Thứ Sáu, 15 Tháng Sáu, 2012

Võ Tắc Thiên

NỮ HOÀNG ĐẾ DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ TRUNG QUỐC

Trên cao nguyên Vị Bắc Quan Trung tỉnh Thiểm Tây, từ Tây sang Đông phân bố một dãy núi lớn nhỏ. Những ngọn núi này rừng rậm um tùm, mạch núi Tần Lĩnh hình thành một dãy núi nhỏ.  Dãy núi nhỏ này, Tây đến Lương Sơn huyện Can, Đông đến núi Kim Túc huyện Bồ Thành, chạy dài hơn 150km, qua 6 huyện, hình thành vùng đất hình cánh quạt, lấy cố đô Trường An làm trung tâm. Trên đường cung của vùng đất hình cánh quạt này chia ra 18 lăng mộ hoàng đế của đế quốc Đại Đường. Lăng mộ ở phía chánh Tây mặt cánh quạt là lăng mộ của Hoàng Đế Cao Tông, vị Hoàng Đế thứ 3 đời Đường và nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên. Huyện Can vì ở góc Tây Bắc Trường An, Tây Bắc là hướng càn của bát quái, nên lăng mộ Hoàng Đế Cao Tông và Võ Tắc Thiên gọi là Lăng Càn.

Lương Sơn là quả núi nham thạch vôi, có 3 đỉnh núi, bắt đầu từ cao nguyên Hoàng Sĩ bằng phẳng nổi lên. Đỉnh phía Bắc cao nhất, tức là Lăng Càn; hai đỉnh hướng Nam thấp hơn, Đông Tây đối đầu, làm cửa thiên nhiên của Lăng Càn, nhìn từ xa giống như đỉnh nhũ hoa của người phụ nữ đẹp, được gọi là "núi đầu vú". Đỉnh cao phía Bắc từ ngoài cửa Chu Tước thoai thoải theo hướng Nam, con đường ngựa chạy dài hơn 700m, thẳng qua bên dưới núi. Ba đỉnh sừng sững của Lăng Càn, khí thế hùng vĩ, bố cục đồ sộ, kiến trúc lộng lẫy, đứng đầu Đường lăng. Lăng Càn chôn hai Hoàng Đế của hai triều đại, hai giới tính khác nhau, đây là hai đế vương duy nhất của cả nước được chôn chung.

Trước lầu gác phía Đông cửa Chu Tước, sừng sững một bia mộ rất lớn, cao đến 7,53m, rộng 2,1m, dày 1,49m, nặng 98.84 tấn, hùng tráng vĩ đại, trên thân đá không có khắc chữ của người đời Đường, gọi là "bia không chữ". Đây chính là bia mộ của nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Trên đầu bia không chữ hình tròn, khắc 8 đầu rồng quấn vào nhau sống động như thật; hai bên thân bia mỗi bên khắc 1 con đường, dài 4,12m, rộng 0,66m, và chạm một con tuấn mã móng trước cong, đang cúi đầu ăn và một con sư tử đực, đứng thẳng, ngẩng cao đầu, thần thái uy nghiêm.

Nguyên nhân không khắc chữ trên "bia không chữ", có nhiều ý kiến khác nhau. Có người nói, Võ Tắc Thiên tự cho mình công cao không thể nói hết, cũng không thể dùng văn tự biểu đạt được; có người lại nói, Trung Tôn Lý Hoàng đế khó dùng từ xưng hô đối với Võ Tắc thiên, không biết nên gọi là Hoàng đế hay gọi là mẫu hậu; có người cho rằng ý đồ của Võ Tắc Thiên lập "bia không chữ" là để cho người đời sau bình phẩm mình, chứ không tự mình đánh giá.

Khi lập "bia không chữ", tuy không khắc chữ của người đời Đường, nhưng người đời sau lại khắc lên 42 đoạn đề từ. Gồm có 32 đoạn ở phía Nam, 10 đoạn phía Bắc, bắt đầu từ đời Tống, kết thúc vào đời Minh, có chữ của đàn ông, có chữ của phụ nữ. Trong đó có một bài thơ thất ngôn tứ cú đời Minh như sau:

Càn lăng tùng bách tao binh tiễn,

Mãn dã ngưu dương xuân thảo tề.

Duy hữu Càn nhân hoài cựu đức,

Niên niên mạch phạn tự chiêu nghi.

Tạm dịch:

Tùng bách Lăng Càn gặp binh lửa,

Bò dê đầy đồng cỏ xuân đủ.

Chỉ có người Càn ôm đức cũ,

Hàng năm cơm gạo tế rõ ràng.

Thi nhân hoài niệm Võ Tắc Thiên viết "Càn nhân", tức nói Võ Tắc Thiên ảnh huởng rất sâu sắc trong quần chúng so với Đường Cao Tông.

Từ đời Tống trở về sau, do ảnh hưởng tư tưởng chính thống và sự độc hại nam tôn nữ ti, mọi người bình luận Võ Tắc Thiên - nhân vật nổi tiếng trên võ đài chính trị đầu đời Đường - không thống nhất, khen chê không giống nhau. Có người nói: bà đăng cơ chấp chính là "từ lẽ đương nhiên mà làm", "trọng nghĩa nên gánh vác"; có người nói: "gà mái quản lý buổi sáng", "ô uế chỗ ngồi của vua". Có người nói bà thông minh trí tuệ, "biết nguời khéo bổ nhiệm"; có người nói bà "hung hãn nham hiểm hay giết người", "tàn bạo không ai bằng". Có người khen ngợi bà quả quyết, kiên cường dũng cảm; có người chê bà nuông chiều người nam, hoang dâm vô độ. Có người khâm phục thời kỳ bà chấp chính quốc thái dân an, củng cố và phát triển cai trị Trinh Quán; có người thì chê thời kỳ bà lên ngôi xã hội nhiều khó khăn, lịch sử chuyển biến xấu.... Những học giả hiện đại bài bác sự bó buộc quan niệm luân lý phong kiến, bắt đầu từ thời đại của nhân vật lịch sử và căn cứ vào sự cống hiến phát triển lịch sử của bà để đánh giá vị trí lịch sử của bà.

Quách Mạc Nhược, nhà văn học, nhà sử học, người ngưỡng mộ văn hoá Trung Quốc đương đại, khi du lịch qua Lăng Càn, đã từng đề thơ thất ngôn tứ tuyệt:

Khuy nhiên một tự bi ưu tại,

Lục thập ngũ tân vị lộ thiên.

Quán miện lý đường văn vật thịnh,

Quyền hoành nữ đế trí năng toàn.

Hoàng sào cấu tại lăng vô dạng,

Thuật đức kỷ tàn thế bất truyền.

Đãi đáo u cung trùng khải nhật,

Hoàn kỳ phiên án tục tân biên.

Tạm dịch:

Sừng sững không chữ bia vẫn còn,

Sáu mươi lăm khách đứng lộ thiên.

Áo mão Lý Đường văn vật thịnh,

Nữ đế cân nhắc trí năng toàn.

Trứng vàng nơi cổng lăng không bệnh,

Kể đức ghi công không truyền lại.

Đợi đến ngày cung sâu lại mở,

Còn kỳ huỷ án tiếp tục ghi.

Quách Mạc Nhược phản đối người trước đánh giá không chính xác Võ Tắc Thiên, ông cho rằng có thể căn cứ vào lượng lớn tài liệu văn vật đồ cổ, mà đánh giá cái mới của Võ Tắc Thiên làm ra. Chính là, để cho chúng ta thấu suốt được phong trần lịch sử Lăng Càn, thông suốt được sự thật và truyền thuyết một ngàn hai ba trăm năm trước, nhìn thấy được việc làm của Võ Tắc Thiên, để cho bạn đọc tự mình đánh giá.

*** Sự nuông chiều nguy hiểm ***

Đường Thái Tông năm Trinh Quán thứ 11 (năm 637), thiên hạ thái bình, nhân dân lạc nghiệp. Lý Thế Dân Hoàng đế kiệt xuất ít có trong lịch sử Trung Quốc, tuy đã có tam cung lục viện, phi tần vô số, nhưng vẫn cứ cảm thấy còn chưa đủ, muốn chọn thêm vài người đẹp, làm trò giải trí những ngày cuối đời.

Một hôm, Đường Thái Tông lâm triều xong, quần thần đã giải tán, ông vừa bước vào nội cung, nội thần đã dẫn một thiếu nữ trẻ tuổi vào cung yết kiến. Cô gái lạy vua mà không một chút cuống quýt, tự nói tên họ, ba lần hô vạn tuế, hoàn toàn không khum mgười. Thái Tông ra lệnh cho cô đứng dậy, mặt như hoa sen nhú ra khỏi nước. Hỏi tuổi, cô đáp là 2 lần 7, mà hình dáng đã cao to, dường như 17, 18 tuổi. Thái Tông lại hỏi nguồn gốc xuất than, cô đều đối đáp trôi chảy. Động lòng người nhất là đôi mắt, uyển chuyển mềm mại, tim gan có như sắt đá, cũng sẽ bị cô ta dắt tình chuyển ý. Huống chi Thái Tông là người hiếu sắc, nên đã bị hớp hồn từ lúc mới gặp.

Khi đã cho cô lui vào hậu cung, mà Thái Tông vẫn cứ thần hồn chưa yên, trách mặt trời không lặn sớm. Vừa sắp hoàng hôn, Thái Tông liền g ọi cô vào hầu ngủ. Bấy giờ Thái Tông đã 41 tuổi, thấy thiếu nữ mới 14 tuổi, lo thân thể cô không chịu nổi vóc dáng vạm vỡ của mình. Nhưng ngược lại, cô đã hiểu phong nguyệt (gió trăng), nên chủ động hoàn toàn không ngại ngùng. Xuân phong (âu yếm) một lúc, khóc cười đều đẹp, càng làm lòng người mềm yếu, khiến người không say tự say, không mê tự mê. Thái Tông tuy có rất nhiều phi tần, vẫn chưa từng nếm qua mùi vị như thế. Đến khi mặt trời lên khỏi ngọn dâu, Thái Tông mới miễn cưỡng vào triều. Thấy nàng quá tuyệt đẹp như thế, ngực mềm lồ lộ, mày đen xuân nồng, mung lung như sao, càng thêm yêu. Thái Tông bèn tặng cho cô tên gọi “Mị Lang”. Sau khi lâm triều, liền hạ chiếu sắc phong Võ Mị Lang làm người mới. Võ Mị Lang liền tạ ân, nàng được ở cung Phúc Tuy.

Từ hôm đó trở đi, Thái Tông Hoàng đế ngày ngày ngồi xe đến cung Phúc Tuy. Cho tất cả những cung phi lớn tuổi, thái nữ (người phụ nữ ca hát) đi ra khỏi cung. Kể cả Doãn kỷ, Trương ký được sủng ái trước đó, cũng đều cho ra khỏi cung trở về nhà. Ngay cả Tiêu hậu, người vừa mới được sủng ái, cũng không được ở lại. Hoàng thượng Thái Tông, chỉ duy nhất yêu thương một Võ Mị Lang yêu kiều này.

Lúc này, Võ Mị Lang ở trong vòng tay của vị Hoàng đế già giống như cá gặp nước, hoàn toàn thoải mái. Nhưng trong long bà hiểu rằng, như được nhà vua sủng ái, là vinh dự vô cùng. Vì thế, mỗi khi bà ngã vào vòng tay của Thái Tông, một mặt thì vội vàng, ngượng ngập như khiêu chiến, đồng thời trong đầu hiện ra những gương mặt cha mẹ, người than của bà, văng vẳng trong tai bà vọng ra những dư âm của nhà tinh tướng …..

Võ Mị Lang họ Võ tên Chiếu. Tương truyền ngày xưa không có chữ Chiếu, là đo bà sau đó tự đặt ra, lấy ngày tháng lơ lửng tự so sánh. Ông nội của Võ Chiếu là một nông dân nghèo ở huyện Văn Thủy, cha là Võ Sĩ Hoạch bỏ nghề nông chuyển qua mua bán gỗ, trở thành giàu có. Ông chăm chỉ học tập, dùng tiền mua một chức quan nhỏ đời Tùy. Khi Lý Uyên Lưu – Đường Cao Tổ làm Thái thú, đã từng hành quân mặc áo giáp tham gia quân đội, giúp đỡ Cao Tổ đại Tùy, trở thành bạn của Cao Tổ. Sau khi xây dựng Đại Đường, Võ Sĩ Hoạch được tiến phong Đại phu, kiêm nhiệm Quận công, lên đến Thượng thư bộ công, thêm vào đó phong Quốc công, nhậm chức Đô Đốc huyện Lợi. Sĩ Hoạch liền vứt bỏ nguyên phối (người vợ cũ) Lý thị, cưới Dương thị, con gái của Vương thất nhà Tùy làm vợ. Nguyên Khánh và Nguyên Sảng, hai đứa con của nguyên phối Lý thị là lớp người tầm thường, Sĩ Hoạch hy vọng vào những đứa con ngày sau của Dương thị thuộc huyết thống con nhà cao quí. Dương thị sinh được 3 người con gái như ngọc như hoa. Người con gái thứ hai là Võ Chiếu.

Theo truyền thuyết, Võ Chiếu từ nhỏ mặt vuông trán rộng, béo phục phịch, đôi mắt phụng dài, có tướng đế vương. Khi bà vừa tròn tuổi, Viên Thiên Cang, nhà đại tinh tướng, phụng mệnh vua từ Thành Đô đến Trường An triều kiến Hoàng thượng, đi qua huyện Lợi, được Võ Sĩ Hoạch mời vào phủ xem tướng cho người nhà. Khi Võ Chiếu mặc đồ con trai đến trước mặt Viên Thiên Cang, ông thất sắc nói với Võ Sĩ Hoạch: “ Tiểu công tử này mắt rồng cổ phụng, vai mặt trời mặt rồng; đây chính là tướng ánh mặt trời ẩn. Chỉ đáng tiếc là bé trai, nếu là bé gái, ắt sẽ được làm vua trong thiên hạ ….” Lời nói này của Viên Thiên Cang khiến Võ Sĩ Hoạch nửa tin nửa nghi, vừa vui vừa lo, vừa mừng vừa sợ, rồi cám ơn nhà đại tinh tướng. Lời dự đoán này, Võ Sĩ Hoạch hoàn toàn không để cho người ngoài biết, chỉ đến khi Võ Chiếu lớn hơn một tí mới len lén nói cho bà biết.

Sau đó, Võ Sĩ Hoạch được điều về làm Đô đốc Kinh Châu, ông lâm bệnh rồi chết khi đang làm quan, năm ấy Võ Chiếu được 8 tuổi. Dương thị chỉ trông mong vào anh em Nguyên Khánh giúp đỡ để vượt qua cuộc sống nghèo khổ bị người xem thường. Lúc ấy, chị em Võ Chiếu, đặc biệt là Võ Chiếu, vẻ đẹp kiều diễm không ai bằng; năm lên 13 tuổi, đã nổi tiếng khắp nơi, truyền đến trong cung. Đường Thái Tông nghe có người đẹp như thế, liền sai sứ gọi vào.

        rằng sẽ mất đi người con gái đáng yêu nhất đã không cầm được nước mắt. Bà giúp con gái trang điểm thật đẹp, buồn thương không nỡ rời. Khi đó, Võ Chiếu vẫn cười nói tự nhiên, an ủi mẹ rằng: “Con gái đi gặp Thiên tử, sao không nói là phúc phận chứ? Vì sao phải buồn thương?” Người mẹ mới thôi khóc, tiễn bà lên xe về kinh.

