GiANG SƠN CẤT GÁNH| NGUYỄN THỊ HỒNG DIỆP
Một gánh tâm tình cuối chặng đường sỏi đá bên bờ cõi phúc, còn đây chút quà tinh thần để lại cho các em, các con, và cháu chắt thương yêu, cùng các học trò bằng hữu và độc giả xa gần,
với tất cả lòng biết ơn một cuộc đời tràn đầy ơn Chúa.
Để lại Cho Đời 1
Trong tất cả những quyết định đầu năm — New Year’s Resolutions — của tất cả những người có thói quen làm quyết định này, có một điều khoản mà hình như ai cũng cho là hết sức quan trọng, cần thiết, phải đem ra thi hành ngay. Đó là hãy bắt đầu, ngồi xuống, viết ngay cuốn sách mà bạn có ý muốn viết, để lưu truyền cho hậu thế.
Chuyện này có thật không phải tôi bịa ra để nồ cụ đâu. Tôi chả biết những người khác, những ông Tây bà Mỹ thì sao, nhưng ít nhất ông Xã Xệ nhà tôi có hai ông bạn, trong nhiều năm, đã từng ghi lại điều quyết định này, đã ôm ấp hoài bão này, trước khi hoàn thành sứ vụ trên cõi đời này. Một ông, hình như ngày xưa ở Việt Nam là nhà binh, đã từng giữ những chức vụ khá quan trọng trong guồng máy chính quyền, đã từng nắm vận mệnh quốc gia.
Đầu thập niên 80, lúc bấy giờ, vợ chồng Xệ tôi mới chân ướt chân ráo tới định cư. Công việc làm ăn còn bập bềnh trên con ba ba, chả biết làm gì để kiếm sống, để nuôi con ăn học. Một hôm gặp ông bạn trên D.C. Mới có vài năm lưu lạc mà trông ông tiều tụy, sức khỏe yếu kém, nhan sắc tàn phai. Ông mời chúng tôi ăn phở, và bên bát phở ông bàn chuyện quốc gia đại sự. Ông than thở với ông Xã Xệ về tình trạng sức khỏe, và ông nói, ông còn rất nhiều điều bí mật cần dàn trải trên giấy trắng mực đen, để lại cho hậu thế, nhưng ông lo rằng, không biết thời gian còn lại của ông có đủ để cho ông làm xong nhiệm vụ này không? Tụi tôi rất lấy làm kính phục và cũng bắt đầu lo, chỉ sợ ông không có đủ thời giờ để viết cuốn sách để đời này, truyền lại cho hậu thế thì là một sự mất mát to lớn cho lịch sử Việt nam nói riêng, và lịch sử thế giới nói chung. Tôi khuyên ông, cứ bắt tay vào việc ngay đi, được đến đâu hay đến đấy. Nếu chẳng may ông không kịp hoàn thành tác phẩm trước khi lên đường vinh quang, mong rằng những người đồng chí của ông, nhưng người còn lại sẽ thay ông viết tiếp. Ông nhìn tôi bằng một cặp mắt buồn phiền. Không biết buồn vì tình trạng bi quan của sức khỏe, hay vì cái sự ngu dốt, nói năng hồ đồ của tôi? Ông tắc lưỡi nói: những điều mà ông muốn viết ra chỉ có mình ông biết, chỉ có ông là người trong cuộc, không một ai có thể thay ông, tiếp nối công việc này được. Trước khi ra về, tôi chúc ông cố gìn giữ sức khỏe để hoàn thành tác phẩm. Và cũng không quên cầu nguyện một câu rất quen thuộc: xin ơn trên phù hộ cho ông! Ông tỏ vẻ hài lòng, nên bật mí cho chúng tôi một tin mừng, cuốn sách đã xong một nửa rồi, chỉ còn một nửa nữa thôi. Mong rằng ông sẽ hoàn tất nó trước khi …. Tôi cầu cho ông được toại nguyện.
Sau đó, vì bận mưu sinh, bận thích nghi với đời sống mới, tôi quên hẳn người bạn rất quan trọng này. Chả hiểu ngày nay, ông còn sống, đã hoàn thành tác phẩm để đời chưa hay là những bí mật quân sự ông mang nặng trong lòng đã theo ông về bên kia thế giới?
Một ông khác, ông này là đồng chí của ông Xã Xệ từ hồi còn trẻ, từ hồi cả hai mang bầu nhiệt huyết lưu lạc sang Tàu để tìm đường giải phóng dân tộc. Sau này, ông là sĩ quan cao cấp cho nên được cán ngố chiếu cố khá kỹ, mãi đến thập niên 90 mới được sang định cư. Khi gặp ông, ông cũng mang trong lòng một hoài bão ghi lại những trang sử oai hùng của ông trong những ngày theo cách mạng. Ông nói, nếu ông không hoàn thành được cuốn hồi ký đời ông, ông sẽ chết không nhắm mắt. Nhưng, rất may mắn, ông này đã hoàn tất nhiệm vụ với bản thân, với hậu thế, với nhân dân. Cuốn hồi ký của ông đã ra đời vào đầu thiên niên kỷ mới. Chắc chắn ngày hôm nay, ông đã trả được món nợ tình, cho dân tộc và có thể ung dung chờ ngày các cụ gọi về.
