Mọt tượng
Sư cụ cho gọi chú tiểu Bửu vào, nói:
- Con tới đây làm công quả đã lâu, hạnh tu coi như đã có, nên thầy muốn nhờ con một chuyện.
Tiểu Bửu cung kính xá:
- Thưa thầy, con xin nghe.
- Con biết, chùa mình dọn từ Mai Sơn về đây đã nhiều năm mà vẫn chưa thỉnh được tượng Quán Thế Âm theo. Nay, tình thế tương đối yên ổn trở lại, thầy muốn con tới chùa cũ thỉnh về, có được chăng?
Tiểu Bửu bối rối:
- Dạ, được... nhưng...
- Nhưng sao?
- Không biết con có đủ sức vượt qua mọi khó khăn, hiểm trở.
Sư cụ điềm nhiên:
- Con cứ thơi thả mà đi, coi đó như đường tu hành, thong dong buớc, thế nào cũng tới.
Tiểu Bửu cúi mặt:
- Thưa thầy, con không ngại đường xa cách trở mà ngại lòng mình chưa đủ đạo hạnh để thỉnh tượng về đây.
Sư cụ cười khoan dung:
- Ðáng lẽ chuyện này là của thầy, nhưng thầy biết sức mình hết kham nổi thử thách ngoại cảnh, nên phải nhờ tới con, người mà thầy hết dạ tin tưởng.
Tiểu Bửu xúc động rơm rớm lệ:
- Thầy đã nói vậy, con xin tuân.
Rồi từ đó cho tới ngày lên đường về lại Mai Sơn tự, không đêm nào tiểu Bửu yên giấc. Chú cứ trằn trọc mơ tưởng về chuyến đi sắp tới. Tiểu Hạnh, bạn đồng tu, gọi đó là ‘‘sứ mạng cao cả của Tề Thiên đại thánh‘‘, và lộ vẻ ganh tị ra mặt. Tiểu Bửu phải an ủi: ‘‘Chú còn nhỏ, thầy đâu dám nhờ.‘‘ Tiểu Hạnh hờn dỗi: ‘‘Sao thầy không cho anh em mình đi chung cho có bạn?‘‘ Tiểu Bửu cười khẽ: ‘‘Phải có người ở lại chăm sóc thầy và lo chuyện chuông mõ chớ.‘‘ Dẫu hiểu, nhưng Tiểu Hạnh vẫn ấm ức trong bụng. Tiểu Bửu biết vậy, nên ít khi đem chuyện đi thỉnh tượng ra nói.
Tội nghiệp, Tiểu Hạnh là trẻ mồ côi, được thân nhân gởi vô chùa từ năm sáu tuổi. Không những Tiểu Bửu có bổn phận dạy học cho Tiểu Hạnh, mà còn chỉ vẽ nó cách quán xuyến chuyện chùa chiền như nấu cơm, giặt giũ, lau chùi hay gióng chuông và thắp nhang đèn cúng Phật mỗi thời kinh sớm chiều. Còn nhỏ, nên Tiểu Hạnh ham chơi hơn thích làm. Mỗi năm tới mùa dế, nó ra ruộng bắt vài con đem về nuôi trong hộp thiếc, giấu dưới ụ rơm ủ nấm. Khi bị Tiểu Bửu bắt gặp đang chơi đá dế, nó ngỏn ngoẻn cười nhận lỗi. Tiểu Bửu không la mắng hay ngăn cấm chi, chỉ ôn tồn giải thích. Một hôm, chú bắt gặp Tiểu Hạnh ngồi khóc lặng lẽ bên ao nước. Hỏi sao khóc, nó rấm rứt: ‘‘Em vừa thả mấy con dế ra ruộng.‘‘ Tiểu Bửu cảm động lây, đặt tay lên vai bạn: ‘‘Làm một việc thiện, lẽ ra phải cười, sao lại khóc?‘‘ Tiểu Hạnh ngước mặt cười mếu, lộ hàm răng sún. Nụ cười ấy, Tiểu Bửu suốt đời không bao giờ quên.
