Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
(Trích Các Nhà Văn Quốc Ngữ Tiền Phong - Huỳnh Ái Tông)
Tác phẩm :
Cương Từ Thức Truyện
Đối được vợ
Kiếp phong trần
Tên thật của ông, là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long, sau nầy thuộc tỉnh Bến Tre.
Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và Nguyễn Thị Châu, năm 1842, được 5 tuổi, ông học chữ hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), có lẽ sau đó, mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ nầy, ông học chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.
Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchea, đây là trường đạo dành để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa , nhờ ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên.
Năm 1851, Trương Vĩnh Ký theo Linh mục Long qua họctại Tổng Chủng Viện Viễn Đông Quốc Ngoại Truyền Giáo ở Poulo-Pénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn chương, khoa học, triết lý qua chữ La tinh, và ở tại đây, công có dịp học thêm các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Độ và Nhật.
Năm 1858, được tin mẹ mất, ông rời Poulo-Pénang trở về Cái Mơn, năm nầy ông được 21 tuổi. Hai năm sau, qua sự giới thiệu của Linh mục Lefèvre, Trương Vĩnh Ký ra làm thông ngôn cho Đại úy Jauréguiberry. Năm 1861, ông lập gia đình với bà Vương Thị Thọ rồi lập gia cư ở Chợ Quán (nay ở ngay tại góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng, quận 5 Sàigòn). Năm 1862, ông bị chuyển ra làm việc ở Huế.
Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân loại, và hội chuyên học tiếng Đông phương.
Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Đông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).
Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Định Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Đốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chánh trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!
Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện và làm Giám quan, cố vấn cho vua Đồng Khánh.
Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời khỏi sân khấu chánh trị mà cả phía Pháp cũng như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và vui thú văn chương.
Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ, đọc Ý sáchChuyện Đời Xưa để thấy rõ hoài bão của ông:
Kêu rằng chuyện đời xưa, vì nó là những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế.
Ta cũng có thêm một hai chuyện thiết tích mà có ý vị vui, dễ tức cười, cũng để cho người ta thấy khen mà bắt chước, thấy chê mà lánh.
Góp nhóp trộn trạo chuyện nọ chuyện kia, in ra để cho con nít tập đọc chữ quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen.
Nay ta in sách nầy lại nữa: vì đã hết đi, cũng vì người ta dùng sách nầy mà học tiếng, thì lấy làm có ích. Vì trong sách ấy cách nói là chính tiếng An Nam ròng, có nhiều tiếng nhiều câu thường dùng lắm.
P.J.B. Trương Vĩnh Ký
Năm 1888, ông xuất bản một nguyệt san lấy tên là Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées ou lectures intructives pour les éleves des écoles primaires, communales et cantonales et les familes), nguyệt san nầy số 1 không có ghi ngày tháng xuất bản, chỉ có ghi năm 1888, từ số 3 trở đi có ghi thêm Juillet 1888 và các số sau ghi mỗi số một tháng kế tiếp. Như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) 1888 và số sau cùng là số 18 năm 1889, in khổ 16cm X 24cm, mỗi số có 12 trang.
Sau đây trích trang 3 số 1. (Có hàng chữ Hán : Thường Bả Nhất Tâm Hành Chánh Đạo)
(Đạo) (Chánh) (Hành) (Tâm) (Nhất) (Bả) (Thường) (2)
Bảo
Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú.
Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kì, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng, chuyện tam hoàng cuốc chí, pha phách lộn lạo xào bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà chẳng phải chơi không vô ích đâu, cũng là những chuyện con người ta ở đời nên biết cả. Có ý có chí thì thì lâu nó cũng thấm, như là trí con trẻ còn đang sáng láng sạch sẻ, tinh thần còn minh mẫn, tươi tốt như tờ giấy bạch, như sáp mềm, vẽ vời, uốn sửa sắc nào thế nào cũng còn đặng: tre còn măng dễ uốn, con còn nhỏ dễ dạy.
Phép học là trước học lễ sau học văn; được cả hai ấy mới ra con nhà gia giáo, biết phép tắc, lễ nghi, can thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn chương, kinh sử, truyện cổ tích cổ kim ấy là đấng đợt con người tử tế: ở đời dù sao cũng chẳng nao, chẳng mếch: vì hể người (Đạo) (Tâm) ( Nhân) đạo tâm nhơn, người (Hiếu) (Tâm) Nhân) hiếu tâm nhơn, người (Hảo) (Tâm) (Nhân) hảo tâm nhơn, và người (Thiện) (Tâm) (Nhân) thiện tâm nhơn thì (Hoàng) (Thiên) (Bất) (Phụ) hoàng thiên bất phụ. Lấy đó làm mực mà ở thì nên, vì trời đất không lầm (Thiên) (Địa) (Bất) (Thác) thiên địa bất thác. Hãy cứ thường nắm một lòng làm đạo chính thì sẽ qua truông đời xống (3), xống bình an vô sự.
P. Trương Vĩnh Ký
Chẳng những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong xứng danh của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng, ông đã được các vinh dự:
1-10-1863: Lãnh huy chương Dõng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã.
27-6-1886: Lãnh huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha.
15-2-1876: Được cử làm hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu.
07-7-1878: Được cử làm hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris.
17-5-1883: Lãnh huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của nước Pháp.
17-5-1886: Lãnh Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều.
04-8-1886: Lãnh Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của nước Pháp.
03-6-1887: Lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của nước Pháp.
Ông cũng có lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt.
Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ.
Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
Trong khoảng năm 1873-1874, ông được liệt vào hàng thế giới thập bát văn hào, xếp theo mẫu tự như sau :
Bác sĩ Allemand, Banadona d Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae Daun.
Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếnng Đông phương, về phương diện nầy, ông là nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Đông phương.
Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Đông phương, chính ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông vẫn giữ được phong hóa Đông phương, thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn của ông viết vào ngày 8-11-1870.
Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khóị Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong...
Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày lâm chung :
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con sách nát,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài !
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.
Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sàigòn, trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán. Thời Pháp, tưởng nhớ công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Độc Lập.
