Hàn Mặc Tử mất ngày 11 tháng 11 năm 1940. Từ năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mặc Tử…”(1). Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã được dành cho nhà thơ bạc mệnh. Có lẽ ở miền Nam, Hàn Mặc Tử là thi sĩ được nhắc nhở nhiều nhất. Tôi chỉ e rằng dù vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn không tiến bộ được bao nhiêu. Có lẽ lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài Thanh muốn nói đến Hàn Mặc Tử đã hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ (2). Cùng năm đó, khi viết cuốn Hàn Mặc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng nguồn tài liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, ngoài tập Thơ Hàn Mặc Tử mỏng manh của nhà xuất bản Tân Viêt, chúng ta không còn thi liệu nào khác. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm, cũng tỏ vẻ không có tài liệu hơn chúng ta. Trong bài nói về nhà thơ quá cố đăng trên Văn (3), Quách tiên sinh, khi trích thơ Hàn Mặc Tử, đã làm một việc mà ai cũng làm được, như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là trích từ tập thơ thiếu sót kia, hay trích lại của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh – trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng. Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn đã giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gởi Bộ Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả bạn bè của Tư (*). Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm Hàn Mặc Tử, chúng ta sẽ dẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nhà thơ – dĩ nhiên là éo le gây cấn, nhưng không giúp hiểu thêm nhà thơ bao nhiêu – trừ một vài bài quan trọng; như của Quách Tấn trên số Văn thượng dẫn, ngoài việc đưa ra một số sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mặc Tử còn bổ chính nhiều điều do Trần Thanh mại kể trong cuốn biên khảo về Hàn Mặc Tử(4) xưa nay vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người về cuộc tranh tụng giữa hai họ Quách và Trần năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng Quách Tấn về hai điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy (5). Tuy nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu – kể cả Quách Tấn, - lấy đâu ra thơ Hàn Mặc Tử để tham khảo, sau khi người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo? Tưởng khi nhắc đến chuyện ba mươi năm về trước Quách tiên sinh không nên chua cay thì mới công bình.
Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát: đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mặc Tử. Chúng tôi không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển một nhận xét của các ông Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh… cách đây mấy mươi năm. Chúng tôi chỉ đào sâu thêm tác phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm. Thay vì trích dẫn những câu có hình thức Thiên Chúa giáo như “ Maria, linh hồn tôi”… thì tôi cố chứng minh là kiến trúc toàn bộ của bài thơ Hàn Mặc Tử đều vang dội lời truyền giảng của Phúc Âm. Bài báo chia làm hai phần:
Nhận định tổng quát
Gái quê: thế giới đợi chờ
Đau thương: con người chịu đựng
Đau thương: con người sáng tạo và ước mơ
Xuân như ý: thế giới khải huyền
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn… Thôi mời cô cứ vào… Ánh sáng lạ trong thơ tôi…”(7) (tr.8)
Đối với Hàn Mặc Tử thơ và đời sống là bất khả thân, nhất là khi lâm trọng bệnh. “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú” (tr.8). Tác phẩm của Hàn mang tên Đau thương vì nó là Đau thương, nó là “kinh nghiệm trước hết của một con người, một thực tại con người ngay trong thân phận”(8). Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi Thánh nữ Đồng trinh Maria và Chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Giatô một giọng rất chân thành. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới”(9) . Hoài Thanh nói rộng đến vấn đề tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”(10). Nhận xét này của một kẻ “thiếu lòng tin, du khách bỡ ngỡ”(10) là Hoài Thanh, mang một ý nghĩa đặc biệt, trong người Giatô giáo Việt Nam niềm tin Thiên Chúa đã trở thành một niềm tin thuần tuý Việt Nam.
Và thơ Hàn Mặc Tử đã chứng thực điều đó; một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng một ngôn ngữ Việt Nam: ngôn ngữ của thi ca. Đó là điều là tôi muốn trình bày qua một dàn bài bình dị: tôi chỉ khai triển thêm một câu của Hàn Mặc Tử trong lời Tựa: Người đang say sưa đi trong Mơ ước, trong Huyền diệu, trong sáng láng và vượt hẳn ra ngoài Hư linh… (tr.7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh thánh: một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội; những khổ hạnh của thân xác như một kinh nghiệm của Mơ ước và Huyền diệu; để vươn tới một thế giới khác sáng láng, ngoài hư linh, thế giới của Phục sinh, của Khải huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của đời thơ Hàn Mặc Tử. Vũ trụ Gái quê đã sụp đổ trong Đau thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân như ý.