Võ Chiếu vào kinh, gặp Thái Tông, liền được sự sủng ái. Mỗi khi bà vui vầy cùng Thái Tông, làm sao không nghĩ đến tình cảnh của người mẹ già, không nghĩ đến lời dự đoán vĩ đại trước kia mà cha bà nói với bà. Bà âm thầm nói với anh linh của người cha: “Tuyệt đối con sẽ không để cho cha thất vọng.”

Võ Mị Lang sống cùng Đường Thái Tông 12 năm. Trong 12 năm này, chính là thời kỳ bà phát triển đầy đủ về thể lực, trưởng thành trong sự hiểu biết, hình thành tính cách và tác phong của bà. Bà học được sách lược, khả năng gánh vác, và trị nước. Bà hiểu rất rõ chuyện anh em Lý Thế Dân tương tàn lẫn nhau, xung xát đoạt quyền, bức cha nhường ngôi; hiểu được chiến tranh chính trị trong ngoài triều đình tranh quyền đoạt lợi tàn khốc, thậm chí đạo lý tình cha con, anh em, đồng bào không thể nói được. Đối với nhất cử nhất động của Lý Thế Dân, quần thần tranh đấu cùng với ngụy kế âm mưu bên trong Hoàng thất, bí mật bên ngoài hoạt động, bà đều để ý xem xét, ghi nhớ trong lòng.

Do Võ Mị Lang được sủng ái, nên bị người trong cung phẫn nộ và oán hận. Khi lời đồn đại truyền đi, đã phát sinh những sự công kích. Căn cứ vào sao Thái Bạch xuất hiện nhiều lần vào ban ngày, mọi người bèn truyền nói: đây là điềm thay đổi thiên tử. Lý Thuần Phong, Thái sử lệnh lúc bấy giờ là nhà thiên văn học, khả năng suy đoán nhật thực không sai chút nào, ông đã từng tấu lên Hoàng thượng: “Trong cung có một người nữ trở thành chúa thiên hạ, con cháu Đại Đường sẽ diệt vong”. Ông còn cảnh giác Hoàng đế Thái Tông, trong cung có một quyển sách, viết: “Sau ba đời, có Nữ hoàng Võ thị diệt Đường”. Những sự việc này, đều hợp thành dư luận rất bất lợi cho Võ Tài Nhân. Không biết Đường Thái Tông không tin vào tướng tinh và truyền thuyết này, hay có ý bênh vực Võ Mị Lang, ông vẫn không có hành động ghì đối với bà; không chỉ vời Võ Tài Nhân đến, mà còn giữ bà lại làm thị nữ. Do Võ Mị Lang thiên chất thông minh, cẩn thận từng việc, nên Đường Thái Tông không thể tìm ra lý do để giết bà.

Một hôm, Thái Tông có việc phiền muộn không vui. Võ Mị Lang liền tham vấn Hoàng thượng vì sao như thế. Thái Tông nói ông có một con ngựa đốm sư tử thuộc loại ngựa quí, ai cũng vô phương thuần phục nó, vì thế mà buồn. Võ Tài Nhân sau khi nghe xong liền nói: “Thần có thể chế phục con ngựa này. Nhưng phải có ba vật phẩm: một là roi sắt, hai là búa sắt, ba là dao găm. Trước tiên dùng roi sắt đánh, nếu nó không phục tùng, thì dùng búa sắt đập vào đầu; nếu lại không phục tùng, thì dùng dao găm cắt cổ họng nó ra”. Thái Tông sau khi nghe xong kinh ngạc, một thiếu nữ trẻ tuổi mà thái độ thản nhiên, nói ra ý đồ giết người một cách rành rọt và hiểm ác như thế, chẳng lẽ bà thật là ma quỷ, là người phụ nữ sẽ quyết đoán trị vì thiên hạ Lý Đường? Vì thế, trong long Hoàng thượng ngầm quyết tâm giết chết Võ Tài Nhân.

Vào lúc hoàng hôn tháng 4 năm Trinh Quán thứ 23 (năm 649), long thể Thái Tông không được yên, dời vào cung Thúy Vi cuối núi phía Nam dưỡng bệnh. Hoàng Thái tử Lý Trị và Võ Mị Lang ngày đêm hầu hạ. Một hôm, khi Mị Lang và Thái tử cùng ở bên giường bệnh của Thái Tông, Thái Tông bỗng nói với Mị Lang: “Trẫm từ khi bệnh hoạn đến nay, thuốc men vô hiệu mà ngược lại bệnh càng thêm nặng, có lẽ sẽ không qua khỏi. Nàng hầu trẫm đã một năm nay, trẫm lại không nhẫn tâm để nàng ra đi. Nàng thử tự suy nghĩ, sau khi trẫm chết nàng sẽ tự xử như thế nào?” Tận đáy lòng Mị Lang biết khi Hoàng đế qui tiên (chết), thì nhiều phi tần trẻ tuổi phải chôn theo. Ngay lập tức bà quỳ xuống nói: “Thiếp mong Thánh thượng ban ân, cho thần thiếp chết theo báo đức, nhưng Thánh cung (bản thân Hoàng thượng) vẫn còn đây, thiếp không dám chết ngay, thiếp tình nguyện cắt tóc khoác áo nâu sòng, trường chay bái Phật, vì Thánh thượng lạy chúc trường sinh, mong báo ân sủng”. Thái Tông nói: “Tốt! Tốt! Nàng đã có ý như thế, thì nay có thể ra khỏi cung, trẫm bớt lo nghĩ vì nàng”. Mị Lang lạy tạ mà đi. Thái tử ở bên nghe nói, dường như sấm sét. Bên tai tưởng rằng Mị Lang cầu tình, nhưng lại nghe Thái Tông tự nói ra lời: “Võ thị ứng với sách sấm ký, trẫm muốn giết chết nàng, nhưng lại không nhẫn tâm. May sao nàng tự nguyện làm thế, thiên hạ không thể có phụ nữ làm Hoàng đế, trẫm chết cũng yên tâm”. Nói xong liền cho gọi trưởng tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lang vào gặp mặt, ủy thác để lo việc hậu sự.

Thừa cơ hội Thái Tông cho gọi Vô Kỵ, Toại Lang, Thái tử vội chạy đến ngọa thất Võ Mị Lang. Thái tử rưng rưng nước mắt hỏi Mị Lang: “Nàng tự nguyện làm như thế sao?” Mị Lang khóc như mưa, nghẹn ngào nói: “Không sắp xếp như thế, e rằng thần thiếp sẽ chết”. Thái tử im lặng gật đầu. Chàng thầm nghĩ Mị Lang có tình cảm với mình, và hy vọng Mị Lang sẽ không chết. Mị Lang thân tình nói: “Điện hạ tình cảm sâu dày, thiếp đã hiểu, nhưng xin cho thiếp một vật làm tin”. Thái tử từ trong thắt lưng lấy ra một miếng ngọc bội cửu long, tặng cho Mị Lang. Mị Lang vừa nhận được, thì nghe cung nữ truyền gọi: “Hoàng thượng truyền gọi điện hạ, mời điện hạ nhanh ứng chỉ”.

Khi Thái tử vừa đến, Thái Tông nói rằng: “Vô Kỵ và Toại Lang có thể giúp đỡ con, con không phải lo”. Lại nhìn hai người mà nói: “Vô Kỵ, Toại Lang vì trẫm tận trung, trẫm có thiên hạ, phần nhiều nhờ sức của hai khanh. Sau khi trẫm chết đi, chớ nghe người dèm pha mà hãm hại người ngay thẳng, trung lương”. Nói xong, ánh mắt đã mơ hồ mờ nhạt. Sau đó lại truyền vào cung: “Võ Tài Nhân đã đi chưa? Truyền chỉ, bảo nàng nhanh chóng ra khỏi cung, không cần đến gặp trẫm”. Nói xong lại cảm thấy đau bụng, rồi choáng ngất đi. Lâu sau tỉnh lại, liền bảo Chử Toại Lang sớm viết di chiếu, truyền phi tần và Thái tử cùng đến để gặp mặt lần cuối. Sau đó đờm ngăn, không nói được nữa. Thiếu khanh liền đưa tay đỡ, hồn liền qui tiên. Hôm ấy là ngày 26 tháng 5 năm Trinh Quán thứ 23.

*** “Mũ phượng” giọt máu ***

Hoàng đế Thái Tông qui tiên, Thái tử Lý Trị tiếp vị, đổi hiệu Nguyên Vĩnh, là Hoàng đế thứ ba của đế quốc đại Đường. Thái tử Lý Trị, là do Trưởng tôn Hoàng hậu sinh ra, con thứ 9 của Đường Thái Tông. Ông và Võ Mị Lang chênh lệch tuổi không nhiều, là một thanh niên yếu ớt môi hồng răng trắng, được Thái Tông rất đỗi yêu chiều. Năm Trinh Quán thứ 17, nguyên Thái tử Thừa Cán, Ngụy Vương Tần con thứ tư (cả hai người đều là trưởng tôn Hoàng hậu sinh), “trở thành huyền Võ môn”, làm một tập đoàn nhỏ hoạt động sau lưng Hoàng đế Thái Tông, bí mật âm mưu phế bỏ Thái tử cũ, xô xát đoạt quyền. Hoạt động bí mật đó bị Thái Tông phát hiện, nhân tiện còn đang nắm thực quyền, ông sử dụng biện pháp quyết đoán, hạ Thái tử Thừa Cán làm con thứ, đưa Ngụy Vương Tần ra khỏi kinh. Như thế, Trưởng tôn Hoàng hậu chỉ còn hy vọng vào Lý Trị bé nhỏ. Trưởng tôn Vô Kỵ - anh của Hoàng hậu khuyên: Đường Thái Tông đổi lập trước kia, Lý Trị hoàn toàn không nghĩ tới.

Khi đưa Lý Trị lên làm Thái tử, Đường Thái Tông đã gọi trọng thần Trưởng tôn Vô Kỵ đến, tổ chức một bữa tiệc nhỏ trong chùa Cam Lộ. Chính trong bữa tiệc này, Lý Trị đã gặp Võ Tài Nhân như hoa như ngọc. Lý Trị đem lòng ái mộ người đẹp ngay. Thời khắc này, gặp gỡ sau chung rượu, hai người lần thứ nhất có sự thân thiết ngắn ngủi. Nhưng tự quân (người được chỉ định nối ngôi) đã có phi thiếp, Võ thị lại là phi thiếp của phụ hoàng, hai người tuy vừa gặp đã có tình, nhưng cuối cùng không dám vượt qua. Khi Thái Tông bệnh nặng, Lý Trị và Võ Tài Nhân cùng hầu Thái Tông, gặp mặt và tiếp xúc nhiều lần, khiến tình cảm họ càng không thể chia cắt. Cuối cùng, vào một hôm, hai người đã quan hệ nhục thể thân mật tại cung Thúy Vi, đó là điều mà Lý Trị không bao giờ dám nghĩ đến. Do gặp gỡ lần này, mới khiến Mị Lang đưa ra yêu cầu bức bách Thái tử không được quên nhau, cũng mới có việc Mị Lang muốn Thái tử tặng ngọc bội cửu long làm tín vật.

Thấm thoát, Lý Trị lên ngôi được 3 năm (hiệu là Cao Tông). Vương Hoàng hậu chưa từng sinh con trai, không người thừa tự có thể lập. Hậu cung Cao Tông có một người em dâu tốt họ Tiêu, nhan sắc rất đẹp, được Cao Tông yêu thích, sắc phong làm Thục Phi. Tiêu phi sinh ra một người con trai tên Tố Tiết, một lòng muốn Cao Tông lập làm Thái tử. Mà anh của Vương Hoàng hậu thì thay Hoàng hậu chấp pháp, muốn thu dưỡng Trần Vương Trung con trai của Lưu Thị xuất thân hèn mọn ở hậu cung làm dưỡng tử, muốn Cao Tông lập Vương Trung làm Thái tử, để áp chế Tiêu Thục phi. Cuộc chiến hậu phi tranh sủng này khiến Cao Tông lo quýnh lên, buồn phiền không vui. Cao Tông không thể bắt tội Vương Hoàng hậu, lại không đành lòng dứt bỏ Tiêu Thục phi, đành dứt khoát với cả hai người, để đi tìm người tình cũ. Đúng 3 năm mãn tang, đến ngày kỵ Thái Tông, Cao Tông đích thân đi chùa Cảm Nghiệp (chùa Võ Mị Lang cạo tóc làm ni cô) hành hương, giả danh là đích thân Thái Tông tiến cử, thực ra là muốn tìm Mị Lang, để thực hiện hẹn ước năm xưa.

Lại nói đến Mị Lang sau khi ra khỏi cung, vốn không muốn một lòng niệm Phật, nhưng đành chịu sống ẩn dật, đêm đêm cô độc nuốt hận. May mắn trong chùa Bạch Mã có một tăng đồ Phùng Tiểu Bảo, mặt mũi thanh tú. Võ thị liền dan díu với anh ta, hâm nóng lửa tình, mùi vị trong cung đã nhanh chóng qua đi. Một hôm, bỗng nghe tin vua đến, mặc dù không dám nghĩ đến tình cũ, nhưng không cầm lòng được, nên bà quyết định trang điểm đi ra nghênh tiếp Cao Tông. Người xưa gặp nhau, lệ chảy đầm đìa. Nghĩ đến tình cảnh khốn khổ trong ba năm, hai người càng thương cảm động tình. Dưới sự xếp đặt của vị trụ trì, Cao Tông lại cùng Mị Lang sum họp, nên bà đã mang thai.

Tin tức Cao Tông ở chùa Cảm Nghiệp cùng Võ Mị Lang nhanh chóng truyền đến tai Vương Hoàng hậu. Hoàng hậu biết ý định của Cao Tông, bèn hòa nhã hỏi thăm. Vì thế, Cao Tông liền cầu xin Vương Hoàng hậu giúp đỡ, muốn đưa Võ thị vào cung làm thị nữ. Đối với việc này, Hoàng hậu không những không ghen tuông, mà còn sẵn sàng đáp ứng. Hoàng hậu, một là muốn thi ân với vua, để tăng thêm ân sủng; hai là muốn lợi dụng sắc đẹp của Võ thị để đả kích Tiêu Thục phi, nhằm tăng thêm thế lực của mình. Vì thế, Võ Mị Lang nhanh chóng được hoàn tục, tiến vào cung, lập làm “Chiêu Nghi”, hiệu “thần phi” (phi của vua), địa vị cao bằng thời Thái Tông.

Võ Chiêu Nghi là một phụ nữ có tâm kế và chí lớn. Bà về đến trong cung, trước tiên tìm mọi cách cung kính ra mắt Vương Hoàng hậu, vì thế được Vương Hoàng hậu rất quan tâm. Tiếp theo là chăm sóc từng li từng tí đối với Cao Tông, nhanh chóng nhận được sự sủng ái của Hoàng thượng. Bà còn sử dụng phương pháp ân uy và thi hành, lôi kéo cung giám và thị nữ bên mình, để chờ ngày có thể lợi dụng thêm.

