Thứ Năm, 20 Tháng Mười Hai, 2018

Chuyện tên đường Sài Gòn

Sau năm 1975, hầu hết bảng tên những con đường mang tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng, Đỗ Thành Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị tháo gỡ xuống, thay vào đó là tên những nhân vật đương đại…

Tên đường trong lịch sử Sài Gòn xưa và nay

Từ cái thời các anh Tây mũi lõ chưa xâm chiếm nước ta, thành phố Sài Gòn xưa đã có một hệ thống đường sá ngang dọc trong một khu vực giới hạn bởi sông Sài Gòn và các con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Võ Thị Sáu – Hai Bà Trưng ngày nay.

Không rõ ông bà xưa có đặt tên đường không, để mỗi lần viết thư kể lể tình yêu thì có cách mà nhắc nhau những kỷ niệm ban đầu. Chỉ biết rằng khi Pháp mới chiếm Sài Gòn thì trong những năm đầu thập niên 1860, Sài Gòn có 26 con đường mang số thứ tự từ 1 đến 26. Năm 1865, Thống đốc Pháp De La Grandière mới lấy tên người hay tên những chiếc tàu tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chiếm Sài Gòn để đặt tên cho từng con đường một.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 1
Bức ảnh “La Route de Saigon” chụp ảnh con đường dẫn từ Chợ Lớn ra Bến Nghé, nay là đường Nguyễn Trãi, quận 5. Vào năm 1901, đây còn là một con đường đất nằm giữa hai hàng cây, hai bên chưa có nhà ở. (Dẫn từ sách “150 năm hình bóng Sài Gòn” (1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)


Sang thế kỷ 20, nhất là từ sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, tên đường được Việt hóa dần, phần lớn lấy tên các danh nhân trong lịch sử. Đường Bonard thành đường Lê Lợi, đường Charner thành đường Nguyễn Huệ, đường Catinat thành đường Tự Do, đường Espagne thành đường Lê Thánh Tôn… Sau ngày 30/4/1975, trong việc điều hành thành phố, chưa bao giờ người Sài Gòn nhìn thấy một cuộc “cách mạng” triệt để trong việc đặt tên đường như thế. Hầu hết bảng tên những con đường mang tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng, Đỗ Thành Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị tháo gỡ xuống, thay vào đó là tên những nhân vật đương đại mà rất nhiều dân Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định không biết họ là ai. Điều này phản ánh một cái nhìn chật hẹp, đầy thiên kiến về lịch sử, về các nhân vật lịch sử, làm xáo trộn sự hiểu biết về lịch sử của lớp trẻ và làm đảo lộn một cách không cần thiết các sinh hoạt của người dân thành phố lúc bấy giờ. Ngày nay, sau gần 40 năm, vẫn chưa có gì hứa hẹn một sự xem lại những việc làm vội vã vào một thời điểm có quá nhiều việc phải làm sau 30/4/1975.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 2
Trường nữ Trung học Gia Long nằm trên đường Phan Thanh Giản trước 1975. Nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai nằm trên đường Điện Biên Phủ.


Nhiều cuộc hội thảo phản ánh những cái nhìn rộng rãi, hợp tình, hợp lý, hợp đạo nghĩa hơn đối với các nhân vật lịch sử như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký… đã được các tổ chức có liên quan ít nhiều đến chính quyền, chủ yếu là Hội Sử học, tổ chức, song nhiều mặt của đời sống, trong đó có chuyện tên đường, vẫn còn nguyên sức ỳ của chúng. Ngày 4/2/2008, tượng đồng của Tả quân Lê Văn Duyệt cao 2,65m, nặng 3 tấn được đặt tại lăng Ông trong một buổi lễ trang trọng, nhưng cái tên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc chạy ngang lăng Ông vẫn còn nằm ở một chân trời viễn tưởng nào. Tại Cần Thơ, trường Phan Thanh Giản đổi thành Châu Văn Liêm sau 30/4, nay đã trở về tên cũ, song đường Phan Thanh Giản xa xưa tại Sài Gòn-TP.HCM nay vẫn là Điện Biên Phủ.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 3
Đường Paul Blanchy, được chụp vào năm 1906. Sau năm 1955, đổi tên thành đường Hai Bà Trưng. (Dẫn từ sách “150 năm hình bóng Sài Gòn” (1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)


