Thứ Hai, 10 Tháng Năm, 2021

Thơ Sully Prudhomme

Nhân NGÀY CỦA MẸ, viết tặng những ai còn nghĩ đến Mẹ

Diễn dịch bài thơ của Sully Prudhomme

L’AMOUR MATERNEL

À Maurice Chevrier.

Fait d’héroïsme et de clémence,

Présent toujours au moindre appel,

Qui de nous peut dire où commence,

Où finit l’amour maternel?

Il n'attend pas qu'on le mérite

Il plane en deuil sur les ingrats;

Lorsque le père déshérite,

La mère laisse ouverts ses bras;

Son crédule dévouement reste

Quand les plus vrais nous ont menti,

Si téméraire et si modeste

Qu’il s’ignore et n’est pas senti.

Pour nous suivre il monte ou s’abîme,

À nos revers toujours égal,

Ou si profond ou si sublime

Que, sans maître, il est sans rival.

 

Est-il de retraite plus douce

Qu'un sein de mère, et quel abri

Receuille avec moins de secouse

Un coeur fragile endolori?

Quel est l’ami qui sans colère

Se voit pour d’autres négligé ?

Qu’on méconnaît sans lui déplaire,

Si bon qu’il n’en soit affligé?

Quel ami dans un précipice

Nous joint sans espoir de retour,

Et ne sent quelque sacrifice

Où la mère ne sent qu’amour?

Lequel n’espère un avantage

Des échanges de l’amitié?

Que de fois la mère partage

Et ne garde pas sa moitié!

Ô mère, unique Danaïde

Dont le zèle soit sans déclin,

Et qui, sans maudire le vide,

Y penche un grand cœur toujours plein!

René-François Sully Prudhomme, (1)

1875

 

TÌNH MẸ

(tặng Maurice Chevrier)

Lòng từ ái hợp cùng lòng can đảm

Vì yêu thương mà dám hy sinh

Mẹ không thiết cả thân mình

Tình Mẹ cao cả mông mênh biển trời!

Chỉ cần tha thiết một lời,

Một lời nhỏ nhẹ, tức thời: “Mẹ đây!”

Từ đâu Mẹ đã đến đây?

Nơi nào thiếu Mẹ, ai hay được nào?

 

Chẳng phải chờ khi cha không sao còn nữa

Hay khi Mẹ dang tay đón đứa con mình,

Tình Mẹ mới được tôn vinh ca ngợi,

Chỉ thấy Mẹ như cánh chim đeo tang rũ rượi bơ phờ

Lượn vòng trên những mái đầu thờ ơ bội bạc,

 

Cả khi mắc lừa những người đáng tin nhất,

Mẹ vẫn nhẹ dạ hết lòng rất cả tin,

Mẹ thật cả gan và quá dịu hiền đối xử,

Mẹ quên đến cả thân mình,

Dẫu không cảm nhận, thật tình vị tha.

 

Tình Mẹ lẽo đẽo theo ta,

Biển đời chướng ngại như là sóng xô,

Nhấp nhô chìm nổi dật dờ,

Nông sâu vùi dập bến bờ dội ra,

Một tay Mẹ dắt vượt qua,

Không người hỗ trợ, thật là vô song!

 

Con tim mỏng manh khi thấy lòng đau nhói,

Nép vào lòng Mẹ, còn gì êm ái nào hơn?

Mỗi khi thấy lòng xao xuyến, tâm hồn rối loạn,

Tựa nương lòng Mẹ, còn gì thanh thản nào hơn?

 

Khi thấy kẻ khác bị cô đơn bỏ mặc,

Người bạn nào là chẳng bất mãn giận dữ?

Khi thấy người ta xử sự vô ơn

Mẹ nào là chẳng tủi hờn xót xa

Nhưng tình Mẹ rất bao la

Mẹ không thấy vậy xót xa chút nào.

 

Khi trên vách núi lâm nguy sắp lộn nhào xuống vực

Có người bạn nào giữ ta mà chẳng mong được đền đáp?

Nhưng mẹ thì dám chìa tay

Cho ta nắm lấy vi đầy tình thương.

 

Trong giao lưu hỗ tương bè bạn,

Ai là chẳng muốn được chọn phần hơn

Mẹ từng chia sẻ bao lần,

Không giành dẫu lấy nửa phần mà thôi.

 

Mẹ ơi!

Như duy nhất hoa khôi Đa-nét, (2)

Quá nhiệt tình nàng rất yêu chồng

Luống công nguyền rủa khoảng không vô hình

Nhưng nàng nghiêng chiếc độc bình

Đổ đầy ăm ắp tràn tình yêu thương.