Tại Thủ đô Sàigòn, Bộ Giáo Dục dành một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Đại Học Khoa Học Sàigòn.
Kê ra những sách và bài của ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng (4):
1. Năm 1865 : Cours pratique de langue Annamite, à lusage du college des interpretes.
2. Năm 1867 : Contes Annamite (Chuyện đời xưa)
3. : Abrégé de Grammaire Annamite
4. Năm 1872 : Grammaire Francaise (Mẹo Luật dạy tiếng Lang sa)
5. Năm 1875: Petit cours de Geographie de la Basse-Cochinchine
6. : Histoire Annamite en vers (Đại Nam quốc sử diễn ca)
7. : Cour de Langue Annamite (autographié)
8. : Cour de Langue Mandarine ou de Caractes Chinois (autographié)
9. : Kim Vân Kiều-Poème transcrit pour la première fois en quốc ngữ avec des notess explicatives, précédé dun résumé succinet du sujet en prose et suivi de quelques pièces de vers relatives à la même histoire.
10. Năm 1876: Manuel des Écoles Primaires-(Syllabaire quốc ngữ, Histoire Annamite, Histoire Chinoise (en ananmite)
11. : Quatre livres classiques en caractères Chinois et en annamite (autographié)
12. : Alphabet quốc ngữ
13. Năm 1877: Sơ học vấn tân Répertoire pour les nouveaux étudiants en caractères
14. Năm 1879: Cour d Histoire Annamite, en 2 volumes
15. Năm 1881: Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc kỳ năm Ất hợi)
16. : Retraite et Apothésose de Trương Lương.
17. : Les convenances et les Civilités Annamites.
18. Năm 1882: Saigon dautrefois.
19. : Saigon daujourdhui.
20. : Passe-temp (Chuyện khôi hài)
21. : Apologie de Trương Lương (Trương Lương hầu phú)
22. : Événement de la vie (Kiếp phong trần, 3è edition)
23. : Fais ce que doit , advienne que pourra (Bất cượng)
24. : Devois des Filles et des Femmes.
25. : La Bru (Thơ dạy làm dâu)
26. : Défaut et Qualités des Filles et des Femmes.
27. Năm 1883: Guide de conversation Annamite Francaise (Sách tập nói tiếng An-nam Phangsa)
28. : École domestique ou un Père et à ses Enfants.
29. : Caprises de la Fortune (Thạnh suy bỉ thời phú)
30. : Procription des Corbeaux (Bài hịch con quạ)
31. : Un lettré pauvre (Hàn nho phong vị phú)
32. Năm 1884: Grammaire de la Langue Annamite (Sách mẹo tiếng Annam)
33. : Tam tự kinh.
34. : Sơ học vấn tân.
35. : La Digne (Mắc cúm từ)
36. : Jeux et Opium (Cờ bạc, nha phiến)
37. : La Bucheron et la Pêcheur (Ngư tiều trường điệu)
38. : Huấn mông ca Transcription et traduction en annamite et en francais.
39. Năm 1885: Alphabet Francais pour les Annamite.
40. Năm 1886: Conférence sur le Souvenir histoirique de Saigon et de ses environs.
41. : Cours de la Langue Annamite aux Européens-Phrasélogie-Thèmes versions.
42. : Cours dAnnamite aux Élèves Européens-Explication du Lục Vân Tiên
43. : Cours dAnnamite aux Élèves Annamites-Explication du Lục Vân Tiên
44. : Prosodie et Versification Annamite-Cour dAnnamite aux Élèves Annamite.
45. Năm 1886: Dispute de Mérite entre les six Animaux domestique (Lục súc tranh công)
46. : Maitre et Élève sur la Grammaire Francaise (Thầy trò về mẹo luật tiếng Phangsa).
47. : Kim Vân Kiều en prose-Converti et commenté en langue vulgaire pour les Élèves Annamite.
48. : Théâtre, Comédies, Chants, Chansons Annamite(Hát lý hò Annam) Cours aux Elèves Annamite.
49. Năm 1887: Cours de caractères Chinois, 2è année-Explication du Mencius, Thèmes, Versions et explication des pièces officielles.
50. : Vocabulaire des Mot usueles, Noms et termes Techniques, Scientifiques, et Administratifs.
51. : Livres Élémentaire de 3.000 caractères (Tam thiên tự giải nghĩa).
52. : Résumer de la Chronologie de lHistoire et de la Production de lAnnam en Tableau Synoptiques (Ước lược sự tíchnước Nam)
53. : Précis de Géographie
54. : Les six Annimeaux domestiques (Lục súc)
55. Năm 1888: Đại Nam thập nhứt tỉnh thành đồ.
56. : Miscellanées ou Lectures instructives pour les Élèves des Écoles primaire, communales et cantonales et les Familles.
57. Năm 1889: Poème populaire (Lục Vân Tiên)
58. : Poème populaire (Phan Trần)
59. : Cours de Siamois
60. : Cours de Langue Malaise, professé et autographié jusqúà là 7è lecon.
61. : Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
62. : Quatres Livres classiques en Caractères Chinois et en Annamite-Grande Étude Invariable Milieu.
63. : Grand Dictionnaire Annamite Francaise-1er feuille comme spécimen
64. Năm 1890: Cours de Cambodgien (Ecriture et langue)
65. : Vocabulaire du Cours dAnnamite.
66. : Vocabulaire du cours de Caractères Chinois.
67. Năm 1891: Cours de Littérature Chinoise.
68. : Cours de Littérature Annamite.
69. : Programme Générale dÉtudes des les Écoles Annamites.
70. : Modèles des Pièces officielles et administratives en caractères.
71. : Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh Ký.
72. : Sĩ viên thi thảo.
73. : Recueil de Brochures sur lhistoire de la littérature annamite, relié.