Võ Chiêu Nghi sau khi hồi cung không lâu liền sinh một bé trai, là con thứ 5 của Cao Tông, đặt tên là Vi Cường. Vì là mẹ của quí tử, Chiêu Nghi được Cao Tông và Hoàng hậu quan tâm chăm sóc, Dương thị mẹ bà được ân chuẩn vào cung chăm sóc bà. Cao Tông còn truy phong cho Võ Sĩ Hoạch, cha của Chiêu Nghi làm Ưng quốc công, Dương thị như thế trở thành phu nhân Ưng quốc công, ngay cả anh em Nguyên Khánh, Nguyên Sảng của mẫu nữ Dương thị đã từng bị coi thường, lúc này cũng nhờ Võ Chiếu, nhận được ân sủng của vua Cao Tông phong làm quan viên Chánh ngũ phẩm và Chánh bát phẩm. Chiêu Nghi càng được Cao Tông sủng ái, thậm chí khi bà sinh vừa mới 20 ngày thì đã gần gũi. Việc này làm cho Tiêu Thục phi rất căm giận, càng khẩn trương bức bách Cao Tông lập Tố Tiết làm Thái tử. Nhưng Cao Tông tự cảm thấy tình cảm của Vương Hoàng hậu nhóm lên ở Chiêu Nghi, Trần Vương Trung dưỡng tử của Vương Hoàng hậu lại được trọng thần Trưởng tôn Vô Kỵ (cậu của Cao Tông) và Liễu Sảng (Trung thư lệnh) giúp đỡ, cuối cùng quyết định lập Vương Trung làm Thái tử.

Tiêu Thục phi càng thêm nổi giận. Bà cự tuyệt gặp mặt Cao Tông, việc này chẳng khác nào đẩy Cao Tông vào với Chiêu Nghi nhiều hơn. Đến khi Tiêu Thục phi thức tỉnh, tất cả đã quá trễ. Võ Chiêu Nghi đã được sủng ái hoàn toàn, ngay cả Vương Hoàng hậu cũng bắt đầu buồn rầu thất sắc.

Võ Chiêu Nghi ngày càng được sủng ái, dần dần củng cố địa vị trong cung. Mặc dù Võ Chiêu Nghi hết lòng cung kính Vương Hoàng hậu, nhưng bên trong âm thầm bắt đầu nhòm ngó ngôi vị Hoàng hậu, bà tính toán tìm cách hãm hại Hoàng hậu. Vương Hoàng hậu ngược đãi người trong cung có ân không nhiều. Võ Chiêu Nghi nắm được nhược điểm này của Vương Hoàng hậu, lợi dụng người sắp xếp trong hàng ngũ Thượng quan (nữ quan) để lung lạc. Mỗi lần tặng thưởng đều liệt kê ra tất cả phần cho họ, các cung nữ đương nhiên cảm kích, cam tâm tình nguyện làm tay sai của bà. Vì thế Chiêu Nghi bảo họ quan sát tình hình của Vương Hoàng hậu và báo cáo cho bà, Hoàng hậu vừa có cử động gì, Chiêu Nghi biết được ngay lập tức. Những việc làm của Hoàng hậu không vượt qua phép tắc, nhất thời không tìm được chỗ sai, Chiêu Nghi đành nhẫn nại đợi thời cơ.

Tháng giêng năm Vĩnh Huy thứ 5, Võ Chiêu Nghi sinh một công chúa, rất được Hoàng thượng yêu thích. Điều kỳ lạ là tiểu công chúa sau khi tròn tháng không lâu lại chết đi không rõ lý do. Truyền thuyết lịch sử nói là Võ Chiêu Nghi vì hãm hại Vương Hoàng hậu, nên đích thân giết chết con gái của mình. Việc xảy ra như sau: Một hôm, Võ Chiêu Nghi ngồi chơi trong cung, bỗng nhiên báo Hoàng hậu đến. Võ Chiêu Nghi vội vàng kêu cung nữ lại, bí mật dặn dò vài lời, còn mình tránh vào phòng bên. Vương Hoàng hậu đi vào cung phía Tây, cung nữ quỳ đón, nói Chiêu Nghi ra ngự viên hái hoa. Hoàng hậu liền tự nhiên ngồi nghỉ. Bỗng nghe tiếng khóc trẻ thơ, Hoàng hậu đi vào phòng cô công chúa của Võ thị chơi. Hoàng hậu không có con cái nên rất thích trẻ con. Cô công chúa bé bỏng ấy được người lớn vỗ yêu, cười vui hết khóc, một lúc lại dần dần ngủ thiếp đi. Hoàng hậu để nó nằm lại trên giường, lấy chăn đắp lên, rồi đi ra khỏi cung. Võ Chiêu Nghi nghe Hoàng hậu đã đi, liền từ phòng bên đi ra, nhẹ nhàng đến trước giường. Thấy đứa bé đang ngủ rất say, ruột gan bà trở thành lang sói, dùng hai tay bóp cổ đứa bé. Đáng thương cho cô công chúa này, ngay cả một tiếng kêu cũng không thoát ra được, tứ chi quờ quạng, ngay lập tức tàn hơi. Võ thị lại dung chăn đắp lên và đi ra khỏi phòng. Đợi khi Cao Tông trở về cung, Võ Chiêu Nghi mới vội vàng từ bên ngoài chạy vào, quỳ xuống nghênh tiếp. Khi Hoàng thượng mở chăn nhìn con gái yêu quí của mình, liền biến sắc, các cung nữ bên cạnh cũng đều kinh ngạc. Lúc này Võ Chiêu Nghi bắt đầu khóc thật lớn, quỳ xuống trước mặt Cao Tông, yêu cầu Hoàng thượng rửa oan cho con gái của mình. Cao Tông vội vàng hỏi rõ, biết được Vương Hoàng hậu vừa mới đến, và ẵm hài nhi đùa giỡn. Cao Tông nổi giận hét lớn: “Chính là Hoàng hậu giết con gái của ta”, rồi ra lệnh cho người ngay lập tức gọi Hoàng hậu đến tra hỏi. Vương Hoàng hậu đáng thương chỉ biết đau khổ thanh minh, nhưng có miệng mà khó giãi bày, nhất thời khó nói để mọi người tin tưởng bà vô tội. Cao Tông hoàng đế đau lòng vì mất đứa con gái yêu, việc xảy ra đột ngột như thế, khiến ông nhất thời không phán đoán đúng sai, chỉ trách Vương Hoàng hậu lòng lang dạ sói. Việc này cuối cùng trở thành nguyên nhân truất phế Hoàng hậu.

Truyền thuyết này không đáng tin lắm. Bởi vì Võ Chiêu Nghi có trở thành lòng lang dạ sói, cũng không đến nỗi tự tay giết chết cốt nhục của mình. Thật ra, vào mùa đông, thời tiết rất lạnh, trong cung đều đốt lò sưởi rất nhiều lửa than để nâng cao độ ấm trong phòng, phòng có trẻ em lại càng là như thế. Có thể cửa sổ đóng kín, than gỗ phóng ra lượng lớn khí cacbon, không thoát ra khỏi phòng kịp thời, khiến cho cô công chúa bé bỏng bị trúng độc mà chết. Tuy vậy việc này đã khiến Võ Chiêu Nghi có cớ gieo họa cho Vương Hoàng hậu. Từ đó, Cao Tông sinh ra ý tưởng phế bỏ Vương Hoàng hậu.

Nhưng, muốn phế bỏ Vương Hoàng hậu cũng không dễ. Bởi vì Vương Hoàng hậu là do Hoàng đế Thái Tông chỉ định làm chính phòng của Lý Trị, thêm vào đó một lớp lão thần thực quyền chấp chính trong triều, như Trưởng tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lang v.v…, tuân thủ qui tắc di chiếu của Trinh Quán, phản đối việc phế bỏ Vương Hoàng hậu. Đặc biệt là thái độ của Trưởng tôn Vô Kỵ không dễ xem thường, bởi vì ông ta là Tể tướng, là cựu thần của Hoàng đế Cao Tông, Hoàng đế Cao Tông nhờ ông giúp đỡ, mới được lên làm Thái tử và tiếp thừa ngôi vị Hoàng đế. Võ Chiêu Nghi một lòng muốn leo lên ngôi vị Hoàng hậu, quyết tâm vững chí khiến Cao Tông bỏ Vương lập mình; một mặt cổ động Cao Tông cúi mình bái phục, cùng mình đi đến nhà của cựu quốc Trưởng tôn nói: phong quan cho con thứ ba của Trưởng tôn Vô Kỵ, và phái người đem lễ vật rất hậu hĩ đến tặng cho Trưởng tôn. Nhưng Tể tướng Trưởng tôn vốn chính trực, không động lòng, lễ vật được trả trở về. Võ Chiêu Nghi bèn nghĩ ra kế khác cao siêu hơn, kết bè với hàng quan lại xuất thân từ giai cấp địa chủ trung tiểu nhà nghèo, như Hứa Kỉnh Tông, Lý Nghĩa Phủ, hứa là Cao Tông sẽ đưa họ lên chức vị cao cấp, để cùng với Trưởng tôn Vô Kỵ tạo thành những thế lực ngang bằng. Đồng thời Võ Chiêu Nghi lại phân hóa các lão thần trong triều, tranh thủ sự giúp đỡ của Lý Tích. Như thế, ai là người ủng hộ Cao Tông phế bỏ Vương Hoàng hậu lập Võ Chiêu Nghi làm hậu, đều được Hoàng thượng khen thưởng và lên chức, ai là trọng thần giữ thái độ phản đối đều ngày càng bị đối xử nhạt nhẽo.

Để hạ bệ được Vương Hoàng hậu, thực hiện mục đích leo lên ngôi vị Hoàng hậu, theo truyền thuyết Võ Chiêu Nghi mua người trong cung, lấy con rối viết tên và ngày tháng năm sinh của Cao Tông lên đó, dùng đinh đóng vào, nhẹ nhàng lén chôn dưới giường của Vương Hoàng hậu, sau đó bí mật báo cho Cao Tông biết, nói Vương Hoàng hậu ở trong cung hoạt động yêu thuật, muốn hãm hại Hoàng thượng. Cao Tông mê mờ, không phân biệt trắng đen, nghe xong tin ngay, phái người đến xem xét phòng ngủ của Vương Hoàng hậu, quả nhiên tìm thấy người gỗ như cáo trạng. Vì thế, Cao Tông giận không thể nhẫn, ngay lập tức phế bỏ Hoàng hậu. Trong Hội nghị Đại thần mở ra tại ngự tiền, quần thần tân lão đấu tranh dữ dội. Đại thần cố cựu Chử Toại Lang phản đối dữ dội nhất, và chỉ ra Võ thị chính là phi thiếp của Tiên đế, nay nếu phục vị làm Hoàng hậu, sẽ để lại sự chê cười cho đời sau. Khi Cao Tông quyết định giữ vững ý kiến của mình, Chử Toại Lang bèn trình lên triều hốt (cái mão của quan lại ngày xưa), và xin từ quan. Cao Tông thẹn quá hóa khùng, lệnh cho tả hữu đưa Toại Lang ra ngoài. Lúc này, Võ Chiêu Nghi ở sau rèm lén nghe, bỗng la lớn lên: “Vì sao không giết chết tên quan lại này đi?” Chỉ vì toại Lang là Đại thần cố cựu, mới chưa bị gia hình. Đến chiều, Cao Tông lại lấy cớ có bệnh, đặc biệt kêu Lý Tích vào cung để thương lượng với những người không muốn vào triều buổi sáng và quần thần đấu tranh, Lý Tích nói: “Đây là việc nhà của Bệ hạ, hà cớ gì phải hỏi người ngoài?” Cao Tông gật đầu: “Lời nói của khanh rất đúng, ý trẫm quyết vậy.”

Chính vì thế, tháng 10 năm Vĩnh Huy thứ 6 (năm 655), Cao Tông hạ chiếu phế Vương Hoàng hậu làm thứ dân, lập Võ Chiêu Nghi làm Hoàng hậu. Lý Cường, con trai của Võ thị lên 4 tuổi được lập làm Thái tử. Tiêu Thục phi cũng vì mắc tội với Hoàng thượng, cùng bị phế với Vương Hoàng hậu, bỏ vào lãnh cung. Lý Tích, vì ủng hộ Cao Tông được sắc phong làm Đại thần nghi lễ của Hoàng hậu mới, cung kính buộc ấn tín, dâng cho Võ Chiêu Nghi, và cử hành nghi thức sắc phong rất lớn. Võ Chiếu mặc triều phục, đeo huy chương Hoàng hậu, mão phụng giày châu, trang phục y như thiên thần, làm mặt hạnh má đào, mày phụng miệng anh đào của bà càng tăng thêm vẻ thướt tha. Lúc đó, Hoàng đế Cao Tông lòng như nở hoa, lại vì Võ hậu mở ra lệ đặc biệt, để cho bà ngồi xe trùng địch ra điện, thẳng đến Túc Nghi Môn, ra lệnh cho bá quan văn võ và Tù trưởng tứ di (các dân tộc phía đông), đều ở dưới cửa triều đón tiếp tân Hoàng hậu. Khi Võ hậu xuống xe lên lầu, mở màn từ trên cao nhìn xuống, thấy dưới cửa vô số trưởng quan, đầy người bái yết, quỳ đen đất. Được trông quang cảnh này, Võ hậu không cầm được thần thái bay bổng, rất uy phong. Đại lễ sắc phong Hoàng hậu lần này trong lịch sử chưa từng có. Võ Chiếu mặc đại lễ phục Hoàng hậu ở trên lầu thành Túc Nghi Môn, tiếp nhận bá quan văn võ và sứ các nước triều bái, gây chấn động toàn quốc.

Võ Chiếu đội mũ phượng màu vàng, trở thành Hoàng hậu của Đại Đường. Nhưng mũ phượng màu vàng này lại nhuộm máu tươi. Không những có nhuốm máu của đứa con gái do Võ Chiếu sinh ra, mà còn có máu của Vương Hoàng hậu, Tiêu Thục phi và vô số Đại thần. Võ thị lên địa vị Hoàng hậu không lâu, Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi liền bị Võ hậu mượn cớ đánh 100 trượng, còn chặt tay chân đi, ném vào trong vò rượu. Đáng thương hai người mềm mỏng yếu đuối khóc than thảm thiết, qua vài ngày mới chết. Theo truyền thuyết, Tiêu Thục phi trước khi sắp chết, chửi mắng Võ thị không ngừng: “Ả Võ yêu quái, hại tao đến thế này, nguyện đời sau tao sinh làm mèo, ả Võ làm chuột, thường xuyên cắn cổ họng ả Võ, mới sạch hận của tao”. Sau khi Võ thị biết được tin này càng thêm nổi giận, ra lệnh bêu thi thể hai người trước đám đông, bức bách Cao Tông đem gia tộc của Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi đày đến tận biên địa, thậm chí thi thể cha của Vương Hoàng hậu đã chết, cũng bị bà ra lệnh cho người đào lên bêu đầu. Theo truyền thuyết Võ hậu sợ lời nói “Tao sinh làm mèo, ả Võ làm chuột” của Tiêu Thục phi trước khi sắp chết sẽ ứng nghiệm, bèn nghiêm cấm trong cung nuôi mèo. Mãi đến các triều đại sau đó trong Hoàng cung cũng đều cấm nuôi mèo.

Hai vua lâm triều và ba lần phế Thái tử

Đường Cao Tông tính cách nhu nhược, thiếu chủ kiến. Khi lâm triều, không biết phán đoán tấu sự của hạ thần, phải dựa vào ý kiến của Tể tướng mới nắm được chủ ý. Trước khi Võ Chiếu làm Hoàng hậu, thao túng thực quyền triều đình trong tay bọn lão thần biếm quan, trước tiên là Trưởng tôn Vô Kỵ. Sau khi Võ Chiếu làm Hoàng hậu, rất nhiều việc lớn đều phải bàn bạc với Võ Hoàng hậu mới có thể xác định. Tình trạng nhu nhược này của Cao Tông, thành điều kiện khách quan tốt hơn để Võ thị thực hiện ý đồ chính trị của bà.