 

CHÚ THÍCH

1- René Armand François Prudhomme (16/3/1839 - 6/9/1907), thường gọi tắt là Sully Prudhomme, sinh ngày 16/3/1839 tại Paris. Mồ côi cha lúc lên hai tuổi, giỏi toán, say mê ngôn ngữ và thơ Pháp. Ông từng được bầu vào ghế 24 của Viện hàn lâm Pháp năm 1881. Năm 1901 ông là người đầu tiên nhận giải Nobel văn học (ngày 10/12/1901). Ông dùng tiền của giải thưởng Nobel lập ra một giải thưởng dành cho các nhà thơ trẻ nước Pháp.

2- Nàng Đa-nét => Thần thoại Hy lạp kể về các nàng Danaïde, còn gọi là Danaides hay Danaids, chuyện kể  rất dài dòng, ở đây chỉ xin tóm tắt đại ý.

Egyptos và Danaos là hai anh em sinh đôi. Egyptos cai trị đất Ai Cập, sinh được 50 con trai. Danaos cai trị đất Lybie, sinh được 50 con gái. Hai anh em bất hoà. Egyptos muốn Danaos phải sáp nhập vào vương quốc Lybie và cưỡng bức Danaos phải gả con trai cho các con gái của mình. Danaos khước từ. Chiến tranh xảy ra, cha con các nàng Danaides chạy trốn, lênh đênh trên biển, được nữ thần Athena giúp đỡ chỉ lối dẫn đường. Sau đó ít lâu họ mang lễ vật, cầm cành olive, biểu hiệu của sự cầu xin che chở, đến xin nương náu tại đất Argolide ở Hy Lạp vốn là quê hương của họ. Nào ngờ, bị hùng binh của vua Pélasge cai quản đất Argolide xông đến. Vua Argolide cho đại quân ra trấn giữ, thấy ông vua già cùng các nàng thiếu nữ cầm cành olive tỏ vẻ hiếu hoà xin che chở. Lại nghe các nàng viện dẫn đến tổ phụ Zeus uy quyền hùng mạnh nhất để xin đừng xua đuổi cha con họ và đừng giao nộp các nàng cho những người con trai của Egyptos. Khó nghĩ, vua bèn đưa ra giải pháp: một mặt khuyên các nàng vào thành Argos lập bàn thờ xin thần linh che chở, một mặt vua triệu tập hội nghị thỉnh ý các thần dân có cả cáng nàng tham dự. Hội nghị chấp nhận lời cầu xin của cha con các nàng Danaide. Vừa hay, sứ giả của Egyptos tới, toan bắt các nàng và nói lời láo xược.  Vua Pélasge nổi giận trục xuất tên sứ giả. Chiến tranh lại xảy ra . Vua Pélasge phải bỏ thành chạy lên phía Bắc. Dân Argos bầu Danaos làm vua thay thế Pélasge và chấp thuận gả 50 nàng Danaides cho 50 con trai của Egyptos. Tiệc tan, nghe trong phòng các nàng có tiếng rên quằn quại, thì ra, các nàng đã vâng lệnh vua cha Danaos giết chồng, vì họ đã làm cha con họ  phải long đong. Nhưng chỉ có một nàng tên là Hypermnestre bất tuân lệnh cha đã không giết chàng Lyncée chồng mình, vì cảm thấy tàn nhẫn và vì thực sự nàng đã quá yêu chồng mình. Hai vợ chồng này bị vua cha tống giam vào ngục tối, bị kết án tử hình. Vừa hay, nữ thần Aphrodite xuất hiện, thấu hiểu trái tim yêu đương của họ, nên bênh vực cãi cho hai vợ chồng này được tha bổng, các thần trên thiên đình cũng tán thành cho họ con cháu đầy đàn, dòng dõi là những bậc anh hùng vĩ đại. Chính người anh hùng Héracles của Hy Lạp là con dòng cháu giống của cặp vợ chồng Lyncée và nàng Danaide tên Hermestre.

Bốn mươi chín nàng kia đã giết chồng đáng lẽ bị trừng phạt, nhưng Nữ Thần tổ phụ Zeus lệnh cho các thần tẩy trừ ô uế của tội ác, còn việc lo gả chồng cho họ, thi mở hội thi đấu lấy thưởng. Còn tội ác vẫn không quên được, nên khi chết đi, các nàng này phải chịu hình phạt đội chiếc vò đi kín nước đổ vào thùng lớn đáy có hàng trăm lỗ, và phải đổ cho đầy. Dĩ nhiên đó là công dã tràng. Ngày nay trong văn học thế giới có tục ngữ “Le tonneau des Danaïdes” & “ Remplir le tonneau des Danaïdes” là để chỉ việc làm vô ích luống công.

3- Người dịch bình luận:

Đem bao nhiêu so sánh, tác giả vẫn không thể cạn lời đề cao Tình Mẹ vô song (sans maître, sans rival):

“Tình Mẹ lẽo đẽo theo ta,

Biển đời chướng ngại như là sóng xô,

Nhấp nhô chìm nổi dật dờ,

Nông sâu vùi dập bến bờ dội ra,

Một tay Mẹ dắt vượt qua,

Không người hỗ trợ, thật là vô song!