*
Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng; chung quanh người là mơn trớn với yêu đương…
Những dòng mở tác phẩm không khỏi làm ta nhhớ đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu ước. Nhưng vườn đây không nằm ở hướng đông như vườn Eden (Gen II, 8), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng, về một hạnh phúc nguyên thuỷ. Hạnh phúc của nguồn trong trẻo, mà loài người phải giã từ ra đi, và bị cấm cản đường về (Gen III, 24). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia ra làm bốn nhánh, tưới vườn Eden bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới hạn vì nguyên tội, khi con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông gai và mùi cát bụi (Gen, III 17, 18 và 19). Bài tựa của Hàn Mặc Tử đã mơ ước khôi phục lại mùa xuân trinh nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh hoa và châu báu, như nhũ hương và bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (Gen II, 12). Thơ Hàn, cũng như lòng lê thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất lực về một hạnh phúc sơ khai, một tráng lệ đã phôi phai.
“Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình
Đố kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hám của kiên trinh” (Tr. 32)
Sau khi phạm trái cấm, loài người không những mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu là hưng phế; từ Hồng Thuỷ cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy hoại tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn hơi hám của kiên trinh.
“Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm” (Tr. 32)
Dân Do Thái, lưu linh còn có ngày tìm về Đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời xanh. Nhưng thơ Hàn Mặc Tử vẫn là một mơ ước, một đón đợi, như Cựu ước là sự chờ đón Đấng Cứu Thế. Trong Gái quê và những bài đầu Đau thương, thơ là niềm mong đợi.
“Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về”
Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, còn là một mùa xuân ngoại đạo – một thứ printemps paien – hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả những hội hè của mùa xuân Việt Nam.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
Cái hồn hậu đó, như Hoài Thanh đã nói “chỉ là một mùa xuân đầu năm”(11), tôi nói thêm là một u minh đợi chờ để mở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời đất mới dựng lên” hay mùa xuân tái tạo “ra đời một lần với Chúa Jesus”(11).
Khác biệt đó không có gì mâu thuẫn và Hoài Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ “khó dễ vì một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại” (11). Quách Tấn còn cực đoan hơn: “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần đậm hơn đạo Thiên Chúa”(12). Sự phân lượng e rằng khó chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng giáo trong thơ Hàn Mặc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không có gì nghịch lý cả; hạt mầm Thiên Chúa, khi nẩy nở trên đất Việt Nam thì tự nhiên thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tôi có được đọc tác phẩm của linh mục Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ lạc Jorai, Cao nguyên Trung phần. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhằm bảo vệ truyền thống một chủng tộc: “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt giống bông vải gốc Phi châu, năng suất cao hơn giống địa phương; dân Jorai đã gieo đã hái, nhưng chỉ một lần thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc nhuộm là bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ bông nhập cảng. Họ lại phải trở lại với giống bông cũ. Từ đó tôi không quên bài học bông vải”(13). Và tôi lại càng không dám quên khi viết bài này. Theo Quách Tấn, gia đình Hàn Mặc Tử (dường như) theo Thiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can quốc sự nên đổi theo họ mẹ; rồi được một linh mục Pháp đỡ đầu rồi lập nghiệp tại Thừa Thiên, thân sinh Hàn Mặc Tử là Nguyễn Văn Toản học Đại chủng viện, Huế, đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời(14). Ông sinh hạ được sáu người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu. Tôi dài dòng như vậy để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, một mảnh đất mới đang hấp thụ đức tin, đang dần dần thấm nhuần ơn trìu mến.
“Tôi là trăng cổ độ
Lượng trời rộng bao la” (Tr. 34)
Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích thước mông mênh; có thể là một trời thu man mác; có thể là một hàng cau nắng mới lên; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng, như đón từ xa. Như đợi từ xa:
“Cho ta nhận lấy không đền đáp
Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời”
Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau thương: tiếng Thơ và cuộc sống Chàng đã đem cuộc đời để trả lời ơn phước cả đang ngân vang trong mầu nhiệm phủ ban đêm, một tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ trụ Gái quê và những bài Đau thương đầu tiên nhuốm cái ý thức nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có tội khi trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh đồng ý rằng tập Gái quê thiên về dục tính; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người chỉ xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tình… đi tới đâu? Tôi xin giải thích thêm về điều này:
“Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô”
Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là cảm giác của Ađam và vợ khi đóng khố che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (Gen 3III, 7-8) sau khi ăn trái cấm. Ađam thẹn thò vì đã phạm tội. Còn trăng việc gì mà phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể đó, chúng ta đã thừa kế của Ađam, cho nên tôi mới nói không khí rạo rực trong Gái quê là di sản của nguyên tội. Những câu thơ của Vũ Ngọc Phan cho là gợi “gợi tình, thiên về xác thịt”(15) là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là một cấm đoán, một ghẻ lạnh:
“Da thịt trời ơi trắng rợn mình”
Hàn Mặc Tử nhắc đến tình ái của ni cô, hay da thịt nàng dâu để gợi lên cái vô tội của mình trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý, dục tình, tự nó, không phải là tội lỗi: “Đó là một căn bệnh, chứ không phải là tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của một tội lỗi”(16) – tác giả nói là nguyên tội; và “dục tình, bản năng sinh lý như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn(17).
Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra ngoài vũ trụ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn mớn với yêu đương, tất cả tạo vật. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người yêu, tất cả đều có nhiệt độ nồng nàn của da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân bởi trăm dây quyến luyến:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng Em hồi hộp, chị Hằng ơi!” (tr. 22)
Dục tình trong đoạn thơ nằm trước hết trong cách chọn những chữ gợi tình, khi đi đôi với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ phong nguyệt hay gió giăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa, trong những hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường. Đoạn thơ lại khiêu gợi bằng những hình ảnh táo bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây tình; cuối cùng cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu đến sỗ sàng. Tất cả những chữ, những hình ảnh, những ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành một không khí lơi lả, vừa cợt nhả vừa tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải là không khéo léo. Thơ gợi tình của Hàn Mặc Tử có lẽ táo bạo vào bậc nhất trong thi ca mới; cái tài tình của ông là táo bạo đến đâu vẫn còn ý nhị. Một lối suồng sã mà không sống sượng, như ở Xuân Diệu chẳng hạn:
“Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực…”
Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không muốn nói. Ở Hàn Mặc Tử – ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay – dù hở hang đến đâu, vẫn còn có cái úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tình tứ. Chúng ta không còn những bài như Hát giã gạo trong tập Gái quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “lợm giọng”, nhưng dù muốn dù không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn:
“Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, còn xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhân” (Tr. 28)
Đọc Hàn Mặc Tử ta có cảm giác một sự giằng co giữa con người phóng túng và con người khắc khổ? Cái giọng tình của ông, dù có cợt nhã đến đâu, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, một lối ái ân không tưởng, một môi giới nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể tự mãn, trong một thế giới không tự mãn.
Vì vẫn còn là một thế giới đợi chờ, trong im lặng linh thiêng, bằng tất cả trực giác của trăm sao đắm đuối.
“Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng” (Tr.27)
Một đêm thao thức đợi chờ Điềm lạ, trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn bị để đón mừng Ngôi Hai.
Hàn Mặc Tử mô tả thế giới đợi chờ đó trước hết bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hoá ngoại đạo nhưng niềm nở và hướng thượng; thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm; hai phụ lưu sung mãn đó đã đổ vào hồn thơ của Hàn Mặc Tử, như một dòng sông vừa nhận được cơn nước nguồn thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo: bệnh phong nan y đã biến nguồn thơ hồn hậu thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu không phải là một vũng nước xoáy.
*
Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay tiếng gầm của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau thương trong cuộc đời. Rồi trong thơ.
Hàn Mặc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936. Hăm bốn tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết. “Khi biết mình mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày những cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn và ngấm ngầm nung nấu nạn nhân, nung nấu đến tột độ”(18). Hàn Mặc Tử nhiều lần mô tả những đau đớn của thân xác:
“Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên” (Tr.53)
Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mặc Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh: nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. “Hiện nay Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền thuốc”. “Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng rọi nhiều quá. Cả buổi chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ”(19). Chúng ta còn có nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ, qua những bức thư gửi Trần Thanh Địch. Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khắn khít, thề bồi dữ dội lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Quy-Nhơn; khi Hàn Mặc Tử chịu tang cho anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “thành tâm cư tang cho ông anh một năm cũng như anh, nghe anh” vì “người cầm bút biên mấy hàng trên đây là người em dâu chắc chắn, nhất định của ông anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu”(20). Khi biết chàng lâm trọng bệnh, thì nàng “thề bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”(20). Để rồi sáu tháng sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách. “Duy có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi”(21). Quách Tấn cũng cho rằng thái độ của Mộng Cầm đã gây cho nhà thơ “một nỗi buồn thương vô hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, “những tiếng kêu rên thống thiết”(22).
“Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng”
(Trần Thanh Mai, tr. 95)
Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị con bệnh tàn phá đến thảm thê, theo như một người bạn thân, cũng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào hai lỗ mũi sâu hoắm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ có da bọc lấy xương, chân tay thì co rút lại, mà đầu tóc bù xù rối trết lại, trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư của ông N. V. Xê, đề tại Quy Hòa ngày 25-3-1941)(23). Tôi tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mặc Tử đã can đảm chịu đựng cái cảnh làm ta phải rùng mình, vui vẻ chịu đựng nữa là khác: tuy cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy(24). Niềm an vui đó Trần Thanh Mại, người biết cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan, chỉ biết Hàn Mặc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên: “một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ”(25). An vui của Hàn Mặc Tử không phải cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hớn hở:
“Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
Buồn xa không đến, lệ không rơi
Buồn không thắt ruột, tình không lại
Cười nói làm sao cho hả hơi?”
(Trần Thanh Mại, tr. 122)
Họ Trần phê bình là “Đau thương giam cầm không kỹ, thoát lọt ra trong một biến thể mới, dị kỳ, quái gở, thật là đáng rùng mình”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, theo tôi, là vì ông không hiểu sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mặc Tử. Khi đề cập đến vấn đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh Mại, thưà nhận ngay: “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ”(26) còn họ Trần thì phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta có một dữ kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ: “Trong khi sưu tầm tài liệu về nhà thi sĩ, tôi có thấy một nhà trọ của chàng, một mẫu báo dán trên khung cửa tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết ngay là báo “Vì Chúa”. Đoạn bài đăng trong mẫu báo ấy nói về nguồn an ủi trong bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do Đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng ta, nên chẳng những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà lại còn nên vui vẻ bằng lòng nữa”(27). Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả không mấy thông thạo giáo lý Giatô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – vì họ Trần, mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật rất bậy là ưa bịa đặt tài liệu(28) – thì chúng ta rất tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất xứ, tìm xem báo “Vì Chúa” số mấy , ngày mấy… Hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn. Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “sự đau ốm là do Đức Chúa Trời ban” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”. Nhưng vấn đề ở đây không phải là cãi nhau về giáo lý, vừa ngoài phạm vi bài báo và thẩm quyền của tôi. Vấn đề là, như Trần Thanh Mại đã nói, đức tin “đã có ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”. Quách Tấn xác định điều này: “Tử tìm được niềm an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị day dứt giày vò”(29). Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của mình: “Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối khi ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, khống thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì…”(30). Đối với Hàn Mặc Tử , Thơ là Đạo và Đạo là Thơ. Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lý: “Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng đế”(31).
Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con đường. Thơ là giải thoát tạm thời của Đau Thương. Trong khi chờ đợi Đạo là Cứu Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái Quê, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm lạ, đợi chờ Chúa ra đời thì Đau thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (Mt 24-42). Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do Đức Chúa Trời ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói, nhưng trước hết nó là hậu quả tất nhiên của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán trong tác phẩm về thống khổ: “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như một mãnh lực hợp cứu thế vì chúng ta tham dự vào đau đớn và huyết mạch của Chúa kitô.Vậy không có vấn đề đau đớn mà chỉ có huyền mhiệm đau đớn của Chúa Kitô và trong sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói chấp nhận Đau thương mà chỉ nói gia nhập vào công đức cứu rỗi; chúng ta không chấp nhận (accepter) vì nó là một định luật của thể xác; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền ta với bản thân Thiên Chúa hiện làm người”(32).
Đoạn trên rọi sáng lời truyền dạy của sứ đồ Saint Paul trong thư gửi cho người La Mã: “Những đau khổ hiện tại không có ý nghĩa gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong mỗi chúng ta. Mỗi hình hài chờ đội là một khát vọng sự thể hiện con cái Đức Chúa trời, với Mơ ước được giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên xiết trong công trình thai nghén” (Rom, VIII, 18-22). Đau thương hôm nay là thai nghén cho ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý. Người đi trong Mơ ước… Người Ki-tô-giáo quan niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Thượng đế là một huyền nhiệm, vô hạn. Tôi thanhn2 thật nghĩ rằng Hàn Mặc Tử đã an vui trong Đau thương – một hoàn cảnh thể xác, vật chất và tinh thần làm chúng ta phải rùng mình – là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín. Có lẽ xác tín đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà thơ. Trần Thanh Mại và Quách Tấn đồng ý “là mỗi lần chàng chết đi sống lại (trong mấy năm bệnh chàng bị chết đi sống lại đến bốn năm lần) là chàng đều cảm thấy có bà Thánh Nữ đồng trinh Maria đến cứu”. Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ danh Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh được viết khi Tử sống lại, trong cảnh đó.