74. Năm 1894: Cours dAnnamite parlé (vulgaire)
75. : Grand Dictionnaire Francais-Annamite (invachevé)
76. ( 5 ) : Grammaire de la Langue Chinoise (Mẹo chữ Nhu)
77. : Grammaire Annamite en Annamite (Mẹo tiếng Annam)
78. : Langage de la Cour en Extrême-Orient
79. : Vocabulair Francais-Malais
80. : Guide de la Conversation Malaise-Francaise
81. : Vocabulair Francais-Cambodgien
82. : Guide de la Conversation Cambodgienne-Francaise
83. : Vocabulaire Francais-Siamois
84. : Vocabulaire Siamoise-Francaise
85. : Cours de la Langue Birmane
86. : Vocabulaire Birman-Francais
87. : Guide de la Conversation Birmane-Francaise
88. : Cours de Ciampois
89. : Vocabulaire Ciampois-Francais
90. : Guide de la Conversation Ciampoise-Francaise
91. : Cour de la Langue Laotienne
92. : Vocabulaire Laotien-Francais
93. : Guide de la Conversation Laotienne-Francaise
94. : Cours de la Langue Tamoule
95. : Vocabulaire Tamoul-Francais
96. : Guide de la Conversation Tamoule-Francaise
97. : Cours de la Langue Indoustane
98. : Vocabulaire Indoustan-Francais
99. : Guide de la Conversation Indoustane-Francaise
100. : Minh tâm-La précieux Miroir du Coeur (en 2 vol)
101. : Cours de la Géographie de lIndochine avec carte générales et partiuculières en six parties: 1. La Cochinchine-francaise, 2. LAnnam central, 3. Le Tonkin, 4. Le Cambodge, 5. Le Siam, 6. La Birmanie.
102. : Cours dAnnamite écrit (Mandrin ou de caractères chinois)
103. : Mencius-(Quatre Livres) No 3
104. : Luận ngữ (Quatre Livres) No 4
105. : Dictionnaire Chinois-Francais-Annamite.
106. : Annam Politiqye et Social
107. : Dictionnaire biographie Annamite (ou De Viris illustribus regni Annamitici)
108. : Flore Annamite
109. : Produits de lAnnam
110. : Dictionnaire Géographie Annamite.
111. : Les Droits de lAnnam dans la Vallée du Mékong (Mémoire sur)
112. : Recueil de Chansons populaire Annamites
113. : Recueil dOraisons funèbres Annamites
114. : Recueil de pièces de théâtre Annamite
115. : Sujets Histoiriques des Poèmes Annamites
116. : Étude comparée sur les Langues, Écritures, Croyances, et Religions des Peuples de lIndochine.
117. : Combinaisiondes systèmes décritures idéographique, hiérogkyphique, phonétique, alphabétique
118. : Étude comparée des Langues et des Écritures des trois branches linguistique.
119. Năm 1937: Petit Dictionnaire Francais-Annamite à lusage des écoles et des bureaux.
Sau khi kê các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, chúng ta thấy khoảng thời gian 33 năm với 119 tác phẩm chúng ta được biết đến, có thể có những tác phẩm đã bị thất lạc nên không có trong danh sách nầy.
Văn nghiệp để lại đồ sộ, phong phú, đa dạng, gồm nhiều địa hạt như : Triết học, Văn học, Sử học, Địa lý... Riêng về ngành ngôn ngữ học, ông đã viết nhiều sách dạy tiếng Á Châu như : Trung Hoa, Lào, Kam pu chia, Thái Lan, Miến Điện, Mã lai, Ấn Độ chứng tỏ ông là nhà thông thái hiếm có, danh tiếng của ông chẳng những chỉ có ở trong nước mà còn có ở nước ngoài thời bấy giờ.
Cho nên về văn học chữ quốc ngữ, Pétrus Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà văn tiền phong.
( ...)
Huỳnh Ái Tông
(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang 30-32
(2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán.
(3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa chánh tả, xống: sống
(4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
Cương Từ Thức Truyện
Năm Quang-thái đời Trần, ở trong xứ Hóa-châu (Huế, ngũ quang) có tên Từ-Thức vốn dòng-trâm anh. Cha người xưa dự bực công khanh, nhờ ơn vua nên mạng tù thân, làm quang Tể-huyện coi hạt Tiên-du. Gần miền có một chùa tên là Lam-tích, góp thâu cảnh bầu thiên, mẫu-đơn một đóa sen mấy nhành, tiếng đồn khắp hết gần xa, trẻ già náo-nức yến anh dập diều.
Từ-Thức cũng ra đi coi cho biết, tới nơi hoa mẫu-đơn, bỗng đâu xảy gặp một người xinh tốt lịch-sự quá chừng quá đỗi, trên trời cũng ít có, dưới đời thì hản không. Thấy nàng (Giáng-hương) bị kẻ giữ hoa bắt cầm, thì thương mới đòi trẻ tùy-nhi mà biểu nó đi hỏi vì cớ làm sao làm vậy? Người ta nói nàng coi hoa nên bị bắt. Từ-Thức rằng trọng vọng gì thứ ấy, mà khách tiên phải tay phàm nhủm-nha như vậy. Bèn bước tới cổi áo gấm ra cho thằng canh, mà xin tha cho nàng đi.
Nàng tiên cám ơn Từ-Thức hết lòng. Rồi từ tạ trở về cõi tiên. Chàng Từ-Thức từ ấy những thương những nhớ luôn luôn, nên buồn đi chơi mãi, những say cảnh vật thú vui. Sau treo ấn-tín từ chức quờn đi. Sắm thuyền tớ thầy đi lưu-linh dạo cảnh chơi, đụng hang nào ghé hang nấy coi; khỏi Xích-bích tới Viên-đào, trải qua non nước khắp nơi. Ngày kia trông ra cửa Thần-phù, (7) ngoài xa biển, ở bắc quấc chạy qua nam phương, mới nói với nàng Giáng-hương mà xin về thăm quê đặng có phú trối việc nhà cho an rồi hãy trở lại non tiên mà ở mãn kiếp cùng nhau. Nàng Giáng-hương mới năn nỉ cầm ở lại, mà chàng Từ-Thức rằng-rằng quyết một xin về. Đem nhau vào chầu chúa Tiên coi thử người phán dạy lẽ nào. Chúa tiên phán rằng chàng còn lòng tục chưa dời, còn nhớ tưởng sự đời bấy lâu thì thôi, về thì cho về, cho xe tiên đưa về. Giáng-hương mới trao một bức thơ phong làm của đưa chàng.