Còn có một sự tắc trách đáng phê phán nữa của Ủy ban đặt tên đường cấp thành phố vốn dĩ gồm những nhân tài có bằng cấp cao, có tiếng tăm trong xã hội. Đó là hiện tượng đặt tên đường bằng tên những “danh nhân” không có trong lịch sử. Chuyện này đã có lần nói rồi, chỉ xin nhắc lại một cách sơ lược. Đó là ít nhất hai con đường Trần Khắc Chân, một ở khu Tân Định, quận 1, và một ở quận Phú Nhuận, chạy ngang tòa soạn báo Tuổi Trẻ. Vì trong lịch sử, tự cổ chí kim, không có nhân vật nào tên như thế cả, chỉ có Trần Khát Chân và Trần Khắc Chung thôi. Trong lịch sử, cũng không có nhân vật nào tên Trương Quốc Dung (quận Phú Nhuận) hết, chỉ có Trương Quốc Dụng. Đường Sương Nguyệt Anh, lúc trương bảng ban đầu, ghi là Sương Nguyệt Ánh, ít lâu sau chỉnh lại cho đúng, song cũng khá muộn, nên ngày nay hầu hết các cơ quan nằm trên con đường này đều in tên Sương Nguyệt Ánh trên các giấy tờ giao dịch của họ.

Tên tộc, niên hiệu, hay miếu hiệu?

Với những con đường mang tên các vì vua nổi bật trong lịch sử, việc đặt tên khá tế nhị. Giới nho sĩ xưa thường có tên hiệu, nhưng vua chúa ngoài tên tộc khi nhỏ, còn có niên hiệu đặt ra khi vừa lên ngôi, thụy hiệu do triều thần đặt ra khi vừa nằm xuống, và miếu hiệu đặt ra để thờ trong Thế miếu.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 4
Đại lộ Bonnard, nay là đường Lê Lợi (Q.1). Bên phải là hành lang Eden và một hàng cây cổ thụ. Eden nay trở thành tòa Vincom B còn hàng cây xanh bị chặt bỏ. (Dẫn từ sách “150 năm hình bóng Sài Gòn” (1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)


Hiện nay, tên các vị vua này được đặt cho các đường phố không theo một quy chuẩn nào. Ở Gò Vấp có đường Quang Trung là niên hiệu của Nguyễn Huệ, song giữa trung tâm Sài Gòn lại có đường Nguyễn Huệ, mang tên tộc của ông. Đường Lý Thái tổ ở quận 10 đặt theo miếu hiệu, còn đường Lê Lợi ở quận 1 lại lấy theo tên tộc. Như vậy nên đổi Lê Lợi thành Lê Thái tổ theo cách đặt cho Lý Thái tổ hay đường Lý Thái tổ nên đặt là Lý Công Uẩn cho phù hợp với cách đặt của tên đường Lê Lợi? Đến nay, cách đặt tên theo nhiều kiểu này vẫn chưa có ai nghĩ đến việc thống nhất hóa chúng.

Về tên đường Trần Hưng Đạo

Nói chuyện này cũng giống như ngồi trên chiếc thuyền độc mộc chèo ngược dòng thác bạc đang đổ ầm ầm về phía mình. Vì có dịp đi từ Nam chí Bắc, ta không khó nhận ra các đền thờ mang tên Trần Hưng Đạo. Ai cũng biết đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, một trong những danh tướng có công lớn nhất trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông trước và trong thập niên 1280. Song gọi ông là “Trần Hưng Đạo” có hợp lý, hợp quy luật về cách đặt tên, phong tước hay không, đó là chuyện chúng ta “tản mạn” một chút khi trà dư tửu hậu.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 5
Đường Boulevard Galliéni năm 1931 – con đường huyết mạch nối Sài Gòn với Chợ Lớn – nay là đường Trần Hưng Đạo. (Ảnh dẫn từ flickr Manhhai)