Thỉnh thoảng sư cụ lại vui miệng kể chuyện phong cảnh Mai Sơn cho hai chú tiểu nghe. Rừng núi ấy, như tên gọi, có nhiều mai dại. Không hoàn toàn giống như mai chưng vào dịp đầu năm, dã mai có cánh hoa thuôn dài, hơi úp, mau nở mà cũng chóng tàn. Hằng năm, tới độ mai mãn khai, sáng ra suối múc nước, thấy lưng núi đơm rực hoa vàng. Chiều hôm rịn sương, tưởng như có bầy hoàng hạc từ tây phương trở lại thăm chùa. Tiểu Bửu ghi đậm hình ảnh thơ mộng ấy vào tâm. Ðể đến hôm nay, chú cứ thẩn thơ mộng mị cảnh rừng mai trong chiều sương toả.
So với phần số Tiểu Hạnh, Tiểu Bửu may mắn hơn, vì còn mẹ và bảy anh chị em. Tháng chạp năm nào mẹ cũng tới thăm Tiểu Bửu. Quà cáp mẹ mang, toàn những thứ Tiểu Bửu hảo ăn như bánh hạnh nhân, bánh chuối hấp và thật nhiều bánh ít bột khoai mì. Chú biết, thật ra đó chỉ là cái vui tạm, sự có mặt của mẹ mới là niềm vui chính. Mẹ là cái gạch nối ấm áp cuối cùng giữa chú và thế tục bên ngoài. Mẹ nán lại chùa vài ngày, phụ làm công quả. Lâu rồi, mẹ không còn nhắc tới cha, người mà mẹ kể đã tập kết ra Bắc từ năm 1954. Cũng lâu rồi, Tiểu Bửu không còn hỏi mẹ lý do tại sao mang chú gởi cho chùa. Tiểu Bửu đã bắt đầu cảm thọ nhịp sống tu hành. Dù vậy, tới lúc mẹ con chia tay nơi bến đò, Tiểu Bửu không khỏi sa nước mắt. Chú chờ bóng con đò khuất dạng sau lùm cây và mặt nước im sóng mái chèo, mới quay lưng lầm lũi, mắt lệ ngắn dài. Thuở ấy chưa có mặt Tiểu Hạnh. Trong những buổi tiễn đưa về sau, có Tiểu Hạnh bên cạnh, Tiểu Bửu cố ngăn nước mắt. Rồi cũng tới lúc, chú không còn khóc khi từ giã mẹ nữa, chỉ buồn. Buồn trong những lần bóc bánh ra ăn. Rưng rưng tưởng lại tiếng chân mẹ quạnh quẽ trong sân chùa lót gạnh tàu. Và đậm đà biết mấy món canh bí mẹ nấu dâng Phật rằm tháng chạp.
Tiểu Bửu xoay lưng, hé mắt nhìn ra liếp cửa vằng vặc trăng soi. Ðêm nay cũng rằm. Tiểu Bửu khó ngủ, mơ vá quàng chuyện này chuyện nọ. Tự dưng chú cảm thấy nhiệm vụ sư cụ giao phó gian nan quá. Ðường từ đây lên Mai Sơn tự non mười cây số, nhưng phải đi bộ, vì không có lối sông. Ði về ít nhất hai ngày. Tiểu Bửu định ở lại chùa cũ một đêm một ngày để ngắm cảnh hoa cho mãn nhãn. Không biết, sau mấy năm chinh chiến, cảnh vật có còn như xưa? Có còn những cội mai hoá long ngủ quên lưng chừng núi? Có còn những hoàng hôn, bầy công núi bay về đậu trên chòm sứ trắng đợi nghe chuông? Có còn bóng trăng thuỷ ngân soi trong lu nước ngậm bông sứ mỗi đêm rằm? Tiểu Bửu rợn người tưởng ra bàn tay ai thon muốt đẩy giạt lớp hoa, vốc làn nước thơm rẩy lên tượng Phật. Ngón tay dịu nhiễu, mềm mại. Mặt nước run gợn sinh thú. Hương hoa chập chờn vọng tưởng. Tiểu Bửu giật mình nhận ra đó là bàn tay con gái.