Chàng Từ-Thức cầm thơ từ tạ ra về. Tới nơi thì đã vật đổi sao dời khác xưa. Tìm nhà nhà chẳng còn; tìm người, người những mặt lạ cả; không thấy lấy một người quen, hỏi ông bà già cả, thì nói không biết, nói tên nói họ ra cũng không ai biết; các ông già nói: từ thuở nhỏ có nghe nói tên ấy họ ấy mà biết đã mấy đời rồi bây-giờ còn ở đâu mà tìm?
Từ-thức ngơ ngáo không biết làm sao, muốn trở lại non tiên cùng nàng Giáng-hương, hay đâu sự dở-dang ra rồi; xe mây đưa mình nó đã đi mất đi. Một mình bơ vơ ngao ngán, mới mở thơ ra mà coi, thì biết đã đành cách-biệt, không còn lẽ trở lại nữa được. Thở than than thở ra đi, chun vào ở núi Huỳnh-sơn, ở ăn đó làm sao thì biệt tích không rõ đặng.
Đối Được Vợ
Anh học trò khó lịch-sự bảnh bao người, đi khuyên giáo, tới nhằm cái nhà kia giàu có. Trong nhà thợ đương làm ầm ầm ạc ạc, cũng có tiếng thầy lang ( thầy thuốc) với thầy pháp tới đó nữa.
Con gái nhà ấy đã đúng tuổi chưa có chồng, thấy vậy thì thương, ra nói rằng: Thôi đừng có đi khuyên giáo làm chi mà xấu hổ đạo học trò, để tôi ra cho một câu đối, ai đáp được trúng ý tôi thì tôi sẽ lấy người ấy làm chồng.
Ai nấy nghe ham chợp rợp. Xin ra câu đối đi. Cô ấy ra rằng:
Đế Nghiêu, đế Thuấn, đế Võ; Võ, Nghiêu, Thuấn, tam đế truyền hiền.
Chú thợ mộc hớp tớp đối lại rằng:
Bào rà, bào tách, bào xoi; xoi, rà, tách, ba bào phạt mộc.
Thầy pháp cũng nóng đối rằng:
Lôi thiên, lôi tướng, lôi bồng; bồng, thiên, tướng, tam thiềng trừ quỉ.
Thầy chùa xen vào đối rằng:
Bồ đề, bồ Tát, bồ lương; lương, Đề, Tát, tam bồ cứu khổ.
Thầy lang lại đối rằng:
Huỳnh cầm, huỳnh bá, huỳnh liên; liên, cầm, bá, tam huỳnh giải nhiệt.
Anh học trò lịch ịch ở sau, đối rằng:
Vương Văn, Vương Khải, Vương Thang; Thang, Văn, Khải, tam vương kế thánh.
Đối trúng ý, trúng đề, cô ấy chấm được.
May cha chả là may; sẵn nhà, sẵn cửa, sẵn cơm, sẵn gạo; nhảy phóc vô đó một cái, sướng đã nên sướng !
(Chuyện khôi hài - Passe-temps - bài số 9)
Kiếp phong trần
Anh Trương Đại Chí đi ra kinh học, rồi về đi xứ kia xứ nọ chơi cho phỉ chí, đâu cũng vài mươi năm mới về thăm quê nhà. Bữa kia mới đi tới nhà anh Lê Hào Học là bạn chơi với nhau thuở nhỏ mà thăm.
Lê Hào Học mừng rỡ hết sức, hối trầu, nước; rồi lay trẻ trong nhà dọn cơm đập vịt gà uống rượu mừng bạn đi xa lâu năm mới về.
Ăn uống chuyện trò rồi, trời vừa tối, Trương Đại Chí mới kiếu về; mà anh Lê Hào Học cầm một hai ở lại chơi một đêm mà hỏi thăm chuyện.
Thấy gắng vó lắm không phép làm sao, Trương Đại Chí mới ở lại đó. Nhằm bữa trăng tỏ, trời thanh, gió mát, Lê Hào Học mới nói rằng:
- Anh thật có phước! Cũng nhờ âm đức cha mẹ ông bà, mà được học hành thông kim bác cổ, lại thêm châu lưu khắp miền khắp xứ, điều nghe thấy rộng lắm, từng trải việc đời...
Trương: - Thật cũng là phước đó chúc. Nhưng mà kiếp phong trần người ta, phước, ôi! Có bao nhiêu mà hoạ biết mấy?
Lê: - Thiệt tình, tôi vô phước ăn học chẳng được bao nhiêu, dốt nát lắm, xin cho tôi học theo. Chớ kiếp phong trần anh nói đó là kiếp gì? Tôi không hiểu rõ, xin anh cắt nghĩa cho tôi nghe thử?
Trương: - Phong trần nghĩa là gió bụi, chỉ là cái đời tạm đời gởi này, hay đổi dời biến cải, nay vầy mai khác, vui đó buồn đó, giàu đó nghèo đó, sướng đó cực đó,... vinh nhục bĩ thới đắp đổi; ấy là cuộc bể dâu (thương tang).
Lê: - Làm sao kêu là bể dâu kìa?
Trương: - Là cuộc cồn hóa vực, vực hóa cồn.
Lê: - Cái anh thật hiểm thì thôi đó! Nói cái gì vậy tôi hiểu không được: Cồn làm sao lại hóa vực, vực sao lại hóa cồn? Nghĩa là gì?