Trước hết xin lược qua cách phong tước, đặt tên trong lịch sử để các bạn trẻ (và bạn già nữa) yêu sử có chút ý niệm về chuyện này. Dưới thời quân chủ, tại ít nhất hai nước Trung Hoa và Việt Nam, việc phong tước dựa vào 6 tước chính là vương, công, hầu, bá, tử, nam. Trong mỗi tước, có sự phân biệt cao thấp, chẳng hạn thời Trần, tước Đại vương cao hơn tước vương, thời Nguyễn, tước “nhất tự vương” (một chữ vương, ví dụ Tuy Lý vương), cao hơn tước Quận vương (Tuy Lý Quận vương), tước công từ cao xuống thấp có Quốc công, Quận công, Hương công… Cách dùng chữ đặt tên cho tước cũng khác nhau tùy thời. Thời Trần, Lê, triều đình giở sách tìm những từ Hán có nghĩa hay đẹp để phong tước cho các công thần, ví dụ dùng từ “Hưng Đạo” để đặt cho tước vương của Trần Quốc Tuấn, thành Hưng Đạo vương, dùng chữ Chiêu Văn cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, dùng chữ Chiêu Minh cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải…

 

Thời Nguyễn định cách đặt tên phong tước khác hẳn. Triều Gia Long, phần đông công thần được phong tước Công thì lấy tên mà phong, ví dụ Duyệt Quận công (Lê Văn Duyệt), Thành Quận công (Nguyễn Văn Thành)… Đến các triều sau Gia Long, việc đặt tên phong tước lại theo một cách khác nữa. Triều Thiệu Trị định rằng tước Quốc công, Quận công thì lấy tên phủ mà đặt, tước Hầu lấy tên huyện, tước Bá lấy tên tổng, tước Tử lấy tên xã, và tước Nam lấy tên thôn. Thí dụ ở trường hợp Vĩnh Lại Quận công Nguyễn Hữu Đệ thì hai từ Vĩnh Lại là tên của một phủ.

Dù việc đặt tên, phong tước có theo cách nào thì trong một tước hiệu, như tước vương, từ cốt lõi là từ “vương”, chứ không thể là từ nào khác. Những từ Hưng Đạo, Chiêu Minh, Chiêu Văn … chỉ có tác dụng làm đẹp cho tước hiệu, phân biệt tước này với tước kia, tự chúng không thể thay thế toàn bộ tước hiệu được. Ví dụ với Bình Định vương Lê Lợi, ta không thể tách bỏ từ vương của ông để rồi ghép vào tên ông thành Lê Bình Định, hay với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, không thể gọi là Nguyễn Bắc Bình. Vậy mà với Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, không biết tự bao giờ, chúng ta đã ngắt bỏ chữ vương trong tước hiệu của ông rồi ghép vào tên thành “Trần Hưng Đạo”. Ta nhìn thấy tên này, nghe tên này nhiều quá thành quen, song nếu suy cho cùng đối với vấn đề đặt tên, phong tước, ta sẽ thấy đây là trường hợp độc nhất vô nhị, không có trước mà cũng chẳng có sau. Không rõ các bậc thức giả có cách giải thích nào cho việc này không?

Lê Nguyễn
25.1.2014

Theo Facebook của nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn

Người đặt tên cho các đường phố Sài Gòn trước 1975 và ý nghĩa của chúng

Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Sài Gòn vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công trình do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…

Chuyện tên đường Sài Gòn - 6

Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát, Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn.

Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài Gòn

Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Đông (Sài Gòn) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn mưa, đường thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300 con đường.

Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:

  • Boulevard Charner
  • Boulevard Galliéni
  • Boulevard Kitchener
  • Boulevard Norodom v.v

Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài Gòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 7
Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn năm 1967 (Ảnh của John Beck)


Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.

Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ.

Chuyện tên đường Sài Gòn - 8
Thuần Phong Ngô Văn Phát hình phụ bản Như Việt Lưu


Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả.

Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:

  • Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
  • Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
  • Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sài Gòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công Lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
  • Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
  • Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
  • Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
Chuyện tên đường Sài Gòn - 9

Đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn năm 1967 (Ảnh của John Beck)
 

  • Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
  • Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
  • Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
  • Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
  • Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
  • Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài Gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
  • Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.

Ông Nhà Văn – Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.

Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô Văn Phát đã về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.

Cũng chuyện đặt tên đường

Vua Lê Thánh Tôn đã mở mang bờ cõi nước ta từ Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đã vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…

Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cõi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.

Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do dòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!

Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Sài Gòn… bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sài Gòn. (Chế độ sau này đã thay Hiền Vương bằng tên của Võ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).

Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài Gòn và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao bình dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.

Đấy là chưa nói tới giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng chính vì vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”…

Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Ai đã đặt tên cho các đường phố Sài Gòn trước 1975?”
Theo TongPhuocHiep.com (Trang web của nhóm cựu học sinh trường trung học Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long)

Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:

Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn.

Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn.

Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).

Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.

Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.

 

 

Bài viết khác