Cuối tháng 6 năm Hiển Khánh thứ 5, sức khỏe Cao Tông không được tốt. Tháng 10, Võ hậu bắt đầu chính thức buông rèm nghe chính sự. Vốn Võ hậu là một bậc nữ lưu, các đại thần dễ bị lôi kéo, rất nhanh chóng thưởng thức sự lợi hại của Võ hậu. Bà xử lý chính sự đều có lý, quả đoán rạch ròi, âm thanh rõ ràng, biểu hiện kiên nghị hơn so với Cao Tông nhu nhược, quả thật là khác nhau một trời một vực. Cao Tông bắt đầu cùng bà bàn bạc chính sự, bà còn có thể gánh gồng những khó khăn, chỉ ra nguyên lý để xử lý. Thoạt đầu bà với Cao Tông chung quyền quyết định, rất nhiều sự việc Cao Tông còn chưa bày tỏ thái độ, thì bà đã quyết định xử trí, thậm chí còn ân uy tự tiện, thái độ kiêu ngạo khởi lên, dần dần Cao Tông không còn trong mắt bà. Cao Tông cảm thấy mất mặt, vì để hiển thị uy nghiêm “Thiên tử” của mình, Cao Tông chưa khỏi bệnh vẫn đề xuất phải thân chinh tiến công Cao Lệ, mặc dù Võ hậu và quần thần khuyên ngăn. Võ hậu đành phái Đại tướng quân Tô Phương Định thống lĩnh quân Đường xuất chinh, nhưng đại bại, lão tướng bị giết ở sa trường, Đường Thái Tông Hoàng thượng thân xuất chinh Cao Lệ kết quả cũng bằng không.

Bất lực trên chính sự, khiến Cao Tông lười biếng quản lý sự việc, mà chuyển hướng về hậu cung tìm kiếm lạc thú. Và lúc này, Võ hậu lại mang thai. Từ sau khi Vương Hoàng hậu, Tiêu Thục phi bị phế, những phi tần khác của ông đều vì sợ Võ hậu mà không dám thân cận cùng Hoàng đế, khiến ý muốn tìm kiếm lạc thú ở hậu cung của Cao Tông khó thực hiện. Chính lúc này, Hàn Quốc phu nhân - chị của Võ hậu, đã một lần đến ở trong cung. Hàn Quốc phu nhân cùng Hoàng thượng chia cách 8 năm, không hổ là chị của Võ hậu, tuy tuổi quá tứ tuần, vẫn cứ mơn mởn làm động lòng người. Cao Tông ngay lập tức cùng Hàn Quốc phu nhân phục hồi lại quan hệ thân mật 8 năm trước. Sau khi Võ hậu biết được tình trạng này, trên mặt tỏ ra không nghe không hỏi, âm thầm suy nghĩ biện pháp. Không lâu, Hàn Quốc phu nhân chết một cách thần bí, theo truyền thuyết là Võ hậu hại. Để đạt được mục đích, ngay cả chị mình Võ hậu cũng ra tay trừ đi.

Vì ngăn ngừa Cao Tông và các phi tần quá thân mật, Võ hậu quyết định thay đổi tên gọi toàn bộ phi tần ở hậu cung, đem toàn bộ phi tần hữu danh vô thực đổi làm nữ quan hầu Hoàng đế và Hoàng hậu. Đối với việc này Cao Tông cắn răng nghiến lợi, nhưng lại không có gan dạ phản kháng. Từ đó, ông rất ngại Võ hậu, và bắt đầu có tình cảm vui vẻ với Ngụy Quốc phu nhân cháu kêu Võ hậu bằng dì, con gái của Hàn Quốc phu nhân, đẹp trẻ hơn Võ hậu. Ngụy Quốc phu nhân tin mẹ của mình là do dì hại chết, lòng muốn báo thù, cố ý dùng sắc đẹp chiêu dụ Cao Tông, để được Hoàng thượng quan tâm. Đối với việc này, Võ hậu tỏ ra không có việc gì ngoài mặt, nhưng trong lòng không vui. Thêm vào đó việc chính sự bận rộn, tinh thần không thoải mái, đôi lúc tinh thần hốt hoảng, dường như thường xuyên thấy âm hồn của Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi trở về ám ảnh. Vì thế, bà liền ra lệnh cho đạo sĩ Quách Hành Chân lập đàn tế ở phòng bí mật trong cung, để trục đuổi những hồn ma ấy. Cao Tông biết được sự việc này, đặc biệt là khi Võ hậu và đạo sĩ ở chung trong phòng liên tiếp mấy ngày liền, người ngoài không được vào bên trong, không cầm được tức giận. Cao Tông giận quá không thể nhẫn nhịn, nên cùng Thượng quan nghi lễ Thị lang Tây đài vừa mới nhậm chức Tể tướng bí mật âm mưu phế bỏ Võ hậu. Không ngờ Võ hậu nhanh chóng biết được việc này, nổi giận đùng đùng, xông đến chỗ ở của Cao Tông, trợn tròn đôi mắt, lớn tiếng lên án Hoàng đế, lấy chiếu thư phế hậu chưa khô nét mực xé nát, vứt xuống đất dung chân chà đạp. Cao Tông kinh sợ cứng ngắt như gà gỗ, vừa lo sợ vừa xấu hổ, đổ tất cả cho Thượng quan nghi lễ. Trung thần Thượng quan nghi lễ mới nhậm chức Tể tướng không lâu, bị Võ hậu đày vào ngục uất ức mà chết, hai người con trai cũng bị chém đầu, Trịnh thị mẫu thân già cả và đứa cháu gái của Thượng quan còn nhỏ bị đưa vào cung làm tỳ nữ. Trung Thái tử được Thượng quan nghi lễ tiến cử ngày xưa, trước đã phế, lúc này đang bị giam cầm ở Quý Châu được tặng cho cái chết; các trọng thần có quan hệ thân thiết với Thượng quan nghi lễ, đều bị lưu đày.

Trước việc xử phạt hàng loạt đại thần như thế, Cao Tông Hoàng đế hoàn toàn đầu hàng. Từ đó, trong triều không ai dám nhắc lại việc này. Hoàng đế thần sắc lơ mơ hốt hoảng lại bị trúng gió lần thứ hai, Võ hậu được đường hoàng danh nghĩa “phò tá Thiên tử long thể không được tốt”. Quần thần sợ Võ hậu, phàm khi có triều tấu đều xưng “nhị Thánh”. Võ hậu không những nắm thực quyền trong triều, mà trên danh nghĩa cũng được ngang hàng với Cao Tông. Mỗi lần lâm triều, Võ hậu cùng Cao Tông ngồi trên điện, quyết định tất cả việc chính trị, và ngược lại Cao Tông giống như bù nhìn, ngồi trên ngự tòa hoàn toàn không phát biểu ý kiến. Đây chính là điều mà mọi người lúc bấy giờ gọi là “hai Thánh lâm triều”.

        Để củng cố quyền thế của mình, không chấp nhận câu nam tôn nữ ti, Võ hậu 2 năm ở Lân Đức đích thân thống lĩnh các quan nữ, cùng Cao Tông đến Tần Sơn, chủ trì đế quốc Đường xây dựng phong thần đại điển lần thứ nhất, đạt đến đỉnh “hai Thánh lâm triều”. Sau phong thần đại điển, quan hệ giữa Hoàng đế và Hoàng hậu đã được phục hồi, nhưng Cao Tông vì mất đi quyền lực mà rất đau buồn, chỉ càng thêm yêu thương Ngụy Quốc phu nhân. Ngụy Quốc phu nhân dáng vẻ trẻ đẹp, hoàn toàn không thỏa mãn với tình yêu lén lút như thế, bà đưa ra yêu cầu muốn Cao Tông chính thức phong bà làm quí phi. Võ hậu ngoài mặt tỏ vẻ không ngăn cản, nhưng nhanh chóng mời Ngụy Quốc phu nhân dự buổi tiệc tại nhà Võ thị, đích thân Võ hậu tham gia và Ngụy Quốc phu nhân bị trúng độc mà chết. Võ hậu sử dụng trò bịp giá họa cho người, nói là Võ Thùy Lang thân thuộc đầu độc muốn giết hại mình, mà giết nhầm Ngụy Quốc phu nhân. Như thế, anh họ Võ Thùy Lang ngay lập tức bị giết. Sau đó, ngày 15 tháng 8 năm Hàm Hưởng thứ 5, Võ hậu ra thánh chỉ, gọi Cao Tông là Thiên hoàng, gọi Võ hậu là Thiên hậu. Thánh chỉ “Thiên hoàng Thiên hậu”, khiến hiện thực “hai Thánh lâm triều” càng thêm danh chính ngôn thuận.

“Hai Thánh lâm triều” hoàn toàn không phải là mục tiêu cuối cùng của Võ hậu; mục tiêu cuối cùng của bà là riêng nắm đại quyền, được gọi là vua. Tuy bà chế phục Cao Tông, đồng gọi Thiên hoàng Thiên hậu, cuối cùng không thể lấy thời đại Cao Tông. Và Cao Tông thể chất rất kém, thời gian sống không còn lâu, sau Cao Tông, Thái tử đăng cơ, quá nhỏ tuổi làm sao có thể nắm đại quyền chứ? Vì thế, Võ hậu liền chĩa mũi nhọn đấu tranh đến Thái tử và các Hoàng tử, kỳ vọng cũng có thể chế ngự chúng.

Võ hậu và Cao Tông trước sau sinh 4 người con: Lý Cường, Lý Hiền, Lý Hiển, Lý Đán. Thái tử Lý Cường chính là đứa con thứ nhất Võ hậu sinh ra ở am ni chùa Cảm Nghiệp. Sau khi ông hiểu việc đảm nhiệm Thái tử, đối với mẫu hậu chuyên quyền, khi dễ phụ thân, lôi kéo kết bè kết đảng. Ông là một thanh niên ảnh hưởng tư tưởng nhà Nho rất nặng, đồng tình và bảo vệ phụ hoàng. Vì để giúp phụ hoàng thoát khỏi nghịch cảnh, chính ông đoàn kết thế lực bảo thủ trong quí tộc phản đối mẫu hậu, từ đó mà trở thành lãnh tụ chính trị phản Võ hậu. Tình cảm của Võ hậu đối với đứa con lớn rất sâu nặng, thấy con trai phản đối mình rất đau lòng, trăm phương ngàn kế hy vọng hàn gắn vết nứt giữa hai mẹ con. Bà tự mình chọn phi cho Thái tử, chọn con gái của Ti vệ Thiếu khanh Dương Tư Kiệm. Nhưng trước ngày thành hôn, cô ta tư thông với Vũ Mẫn, người con trai đẹp nhất Trường An, anh em với Ngụy Quốc phu nhân. Kết quả, hôn ước của Thái tử bị hủy bỏ, Vũ Mẫn bị đày đi, Võ hậu phái người đi áp giải giết chết giữa đường, bỏ thây ở đồng hoang. Thời xưa, Võ hậu bức bách Cao Tông phế bỏ Tiêu Thục phi, Nghĩa Dương công chúa và Tuyên Thành công chúa – hai người con gái của Tiêu phi cũng bị ở trong cung cấm suốt 19 năm sau khi mẫu thân chết. Thái tử Lý Cường biết được em cùng cha khác mẹ của mình bị bức bách như thế, lớn giọng tấu lên Võ hậu, đề xuất yêu cầu ngay lập tức thả hai công chúa ra. Võ hậu vì muốn giữ quan hệ giữa bà với Lý Cường, không muốn vì việc này mà tranh chấp cùng Thái tử, nên phá lệ đồng ý, cho hai công chúa ra khỏi cung. Hai công chúa cảm kích Thái tử Lý Cường không hết. Ngày 13 tháng 4 năm Hàm Hưởng thứ 6, khi Thái tử Lý Cường cùng phụ hoàng và mẫu hậu vào ăn cơm trưa, bỗng nhiên thân thể không khỏe. Sau khi ăn cơm không lâu, toàn thân liền bị co rút, chết ở cung Điện Vân. Đối với cái chết của Thái tử, có rất nhiều truyền thuyết. Có thuyết nói vì Thái tử phản đối mẫu hậu, mà bị Võ hậu độc sát. Cách nói của thuyết này không đáng tin lắm. Theo sử sách ghi lại thì Thái tử Lý Cường bị mắc bệnh lao phổi, ngày càng thêm nặng, cuối cùng dẫn đến cái chết năm 24 tuổi. Lại nói, khi Thái tử Lý Cường chết, Thiên hoàng Thiên hậu đều rất đau buồn. Ngày thứ hai sau cái chết của Lý Cường, Cao Tông đề xuất thoái vị, các tể tướng phản đối dữ dội; Thiên hậu cũng bỏ triều 3 ngày, trà cơm khó nuốt, cái chết của Thái tử, khiến lòng bà vạn phần đau khổ.

Sau cái chết của Lý Cường, Lý Hiền được lập làm Thái tử, năm 22 tuổi. Lý Hiền khỏe mạnh đẹp trai, văn võ song toàn, rất được Thiên hoàng Thiên hậu yêu thích. Nhưng, Lý Hiền lại không thích mẫu hậu, trong các truyền thuyết có một lý do. Phần trước nói, khi xưa Võ hậu hãm hại Vương Hoàng hậu, đã từng giết chết cô công chúa. Sau cái chết của cô công chúa 11 tháng, Võ hậu sinh ra một Hoàng tử, chính là Lý Hiền. Người trong cung nói: khi Võ Chiêu Nghi mang thai, Cao Tông từng sủng ái Hàn Quốc phu nhân chị của bà. Trong một năm liền sinh hai thai dường như quá dày, mọi người không tin tưởng lắm. Cho nên trong cung lúc bấy giờ bàn tán xôn xao mẹ của Lý Hiền không phải là Võ Chiêu Nghi mà là Hàn Quốc phu nhân, và Hàn Quốc phu nhân lại bị Võ hậu giết chết. Lời truyền như thế, tạo thành bi kịch bất hòa giữa mẹ con Võ hậu và Lý Hiền ngày sau. Ngày nay, Lý Hiền tuy được lập làm Thái tử, nhưng ông ta vẫn cứ cho rằng, Thiên hậu ngay cả con gái do mình sinh ra còn có thể giết hại, làm sao có thể để con trai của chị bà tiếp thừa ngôi vị Hoàng đế? Võ hậu phát hiện con trai và mình có khoảng cách, muốn dùng biện pháp cứu vãn, nhiều lần gọi Thái tử vào cung, Lý Hiền đều mượn cớ thoái thác. Lý Hiền thông minh học giỏi, đồng tình với cảnh ngộ của phụ hoàng. Sau khi Lý Hiền được lập làm Thái tử, thì triệu tập học giả chú thích “Hậu Hán thư” của Phạm Diệp, dùng Lữ hậu chuyên quyền, Lữ thị loạn chính, mượn xưa chê cười nay, phản đối việc làm và ngoại tuế (Võ thị) chấp chính của mẫu hậu. Đối với việc này Võ hậu đã đau lòng lại ghi hận. Khi Thiên hoàng Thiên hậu ở Đông Đô, ở Trường An Thái tử Lý Hiền trị nước, xử lý chính vụ ngăn nắp gọn gàng. Và thái độ của Lý Hiền đối với Võ hậu cũng ngày càng lạnh nhạt. Thiên hậu làm nỗ lực cuối cùng, muốn cùng Thái tử Lý Hiền nói chuyện vui vẻ với nhau, nhưng Lý Hiền ngay cả gặp mặt bà cũng không bằng lòng, lại phái người ngầm giết Minh Sùng Nghiễm, thuật sĩ được sủng ái bên cạnh Thiên hậu. Sự việc bại lộ, Võ hậu không nhẫn nại được, phạt Lý Hiền làm thứ dân, và đuổi đến Ba Châu. Sau đó bức bách khiến Lý Hiền tự sát.