Trương: - ấy mới dốt cho chớ! Tại anh một năm tới tôi, những lục đục ở nhà, không có nới ra mà đi đâu, nên mới không biết. Trong sách Lý khí người ta có luận rằng: có một ông già kia ở chòi gần mé biển; thấy trong cõi hồng trần này, hễ 30 năm thì có một lần biến nhỏ, mà hễ 300 năm thì có một lần biến lớn thì trời đất đổi xoay cồn hóa nên vực vực biển nên cồn; biển cạn thành cồn trồng dâu được cũng có; đất liền lở sâu thành biển cũng có. Mỗi khi có biến thì ông ấy làm một cái thẻ tre mà để trong nhà. Nên sau có một người khách tới đó thấy ông già già lắm, thì hỏi thăm tuổi bao lớn. Ông già nói rằng: tôi không biết mà mỗi khi có biến thì tôi có bỏ 1 cái thẻ làm chứng; ông đếm lấy thẻ thì biết tuổi tôi. Sách nói làm vậy mà cũng chưa đủ tin. Anh đi ra ngoài Bắc coi thử: đất mé sông đất màu mỡ đang tốt hết sức, vùng lở ầm xuống một cái thành cái vực sâu thăm thẳm dò không tới đáy. Chỗ khác đang sâu thuyền bè ghe cộ đi thường ngày, ở đâu vùng nổi cồn lên, người ta trồng dâu lên đám kia qua đám nọ. Nói ở đâu xa làm chi? Trong ta này, lên lối trên Gieng đây cũng có thấy được.
Người ta lấy đó mà ví cái cuộc hay dời đổi ở đời này.
Lê: - à! Vậy hay sao? Dữ không! Bây giờ có anh cắt nghĩa tôi mới hiểu đó.
Còn anh nói cái kiếp phong trần thì vinh nhục bĩ thới đắp đổi nhau chẳng khi dừng là làm sao?
Trương: - Người ta có hồn có xác, nên phải kể xác là cái tợ con mắt mình ngó thấy được trước rồi, hãy nói qua việc hồn là trí là giống không hình không tượng, mắt xác thịt không có ngó thấy.
Con người thoát lọt ra khỏi lòng mẹ, liền cất tiếng khóc oa oa, biết mình sinh ra ở thế sẽ cực khổ lao đao cho đến chết. Ba bốn năm đầu, bằng không có mẹ có cha lo nuôi dưỡng cho bú mớm, lo lắng cho thì làm sao mà sống cho đặng? Có miệng, miệng không biết nói; có tay, tay chẳng hay làm; có chơn, chơn chẳng hay đi. Phải tập lần lần sau lâu mới cử động (day trở) được: nằm ngửa cho hết sức, mới nghiêng mới lật, mới trườn mới sụt, mới xổm, mới bò, mới ngồi; sau mới đứng chựng, mới bắt bén bước đi.
Vậy mà cũng còn phải có cha mẹ giữ gìn coi sóc luôn luôn. Biết mấy khi hiểm nghèo? Ươn ê ốm đau, bệnh hoạn, cheo leo khốn khó. Không ai lo cho, thì còn gì là thân?
Lê: - Nào! Có thấy đắp đổi sướng cực đâu nào?
Trương: - Có chớ: chẳng những nội trong một năm, nội trong một tháng, nội trong một ngày, mà nội trong một giờ cũng có dời đổi cả.
Này: cười đó, rồi khóc đó; vui đó, rồi buồn đó; giỡn đó, rồi quạu đó; nay mạnh, mai đau; chơi ít bữa, rồi lại biến lại tước, sọt sẹt nóng rét... 3 bữa ê mình, 3 bữa khoẻ; tháng này cam tích, tháng kia sọp bụng; năm nay khá giỏi, sang năm bê tệ, vân vân... Hơi sức đâu mà kể những cái biến thường ngày, thường tháng, thường năm; một năm tới tôi không biết mấy lần mà kể. Vậy chẳng phải là luân phiên thay đổi nhau mãi hay sao?
Lê: - Vậy thì dở lắm; té ra khi còn thơ ấu, nhờ cha nhờ mẹ, như gà con nhờ cánh mẹ núp; theo mẹ từ bước mới xong!
Trương: - Phải đó chúc; vậy mà đã rời ra được đâu? Cũng như cây nhỏ non nhớt nhờ bóng cây lớn mới sống mới tốt được. ấy coi, đó là nói lúc mới sinh cho tới lên 3; còn từ đó sấp lên 8, 9, 10 tuổi, thì cũng nhờ cha mẹ chăn giữ coi sóc từ điều, đường đi nước bước, dạy lời ăn tiếng nói, dạy cho biết thờ cha kính mẹ, thuận thảo anh em, tế nhường cậu cô chú bác cùng người lớn.
Lê: - Dữ không! Hết mười năm chưa làm được cái gì cho cha mẹ nhờ, những nhờ cha mẹ mà thôi!
Trương: - Tưởng đến đó thì đã xong rồi sao? Tưởng vậy thì lầm lắm: Đến tuổi ấy cha mẹ lo cho đi học, hoặc học chữ nghĩa văn chương, hoặc học nghề nghiệp làm ăn.
Học chữ nghĩa thì cũng trót 10 năm mới thành tài, hoặc ra thi khóa với người ta.
Học nghề cũng 5, 7 năm mới ra nghề được; cũng là cơm cha áo mẹ; cha mẹ lo cho hết thảy cả.
Lê: - Cha chả! Vậy thì công ơn cha mẹ biết mấy với con!
Trương: - Tục hát rằng: ơn cha nặng lắm cha ôi! Ngãi mẹ bằng trời chín tháng cưu mang! Mà chưa hết đâu? Từ 18, 20, 25 sấp xuống, cha mẹ đà lo nhắm chỗ xem nơi, đặng có lo đôi bạn cho con. Ôi thôi! Chịu lòn đầu, mượn mai mượn mối đi nói. Khó bề nào cũng rán với con, đòi mấy lễ phải sắm đi mấy lễ; đòi món gì vật gì cũng phải chạy. Xong rồi về còn ở với cha mẹ đôi ba năm, năm bảy năm mà tập luyện cho biết việc gia đạo đã, sau mới cho ra riêng ra tư. Vậy mà cũng không khỏi tay cha mẹ: Còn phải dạy bảo từ điều, nhắc nhở từ chặng, dặn dò trước sau; tính toán giùm trong việc buôn việc bán kẻo lầm mà lỗ lã; đồ sắm trong nhà trong cửa cái chi cái nấy, cái nào cần cái nào đáng thì mới cho sắm; Lâu đến cái dọn cái dẹp cho xứng cũng không khỏi cha khỏi mẹ. Còn khi sinh đẻ, nằm bung nằm bếp, cha mẹ chực hờ sẵn đó mà nhắc bảo lo liệu cho.