Bên cạnh, Tiểu Hạnh nẩy người, ú ớ mê sảng.
° ° °
Tiểu Bửu sắp bầu nước lọc, hai củ khoai luộc, đòn bánh tét nhưn chuối, quyển kệ mỏng và cái xẻng con vào bọc vải. Tiểu Hạnh lăng xăng dặn dò:
- Chú đi, nhớ về sớm. Ðừng quên cái chăn bông!
- Lâu lắm là ba ngày.
- Chú đem theo bao nhiêu đó thức ăn, đủ không?
- Ðủ rồi. Nếu thiếu, dọc đường chú hái trái ăn thêm. Khát thì uống nước suối. Thầy bảo, có dòng suối bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, vắt ngang lưng núi.
Tiểu Hạnh hít hà:
- Chú sướng hơn em.
Tiểu Bửu cười mỉm:
- Tại Tiểu Hạnh không biết, chớ chú lo lắm, sợ mình không làm tròn bổn phận.
Tiểu Hạnh thắc mắc:
- Không hiểu sư cụ thỉnh bức tượng đó về làm gì? Sao không đặt làm tượng mới, lớn và đẹp hơn?
- Sao em biết tượng cũ nhỏ và xấu?
Tiểu Hạnh nhăn nhó giải thích:
- Xãu thì em không dám nói, nhưng chắc chắn là nhỏ và xưa cũ lắm rồi.
- Quí vì cũ xưa đó em. Bây giờ tượng là một món cổ ngoạn hiếm có.
Rồi Tiểu Bửu trầm ngâm cất giọng:
- Theo lời sư cụ, vài năm trước ngày chia đôi đất nước, lúc tình thế còn hỗn mang, một hôm có anh thanh niên ghé ngang Mai Sơn tự xin tá túc một khoảng thời gian. Anh ta là thợ mộc, biết đẽo khắc tượng gỗ. Sư cụ không nhờ, nhưng ngày nọ, anh vào rừng vác về một khúc gỗ huỳnh đàn. Thế là suốt buổi anh ta cày cục nâng niu đẽo thành tượng Phật. Trước đó anh ta còn kỹ lưỡng ngâm gỗ trong nước bông sứ. Hỏi để làm gì, thì anh bảo, có vậy gỗ mới dẻo dai bền vững với thời gian và lúc nào cũng thoảng hương hoa. Sau vài tuần, anh hoàn tất bức tượng. Sư cụ bảo rằng, chưa thấy tượng Phật nào có thần sắc từ bi nhân ái như thế. Tượng nhỏ thôi, chừng ba gang tay, vậy mà chỉ cần nhìn qua diện mạo, đã thấy cái tâm vô biên vô lượng hiện ra rành rành. Cho tới đêm nọ, chàng thanh niên xin phép sư cụ rời chùa, rồi không thấy trở lại như đã hứa. Khi chiến tranh tràn lan, sư cụ nhờ người chôn giấu bức tượng bên cội bông sứ sau chùa. Hôm tản lạc về đây, quên đem theo. Bây giờ tính lại đã gần mười năm, mau thật.
Tiểu Hạnh thở ra, hỏi:
- Không biết anh thanh niên ấy làm gì, quê ở đâu?
- Sư cụ không nói, chú cũng không hỏi. Mà biết, có ích chi?
Tiểu Hạnh đoán xa đoán gần:
- Chắc anh ấy làm chuyện đại sự, không muốn cho ai biết.
Tiểu Bửu cười nhẹ:
- Ờ, sư cụ còn kể thêm, theo lời anh ấy dặn, muốn cho tượng có thần sắc, phải ngâm gỗ trong nước in bóng trăng rằm ba đêm.
- Rủi nhằm bữa trời xấu, không trăng thì sao?