        Cao Tông Hoàng đế vốn muốn những người con trai có tài năng bảo vệ Vương triều nhà Lý, không ngờ Lý Cường, Lý Hiền liên tiếp bị hại, hiện tại chỉ có thể lập Lý Hiển làm Thái tử. Ở trong buồn phẫn mất hy vọng, tinh thần Cao Tông sụp đổ. Năm 683, sau khi Lý Hiển được lập làm Thái tử không lâu, Cao Tông uất ức mà chết. Lý Hiển tiếp vị, lấy hiệu là Trung Tông. Trung Tông là người không học võ chẳng học văn, ngu xuẩn không tài năng. Trung Tông muốn phong Vi Huyền Trinh – cha của Vi thị Hoàng hậu làm Tể tướng, bị sự phản đối kiên quyết của các Đại thần Bùi Viêm v.v…. Trung Tông lại tỏ rõ: “Thiên hạ là của trẫm, chỉ cần trẫm muốn, thì thiên hạ đều giao cho trẫm, lại có gì mà không thể được?” Võ hậu nghe được giận dữ. Trung Tông chỉ ngồi trên bảo tòa Hoàng đế được 44 ngày, thì bị Võ hậu giáng xuống làm Lư Lăng vương. Võ hậu đổi lập Lý Đán, đứa con trai nhỏ nhất của mình làm Hoàng đế, lấy hiệu là Duệ Tông. Lý Đán thì giống như Cao Tông tính tình nhu nhược. Thấy gương của ba người anh, Lý Đán không muốn làm Hoàng đế. Dưới sự quán thúc và uy quyền của Võ hậu, Lý Đán làm Hoàng đế, thực ra là một bù nhìn hoàn toàn.

Đổi niên hiệu lên ngôi và hăng hái muốn giúp nước

Võ hậu biết Duệ Tông vô đức vô tài, không có nhiều triển vọng, nên cũng không hy vọng gì đối với ông ta. Vả lại chỉ là Hoàng đế trên danh nghĩa, tất cả đại sự quốc gia, đều do Thái hậu nhiếp chính. Võ hậu trọng dụng người trong gia tộc Võ thị, toàn bộ phong làm Chúa công, và xây dựng Từ đường ngũ đại Võ thị ở Văn Thủy quê hương. Hàng loạt biện pháp này là để bà chính thức lên bảo tòa Hoàng đế danh chính ngôn thuận. Tuy bà đã chấp chính gần 20 năm, là chủ một nước trên thực tế, nhưng vì bản thân là nữ mà lên ngôi vị Hoàng đế, nên còn nhiều trở lực.

Trước tiên là Đại thần Từ Kính Nghiệp, ngày 29 tháng 9 năm 684, giúp Lư Lăng vương, viết “hịch tấn công Võ thị”, ở Dương Châu khởi binh phản Võ. Võ hậu lập tức dùng Lý Hiếu Dật làm Đại tướng quân, thống lĩnh 30 vạn binh đi tấn công Từ Kính Nghiệp. Tể tướng Bùi Viêm phản đối dùng binh, chủ trương hoãn chinh, đã tấu trình với Võ hậu: “Hoàng đế lớn tuổi, không nên tham chính nữa. Nếu Hoàng đế giao trả triều chính cho Duệ Tông, quân phiến loạn ắt sẽ không gây chiến nữa”. Đối với việc này Võ thị rất nổi giận. Lúc bấy giờ có người mật báo cháu của Bùi Viêm tham gia phản loạn, tố cáo Bùi Viêm có ý phản; vì thế Võ hậu bỏ ông ta vào ngục, sau đó chém đầu ở Đô Đình. Võ hậu đem quân tấn công Từ Kính Nghiệp chỉ trong 44 ngày. Toàn quân bị tan rã và Từ Kính Nghiệp bị giết chết. Năm Thời Cách thứ 4, Việt vương Lý Trinh, quan chép sử Dự Châu và Lang nha Vương Lý, quan chép sử Bác Châu, con trai của ông ta lại tiếp tục khởi binh phản Võ. Võ hậu ngay lập tức phái binh trấn áp, nhanh chóng dập tắt. Tiếp đó, Lý Đường tôn thất và hàng loạt cựu thần quí tộc bị tiêu diệt, địa vị Võ hậu càng thêm vững mạnh.

Để phụ nữ làm Hoàng đế một cách danh chính ngôn thuận, Võ hậu tiến hành một loạt sửa đổi. Bà trước tiên đổi Đông Đô Lạc Dương làm Thần Đô, tiếp theo đổi tên Đường bách quan, sau đó sửa đổi lễ nghi phong kiến. Theo truyền thống qui định tế lễ trời đất đều là việc của người nam chủ trì, bà lại thống lĩnh tiên chủ nắm việc tế lễ. Truyền thống qui định cha mất, con để tang ba năm, mẹ mất, con để tang một năm; Võ hậu qui định mẹ mất, con phải để tang ba năm giống như cha mất. Biện pháp này đề cao địa vị lễ chế của người phụ nữ, trên thực tế chính là đề cao địa vị của bà trong tâm trí chúng thần triều đình, từng bước tạo ra một hình tượng nữ Hoàng đế. Vì để khiến bà đăng cơ làm nữ Hoàng có cơ sở đạo đức, lý luận nhất định, Vũ Thừa Tự, cháu họ của bà, cho người dâng lên bia đá có khắc “Thánh mẫu lâm nhân, vĩnh xương đế nghiệp” (Thánh mẫu gần người, nghiệp vua mãi mãi hưng thịnh), nói nhận được ở Lạc Thủy, thực chất là biểu dương Võ hậu đăng cơ. Phần phụ trong “Đại Vân kinh” của Phật giáo có đoạn sấm văn, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Tịnh Quang Thiên Nữ: “Ngươi sẽ giáng sinh ở nhân gian, trở thành Nữ hoàng, mọi người trong thiên hạ đều sùng bái qui thuận”. Võ hậu như nhận được ngọc quí, vì thế ra sức hoằng dương Phật giáo, áp chế Đạo giáo bị ảnh hưởng sâu nặng tư tưởng Nho giáo. Lợi dụng lúc bấy giờ Phật giáo mở rộng Đông truyền, trong xã hội thịnh hành tín ngưỡng Phật Di Lặc. Các thuộc hạ của Võ hậu đi khắp nơi rao truyền Võ hậu chính là Di Lặc tái thế. Vì thế, truyền nói “Thái hậu là Bồ Tát Di Lặc xuống trần”, nhanh chóng truyền khắp thiên hạ. Cứ như thế, Võ hậu đăng cơ có thể có căn cứ. Để tránh tiếng xấu soán ngôi nhà Đường, Võ hậu cho đi khắp nơi truyền nói Tổ tiên của mình chính là Châu Võ vương, nếu như bà làm Hoàng đế chính là “phục hưng Châu Võ”, Thị ngự sử dẫn 900 người Du Nghệ, dâng biểu lên, thỉnh Võ hậu tự làm Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Châu. Võ hậu giả vờ không hứa, lại nhanh chóng đề bạt người Du Nghệ. Tiếp đó, bách quan tôn tuế, bá tánh xa gần, Sa môn Đạo sĩ, hợp diễn ra hơn 6 vạn người liên danh dâng biểu xin Võ hậu làm Hoàng đế đổi quốc hiệu là Châu. Trước tình huống này, Đường Duệ Tông cũng đành chấp nhận và dâng biểu xin thoái vị. Vì thế, ngày 9 tháng 9 năm 690, Võ hậu phế bỏ Duệ Tông, đổi quốc hiệu là Châu, đổi niên hiệu Thiên Thọ, thêm tôn hiệu là Thần thánh Hoàng đế. Như thế, Võ hậu trải qua mưu kế tinh xảo 36 năm, cuối cùng leo lên bảo tòa Vương triều phong kiến, chính thức trở thành nữ Hoàng đế thứ nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Từ khi lên làm Hoàng đế trong hơn 30 năm về sau, bà không dùng thủ đoạn với những kẻ đả kích mình, hoặc trấn áp những thần thuộc diện phản đối mình. Một khi đạt đến mục đích, bà liền hăng hái giúp nước, đổi mới sự tệ hại nhà Đường, tạo một quốc gia cường thịnh, thành tựu củng cố trên khách quan và phát triển “chính trị Trinh Quán”. Làm cơ sở tốt đẹp để xây đắp “khai nguyên thịnh thế” (mở đầu đời hưng thịnh) của Đường Huyền Tông, mở mang con đường phồn vinh và phát triển kinh tế của xã hội phong kiến Trung Quốc.

Trước khi Võ hậu đăng cơ xưng đế, đối mặt khiêu chiến với Lý thị tôn thất, quí tộc và Đại thần phân tướng, bà sử dụng hai biện pháp: một là nghiêm khắc trấn áp phái phản đối, hai là đề bạt số lớn thứ tộc địa chủ làm quan, bồi dưỡng hàng loạt quan lại trung với mình. Để thay đổi quan niệm danh gia cũ, bà thủ tiêu “Thị tộc chí” viết thời Thái Tông, đặt khác thời đại “họ Thị lục”. Lấy gia tộc Hoàng hậu làm đệ nhất đẳng, ngoài ra luật lấy sự cao thấp quan chức làm tiêu chuẩn, phân thành 9 đẳng. Xuất thân từ binh sĩ mà lập quân công, cũng có thể cùng với hàng gia thế đại tộc ở trong cùng một đẳng cấp. Như thế, lấy công trạng đặt quan chức, lấy quan chức phân cao thấp, quan chức tốt đẹp so với môn đệ. Việc làm này ở thời điểm ấy có tác dụng tiến bộ nhất định. Võ hậu ngoài việc dùng Tể tướng ba tỉnh ở Nam Nha xử lý việc nước, còn triệu tập hàng loạt “trí thức văn học” trong cửa Bắc thành, tham gia bàn bạc việc nước, tập hợp trí tuệ, biên soạn sách vở. Lúc bấy giờ mọi người gọi là “học sĩ cửa Bắc”, trên thực tế chính là Đoàn quân sư của Hoàng đế, tương đương với Đoàn cố vấn nguyên thủ, Tổng thống quốc gia phương Tây hiện đại. Thời kỳ Võ hậu làm chính trị, còn phát minh “hộp đồng”. Đây là một cái rương (hòm) đồng được chế tạo đặc biệt, 4 mặt của rương có 4 lề sách bỏ vào, phân biệt là “kiến nghị”, “tự tiến”, “minh oan”, “bí mật”, có điểm rất giống hộp thư ý kiến, hộp thư báo hiện nay. Không kể là quan lại hay bá tánh, đều có thể nhét thư từ vào trong đó. Điều này mở đầu chế độ báo cáo của quần chúng trong lịch sử, các triều đại sau như Lý Đường, Triệu Tống v.v…. đều dùng theo chế độ như thế, mãi đến chính phủ địa phương Tây Tạng triều Thanh, cũng còn sử dụng hộp đồng.

Bắt đầu triều Tùy, sáng lập chế độ khoa cử trong lịch sử Trung Quốc. Triều Đường kế thừa và tăng thêm khoa mục thi cử, chọn được rất nhiều nhân sĩ. Hình thức lúc bấy giờ là mỗi địa phương cử người đến kinh thành dự thi, do quan chủ khảo đánh gía quyết định cuối cùng chọn lấy danh sách. Năm thứ nhất Võ hậu lên ngôi vị Hoàng đế (Thiên Thọ nguyên niên, tức năm 690), vì nguyện vọng có đầy đủ thứ tộc địa chủ làm quan, bà phát triển thêm chế độ khoa cử, triệu tập thí sinh đạt yêu cầu đến trước điện, do Hoàng đế đích thân xét hỏi lại một lần, sáng tạo ra nền nếp “điện thí” (kỳ thi trước điện). Hoàng thượng đích thân chủ trì điện thí, nói rõ việc xem trọng khoa cử, tăng thêm tính cách nghiêm trang của kỳ thi, lại tăng thêm sự cảm nhận vinh quang đối với thí sinh, cảm thấy mình là “môn sinh Thiên tử” (học trò của vua), sẽ thêm trung quân ái quốc. Hai năm Trường An, Võ Hoàng đế tuổi già (năm 702), ngoài kỳ điện thí khoa văn, bà lại tạo ra khoa võ, không riêng tuyển chọn quan quân, đặc biệt trong đó tuyển chọn nhân tài tướng soái, để tăng mạnh lực lượng quốc phòng, đích thực bảo vệ an toàn quốc gia. Bốn triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đều tiếp thừa chế độ khoa võ mà bà khai sáng. Có thể thấy nhãn quang của Võ Hoàng đế nhìn rất xa, khó có triều đại đế vương nào có thể theo kịp.

Võ thị làm Hoàng đế không lâu, đầu xuân mỗi năm ra ngoài cung cử hành nghi thức nghề dâu tằm – Hoàng đế cày ruộng, Hoàng hậu lễ Thần tằm. Vì năm 20 tuổi, bà đưa ra 12 việc lập thệ, việc thứ nhất là “khuyên trồng dâu, xem nhẹ lao dịch văn phú”, phát triển sản xuất, bảo vệ chế độ quân điền (chia ruộng đồng đều), ức chế thôn tính, bảo vệ tài sản bá tánh. Bà đích thân chủ biên bộ “Triệu nhân bổn nghiệp ký” (Điềm được mùa của nghề nông) về nghề nông, trở thành sách nông nghiệp được xem trọng trong các thời đại nhà Đường. Bà còn đích thân soạn bộ sách “Thần quỹ” (Phép tắc của bề tôi), tổng cộng 10 chương, trong đó hai chương “Liêm khiết”, “Lợi nhân”, nhấn mạnh “cái gốc của việc dựng nước, tất ở nông dân. Tư tưởng của trung thần là người lợi nhân, việc ở khuyến nông”.

Võ Hoàng đế còn xem trọng đồn điền biên phòng nơi quan trọng, không chỉ phát triển sản xuất nông nghiệp, mà còn củng cố quốc phòng. Thành tích đồn điền của Lâu Sư Đức ở Hà Thao, Quách Nguyên Chấn ở Cam Túc, Hắc Xỉ Thường ở Hà Nguyên đều rất nổi bật. Ngoài ra, Võ thị còn đốc thúc quan dân địa phương xây dựng thủy lợi, giữ gìn ngăn ngừa tai họa. Kinh tế xã hội thời kỳ Võ Hoàng đế rất phát triển, trật tự xã hội cũng an toàn ở mức độ nhất định. Nhân khẩu toàn quốc ba năm sau khi Thái Tông chết (năm 652) là 380 vạn nhà, đến Thần Long nguyên niên (năm 705) đã tang đến 615 vạn nhà, so với nhân khẩu đầu nhà Đường tăng thêm gần gấp đôi.

Võ Hoàng đế tuy là nữ, nhưng lại rất quan tâm đối với quân sự quốc gia, biên phòng đế quốc. Từ khi bà làm Hoàng hậu chấp chính xâm chiếm trăm sông, thời kỳ bà thống trị bài trừ sự quấy nhiễu của dân tộc du mục đối với trung nguyên, quan hệ tốt với dân tộc thiểu số chung quanh nước Đường. Có một thời gian, quan hệ của Đường và các dân tộc thiểu số như Thổ Phiên, Đột Quyết, Khế Đan căng thẳng, Võ Hoàng đế sử dụng biện pháp giải quyết nguồn lính như mộ lính, phát nô, đoàn kết tổ chức binh lính, thông qua đồn điền giải quyết vấn đề vận chuyển nguồn lương thực. Trường Thọ nguyên niên (năm 692), Võ Hoàng đế lợi dụng cơ hội nội loạn Thổ Phiên, ra lệnh Vương Hiếu Kiệt – Tổng quản quân võ uy tiến đánh Thổ Phiên, thắng lợi lớn, hồi phục và xây dựng lại 4 thành Quy Tư, Vu Điền, Sơ Lặc, Toái Diệp, củng cố biên phòng phía Tây đế quốc Đường, xác lập đế quốc Đại Đường thống trị Nam Bắc Tây Sơn, trùng tân khai thông con đường mua bán một đoạn giữa theo hướng Trung Á Tây Á, xúc tiến giao lưu kinh tế, văn hóa trong ngoài.