Các cụ ngày xưa thường nói rằng phú quí thì sinh lễ nghĩa. Bây giờ tới lượt tôi cũng cảm thấy cần phải viết, ít nhất là một cuốn sách để đời. Các cụ có thể sề nẹc hạch hỏi tôi rằng thế từ hổm tới nay, mụ in ba cuốn sách, mụ móc túi tụi tôi như vậy chưa đủ hay sao mà còn quyết định viết thêm cuốn nữa? Bộ mấy cuốn kia không phải là sách hả?
Từ từ, cụ làm gì mà nóng thế. Về già nổi nóng hại tim đấy cụ không biết sao? Sách in hồi trước cũng là sách, cũng là tác phẩm văn chương chứ có phải là giấy lộn đâu, giấy lộn thì sức mấy mà cụ chịu bỏ tiền ra mua, có phải không? Cụ đọc cũng khoái chí cười hinh hích đấy thôi. Nhưng chúng chỉ là sách bình thường, không phải là sách để đời cụ ạ.
Sách để đời phải đặc biệt cơ. Lẽ dĩ nhiên, tôi chẳng làm gì nên chuyện, chẳng làm lợi gì cho dân cho nước, chẳng giúp ích gì cho nhân quần xã hội, tôi không thể nào viết loại sách hồi ký đời tôi. Đời tôi thuộc loại giá áo túi cơm, cho dù có là một cái giá áo bằng gỗ quí, một túi cơm gồm toàn sơn hào hải vị, thì cũng chẳng ai tò mò muốn biết, cần biết làm gì. Vậy thì cuốn sách để đời của tôi sẽ là sách gì?
Ít nhất phải là một cuốn sách để lại cho hậu thế. Hậu thế ngoài, không ai thèm chú ý đến cuộc đời con Vàng, con Vện của tôi, vậy còn các con cháu tôi thì sao? Tôi hỏi các cháu tôi: các cháu có thích biết về lịch sử gia đình mình không? Thằng cháu trai suy nghĩ một hồi rồi nói, có chuyện gì hay không? Đặc biệt không? Còn nếu không thì cháu cũng chẳng thích mấy. Con bé con gái, lịch sự hơn, sợ bà buồn nên nói một cách nhẹ nhàng, khéo léo: cháu có thể thích, nhưng bà phải viết bằng tiếng Mỹ cháu mới hiểu được. Tôi lầu bầu chửi thề, viết tiếng Mỹ thì viết làm gì.
Tao có là người Mỹ đâu mà lại viết gia phả bằng tiếng Mỹ? Như thế là, một đề tài đã bị loại bỏ.
Sau khi trải qua cuộc hành trình vượt biển mà tôi cho là có một không hai, tôi nghĩ rằng đây là một đề tài hấp dẫn, cần phải ghi lại cho con cháu dòng giống Xệ soi chung.
Nhưng sau khi định cư, thấy biết bao nhiêu người chết vợ, chết chồng, mất cha, lạc mẹ, mất con, trên biển Đông, hay là bị hải tặc làm bậy, bắt đi biệt tích, tôi thấy chuyện của mình nhạt nhẽo, vô duyên, chẳng đáng ghi vào lịch sử vượt biên. Cho nên tôi tự ý gạt nó sang một bên.
Hồi đầu, mới nhập tịch đảng Mỹ giấy vượt biên, tôi làm toàn nghề lao động. Cho rằng đấy cũng là một chuyện hi hữu, viết ra thành sách, biết đâu lại chẳng vồ được vài cái giải thưởng văn chương thế giới. Nhưng sau khi nghe ra, thì bà con ta, lúc mới trở thành kẻ vong quốc, anh nào cũng lấy nghề cu li làm chuẩn, đâu phải mình mình.
Thành ra đề tài nào cũng có chỗ không ổn.
Các cụ thời xưa, hình như có phán một câu rằng thì là, trong mỗi người Việt Nam đều có một ông quan. Khi thời Pháp thuộc chấm dứt, chế độ phong kiến cáo chung, các cụ bèn gió xoay chiều, nói rằng, trong mỗi người Việt Nam đều có một thi sĩ, một nhà văn. Hiện tượng này đã được chứng mình bằng số lượng sách truyện và thơ được ra đời tại hải ngoại. Và bây giờ đây, nếu cụ chịu khó theo dõi truyền thông, cụ sẽ thấy rằng bất cứ một bà nội trợ Việt Nam nào cũng là một đầu bếp trứ danh. Bằng cứ là đài phát thanh nào cũng có chương trình dạy nấu ăn, do các bà đầu bếp nghiệp dư phụ trách. Ngoài ra, trong suốt chương trình, lại còn một số các bà nghiệp thừa, điện thoại vào góp ý, chê bai tùm lum là nấu không đúng cách. Vì thế tôi thấy rằng, trong tình trạng hiện tại, chúng ta có thể kết luận, trong mỗi một người Việt Nam, đều tiềm ẩn một đầu bếp giỏi. Chả phải nói khoe, cái hồi giữa thập niên 80, Ba Phải tôi còn dám vỗ ngực đứng ra làm đầu bếp chánh một tiệm ăn ở ngay giữa Houston hoa lệ này nữa là.