Tiểu Bửu nhăn mặt, nói như trách:
- Thì chờ mùa trăng sau, có vậy cũng hỏi.
Tiểu Hạnh cười lỏn lẻn:
- Em hỏi cắc cớ cho vui vậy mà.
- Người đó có căn tu mà chưa gặp duyên đó thôi.
Nét mặt Tiểu Hạnh đột ngột sa sầm:
- Còn em?
Tiểu Bửu đặt tay lên vai bạn:
- Nếu em không có căn tu, đã không lạc tới nơi này.
- Vậy mà chú cứ trách em là đứa có căn chơi chớ không phải căn tu.
Tiểu Bửu cười xoà:
- Ðôi lúc chú thấy em ham chơi, xao lãng chuyện tu tập, nên nói vậy chớ không có ý trách mắng.
Tiểu Hạnh thỏ thẻ:
- Mà em ham chơi thật. Nhiều khi ra chợ, thấy mấy đứa trạc tuổi chơi đánh đáo, bắn bi, đá dế, đá cầu, tạt lon, tạt hình, em ham quá. Chú Tiểu Bửu nè, rủi sau này em... em... bỏ chùa đi như anh thanh niên nọ, chú có buồn không?
Tiểu Bửu ngừng tay sắp, nhíu mày nhìn Tiểu Hạnh một chặp, không đáp, rồi thắt chặt bọc vải vào đầu đòn sóc, quẳng lên vai gánh thử. Có tiếng sư cụ ho khan từ buồng bên. Tiểu Bửu vội ngó ra sân, thấy bóng cây hoàng lan ngả về đông từ khi nào chẳng hay. Mải trò chuyện, hai chú tiểu suýt quên thắp nhang đèn cho tuần kinh tối.
° ° °
Tiểu Hạnh đưa Tiểu Bửu tới cuối lộ đất. Nơi đó, con đường rẽ thành hai nhánh, phải về hướng Mai Sơn, trái ra chợ làng. Lối phải ít người léo hánh, đường hẹp, cỏ lau mọc đầy hai bên, cao xấp xỉ Tiểu Hạnh.
Tiểu Bửu đặt đòn sóc xuống cỏ, nheo mắt ngó quanh:
- Trời nắng ghê.
Tiểu Hạnh bặm môi lặp lại lời nhắn cũ:
- Chú đi, nhớ về sớm.
Tiểu Bửu xoa tay lên chỏm đầu lởm chởm chân tóc của Tiểu Hạnh, cười nói:
- Về, chú sẽ cạo tóc cho em. Thôi, chú đi.
Hai mắt Tiểu Hạnh long lanh:
- Em có nhét vô bọc cho chú lọ dầu gió.
Tiểu Bửu xúc động:
- Em về đi!
Tiểu Hạnh lắc đầu nguầy nguậy:
- Không, chú đi khỏi, em mới về.
Tiểu Bửu quẩy đòn sóc lên vai, trước khi dợm bước, còn dặn dò:
- Nhớ tưới rau và lo chuyện nhang đèn hộ chú!
Tiểu Hạnh khum tay che nắng, dõi theo bóng Tiểu Bửu nhấp nhô thoăn thoắt giữa cánh đồng cỏ lau, lòng cô quạnh mênh mông.
