Thứ Bảy, 02 Tháng Hai, 2019

Đọc thơ Xuân

Đọc thơ Xuân

Sắc mai vàng đón Tết. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Trong ngôn ngữ, có lẽ không có chữ nào gợi nên những điều tốt đẹp bằng chữ “xuân”: nắng xuân, mưa xuân, chiều xuân, đêm xuân, ngày xuân, hoa xuân, vườn xuân, sắc xuân, thanh xuân, tuổi xuân, hồi xuân, nghênh xuân, du xuân, tình xuân, đón xuân rồi những là bến xuân, phiên gác đêm xuân, nhớ một chiều xuân…

Xuân nào cũng gắn liền với hy vọng, với sự sáng sủa, với sự tươi vui, nồng ấm và sức sống.

Tự điển Hán-Việt Thiều Chửu diễn tả chữ “xuân” như sau: “Xuân là đầu bốn mùa, muôn vật đều có cái cảnh tượng hớn hở tốt tươi, cho nên người ta mới ví người tuổi trẻ như mùa Xuân mà gọi thì tuổi trẻ là thanh xuân 青春 xuân xanh, ý thú hoạt bát gọi là xuân khí 春氣, thầy thuốc chữa khỏi bệnh gọi là diệu thủ hồi xuân 妙手回春.” Xuân còn có nghĩa là rượu, cốc rượu đầu Xuân; thời nhà Chu bên Tàu, cứ đến tháng trọng Xuân 仲春 (Tháng Hai) thì cho cưới xin, vì thế mới gọi các con gái muốn lấy chồng là hoài xuân 懷春.”

Chả thế mà nói đến “thơ Xuân” hay “nhạc Xuân,” dù chưa đọc, chưa nghe qua cũng đã cảm thấy vui vẻ, rộn ràng. Xuân, do đó, bao giờ cũng hàm nghĩa tích cực và lạc quan. Hãy nghe Nguyễn Du phác họa mấy nét mùa Xuân:

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Én bay, nắng rực rỡ, cỏ non xanh, cành hoa trắng, hình ảnh nào cũng tươi, đẹp, sáng sủa.

Với Hồ Xuân Hương, xuân gắn liền với xanh, xuân là xanh: xuân xanh. Và cũng gắn liền với cái trong trắng, trinh nguyên của người thiếu nữ mới lớn: tờ giấy trắng. Chả thế mà thời gian còn son trẻ của các cô gái được gọi là “xuân thì,” “đương xuân.”

“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

Chị cũng xinh mà em cũng xinh

Ðôi lứa như in tờ giấy trắng

Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh.”

Nguyễn Bính về sau này cũng cho là “xuân” thì đi với “xanh”:

“Mùa xuân là cả một mùa xanh

Giời ở trên cao, lá ở cành”

Với Đoàn Văn Cừ, đó là cảnh làm thơ và viết câu đối ngày Tết:

“Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản

Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuân

Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm

Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ”

Còn Anh Thơ, xuân là cảnh sống động ngoài đường làng:

“Ngoài đường ngõ bùn lầy theo nước chảy

Thằng cu con quần đỏ cưỡi lưng bà

Các cô gái đội vàng hương ôm váy

Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua”

(Ngày Tết)

Hàn Mặc Tử ví von thời điểm đẹp nhất của mùa Xuân với trái cây chín tới qua cái tựa đề: “Mùa Xuân Chín.” “Chín” ở đây là viên mãn, tròn đầy:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”

Chín ngoài trời mà cũng là chín ở trong lòng những cô thiếu nữ:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;

-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”

Nguyên Sa lại thu gọn mùa Xuân vào một chỗ, đó là hình ảnh của “em,” người yêu.

“Mùa xuân em mặc áo vàng,

Ở trong thơ cổ chim hoàng hạc bay.

Em vừa xoay nhẹ vai gầy,

Nhìn coi vũ điệu vào đầy giấc mơ.

Nhìn coi chỗ cuối bài thơ,

Nụ hôn màu đỏ trời cho rượu đào.

Anh nhìn em mới bước vào,

Nhìn xuân, xuân cát tiếng chào đầu năm.”

(Thơ Xuân Áo Vàng/Nguyên Sa)

Xuân là “em.” “Em” là xuân. Nói cách khác, chính tình yêu là mùa Xuân.

Thanh Tâm Tuyền có một cách hình dung khác. Xuân là Tháng Giêng. Mà Tháng Giêng thì cây cỏ “hiện thành người,” là “cỏ non dại dột,” “cây leo yếu đuối.” Mùa Xuân gắn liền với cái non, tơ, yếu, mới chớm:

“Người ta bảo đêm tháng giêng cỏ cây hiện thành người

Anh bảo em chúng ta hãy là

Những cây leo yếu đuối

Những cỏ non dại dột

Mùa xuân đòi em trong quấn quít chờ đợi”

(Đêm/Thanh Tâm Tuyền)

Mùa Xuân cũng là con thỏ hồn nhiên chạy trên cỏ sắc. Xuân biến tóc thành miệng: chuỗi cười, biến  đôi môi thành lá và biến nụ hôn thành thành sao: chòm hôn.