Thời kỳ Võ Hoàng đế chấp chính, đối với việc xây dựng văn hóa cũng được xem trọng hơn, đích thân khởi xướng biên soạn văn quan trọng. Bà triệu tập các nhà Nho như Châu Tư Mậu, Phạm Lũ Băng, Vệ Kính Nghiệp ở nội cấm điện biên soạn “Huyền Lãm”, “Cổ kim nội phạm”, mỗi loại 100 quyển, “Thanh cung kỷ yếu”, “Thiếu dương chánh phạm”, mỗi thứ 30 quyển, “Đuy thành điển huấn”, “Phụng lâu tân giới”, “Hiếu tử truyện”, “Liệt nữ truyện”, mỗi thứ 20 quyển. Bà triệu tập rất nhiều văn sĩ biên tập bộ Đại bách khoa toàn thư thứ nhất trên thế giới, tức “Văn quán từ lâm” 1000 quyển, “Tam giáo (Nho Giáo, Phật giáo, và Đạo giáo) châu anh” 1300 quyển. Chính Võ Hoàng đế cũng là một nhân vật đa tài đa nghệ, bà tự mình trước tác “Thùy cung tập” 100 quyển và “Kim luân tập” 10 quyển, đáng tiếc đã thất truyền. Bà tự chế “Đại nhạc”, đã từng dùng 900 người vũ công diễn tấu. Bà tự làm thơ “Như ý nương”, tình cảm mềm mỏng uyển chuyển, rất đáng ngâm vịnh. Thơ rằng:

Khán chu thành bích tư phân phân,

Tiều tụy chi li vi ức quân.

Bất tín tỉ lai trường hạ lệ,

Khai tương nghiệm thủ thạch lựu quần.

Tạm dịch:

Thấy đỏ thành xanh nghĩ xôn xao,

Tiều tụy tan tác làm nhớ vua.

Bất tín trông nay lệ chảy dài,

Mở hòm (rương) xét thấy váy phụ nữ.

Do Võ Hoàng đế rất yêu thích thi từ khúc điệu, vì thế thời kỳ bà thống trị, thơ, văn, tiểu thuyết, sử học triều Đường, xuất hiện nhiều nhất, có thể nói là thời kỳ đại phát triển văn hóa Trung Quốc.

Giao chức vụ cho hiền hân

Sau hơn 30 năm củng cố địa vị, Võ Chiếu không từ một thủ đoạn độc ác nào, cuối cùng lên ngôi Hoàng đế, thống trị Đại Đường 50 năm, rất có mưu lược và mưu mô thủ đoạn, có bản lĩnh chế ngự quần thần, biết người dùng người. Chính do điểm này mà nhận được sự ca tụng và công kích của sử gia các thời đại và bá tánh bình dân, khen chê không thống nhất. Đối với thần quan ân uy đều trọng, thực thi cả cứng lẫn mềm. Một lần, bà triệu tập quần thần, nói với họ: “Trẫm theo Cao Tông hơn 20 năm, quan tước các khanh giàu có đều là trẫm cho. Thiên hạ an lạc, trẫm trưởng dưỡng. Và tiên đế bỏ quần thần, đem thiên hạ giao cho trẫm. Trẫm không lo cho thân, hết lòng thương yêu bá tánh, trách nhiệm của trẫm đối với bá tánh quá nặng nề. Thế mà những người vì quyền lợi riêng tư rắp tâm làm phản như Bùi Viêm, Từ Kính Nghiệp, Vu Đỉnh. Buộc lòng trẫm phải đem quân tiêu diệt, các khanh lấy đó làm gương, phải hết lòng phụng dưỡng trẫm, không làm thiên hạ cười!”. Lời huấn thị này, phân nửa là hăm dọa, phân nửa là khuyên bảo, quần thần cúi đầu, không dám nhìn lên, đều nói: “Chỉ bệ hạ sai khiến!”

Võ Hoàng đế rất mẫn cảm đối với cử động của quần thần. Để phòng ngừa mưu phản, bà đặt hộp đồng ở trên Đường triều, những người mật báo nhét văn thư vào trong đó. Và qui định người có báo cáo mật, “sẽ được vào đến chỗ vua chúa, dù là nông phu tiều nhân đều được triệu kiến”, bất kỳ quan viên nào không được tra hỏi, vả lại phải dùng ngựa trạm đưa đến kinh thành, dọc đường còn phải căn cứ tiêu chuẩn phần ăn của quan ngũ phẩm mà cung cấp cơm ăn. Xem xét cáo mật thật, phong quan tặng lộc; cáo mật không thật, hoàn toàn không phản lại. Như thế, có ích cho việc nêu báo người hư, cũng có khả năng báo thù tư riêng, hãm hại người tốt. Vì thế, ngọn gió cáo mật khởi lên hưng thịnh, trên dưới triều đình, ai cũng phập phồng lo sợ. Hàng loạt quan viên triều đình vô tội bị liên lụy, có một thời gian, triều thần mỗi lần lên trước triều, đều phải chia biệt cùng người nhà.

Để trấn áp phái phản đối, trong thời kỳ Võ Hoàng đế chấp chính, Tiên hậu trọng dụng hàng loạt quan lại tàn ác nổi tiếng như Võ Tam Tư, Võ Thừa Từ, Châu Hưng, Lai Tuấn Thần, Sách Nguyên Lễ, Binh Thần Tích v.v…, để pháp luật nghiêm ngặt, thực hiện khủng bố thống trị. Châu Hưng, Lai Tuấn Thần, Sách Nguyên Lễ là những quan lại tàn ác khét tiếng, có người hoàn toàn vô tội, tìm kiếm gom góp thành tội. Hình phạt tàn khốc họ sử dụng danh mục rườm rà, người bị phạt chỉ cần xem hình cụ, thì muốn thừa nhận ngay bất kỳ tội danh nào, để cầu tránh dùng hình phạt. Lai Tuấn Thần và bộ hạ của ông còn chuyên môn viết quyển “La tích kinh” (Con đường tìm kiếm tích góp), giới thiệu các hình thức tra tấn kết tội. Nổi tiếng là Địch Nhân Kiệt, Ngụy Nguyên Trung, đều đã từng lấy tội mưu phản bỏ ngục, giết hại. Võ hậu trọng dụng 23 quan lại tàn ác nổi tiếng, trong đó Lai Tuấn Thần, Châu Hưng, Sách Nguyên Lễ mỗi người đã từng giết vài ngàn người. Đường thất tôn quí bị họ giết hại khoảng vài tram người, quyền thần bị diệt tộc cũng có vài trăm nhà. Tướng nổi tiếng bách tế nhân (giúp 100 người) Hắc Xỉ Thường, người Cao Lệ lo việc quân sự không can thiệp vào chính sự, cũng bị Châu Hưng tìm kiếm tích góp tội danh mà giết oan. Các quan lại tàn ác càng giết càng hăng, thậm chí dòm ngó chú ý đến đám quyền quý thân tộc của Võ thị, vì thế trở thành đối tượng bị công kích.

Võ Hoàng đế thấy được “hình phạt tàn bạo như thế” đã đạt được mục đích, dập tắt sự bất mãn đối với một số quan lại, bèn chuyển tay xử tội giết các quan lại tàn ác Châu Hưng, Lai Tuấn Thần, “xóa sạch sự căm phẫn của dân chúng”. Phương pháp Võ thị sử dụng là lấy quan lại tàn ác trị quan lại tàn ác. Năm Thiên Thọ thứ 2 (năm 691), có người báo mật Châu Hưng và Binh Thần Tích thông mưu làm phản, Võ thị tuy không tin, nhưng vẫn cứ ra lệnh cho Lai Tuấn Thần thẩm tra. Lai Tuấn Thần bèn làm thẩm, nói với Châu Hưng: “Tù nhân không thừa nhận, thì sử dụng biện pháp nào?” Châu Hưng nói: “Việc này rất dễ! Lấy chum lớn, cho tù nhân vào trong đó, để lửa than chung quanh nướng, việc gì không thừa nhận!” Vì thế Lai Tuấn Thần tìm một cái chum lớn, căn cứ theo phương pháp của Châu Hưng nói, dùng lửa than đỏ để chung quanh, sau đó bảo Châu Hưng: “Có cáo trạng bên trong tố cáo ông, mời ông vào trong đây”. Châu Hưng hoảng sợ, cúi đầu chịu tội. Lai Tuấn Thần dùng phương pháp “đạo trị người trị mình,” , nghiêm trị giết Châu Hưng. Người sau có câu thành ngữ “Mời anh vào chum”. Lại lập một hộp thiếc cáo mật, thông qua hộp thiếc cáo mật mà cáo lên. Tố cáo những quan lại tàn ác lúc bấy giờ để trị tội. Theo truyền thuyết, khi tên quan lại tàn ác Lai Tuấn Thần chết, gia đình những người thù hận kéo đến, tranh giành thi thể ông ta để rửa hận, trong nháy mắt móc con ngươi, bóc da mặt, mổ bụng lấy tim, đạp nát như bùn. Võ Hoàng hậu thấy tình hình thuận nước xuôi buồm, liền ra lệnh ghi chép tội trạng của những quan lại tàn ác và xử tội diệt tộc.

Võ Hoàng đế tuy đã xử chết các quan lại tàn ác Châu Hưng, Lai Tuấn Thần và bắt đầu thực hiện chính sách khoan hồng, nhưng ngọn gió cáo mật lúc bấy giờ chưa hoàn toàn ngưng hẳn. Nguyên đán năm Trường Thọ thứ 2, Thái tử Lý Đán trong nghi thức Hoàng đế tế trời bị lạnh nhạt, nguyên nhân do Á Hiến người nối ngôi Hoàng đế bị Ngụy vương Võ Thừa Từ chiếm đoạt. Sáng sớm ngày hôm sau, Lưu thị và Đậu thị phi của Thái tử vào cung chúc Tết Võ Hoàng đế, không hiểu vì sao mất tích, Thái tử tra tìm tung tích của hai phi, Hoàng đế ra lệnh không cần phải tiếp tục tra hỏi việc này. Nguyên vì sự mất tích bí mật của hai phi, là một tì nữ theo hầu được Hoàng đế tin tưởng mật báo hai phi nguyền rủa chỗ tinh vi của Hoàng đế. Năm người con của Thái tử cũng bị bỏ vào trong cung cấm. Triều thần thấy được Hoàng đế có ý muốn lập con cháu Võ thị làm người nối ngôi, cố ý vu cáo Thái tử mưu phản. Khi quan lại tàn ác đến Đông cung thẩm vấn người thân cận Thái tử, các gia bộc và hoạn quan đều thấy đây là việc ma vương giết người nên sợ hết hồn vía, ngay lập tức đồng thanh thừa nhận cùng Thái tử mưu phản, để mong tránh được hình phạt tàn khốc, chỉ có một thợ thủ công tên là An Kim Tàng, không tiếc thân mình để chứng minh sự trong sạch của Thái tử. Cuối cùng Hoàng đế cảm động, không cho tiếp tục tra tìm, và dặn Thái tử phải đối xử thật tốt với An Kim Tàng. Sau đó Duệ Tông được phục hồi, An Kim Tàng được phong làm Đại quốc công, lưu danh sử xanh. Tất cả những việc này nói rõ, Võ Hoàng đế mãi tin tưởng người cáo mật, cũng phản ánh sự thống trị của các quan lại tàn ác lúc bấy giờ rất là đáng sợ. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến Võ thị bị người đời sau mắng chửi.

Võ Hoàng đế tuy sử dụng sự thống trị của quan lại tàn ác, giết bừa bãi nhiều quan viên, nhưng cũng lựa chọn và sử dụng hàng loạt quan hiền tướng tốt. Bà có thể nghe theo can gián, khéo phát hiện tri thức có tài, đối với quan viên một mực chính trực, chỉ cần không có ý mưu phản, bị quan lại tàn ác và thân tín hãm hại, bà cũng có thể bảo vệ và sử dụng. Cho nên, trong triều đình có hàng loạt quan lại hết lòng vì bà. Trước sau bà sử dụng 75 vị Tể tướng, 29 người xuất thân sĩ tộc, 35 người xuất thân thứ tộc, 3 người thông qua người thân che chở, và 27 người thông qua khoa cử mà vào. Tể tướng nổi tiếng trong đó có Lý Chiêu Đức, Ngụy Nguyên Trung, Đỗ Cảnh Kiệm, Địch Nhân Kiệt, Diêu Tông, Trương Đông Chi v.v… Tướng bên cạnh nổi tiếng có Đường Hưu Cảnh, Lâu Sư Đức, Quách Nguyên Chấn v.v… Võ Hoàng đế sáng suốt biết người và khéo dùng người. Lạc Tân Vương một trong “tứ kiệt sơ Đường”, khi tham gia phản loạn với Từ Kính Nghiệp ở Dương Châu, đã từng đích thân soạn viết “Hịch tấn công Võ thị”, chỉ trích Võ thị: tính chẳng hòa thuận, địa vị thấp hèn…. giết chị giết anh, giết vua, thuốc độc mẹ, thần dân đều ghét, trời đất không dung”. Bà vừa xem vừa khen “nét bút đẹp”, “kỳ tài kỳ tài”, và hỏi quan quân hai bên: “Hịch văn này là của ai làm?” Khi báo cáo là “bút tích của Lạc Tân Vương”, Võ thị tiếc nói: “Có tài văn như thế này, mà không sử dụng được, đây chẳng lẽ không phải là lỗi của Tể tướng sao?” Sử quan Vương Cập Thiện trưởng phủ Đại đô đốc Ích Châu, vì già bệnh cho hưu. Võ Hoàng đế thấy ông có tài cho rằng để Vương Cập thiện giữ chức thứ sử là đại tài tiểu dụng, bèn giữ lại trong triều, cho làm Tể tướng.

Võ thị là người trọng dụng rất nhiều người trong gia tộc, nhưng nếu như không có tài năng hoặc làm hỏng việc, bà chiếu theo đó mà trừng trị. Tôn Tần Khách là con trai của người chị theo Võ Hoàng đế, khuyên Võ hậu đổi Đường làm Châu, được nâng lên làm nội sử. Sau đó vì cố tham vật trộm, chiếu theo đó bị đày mà chết. Võ Thừa Tự cháu trai của Võ Hoàng đế làm Tả tướng văn xương, bình thường đả kích khác biệt, có tâm không kỷ cương. Lý Chiêu Đức mật tấu: “Thừa Tự cháu của Bệ hạ, lại là vua mới, càng không nên ở quyền cơ, để mê hoặc quần chúng nhân dân. Vả lại đế vương từ xưa, giữa cha con, còn tranh đoạt lẫn nhau, huống ở cô cháu, chẳng lẽ được ủy quyền đó ư? Nếu như tiện thể, ngôi vị có giữ yên được chăng?” Hoàng đế rõ sợ nói: “Trẫm chưa suy nghĩ vậy”. Thừa Tự cũng nói lời nói dối của Lý Chiêu Đức, Hoàng đế nói: “Tự trẫm cử Chiêu Đức, mỗi lần giành được chỗ nằm cao, là lao khổ thay ta, chẳng phải ngươi có thể làm được vậy”. Võ Thừa Tự liền chuyển làm Thái tử thiếu bảo, được cử làm Tể tướng. Việc này không chỉ nói rõ Võ Hoàng đế biết người khéo cử, mà còn làm được việc dùng mà không nghi, không luận thân sơ, dùng người có tài.

