh. Lời chứng chủ yếu và có thẩm quyền cho Truyền thống Thánh là Kinh Thánh, được viết ra và được chuẩn thuận bởi các tông đồ để thuật chân lý được mặc khải và lịch sử tiên khởi của giáo hội. Bởi vì Kinh Thánh được linh dẫn, nên được xem là trọng tâm của sự sống giáo hội.

 Theo quan điểm Chính Thống giáo, Kinh Thánh luôn được giải thích trong Truyền thống Thánh. Truyền thống Thánh đã hình thành với quy điển Kinh Thánh. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Kinh Thánh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất để hiểu Kinh Thánh là giải thích Kinh Thánh trong nội dung truyền thống giáo hội.

 Các lời chứng khác cho Truyền thống Thánh là tranh tượng, nghị quyết của các công đồng, và giáo huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo phụ (consensus patrum) mà người ta có thể hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ (không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự hiểu biết chân xác về Kinh Thánh và các giáo thuyết.

 E. Theotokos và các Thánh.

 Theotokos - Mẹ Thiên Chúa, một trong những tranh tượng được tôn kính nhất của Chính Thống giáo.

 Chính Thống giáo tin rằng sự chết và sự tách rời linh hồn khỏi thể xác là không bình thường; là hậu quả của tình trạng sa ngã của loài người. Họ cũng tin rằng hội thánh bao gồm người sống và người đã khuất. Mọi người đang sống trên thiên đàng đều là thánh, dù tên tuổi của họ có được biết đến hay không. Tuy nhiên, có những vị thánh đặc biệt mà Chúa muốn chúng ta biết để noi theo. Khi một vị thánh được đa số trong giáo hội thừa nhận, một buổi lễ vinh danh được cử hành cho vị thánh này. Điều này không có nghĩa là phong thánh cho vị ấy, nhưng chỉ đơn giản là thừa nhận vị thánh và công bố cho toàn thể hội thánh được rõ. Các thánh được tôn kính nhưng không được sùng bái. Sự thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa.

 Nổi bật giữa các thánh là Đức Nữ Đồng trinh Maria, Theotokos (“Mẹ Thiên Chúa”). Theotokos là người được Thiên Chúa chọn để trở nên mẹ của Chúa Giêsu. Chính Thống giáo tin rằng ngay từ lúc hoài thai, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người trọn vẹn. Đức Maria được gọi là « Theotokos » là sự xác quyết thần tính của đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Đức Maria đồng trinh khi sanh hạ Đức Giêsu, bà không bị đau đớn, cũng không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Đức Maria trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác. Do sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo hội xem là thánh. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.

 F. Cánh chung học.

 Chính Thống giáo tin rằng khi chết linh hồn “tạm thời” tách rời khỏi thể xác, có thể sẽ ở một thời gian ngắn trên đất, sau khi chịu xét xử tạm thời, được đưa đến một trong hai nơi chốn: thiên đàng hoặc hỏa ngục (Chính Thống giáo không tin vào ngục Luyện tội). Linh hồn ở trong tình trạng này cho đến ngày Phán xét cuối cùng, khi đó linh hồn và thể xác được hợp nhất. Theo quan điểm này, tình yêu và lời cầu nguyện của người công chính có thể giúp thay đổi tình trạng các linh hồn đang ở âm phủ cho đến khi họ ứng hầu trong ngày phán xét chung thẩm. Đó là lý do giáo hội dành những ngày đặc biệt để cầu nguyện cho người chết.

 Dù được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung, sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.

4. Truyền thống.

 A. Kiến trúc Giáo đường.

 Kiến trúc giáo đường mang nhiều ý nghĩa biểu tượng; có lẽ hình ảnh lâu đời nhất và nổi bật nhất là khái niệm xem nhà thờ là biểu trưng cho con tàu Noé (từng cứu nhân loại khỏi họa diệt vong gây ra bởi cơn Đại Hồng thủy), nay hội thánh cứu con người khỏi bị nhấn chìm trong cơn lũ của nhiều loại cám dỗ. Vì vậy, hầu hết nhà thờ Chính Thống giáo được xây dựng theo hình chữ nhật, hoặc hình thập tự giá với cánh ngang là chỗ dành cho ca đoàn.

 b. Ảnh tượng.

 Thuật ngữ « Ảnh tượng » (Icone) có nguồn gốc từ Hi lạp « eikona », có nghĩa là hình ảnh. Chính Thống giáo tin rằng những hình ảnh đầu tiên của Chúa Giêsu và Đức Nữ Đồng trinh Maria được ghi lại bởi thánh sử Luca.

 Tượng thờ hầu như không được chấp nhận trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy hình tượng của người Hy lạp ngoại giáo. Trong khi đó, tranh ảnh thường được dùng để trang trí vách nhà thờ. Phần lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều ảnh tượng.

 Ảnh tượng thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến và đèn dầu còn biểu trưng cho Sự sáng của Thế gian, là Thiên Chúa.

 C. Huyền nhiệm.

 Theo thần học Chính Thống giáo, mục tiêu của đời sống là đạt đến « theosis », sự hợp nhất huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, theo như cách diễn đạt của Giáo phụ Athanasius thành Alexandria trong tác phẩm « Incarnation » : “Ngài (Chúa Giêsu) trở thành người để chúng ta có thể trở thành thần linh (θεοποιηθῶμεν)”.

 Trong ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật ngữ “Huyền nhiệm” được dùng để chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho… là các phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này được vận hành như thế nào là một sự “huyền nhiệm” khó có thể diễn đạt trong ngôn ngữ loài người.

 Nghi thức tôn giáo mà Kitô giáo La tinh gọi là Bí tích, phương Đông gọi là Huyền nhiệm Thiêng liêng. Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Thệ Phản (Tin Lành) có hai bí tích là Phép Rửa và Tiệc Thánh, Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên, có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Phép Rửa, Kiên tín, Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.

5. Chức sắc.

Từ buổi sơ khai, giáo hội phát triển đến nhiều nơi, các nhà lãnh đạo hội thánh tại mỗi địa phương được gọi là « episkopoi » (người cai quản – Hy lạp ἐπίσκοπος), tức là giám mục. Một chức vụ khác được thiết lập trong hội thánh là « presbyter » (trưởng lão – Hy lạp πρεσβύτερος), sau trở thành « priest - prêtre » (thầy tư tế hoặc linh mục), và « diakonos » (διάκονος, người phục vụ), về sau thành « deacon - diacre » (chấp sự hoặc phó tế).

 Chỉ có các giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn, thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi. Mặc dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một phụ nữ là trong thế kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ đảm trách chức phó tế.

Bài viết khác