“Những bước chân thỏ rừng

Chạy trên cỏ sắc

Sợi tóc đen như một chuỗi cười

Trên chúm môi lá biếc

Những chòm hôn vội vàng

Làm những vì sao đổi ngôi

Anh muốn làm mới tình yêu”

(Bài Thơ Của Tháng Giêng)

 

Mang Xuân đến mọi nhà. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Trong lúc đó, từ căn nhà rất đẹp của mình ở Bellevue, tiểu bang Washington, Trần Mộng Tú phác họa đôi nét chấm phá rất riêng về Xuân:

“Khi em nói cho anh nghe về con dốc cạnh nhà

con dốc nhìn xuống hồ Sammamish với dòng nước trong veo

những chiếc thuyền nhỏ đang căng lên những chiếc buồm

vải trắng

giải núi xanh như một nét mày thiếu nữ

vẽ một đường dài đến tận chân mây

làm cho trái tim em đập sai một nhịp

(…)

Em biết là mùa xuân đã dọn vào

ở hẳn với em”

(Mùa Xuân và Thơ Thanh Tâm Tuyền)

“Mùa xuân đã dọn vào ở hẳn với em,” nghe nhẹ nhàng nhưng đầy quyến rũ!

***

Nhưng đừng tưởng mùa Xuân bao giờ cũng vui, cũng tươi sáng, cũng đầy hy vọng. Trong nhiều trường hợp, Xuân chẳng phải là Xuân: Xuân sầu.

Chế Lan Viên, khi vẫn còn là nhà thơ tự do thời tiền chiến, đã từng nhìn mùa Xuân bằng một cái nhìn vô cùng tiêu cực:

“Tôi có chờ đâu có đợi đâu

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu

Với tôi tất cả đều vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…”

Buồn, bi quan, tuyệt vọng! Cả hơi thơ lẫn ý thơ như một phủ nhận, đúng hơn, một nghịch lý toàn diện với hai chữ “mùa Xuân!” Vì sao? Nghèo. “Có một người nghèo không biết tết/ Mang lì chiếc áo độ thu tàn!” Nó khiến ta nhớ đến những bài thơ Tết độc đáo của Trần Tú Xương:

“Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo

Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu

Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy

Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu”

Một cách trào lộng chua chát về cái nghèo và mùa Xuân!

Nếu cái nghèo đã đập nát đi hình ảnh mùa Xuân thì chiến tranh lại càng biến mùa Xuân thành bi kịch.  Trịnh Công Sơn mô tả một buổi sáng mùa Xuân thời còn chiến tranh:

“Một buổi sáng mùa xuân

Một đứa bé ra đồng

Đạp trái mìn nổ chậm

Xác không còn đôi chân

Một buổi sáng mùa xuân

Ngực đứa bé tan tành

Ngàn hoa đồng cỏ nội

Cúi xuống nhìn con tim.”

Thật thảm thiết! Nhưng thảm thiết hơn nữa là cảnh xuân Mậu Thân ở Huế khi bộ đội Cộng Sản tiến vào đánh phá. Xuân Mậu Thân trở thành một mùa Xuân chết, qua lời ca cũng của Trịnh Công Sơn:

“Xác người nằm trôi sông

Phơi trên ruộng đồng

Trên nóc nhà thành phố

Trên những đường quanh co”

Chiến tranh chấm dứt, trong lúc những kẻ chiến thắng ồn ào ca ngợi mùa Xuân “đại thắng” thì hàng triệu người lại khăn gói vào tù. Xuân bây giờ là Xuân tù. Xin đọc vài đoạn trong bài thơ “Tháng Chạp Buồn,” một bài thơ tù của Tô Thùy Yên, được tác giả tìm thấy thời gian gần đây và đưa vào tuyển tập thơ mới vừa xuất bản của ông:

“Tết này con vẫn chưa về được

Chân mỏi còn lê nặng kiếp tù

Con nghĩ mà đau muôn nỗi nhớ

Chín năm lòng bạc những thiên thu

(…)

Trong ấy mùa xuân có đến không?

Mùa xuân hoa nở má em hồng

Mùa xuân áo mới như hy vọng

Nắng mật ngời lên ánh mắt trong

Ở đây có lẽ xuân không đến

Rừng núi chưa tan giấc não nề

Thương nhớ tràn như con lũ máu

Lòng anh đã vỡ những con đê.

(…)

Ôi cánh diều băng mùa hạ cũ

Xương tàn còn đọng ngọn tre cao

Ðến nay trời nổi bao lần gió

Con tưởng oan hồn vật vã đau

Tết này cha vẫn chưa về được

Ðành hẹn cùng con tết khác thôi

Con nhớ để dành cây pháo cũ

Ðể dành một chút tuổi thơ vui.”

Thật thấm thía cảnh mùa Xuân ở trong tù!

***

Xin kết thúc bài viết bằng một thứ xuân khác, quen mà khá lạ, không vui cũng chẳng buồn của nhà thơ tình yêu Trần Mộng Tú.

“Đã lâu quá anh không về gõ cửa

lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên

(…)

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực

trái tim em mảnh vườn cũ quê nhà

cành mai chiết tay ai còn in dấu

thiều quang ơi! Hoa nhớ đến xót xa

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực

trái tim em như một ngọn hải đăng

lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt

bờ bến nào mà cá vẫn bặt tăm

Đã lâu quá anh không về gõ cửa

lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên”

Trong thơ ca xưa nay, ít khi ta thấy có nhà thơ nào trải lòng mình với “xuân” đến như thế.

Bâng khuâng và đầy quyến rũ!

Trần Doãn Nho

Bài viết khác