Hôm nay, như mọi ngày mùa khô, nắng tràn rực rỡ. Ði được quãng ngắn, Tiểu Bửu lại dừng chân, lấy nước ra uống. Càng lên cao, cảnh sắc càng ngoạn mục. Cỏ bông lau xen với bông thẩu dại, rờn rợn cánh đỏ. Ðã thấy cây to vươn cành, rợp bóng mát. Lâu lâu lại nghe tiếng gà rừng thấp thỏm kêu lẻ. Mây trời nổi vân hoành tráng, tựa như bức tranh tàu. Giữa trưa, Tiểu Bửu xót dạ, dừng lại nghỉ chân bên gốc cây non. Ăn xong củ khoai luộc, hớp vài ngụm nước lọc, Tiểu Bửu khép mắt định thần toạ thiền. Không được lâu, đã bị tiếng chim gọi tỉnh. Tiểu Bửu dáo dác ngước mặt. Một con quạ núi dang cánh lượn vòng trên không, buông tiếng hốt hoảng như vừa đánh mất vật gì. Bóng chim quét chập chợn lên cánh đồng chan nắng. Câu chuyện nhà sư hoá thành con chim áo dà suốt đời sục sạo bay tìm trái tim tướng cướp chờn vờn hiện ra trí Tiểu Bửu. Chú rợn người kêu thầm, tại sao cứ mãi đi tìm, mà không phá chấp, buông xả thơi thái như hạnh của thiên nhiên?
Và cứ nghĩ ngợi luông tuồng như thế, tới chiều Tiểu Bửu đến chân thềm đá 49 bậc dẫn lên Mai Sơn tự. Không một bóng người. Nắng sẫm vàng, rắc hơi tàn lên rừng cây. Gió thầm thì tuôn qua rãnh lá. Tiểu Bửu ngẩng nhìn, thấy chòm rễ già bấu ngoằn ngoèo kẽ đá, trông như bầy tinh xà canh giữ cửa hang huyền thoại. Chú thở ra, hít vào từng hơi dài. Bầu trời nghiêng theo tầm nhìn, choáng váng nứt ra những đường mây. Có bầy hạc xám đang khoan thai nối đuôi bay về tổ, buông tiếng náo động một góc trời. Tiểu Bửu dò dẫm trèo lên từng nấc đá, bàng hoàng nhận ra tâm mình giao động theo mỗi bước chân.
Trong sân chùa, sứ trắng rộ nở, hương lan nhè nhẹ. Thềm gạch lở loét mấp mô. Chùa tróc mái, chỉ còn trơ lại những cột gỗ xiêu và chân vách cháy nám. Nơi này, như nhiều nơi khác, có lẽ đã được dùng tiêu thổ kháng chiến. Tiểu Bửu đặt đòn sóc xuống đống gạch đất vỡ vụn, mọp người chắp tay. Chú hình dung lại cảnh chùa trước cơn biến động. Ðiện thờ được xây theo hình bán liên, nhắc nhở tính bất toàn của con người. Cánh phải là nhà trai. Cánh trái là phòng toạ thiền. Sau chánh điện là hành lang dài và hẹp, kê tủ chứa kinh điển và vật thờ. Cách một lối ngắn trải gạch nung là nhà bếp, một góc được ngăn vách làm tư phòng cho Tiểu Bửu thuở bé và hai bạn đồng tu khác. Bên trái là buồng sư cụ. Bên phải là phòng tắm và nhà vệ sinh. Giờ đây, tất cả đều đổ nát. Tiểu Bửu rưng rưng hồi tưởng kỷ niệm, thẫn thờ dọn dẹp một góc chùa làm chỗ trú đêm. Từ mớ gạch vụn, một con cắc kè rối chân chạy ra, dừng lại ngấc đầu ngơ ngác giây lát, rồi lủi nhanh vào khe trống.
Tiểu Bửu trải chăn ra đất, ngả người, tay gối đầu, suy tư vu vơ. Gió mát hiu hiu. Nắng chiều xuyên mỏng cành lá, nhấp nháy từng đoá. Ngày đang chuyển mình vào đêm. Chưa bao giờ Tiểu Bửu cảm thấy lòng mình gần gũi cùng thiên nhiên như bây giờ. Ý tưởng mình là sinh vật tầm thường nhỏ nhoi trong cõi vũ trụ bao la vô bờ càng thêm sắc nét. Cùng lúc là những hoài nghi về thân phận. Tại sao lại có mặt mình tại đây mà không là nơi khác? Tại sao lại có những phân biệt giữa mình và tha nhân? Ngã của mình, ôi, nhỏ như hạt cát, bẩn như cục phân, mà cũng rộng như đất trời, tinh khiết như giọt sương sớm. Sau bao năm tu học, mình đã chuyển hoá được gì chưa, mình đã dứt bỏ được những ràng buộc của khổ đau và dục vọng chưa, hay lòng mình vẫn còn vướng mắc vào những móc xích mê chấp? Ðã có lần sư cụ dạy rằng: ‘‘Tu không phải để lánh đời, mà để nhìn đời bằng tâm tư tích cực hơn. Chuyển được tâm mình, tức là chuyển được cái tâm đời đầy u mê ám chướng.‘‘
Tiểu Bửu khép mắt lửng lơ, hai tay xoắn lại đặt trên bụng. Tiếng chim gọi chiều, tiếng lá cựa mình vào đêm hoà với tràng âm thanh không tên nghiến mòn lê thê trong lòng chú, làm thành điệu ru êm. Chú thiếp vào giấc ngủ rối.