Lê: - Vậy thì cả đời cha mẹ những lo cho con mãi, lớn nhỏ cũng vậy, lớn theo lớn, nhỏ theo nhỏ.
Trương: - Chớ làm sao; bởi vậy cho nên có câu hát rằng: Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con. Lòng cha mẹ thương con cũng như tánh nước, thường xuôi hoài.
Thôi, nói sơ qua về việc phần xác cho mà nghe vậy, để nói qua việc hồn việc trí mà nghe cho luôn trót thể.
Lê: - Có vậy cũng hay; tôi nghe tôi lấy làm hay lắm; nói chừng nào tôi muốn nghe chừng nấy.
Trương: - Đến khi đã tới tuổi khôn, tuy là còn dại, ăn chưa no lo chưa đến, mặc lòng; thật tình, tam bành lục tặc nó cũng phát, cũng nổi lên, nên có khi vui khi buồn, khi lành khi quạu; khi thương khi ghét; khi mừng khi giận thay phiên đắp đổi nhau liền.
Còn khi đã lớn tuổi, thì lại có cơn buồn cơn rầu, lúc vui lúc mừng; khi thì được thoả tình phỉ dạ, khi thì lại tức mình, cực trí; khi đau lòng xót dạ, khi khoái lạc tâm trường, phước đó, hoạ đó; sướng đó cực đó; giàu đó nghèo đó. Dầu có phước mà đặng vợ hiền con thảo tôi ngay, thì lại cực lòng phiền muộn về sự khác biết đâu mà kể cho cùng. Khi vô phước gặp vợ dữ, mắc tôi loàn, bị con ngốc đi nữa, thì cũng có cái bù lại cho cân cho xứng; nhưng cũng không khỏi lận đận lao đao, không khỏi lao tâm tiêu tứ. Lòng trí động tịnh chao như nước cho đến chết mới thôi. ấy kiếp phong trần người ta là thế.
Lê: - Tôi nghe người ta thường nói lạc cực sanh ai, bĩ cực thới lai là làm sao anh hé?
Trương: - Nghĩa là vui sanh buồn, hết xấu tới tốt.... Chỉ âm dương tương kề; con người ta ở đời như trời có ngày có đêm, hết vui tới buồn; buồn rồi lại vui, hết may tới rủi; hết vinh tới nhục... Nội trong một giây một lát trí người ta sang qua đổi lại mãi. ấy sự sống người ta ở đời là làm vậy đó.
Lê: - ờ, ờ! Nghĩ đi nghĩ lại mà coi, thật quả như lời anh nói đó chúc; bấy lâu tôi ơ hờ lếu láo bất ý chẳng có xét tới làm chi, hay bỏ qua, nghe anh mới nhớ mới biết rõ là có như vậy.
Trương: - Vậy đó mà mỗi người riêng mỗi kiếp. Hễ là người sanh ra ở thế người nào người nấy đều có tài, vật gì vậy nấy mỗi cái đều mỗi có ích cả.
Lê: - Vậy sao có người sướng người cực, người sang người hèn, người giàu người nghèo; kẻ lành mạnh, kẻ yếu đuối, tật nguyền, tràn đồng thiên hạ?
Trương: - Người ta ở đời Trời đất sanh ra đều có cho nó một cái vai tuồng nào mà làm, không ai không, mỗi người đều có một nghề riêng hết thảy. Lấy việc hát bội mà ví: từ bầu gánh chí nhẫn chú nhưng, hoặc làm tướng, vua, đào, kép, sắp đến kẻ chạy hiệu, mỗi người đều có phiên thứ vai tuồng riêng cả.
Con người ta ở đời là một bọn con hát, ai có vai nấy mà làm. ấy là mỗi người riêng mỗi kiếp là làm vậy.
Lê: - Còn anh nói người người có tài, vật vật có ích, thì là làm sao?
Trương: - Là mỗi người đều có một cái sở trường riêng, ai cũng có; còn vật mỗi vật mỗi có ích riêng cả. Mà đâu nó theo thứ nó đó. Hãy xem trong bàn cờ tướng thì hiểu mau. Trước có 5 con chốt đứng giăng, kế sau 2 bên 2 con pháo; sau nữa, ở giữa có tướng, 2 bên 2 con sĩ, 2 con tượng, 2 con ngựa, 2 con xe. Trong ấy đều nhờ nhau cả. Tướng một mình thì làm gì được? Phải có tả hữu vây cánh mà đỡ mà che, là sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa. Lâu rốt hết là con chốt, đến chừng nó qua được nước người ta nó mạnh là đường nào? Khi nó đứng đầu, nó lại đỡ cho những con chạy thối về, người ta không dám ăn. Vậy hết thảy con nào đều cũng có tài nghề riêng con nấy; mà tới phiên tới thứ nó mới ngó thấy sức nó cho. Vì vậy người ở đời, vang danh phú quý, vinh hiển, cao quờn lớn chức, cùng là hèn mọn, bần tiện, vô danh, cô thế độc một, cũng chả biết lấy đâu làm chắc: còn trong tục lu biết ai công hầu? Nên có khác nhau chăng là vì một chữ thì.
Lê: - Vậy thì ai ai cũng có tài, vật vật đều có ích; thì không nên khi người, cũng không nên khi vật hé?