(Pour nous suivre il monte ou s’abîme,

À nos revers toujours égal,

Ou si profond ou si sublime

Que, sans maître, il est sans rival.)

Cuối cùng, kết thúc bài thơ,  tác giả phải đem tình yêu đôi lứa của một nàng hoa khôi Đanét còn lại, một người yêu chung thuỷ, vượt thắng mọi trở lực cản ngăn, biết rằng bất tuân lệnh vua cha là trọng tội, nàng đã không giết chồng, không hẳn vì từ tâm trước việc làm tàn nhẫn bất nhân, mà là vì tình yêu mãnh liệt, đến mức các thần đều phải khuất phục, một tình yêu ăm ắp đổ tràn đầy độc bình trong khi bốn mươi chín nàng kia luống công đổ sao cho đầy thùng thủng đáy!!

“Nhưng nàng nghiêng chiếc độc bình

Đổ đầy ăm ắp tràn tình yêu thương.”

Vả chăng cũng chính từ tâm ấy đưa đẩy đến tình yêu này. Chính lòng khoan dung từ tâm ấy đã là cội rễ của chủ nghĩa anh hùng coi thường mọi trở lực áp đảo, từ hai đối cực tương khắc ấy đã phát sinh Tình Mẹ. Cho nên nói đến Mẹ là phải nói Mẹ Hiền, Từ Mẫu. Nước mắt vẫn chảy xuôi, văn hoá nào cũng một tư tưởng ấy, loài vật còn thế huống chi con người. Lòng Mẹ hy sinh, cao cả khôn lường là thế. Tình Mẹ mênh mông như trời biển là vậy. Cho nên ngay vào bài thơ tác giả đã nhận định:

“Lòng từ ái hợp cùng lòng can đảm

Vì yêu thương mà dám hy sinh

Mẹ không thiết cả thân mình

Tình Mẹ cao cả mông mênh biển trời!

Chỉ cần tha thiết một lời,

Một lời nhỏ nhẹ, tức thời: “Mẹ đây!”

Từ đâu Mẹ đã đến đây?

Nơi nào thiếu Mẹ, ai hay được nào?”

Cho nên nói đến Mẹ là phải nói Mẹ Hiền, Từ Mẫu. Nước mắt vẫn chảy xuôi, văn hoá nào cũng một tư tưởng ấy, loài vật còn thế huống chi con người. Lòng Mẹ hy sinh, cao cả khôn lường là thế. Tình Mẹ mênh mông như trời biển là vậy. Cho nên ngay vào bài thơ tác giả đã nhận định:

“Giữa khoan dung với bạo lực,

Rõ ràng hai đối cực khắc xung,

Chính lúc ấy Tình Mẹ mênh mông xuất hiện.

Chỉ cần tha thiết một lời,

Một lời nhỏ nhẹ, tức thời: “Mẹ đây!”

Từ đâu Mẹ đã đến đây?

Nơi nào thiếu Mẹ, ai hay được nào?”

(Fait d’héroïsme et de clémence,

Présent toujours au moindre appel,

Qui de nous peut dire où commence,

Où finit l’amour maternel?)

Với người Công Giáo, ngoài Mẹ trần gian, ta còn Mẹ Thiên Đàng, Mẹ Hằng Cứu Giúp. Mẹ luôn luôn đồng hành với chúng ta, Mẹ là trung gian của tình Chúa Ba ngôi. Giáo Hội dành hai tháng vinh danh Mẹ: tháng năm dâng hoa kính tiến Mẹ, tháng mười dâng tràng chuỗi Mân Côi như lời Mẹ dạy khi hiện ra với thánh Đa Minh (1170-1221) trong biến cố dẹp bè rối lạc đạo Albigensê nước Pháp thời Trung Cổ và cũng là lời nhắn nhủ thiết tha của Mẹ trong những lần Mẹ hiện ra tại Fatima xưa kia và tại khắp nơi sau này. Kinh cầu Đức Bà dành năm mươi tước hiệu đề cao địa vị cao sang của Mẹ, ca ngợi Tình Mẹ vô song cao vời, tắt một lời là =>  Mẹ Tình Thương

Đỗ Quang Vinh diễn dịch

Truyện khác

Bốn chất thay thế đường lành mạnh

Bốn chất thay thế đường lành mạnh

22/01/2024

Một số chất làm ngọt tự nhiên và ít gây hại cho cơ thể như đường cỏ ngọt, đường la hán, mật ong và đường nâu. Trong một bài báo tổng quan bao gồm 46 nghiên cứu về đường không ly tâm, tác dụng được báo cáo nhiều nhất là [tăng khả năng] miễn dịch (26%)...

Cá mắm xứ Huế

Cá mắm xứ Huế

09/02/2024

Viết về Cá và Mắm xứ Huế, tôi dựa vào ít ỏi vài tài liệu trong tay tuy không đầy đủ nhưng tôi hy vọng nêu lên phần nào một trong những nét đặc trưng ẩm thực của người dân Huế.

Art