Trong thời kỳ Võ Hoàng đế chấp chính, còn tiếp nhận sự can gián của Đường Thái Tông. Bà rất biết việc quan trọng của sự giúp đỡ can gián, cổ vũ Đại thần dâng thư can gián. Vì thế mà không thiếu Tể tướng Đại thần như Chu Kính Tắc, Ngụy Nguyên Trung, Địch Nhân Kiệt, Đỗ Cảnh Kiệm v.v…, đều có thể giáp mặt dẫn đấu tranh triều đình, không xu phụ kẻ có quyền thế. Có một mùa thu nọ Hoàng đế cầm ra cành hoa lê cho các Tể tướng xem, vẻ mặt các Tể tướng đều nịnh bợ, nói đây là điềm lành. Chỉ riêng Đỗ Cảnh Kiệm nói: “Nay cỏ cây hỏng rụng, mà đây lại thêm tươi tốt, bất kỳ âm dương, lỗi ở các thần”. Sau khi Hoàng đế nghe xong rất khen thưởng, nói: “Khanh, chân Tể tướng vậy!” Võ Hoàng đế tôn sùng Phật giáo, muốn tạo tượng Phật lớn, khiến thiên hạ Tăng ni ngày ra tiền để giúp công của họ. Địch Nhân Kiệt thượng sách can gián. Võ Hoàng đế hỏi: “Công giáo trẫm làm thiện, lẽ nào lại trái ư?” Lập tức ngừng công việc kia thôi. Càng thêm quí trọng Địch Nhân Kiệt, “thường gọi quốc lão mà không gọi tên”. Chu Kính Tắc thấy việc tập hợp con trai đẹp trong dân gian cho Võ Hoàng đế làm người tình, quyết tâm can gián dù phải chết, vả lại lời can gián kịch liệt chua cay, nói “dân gian có người cho rằng con trai của mình sắc trắng, hoặc có người tự xưng dương vật lớn, chính là tuyệt phẩm thiên hạ, và hy vọng tiến cử vào phụng sự phủ của vua”, hy vọng Hoàng đế tự ngăn ngừa ham muốn của mình. Đối với mũi nhọn như thế, khiến lời nói của người phẫn nộ, Võ Hoàng đế sau khi nghe không những không giận, ngược lại còn tặng 100 tấm lụa là gấm vóc cho Chu Kính Tắc, và nói: “Nếu chẳng phải khanh nói thẳng, trẫm còn không biết có việc như thế. May thay khanh can gián thẳng không kiêng tránh”. Độ lượng như thế, khiến Chu Kính Tắc khen ngợi “Không sợ vì Thiên tử anh minh”.

Võ Hoàng đế bảo vệ, khen thưởng khích lệ đối với những quan lại can gián thẳng thắn, chân chính không tư riêng, và đối với những hạng a dua phụng thừa lại không dòm đến, thậm chí có ý đuổi đi. Năm 692, Hoàng đế đại xá thiên hạ, và ngăn cấm thiên hạ làm thịt, bắt cá tôm. Trương Đức hữu xả di gần 50 tuổi, không con cái. Mùa xuân năm ấy, phu nhân lại sinh cho ông ấy một đứa con trai trắng mập, khiến Trương đại nhân vui nừng như cuồng. Chuẩn bị ngày tam triêu (ngày thứ 3 sau khi sinh) đãi tiệc chúc mừng, nhưng giết bò mổ dê lại trái với Thánh chỉ. Chính trong buổi lễ buồn này, Đỗ Túc đến thăm bổ khuyết rất tốt quan hệ xưa nay vốn thiếu, Trương Đức lấy tấm lòng của mình nói với các bạn đồng liêu, và mời Đỗ đại nhân nhất định phải đến. Đến ngày tam triêu, Trương Đức lén lén giết 1 con dê, làm chả băm, và những món ăn ngon khác, Đỗ Túc dự tiệc uống rượu, ăn thịt băm, còn khoe thịt dê vị ngon. Ngày hôm sau Hoàng đế lâm triều, bỗng hỏi Trương Đức: “Biết tội không?” Vốn phạm vi buổi tiệc nhỏ rất bí mật, lại bị Hoàng đế biết, đặc biệt là trái với Thánh chỉ cấm mổ thịt, Trương Đức vội vàng quỳ xuống cúi đầu nói: “Thần biết tội, tội đáng chết vạn lần”. Các Đại thần đều cho là Trương Đức phải chết. Hoàng đế mỉm cười nói: “Trẫm cấm giết mổ, nhưng việc cưới xin ma chay không ở trong giới hạn đó. Trương khanh, Trẫm ban cho ngươi vô tội!” Trương Đức tạ ân, đang muốn thoái lui, Hoàng đế lại hỏi: “Trương khanh, có biết vì sao Trẫm biết không?” Trương Đức đáp: “Thần không biết”. Hoàng đế bèn ra lệnh cho nội thị lấy tấu chương và miếng thịt dê băm của Trương Đức cầm ra, sau đó nói: “Đây chính là Đỗ Túc tri giao của ngươi mật báo, sau này khanh mời khách, hãy lựa chọn người nhé!” Nói xong, phất tay áo thoái triều. Qua việc này, như sách “Tư trị thông giám” luận: Võ thị “bắt chẹt việc thuởng phạt để điều khiển thiên hạ, chính trị do mình ra, xét rõ đoán khéo, cho nên lúc bấy giờ anh hiền lại được dùng, nhưng không gọi chức, tìm cũng cách chức, hoặc thêm hình phạt giết”. Lời đánh giá này thật là công chính

Nữ đế sủng nam

Võ Chiếu sau khi lên ngôi Hoàng đế, mặc trang phục của nam Hoàng đế, giả nam Hoàng đế thiết lập phi tần. Người bà thiết lập là phi tần nam, lựa chọn những thiếu niên nam dáng vẻ khôi ngô, và để cho những tần nam này mặc y phục nữ ở trong cung cung phụng. Việc này bị đời sau gọi là chuyện hoang đường. Bà chọn vài người con trai đẹp nổi tiếng xung thực vào hậu cung, trở thành nam sủng, cùng Hoàng đế làm trò vui phục vụ “xem hạc treo ngược” xây dựng thêm “phụng thần phủ”. Vì vậy người đời sau mắng bà dâm ô ở hậu cung, hoang dâm vô độ.

Hoàng đế Cao Tông mất đi không lâu, thời kỳ Võ hậu bận chính sự, bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Công chúa Thiên Kim con gái thứ 18 của Cao Tổ quan hệ rất tốt với Võ hậu, khéo nghênh tiếp, từ Thị Tỉnh Trung tìm đến một người con trai đẹp làm “linh dược” điều hòa âm dương dâng cho Thái hậu, người này vốn chính là Phùng Tiểu Bảo có quan hệ tình xưa với Võ hậu. Tiểu Bảo đương nhiên theo lời gọi, hai người lại thưởng thức vị tình năm xưa. Khi Thái hậu 60 tuổi, lần thứ nhất nếm được niềm vui chốn phòng khuê, người đời sau căn cứ vào việc này mà mắng Võ hậu dâm loạn. Kỳ thực, bà mải bận việc chính trị, hoàn toàn không xem trọng tình yêu. Ngay cả khi được Cao Tông sủng ái, thì tình yêu đối với bà cũng chỉ là biện pháp để tranh đoạt quyền lực, mà không có tình cảm và lạc thú chân chính. Nay, tuy tuổi đã về già, nhưng bình thường bảo dưỡng có chất, riêng nắm đại quyền tinh thần thoải mái, Thiên Kim công chúa đưa đến người bạn cũ khiến Thái hậu dường như hoa mẫu đơn tàn lụi, lần thứ nhất tưới nhuần nếm được vị ngọt. Để Phùng Tiểu Bảo có thể vào cung thường xuyên, Thái hậu cho ông ta làm trụ trì chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, tặng tên Tiết Hoài Nghi, mượn cớ siêu độ cho danh sách Tổ tông, đi lại trong cung hành lạc, nhằm che giấu tội lỗi. Vị tăng Tiết Hoài Nghi này, dựa vào sự sủng ái của Thái hậu, mới đầu còn có sự kiêng dè, dần dần quên đi, ra vào lại cưỡi ngựa vua, do số người thần quan ủng hộ, gọi loa dẹp đường nhấc hàm thiếc ngựa lên, hống hách không ai bằng. Sĩ dân đến không kịp tránh, liền bị móng sắt đâm đầu, máu chảy đầy đất; gặp Đạo sĩ, liền khiến người cắt tóc họ đi; tình cờ gặp triều thần quí tộc, cũng khiến họ quỳ xuống; ngay cả Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư v.v… là người thân của Hoàng đế, cũng đều tranh làm người đánh ngựa mở đường cho ông ta, thi lễ kính chào, những triều thần khác thì chỉ dám giận mà không dám nói. Phùng Tư Húc, Ngự sử tả đài, chấp pháp nghiêm chỉnh, ngẫu nhiên gặp Hoài Nghi giữa đường, bị Hoài Nghi quát khiến thị dịch dường như đánh chết. Tô Lang Tự Ôn Quốc công tiếp theo Liễu Nhân Quỹ, nhận lệnh Hoàng hậu đóng giữ Tây kinh, Võ hậu đặc biệt triệu làm Tể tướng, nhận chức vào triều, giữa đường gặp Hoài Nghi, để tránh bạo lực ông ta thi lễ, Tiết Hoài Nghi lại không đáp lễ, ngẩng cao đầu như không người. Tô Lang Tự giận dữ: “Kẻ trọc đầu từ đâu đến, lại dám ngạo mạn với ta?” Tiết Hoài Nghi đã mê muội ngạo nghễ ngang tang, làm sao nhẫn nại, liền cùng Quốc công đấu miệng. Tô Lang Tự ra lệnh tả hữu kéo ngã Hoài Nghi, và nhéo má ông ta vài chục cái. Nổi nóng Tiết Hoài Nghi mặt đỏ như gấc, vội vàng báo cáo Võ thị. Võ thị nhìn Hoài Nghi mỉm cười: “A sư chỉ nên ra cửa Bắc, dãy cửa Nam Tể tướng ra vào, làm sao có thể phạm chứ?” Việc này nói rõ, Võ thị chỉ dùng Tiết Hoài Nghi là người tình, không để cho ông ta xúc phạm Tể tướng.

Võ hậu lo sợ Tiết Hoài Nghi tiếp tục tác oai tác quái, bèn mượn cớ nói ông ta khéo suy nghĩ, biết quản lý, để cho ông ta vào cung quản lý việc tạo dinh, chịu trách nhiệm xây dựng Minh đường, Thiên đường, và đại Phật. Minh đường cao 294 thước, vuông 300 thước, có 3 tầng. Tầng dưới tượng trưng cho 4 mùa; tầng giữa tượng trưng cho 12 con giáp, mặt trên làm cột tròn, ôm vào 9 con rồng; tầng trên tượng trưng cho 24 giờ, cũng làm cột tròn, trên đắp phụng sắt, cao 1 trượng, dùng hoàng kim trang sức, hiệu là Vạn Tượng thần cung. Phía Bắc Minh đường, lại kiến trúc Thiên đường 5 cấp, bên trong dành để chứa tượng Phật lớn. Tượng cao 900 thước, mũi tượng như chiếc thuyền lớn 10 hộc (1 hộc bằng 10 đấu hoặc 5 đấu tùy theo từng thời hỳ), ngón tay út có thể chứa vài chục người ngồi trên đó, bên trong quét sơn, tuyệt vời khác thường. Hoài Nghi sử dụng phí bình thường, tùy ý vào trong cung chi lấy, không bị hạn chế. Ông ta nghĩ ra một kế khéo léo, mỗi tháng mở đại hội, triệu tập thiện nam tín nữ, đại hội trong chùa, thấy có thiếu nữ nhan sắc, liền giữ lại thiền phòng, tùy ý mua vui, làm hư hại không biết bao nhiêu con gái nhà lành. Cứ như thế, dần dần bỏ Võ Hoàng đế qua một bên. Minh đường, Thiên đường và đại Phật xây dựng trong 6 năm mới xong, Hoàng đế mỗi tháng gọi Tiết Hoài Nghi vào 6,7 lần, dần dần ít nhất 2,3 lần, vì có thiếu nữ hành lạc, cuối cùng lại cự tuyệt Võ Hoàng đế gọi vào. Như thế, Hoàng đế bèn lại sủng ái Ngự y Thẩm Nam Trân. Nam Trân khéo vào phòng không để cho mọi người hoài nghi, Võ thị thích hợp cũng vui lòng. Việc này bị Tiết Hoài Nghi biết được, lửa ghen phừng phừng, phẫn nộ nổi lửa đốt Thiên đường và tượng đại Phật xây dựng trong 6 năm. Võ Hoàng đế không nhẫn được, bèn bàn với Thái Bình công chúa, ngầm phái cung nữ khỏe mạnh mai phục, dụ dỗ Tiết Hoài Nghi vào cung, trong Dao Quang điện giết chết ông ta. Bọn tay chân của Tiết Hoài Nghi, cũng bị giết hại tất cả.