Trương: - Phải, chẳng nên khinh ai; cũng chẳng nên khi vật nọ vật kia vì nó hèn; vì dầu người dầu vật tới thì nó phát thì nó phát. ấy coi Trần miêng khô chuối, trước chúng bạn khinh dị hắt hủi, sau ra thi đậu làm quan vinh vang; con nai kia đi xuống suối uống nước, thấy cặp gạc cao lại xinh đẹp thì khen; ngó lại bốn cái chân mỏng mảnh, ốm yếu thì chê. Ai ngờ vẳng nghe tiếng chó săn, thất kinh đâm đầu chạy vô bụi, rủi mắc hai cái gạc vô trong dây, chó rượt kịp tới cắn, khi gần chết mới than rằng: ấy thật là dại; cái mình khen thì nó làm cho mình phải chết, còn cái mình chê thì là cái đại có ích cho mình!
Lê: - Nói như anh làm vậy, tôi nghe kịp, mà còn một cái tôi hiểu chưa ra là ở đời sao kẻ sướng người cực, có kẻ lành mạnh, có người tật nguyền khốn nạn; kẻ sao cả đời thong thả giàu sang, người sao cả đời lao đao lận đận, nghèo nàn?
Té ra Trời phân không có đều? Nên tục hát rằng: Trách trời trời chẳng hay phân: kẻ ăn không hết, người mần không ra!
Trương: - Coi thì vậy thôi, mà xét ra cho kỹ, thì sướng cực cũng bằng nhau cả; có như vậy người ta sống mới được; bằng không thì kẻ cực khổ khốn nạn hại mình mà chết đi hết còn gì?
Lê: - Nói vậy chớ ai cũng tham sanh huý tử (ham sống sợ chết); cái ấy là nhơn chi thường tình. Chớ anh không có nhớ trong sách Luận ngữ, có câu rằng: Phú dữ quí thị nhơn chi sở dục, bất dĩ kì đạo đạo đắc chi, bất khứ dã; bần dữ tiện thị nhơn chi sở ố, bất dĩ kì đạo đắc chi, bất khứ dã là làm sao? Là giàu với sang ai lại không muốn, nhưng mà gặp cái thì không nên giàu không nên sang; hay là làm điều bất nhân bất nghĩa mà giàu sang thì người ta cũng chẳng thèm; nghèo khó cùng là hèn hạ, ai mà không ghét? Nhưng vậy nghèo mà phải nhơn phải nghĩa, hèn hạ mà phải thói phải thì, thì cũng chẳng nên bỏ làm chi.
Trương: - Phải, cái cũng có, nào ai nói không; nhưng dầu vậy cũng có kẻ cùng trí hoặc thắt cổ, hoặc cắt họng, hoặc cắn lưỡi, hoặc uống thuốc mà chết đi cũng có hiếm lắm, thiếu gì?
Mà xét cho đến lẽ mà coi, thì ai cũng như vậy sướng cực bằng nhau; nghĩa là sự cực trí cũng một ngăn với nhau, nên nói là bằng nhau.
Thí dụ như một người nghèo túng một quan tiền, chạy không ra, mượn không được, vay mượn không ai cho thì trong lòng người ấy cực cũng bằng người có ăn mà túng 1 chục, hay là giàu hơn túng 1 trăm, hoặc một ngàn, mà kiếm không ra, vay mượn không được, thì cái cực trong lòng những người ấy cũng một ngăn với cái cực cái người túng có 1 quan vậy. Giả như nhà kia giàu sang lỡ có khách tử tế tới nhà, mà thiếu trà ngon, thiếu rượu tốt, thiếu thịt tươi mà đãi khách, thì trong lòng người ấy lấy làm cực lòng, bực mình cũng một ngăn với cái nghèo kia rủi có bà con ruột ở xa tới nhà mà không có đồ thường dùng, như trà Huế, như nước mắm, như cá tươi mà đãi bà con một bữa phải cực lòng, phải bực mình vậy chẳng hơn chẳng kém chẳng khác chi chút nào. Nên tục rằng: lớn thuyền lớn sóng.
Lê: - Nói vậy có lý nghe được; mà sao mắt từng thấy có người sao cả đời sướng mãi, không lo sự chi, thong thả, mà có người thấy lao đao chạy ngược chạy xuôi, lo sấp lo ngửa mà cực hãy còn cực hoài; cái tôi xét chưa tới lẽ, tôi chưa hiểu được cho rõ vì làm sao mà có như vậy.
Trương: - Thấy thì vậy, vì trí mình tưởng như vậy đó mà thôi, chớ thiệt sự có ở đâu? Chẳng qua là vì lạ con mắt; phải chi mà mình ở liền ngày liền đêm với người mình lấy làm lạ được lấy một ít lâu coi thử thì sẽ chưng hửng, vì thấy người ấy cũng có gánh cũng có cục tội riêng mình như mọi người hết thảy chẳng sai. ấy coi nhà ta có kiểng có hoa, có chậu tùng, có bồn hoa, mà nhà kia ở cách ta, năm ba tháng ta mới tới một lần, cũng có hoa có kiểng, ta ghé vào thấy tùng thấy chóa con mắt nghĩa là lạ con mắt, coi tùng của người ta xanh hơn của mình, hoa của người ta tốt hơn hoa của mình ở nhà. Mà như nhắc của hai bên ra mà đọ nhau thì của mình thấy xoáng qua đó thua xa lắm, của mình ăn mười phần có năm ba, mà bởi lạ con mắt mới ngó qua thì tưởng của người ta tốt hơn của mình; vì của mình coi đã nhàm con mắt, mà của người ta mình mới thấy một lần, lạ con mắt; hóa ra trong trí nó bắt tưởng cái mới cái lạ là tốt hơn. ấy cái ta lầm là chừng nào!
Lại ý làm sao mà cái gì của mình thường dùng thì không sá chi mấy, đến khi rủi mất đi thì liền tiếc làm sao là tiếc; giục chừng có ai được lại, thì dầu tốn ít nhiều cũng chẳng màng mà chuộc lại cho được mới nghe? Là vì khi của nó còn ở tay mình, mình thường thấy thường dùng nó đã nhàm lờn đi, nên lấy làm thường, mất đi rồi nghĩ lại cái cần cái ích của nó mà sinh ra tiếc nó. Mình có một cái nhẫn nhận ngọc, mà người kia cũng có một chiếc, mua một chỗ với nhau; mình coi cái của người kia đeo thì thấy tốt hơn, lanh hơn, nháng hơn, coi như tốt nước hơn của mình đeo trong tay mình; người kia coi cái của mình đeo thì cũng lấy cái của nó ngó thấy mình đeo làm hơn của nó. Nhơn vì tánh con người ta làm vậy, nên tục nói rằng: Người ta hay chuộng lạ tham xinh... Mới chuộng cũ vong... Có mới nới cũ...