Có tiếng chim ụt lạc giọng từng hồi. Tiểu Bửu tỉnh giấc, ngẩn ngơ giây lát. Trăng rưới nhàn nhạt lên nền chùa hoang phế. Hơi đêm dịu mát. Côn trùng rỉ rả không mỏi. Tiểu Bửu ngồi dậy, vươn vai, mở bầu nước, vốc ngụm nhỏ rửa mặt. Chú nhẫn nha bóc vỏ củ khoai lang luộc còn lại, vừa ăn vừa ngắm tàn bông sứ sau sân chùa. Trăng không sáng lắm, mà không hiểu sao mắt chú nhận rõ những đốm bông trắng muốt như ngậm chất phát quang. Lời dặn của sư cụ vang lên trí chú: ‘‘Thầy chôn tượng Phật bên gốc sứ sau chùa, có tảng đá núi làm dấu. Ðá hơi to, con phải đào đất, lấy cây nẩy mới xê dịch được.‘‘
Giờ đây, Tiểu Bửu đang đứng bên cội sứ già, cạnh tảng đá vừa được bẩy sang bên. Một hõm đất nông bày ra dưới luồng trăng nhợt nhạt. Tiểu Bửu quì gối, tay cầm xẻng con, thận trọng xắn đất. Khí trời thoáng mát mà lưng áo Tiểu Bửu rịn ướt mồ hôi. Tự dưng chú nghĩ tới thắc mắc ngây thơ của Tiểu Hạnh: ‘‘Không biết sư cụ đòi đem bức tượng đó về làm gì?‘‘ Phải rồi, chi vậy? Không phải tất cả hình tượng đều là vọng tưởng sao? Tại sao không ‘‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm‘‘, như kinh Kim Cang đã dạy? Tiểu Bửu còn đang lan man tự hỏi, chợt giật thốn người khi có cảm giác lưỡi xẻng chạm phải vật cứng. Chú nới tay, xới từng lớp mỏng. Mồ hôi chú lăn thành dòng xuống cổ áo. Tiểu Bửu tận dụng thị lực, soi chăm chăm vào hố đất con. Ðoán thấy đủ độ sâu, chú vất xẻng, dùng tay không cẩn thận bới quanh vật thể được bọc trong nhiều lớp vải, miệng lâm râm niệm Phật. Chú mọp người, khuân khối vải đặt bên miệng hố, chỗ sáng trăng. Tim chú đập liên hồi. Chú phủi sạch đất cát, run tay tháo vải. Nước mắt chú tuôn ràn rụa khi nhận ra pho tượng vẫn còn bóng ngời chất gỗ quí. Chú lẩy bẩy nâng pho tượng lên, toan áp má vào mặt tượng thì... trời ơi, chú thấy từ lòng tượng rỉ ra từng dòng trắng đục như sữa. Hai mắt Tiểu Bửu trợn ngược, miệng lắp bắp không tròn câu:
- Mô... mô... Phật, tượng ớ... mọt ăn.
Rồi chú buông tượng xuống đất, khóc nghẹn.
Ngô Nguyên Dũng
(Ðức, 19.5.1996)