Sau khi Tiết Hoài Nghi bị giết, Võ Hoàng đế tự xưng Thiên Sách Kim Luân Đại thánh Hoàng đế, đổi niên hiệu “Thiên Sách vạn tuế”, lễ mừng kéo dài 9 ngày. Tháng 12 năm thứ 2 Thiên Sách vạn tuế, Hoàng đế lấy danh nghĩa Hoàng đế đế quốc Đại Châu, từ Thần đô Lạc Dương đi về Thần nhạc Tung Sơn, tổ chức nghi thức phong thần rất lớn. Lúc này bà đã gần 70 tuổi, đỉnh núi cao khoảng 1600m, đạp lên tuyết trắng xóa, đối mặt với gió lạnh thấu xương, chonngười theo hầu thối lui, một mình trang nghiêm lên đàn tế lễ, trong Thiên vương Thần Phong Sơn là bảo vệ Thần đô Lạc Dương. Cảnh hùng tráng này, lịch sử chưa từng có trong phong thần đại điển của đế vương cổ đại Trung Quốc. Sau 1 tháng làm lễ phong thần ở Tung Sơn, bệnh ngoài buồn trong nối nhau mà đến. Thổ Phiên, Khiết Đan, Đột Quyết nhiều lần vi phạm biên giới, văn thư báo gấp liên tiếp đưa lên. Khi Lưu Tư Lễ - thích sử Cơ Châu tấn công Khiết Đan, lại âm mưu phản đối nữ đế lâm triều. Mùa thu nhiều việc, khiến sức lực Hoàng đế không đủ, vấn đề khó khăn là lập con của Lý thị làm Thái tử hay cháu của Võ thị tiếp thừa, cũng khiến Hoàng đế quá mệt mỏi về tinh thần và thể chất. Lúc này, Thẩm Nam Trân ngự y một thời theo hầu Hoàng đế, vì đến trung niên, thân thể suy yếu mà mất đi sự sủng ái. Vì thế, công chúa Thái Bình con gái yêu vì mẫu hoàng tìm đến anh em Trương Dị, Trương Xương Tông thiếu niên, dáng dấp xinh đẹp, am hiểu âm luật. Xương Tông tuổi chỉ 20, mày mắt thanh tú, thân thể cường tráng. Thái Bình công chúa giới thiệu với mẫu hoàng, và gọi Xương Tông vào cung. Xương Tông xuất hiện trước mặt Võ Hoàng đế, khiến tình cảm trào dâng, ngay cả các cung nữ lớn tuổi trong cung cũng không tự chủ được phải phát ra lời khen. Xương Tông, hầu hạ suốt đêm, khiến Hoàng đế yêu thích vô cùng, Tiết Hoài Nghi, Thẩm Nam Trân trong quá khứ đều không bằng người mới. Trương Xương Tông tuy tuổi nhỏ nhưng dục vọng mạnh, trải qua đêm vui, lo lắng chống đỡ không nổi, bèn xin cho người anh Trương Dị được tiến cử vào. Hoàng đế đồng ý, ngày thứ hai bèn gọi Trương Dị. Công phu qua đêm của Trương Dị quả nhiên đặc biệt hơn so với Xương Tông, nhưng tình cảm dịu hiền khúm núm, còn kém một nước so với người em. Võ Hoàng đế nhận biết sở trường của mỗi người, cách đêm đổi người, giao hoan triệt để. Sau đó bèn phong Trương Xương Tông làm Vân Huy Tướng quân, phong Trương Dị làm Tư Vệ Thiếu khanh, đặc biệt tặng cho anh em họ nhà cửa khang trang, nô tỳ, tài sản trâu ngựa rất nhiều, ngoài ra còn thêm 500 tấm lụa đẹp. Từ đó hai Trương thay phiên nhau vào ngự triều, sủng ái không ai bằng. Ngay cả cha của hai Trương cũng được truy tặng làm Thích sử Tương Châu, mẹ cũng được phong làm Thái phu nhân. Không lâu, Hoàng đế lại tiến giao cho Xương Tông làm Ngân thanh quang lục đại phu, quyền lực của hai Trương không đầy 1 tuần (10 ngày), đã là uy chấn kinh đô. Các anh em Võ và khách Tổ tiên, đều tranh nhau cùng lên cửa yết kiến, rất hâm mộ, thậm chí đích thân vì hai Trương dắt ngựa cầm roi, tôn Trương Dị làm ngũ lang, Xương Tông làm lục lang.

Trong cuộc sống riêng tư, Võ Hoàng đế hết sức nuông chiều hai Trương, xem anh em Trương thị là Bảo Chương, Lâm Phàm trong thần thoại. Nhưng trên chính trị, bà lại công tư phân minh, hoàn toàn tin tưởng vào danh tướng Địch Nhân Kiệt, tất cả chính sự đều giao cho ông ta xử lý. Đặc biệt trong vấn đề sắc lập Hoàng Thái tử, nhiều lần nghe theo ý kiến Địch Nhân Kiệt. Địch Nhân Kiệt ung dung nói với Hoàng đế: “Hoàng đế dãi gió dầm mưa, thân liều gươm đao, để yên thiên hạ, truyền cho con cháu. Đại đế đem hai con ủy thác cho bệ hạ, nay bệ hạ muốn thay đổi tộc của chúng, chẳng phải là ý trời ư! Vả lại cháu và con ai thân hơn? Bệ hạ lập con, thì thiên thu vạn tuế sau này, thay cơm Thái miếu, tiếp thừa vô cùng; lập cháu, thì chưa nghe cháu là Thiên tử mà lễ miếu cô vậy.” Ra sức khuyên bảo Hoàng đế triệu hoàn Lư Lăng Vương. Các trọng thần khác, như Lý Chiêu Đức, Vương Phương Khánh, Vương Cập Thiện v.v…, cũng khuyên Hoàng đế lập con mà không nên lập cháu. Nhưng Hoàng đế ý đã định. Như thế, Võ Hoàng đế sau khi suy nghĩ trăm lần, lặng im và đau khổ đưa ra quyết sách chính thức, tiếp nhận kiến nghị của Địch Nhân Kiệt, làm tiêu tan nỗi băn khoăn đổi lập Ngụy Hoàng Tự cháu của Võ thị, quyết định tiếp theo phục hồi lại Lư Lăng Vương Thái tử trước kia đã bị phế bỏ, lập lại Ngụy Thái tử. Sau khi địa vị Thái tử Lý Hiển được xác lập, Hoàng đế lại lo lắng cháu của Võ thị sẽ gặp tai nạn bị tiêu diệt khi không có bà. Vì thế, Hoàng đế lại gọi Thái tử Lý Hiển, tướng Vương Đán, Thái Bình Công chúa cùng với các vương Võ thị đến, ra lệnh họ thệ ước “Sau khi Hoàng đế mất đi, giữa Thái tử Lý Hiển và tộc Võ thị tuyệt đối không sinh ra tranh chấp gì”. Như thế còn chưa đủ, bà lại ra lệnh cho Thái tử Lý Hiển tuyên đọc văn thệ giữa mọi người tại cung Thông Thiên, hướng đến trời đất triều thần phát thệ, và văn thệ được khắc trên phiếu sắt, cất giữ trong sử quán. Đương nhiên, đây chỉ là một nỗ lực, một hy vọng của Hoàng đế. Trong lòng Hoàng đế cũng rõ, sau khi bà trăm tuổi, con cháu Lý Đường lại nắm quyền, lời thệ ước này cũng có thể không được tuân thủ, bà cũng không thể quản lý được.

Khi Võ Hoàng đế nhận thức, về sau “Đế quốc Đại Châu chỉ có một đời ta”, thì cũng dần dần chán nản đối với chính trị, ít quản lý chính sự, mà chuyển hướng đi tìm những niềm vui tuổi già. Bà ra lệnh cho Tăng nhân Hồ Siêu nghiên cứu bào chế thuốc trường thọ, trải qua 3 năm, hao rất nhiều tiền, cuối cùng thành công. Đây là một loại thuốc tính thanh xuân, sau khi dùng, tính dục tăng mạnh. Bà tuy đã hơn 70 tuổi, nhưng sau khi cùng anh em hai Trương hành lạc, cảm nhận được sự sảng khoái chưa từng có. Hoàng đế đại Ngụy cao hứng, hậu tặng Hồ Siêu, đổi niên hiệu Cửu thị, đại xá thiên hạ. Hoàng đế quả thật giống như tuổi trẻ, tự mình cũng cảm thấy hồi phục sức sống. Vì thế, ở Lạc Dương hầu như mỗi ngày đều phải tổ chức yến tiệc để hai Trương trong lòng Ngụy, Hoàng đế nhiều lần đích thân tham gia. Một lần trong yến tiệc, Võ Tam Tư khoe khoang Trương Xương Tông không thuộc về người đẹp nhân gian, có thể là Hoàng tử Tiên nhân gỉa chuyển thế. Sau khi Hoàng đế nghe được rất cao hứng, đặc biệt nảy sinh suy nghĩ kỳ lạ, ra lệnh căn cứ theo câu chuyện truyền thuyết, chế tạo ra hạc gỗ có bánh xe và áo sợi mẫu hoa văn có hình hạc, để Trương Xương Tông gỉa cưỡi hạc thổi sáo làm Hoàng tử “Thái tử lên Tiên”, và gọi Tống Chi Vấn , Thẩm Toàn Kỳ thi nhân đến theo dõi thi phú. Đồng thời, Hoàng đế ra lệnh lựa chọn càng nhiều thiếu niên anh tuấn, đưa vào Phụng thần phủ để dễ cung phụng. Như thế, trong cung ngoài cung truyền nói rất dữ dội “Nữ đế hoang dâm”, nhanh chóng truyền khắp trong dân gian.

Cuối cùng Hoàng đế tuổi già sắc suy, đối với hai thiếu niên đẹp Xương Tông, Trương Dị mà nói, đương nhiên không thể thỏa mãn. Bên cạnh Hoàng đế có một nữ Thượng quan Nhu Mì (cháu gái của Thượng quan nghi lễ), thi phú hội họa đều rất khéo, tuy đã ngoài 30, chỉ vì vẫn cứ là xử nữ, dáng vẻ đẹp không kém thiếu nữ. Rõ ràng, Thượng quan Nhu Mì có ma lực rất lớn trong mắt Trương Xương Tông. Một hôm, hai Trương và Thượng quan Nhu Mì cùng hầu Hoàng đế dùng cơm, Xương Tông và Nhu Mì lại chăm chú nhìn nhau say đắm. Một đôi tình nhân còn chưa tự biết, mà tuổi già Hoàng đế đã xét thấy. Chỉ thấy Hoàng đế duỗi tay ôm vào, bỗng nhiên một luồng ánh sáng hướng lên đầu Nhu Mì bay đi. May thay Nhu Mì nhanh mắt nghiêng đầu qua một bên, Hoàng đế trợn mắt nhìn họ, sau đó phất tay áo mà đi. Sau sự việc, Nhu Mì bị giam cầm ở lao nữ, hai Trương cũng bị đối xử nhạt nhẽo nhiều giờ. Do hai Trương khóc lóc cầu hòa, dâng hiến nịnh nọt, mới lại được Hoàng đế sủng ái, Nhu Mì cũng chỉ bị xử cắt tóc, tiếp tục giữ lại trong cung. Từ câu chuyện này có thể thấy được, Hoàng thượng tuy già, nhưng sự ghen tuông chưa giảm.

Sau khi danh tướng Địch Nhân Kiệt qua đời, Hoàng đế than thở “Triều đình không còn ai vậy”. Hai Trương bắt đầu can dự triều chính, gặp phải ác cảm của Thái tử, Đại thần và các vương Võ thị. Trên dưới triều đình cùng suy nghĩ “Hoàng đế tuổi đã cao, không bằng sớm nhường ngôi cho Thái tử”. Nội quan Tô An Hằng hai lần dâng sớ, khuyên Hoàng đế “nhường ngôi cho Đông cung, để dưỡng Thánh thể”, Hoàng đế đích thân triệu kiến và tặng thưởng, nhưng lại không xử lý thêm. Khi Quận vương Trọng Nhuận trưởng tử, Quận chúa Vĩnh Thái con gái và Vũ Đình Cơ (trưởng tử của Vũ Thừa Tự) rể của Thái tử Lý Hiển cùng uống rượu, nói đến quan hệ của Tổ mẫu tuổi già và hai Trương, vì bất mãn hai Trương chuyên ngang ngược, ngữ khí rất dữ dội. Lời nói truyền đến tai hai Trương, họ liền thêm dầu thêm mỡ vào và báo đến Hoàng đế. Sau khi Hoàng đế nghe được rất nổi giận, liền ra lệnh cho Thái tử Lý Hiển thẩm vấn xử trí. Thái tử vì bảo toàn địa vị của mình và bảo vệ mạng sống của những người khác trong cả nhà, đành chịu đau ra lệnh trưởng tử, con gái và rể tự sát. Việc này, điểm sai là bức bách phi Hàn thị của Thái tử không sinh đẻ, Hàn thị quyết tâm “quân tử báo thù, 10 năm không muộn”. Đợi Trọng Nhuận chết được 3 năm, khiến Thái tử Lý Hiển, tướng Vương Đán và Thái Bình Công chúa không yên, lo sợ hai Trương còn sẽ báo thù. Vì thế, sau khi 3 anh em bí mật bàn bạc, dâng tấu thỉnh Hoàng đế phong Trương Xương Tông làm vương. Lúc này, hai Trương đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tuổi già của Hoàng đế, đã có các người của Thái tử khẩn cầu, Hoàng đế liền phong Trương Xương Tông làm Nghiệp Quốc công. Sự việc này làm chấn động thiên hạ, phản đối hai Trương càng thêm dữ dội.

Tháng 11 năm Trường An thứ 4, thành Lạc Dương mưa tuyết nhiều, gió lạnh dữ dội, bệnh tình của Võ Hoàng đế nghiêm trọng, không thấy Tể tướng, cũng không thấy lâm triều, bên cạnh chỉ có hai Trương hầu hạ. Các quan viên văn võ lo lắng Hoàng đế trong bệnh sẽ mê mờ đem quyền lực giao cho hai Trương, quyết định lập kế cách ly hai Trương, giết chết họ. Vì thế, một người tên Dương Nguyên Tự liền ra báo cáo hai Trương âm mưu tạo phản. Hoàng đế biết rõ hai Trương không quay lưng phản mình, nhưng vì thân mình đang bệnh, chỉ có thể giữ hai Trương lại bên thân, mới có thể bảo đảm sự an toàn cho hai thanh niên trẻ này.

Trương Đông Chi Tể tướng tuổi đã 80 và Thôi Huyền Vĩ là Lãnh tụ “Quang phục Đường thất”, quyết định ủng hộ Thái tử Lý Hiển đem binh bức bách Võ Hoàng đế thoái vị. Vì thế, ngày 22 tháng giêng năm Thần Long nguyên niên, Trương Đông Chi, Thôi Huyền Vĩ thống lĩnh 500 quân Vũ Lâm, bước vào Đông cung, ôm Thái tử Lý Hiển lên ngựa, lãnh đạo binh tiến công vào cung Nghênh Tiên nơi Hoàng đế cư ngụ. Hai Trương nghe được bên ngoài có tiếng động, bèn nhanh chóng chạy đến cửa cung nhìn, bị giết chết. Khi Thái tử Lý Hiển đứng trước giường bệnh của Hoàng đế, Hoàng đế giận dữ trách hỏi: “Vốn việc con làm là tốt phải không?” Như vậy ngày 24 tháng 1 năm 705, kết thúc sự thống trị của nữ Hoàng đế trước sau chưa từng có trong lịch sử. Thái tử Lý Hiển lên ngôi lần thứ hai, hiệu là Trung Tông. Võ Hoàng đế được đưa đến cung Thượng Dương tĩnh dưỡng, được tôn phụng là “Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế”. Từ đó trở đi, mới bắt đầu xuất hiện hiệu gọi “Tắc Thiên”.

Ngày 26 tháng 11 năm 705, nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên quy tiên, hưởng thọ 82 tuổi. Trước khi lâm chung bà di chiếu “bỏ đế hiệu, gọi Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu”, và dặn chôn chung với Cao Tông Hoàng đế, trước lăng dựng bia không chữ.

Một đời nữ Hoàng đế đổi triều thay thời đại, công tội muôn đời người sau đánh giá. Tuy lịch triều lịch đại công tội của Võ Tắc Thiên đúng sai sánh giá không thống nhất, nhưng bà là nữ Hoàng đế duy nhất ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc. Từ năm 1988, thành phố Quảng Nguyên tỉnh Tứ Xuyên, mỗi năm vào ngày 1 tháng 9 định làm ngày lễ phụ nữ, để kỷ niệm nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên. Điều này cho thấy, quần chúng nhân dân Trung Quốc không quên bà.

Bốc Tùng Lâm

10 Người đàn bà làm chấn động thế giới

Dịch giả: Nguyễn Kim Dân

Bài viết khác

Bốn chất thay thế đường lành mạnh

Bốn chất thay thế đường lành mạnh

22/01/2024

Một số chất làm ngọt tự nhiên và ít gây hại cho cơ thể như đường cỏ ngọt, đường la hán, mật ong và đường nâu. Trong một bài báo tổng quan bao gồm 46 nghiên cứu về đường không ly tâm, tác dụng được báo cáo nhiều nhất là [tăng khả năng] miễn dịch (26%)...

Cá mắm xứ Huế

Cá mắm xứ Huế

09/02/2024

Viết về Cá và Mắm xứ Huế, tôi dựa vào ít ỏi vài tài liệu trong tay tuy không đầy đủ nhưng tôi hy vọng nêu lên phần nào một trong những nét đặc trưng ẩm thực của người dân Huế.

Art