Lê: - Còn làm sao có người dong dảy, có người cùi đày? Có kẻ thảnh thơi an nhàn? Có kẻ việc vàn không rời tay? Mà rằng cực sướng cũng bằng nhau làm sao.
Trương: - ấy là tại phận riêng mỗi người; người nào kiếp phận nấy, không chạy chối được. Phải khác nhau mới được. Trời đất đã sinh ra làm vậy mà thật là hay: ấy người ta muôn muôn vàn vàn như kiến cỏ ở trên mặt trái đất này, mà có phải khác mặt nhau hết thảy không? 5 ngón tay trong bàn so dài vắn lớn nhỏ đều khác nhau cả. Lâu đến cái nết, cái chết là cái chung thiên hạ cũng khác nhau hết; Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật.
Nói chi cho dài? Bấy nhiêu nầy cũng đủ mà cắt nghĩa cho anh hiểu thôi: nguyên là vì kẻ phải lao tâm (nhọc lòng), người phải lao lực (nhọc xác), mắc cái nầy thì trừ cái kia. Những kẻ coi bộ dong dày thong thả, thì lao tâm tiêu tứ biết là bao nhiêu? Còn những kẻ dãi nắng dầm mưa, trèo non lặn suối, giày sành đạp tuyết, thức khuya dậy sớm nhọc xác, mỏi mệt chơn tay, đổ mồ hôi xót con mắt; tuy vậy mặc lòng yên lòng yên trí, không lo tha cầu biệt sự bá ban trong bụng, như kẻ lao tâm, tuy coi bộ thong dong mặc lòng, mà trong bụng trăm lo ngàn tưởng; hao tổn tinh thần, ăn không ngon, nằm không ngủ, thao thức bối rối bồi hồi áy náy tâm thần; thì chẳng phải là trừ nhau sao? Một người cực một thế. Vậy thì cũng bằng nhau.
Lê: - ờ! Vậy mới nghe được chớ. Té ra kẻ đau hạch ngoài da nhức la, kẻ đau trong bụng cũng rên hì hì, hai người cũng là đều nhau cả.
Trương: - Hay a! Vậy thì đã hiểu đó.
Lê: - Nghe anh nói đó, thì việc trong thiên hạ muôn vàn kể không xiết, mà mình biết ở làm sao, làm làm sao cho xứng ngôi xứng phận mình được?
Trương: - Hề gì mà lo? Cứ tố kì vị nhi hành thì xong thôi.
Lê: - ấy! Lại thêm một cái không hiểu nữa đó ấy.
Trương: - Trong sách Trung dung rằng: quân tử tố kì vị nhi hành... Tố phú quí, hành hồ phú quí; tố bần tiện hành hồ bần tiện; tố di địch hành hồ di địch, tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn... nghĩa là, người quân tử gặp ngôi nào thì cứ ngôi ấy là làm...: Nhằm cuộc phú quí, thì làm theo phú quí; nhằm cuộc khó hèn thì làm theo khó hèn; nhằm cuộc mọi rợ làm theo ngôi mọi rợ, nhằm phải hoạn nạn, thì làm theo phận hoạn nạn; nghĩa là, người cho ta phải phận nào thì ta phải làm theo phận nấy; sướng cũng phải; cực cũng phải, lành cũng phải, dữ cũng phải; sang cũng phải, mà hèn cũng phải. Có lời rằng: nên hư có số ở Trời, bồn chồn sao đặng, đổi đời sao nên? ... Dầu mà chước quỷ mưu thần, phong trần cũng lu� phong trần như ai.
Lê: - Coi bộ anh mệt, đà muốn buồn ngủ rồi đó. Trẻ, đồ ba chén nước trà ngon cho ảnh uống, rồi đi nghỉ một chốc, kẻo đã khuya quá đi rồi; gà gáy đà hai ba dội, đà quá nửa canh tư đi rồi.
Trương: - Dữ ác không! Vậy tôi tưởng đâu cũng mới đầu canh ba đó thôi ấy!
Thôi, ta đi ngủ đi; chuyện vắn hay vừa cũng gì, thiếu gì khi?
Lê: - ủa kìa! Thức khuya làm vậy, mà anh dậy sớm dữ bay! Chớ anh dậy bao giờ ngồi đó?
Trương: - Dậy hồi nãy đến giờ.
Lê: - Cơ khổ thôi nhưng! Bầy trẻ nó bạc ác dữ bay! Không đứa nào mức nước thau rửa mặt? Nấu nước pha uống, coi trầu coi cau? Bất nhân không chưa đã ấy?
Trương: - Có cũng hay, không cũng chớ. Chúng tôi vậy nó đà quen đi rồi. La trẻ làm chi tội nghiệp.
Thôi, ở chơi với anh một ngày một đêm cũng đã thoả cái tình. Xin anh cho tôi kiếu tôi về thăm nhà, sắp đặt việc nhà, rồi có rảnh tôi cũng sẽ tới thăm anh nữa. Thưa anh chị tôi đi về.
Lê: - Sao vậy anh đừng có quên, khi nào thong thả, anh tới thăm vợ chồng mấy tôi với.
Trương: - Thôi vô, vô kẻo nắng.
Trong nhà trầm trồ với nhau:
Đó! Có thấy không, người văn vật chữ nghĩa văn chương người ta thông lắm; nói đâu hẳn hòi, chắc chắn; nói xuôi rót như chảy! Hèn gì thiên hạ hay trượng con nhà học trò, phải lắm chớ! Có thấy có nghe người giỏi mới biết mình dở, mới hay mình dốt.
Bản in C. Guilland et Martinon, Saigon, 1882