Dù cho rằng mộng mị là một biến thể của bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có thể đi đến cội rễ của mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong tâm hồn Hàn Mặc Tử, người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị một vinh hiển. Thật ra, niềm tin vào cuộc tồn sinh mai hậ, của linh hồn, ở một thế giới khác, không phải đặc biệt của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên của dân gian, nước nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng ở một đời sống khác. Chỉ nói đến vòng đai tôn giáo chung quanh Thiên Chúa, chúng ta đã có thể kể tư tưởng Assyrien, Babylonien, và nhất là Ai Cập, đều có niềm tin đó, hnư muốn Ra không gian và vượt khỏi thượng tầng. Đức tin của Hàn Mặc Tử không phải ở chỗ mong hồn tới tấp đến ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một người ở cõi quá thinh gian; Hàn Mặc Tử tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực không phải vì chiêm bao đẹp hơn sự thực vì ứ đầy hơi khoái lạc mà chỉ vì:
“Vì có đấng hằng Sống, hằng Ngự trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh”
Bài Ngoài vũ trụ, mà tôi đã trích các câu trên, tiếp theo hai bài Hồn lìa khỏi xác và Siêu thoát soi sáng ý nghĩa của những bài Đau thương và báo hiệu cho Quần tiên hội, Cẩm châu duyên và Xuân như ý. Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong thi phẩm Hàn Mặc Tử không? Đặt dấu hỏi vì tôi ngỡ rằng sự sắp xếp thứ lớp trong tập thơ không phải do thi sĩ, mà những người phụ trách tái bản thơ ông, Tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng Miên gì đó. Do đó, tôi không dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc, như marcel Ruff đã nói về “Architecture Secrète” khi trình bày nhất quán thi phẩm Les Fleurs du Mal của Baudelaire. Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bảng Tân Việt vì nó phản ảnh thứ tự biên miên trong quá trình sáng tác; tôi nghĩ ít ai bác bỏ thuyết cho rằng Gái quê sáng tác trước Đau thương; và Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ sáng tác sau cùng, thời kì nhà thơ biết Thương Thương. Nhưng dù sao tôi cũng dè dặt để mong các nhà biên khảo sau này có nhiều sử liệu đích xác hơn tôi, sẽ đaò sâu cơ cấ mạch lạc của vũ trụ Hàn Mặc Tử, trên bình disn65 này hay bình diện kgác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện thì càng đẹp.
Khi đề cập đến kinh nghiệm đau thương của Hàn Mặc Tử tôi tiếc chưa được đọc bài của Võ Long Tê, một chuyên gia về văn chương Thiên Chúa giáo về vấn đề này; nghe nói bài này sắp sửa đăng báo, tôi đợi hoài chưa thấy. Tôi thấy cần nói thêm: không riêng gì Phúc Âm, những tín ngưỡng khác của người Á Đông cũng tìm một giải được cho đau thương; Phật giáo thì cho đó là những đợt sóng triền miên của Mê Hà hay Khổ Hải; Lão giáo thì cho đó là định luật của Vô Tri. Cái can trường của nhà thơ là do đức tin vững chắc ở Đấng Cứu Thế, và đức tin đó đã đượcbồi dưỡng trong cái Dũng của triết lý Đông phương, lẫn cái kiên trì trong lòng dân tộc. Nói đến xác tín của Hàn Mặc Tử không phải là tôi không biết (hay tệ hơn nữa, tôi không nhớ) đến những giá trị hằng hữu kia. Khi suy nghĩ về khổ luỵ của nhân sinh, tôi lại đọc kinh Coran của Hồi Giáo thì có cảm giác như là họ không chấp nhận Khổ đau như người Ki-tô-giáo hay người Á Đông, vì họ cho là do sự hành hạ của Thượng đế. Vậy trong Hàn Mặc Tử có sự giao hoà giữa một đức tin sung mãn và một tâm hồn niềm nở, tạo ra một nguồn thơ hết sức sâu xa. Trong tinh thần Phúc Âm, Hàn Mặc Tử đã sống trọn vẹn Đau thương của hiện thế, trước hết, vì đó là phương tiện của Chúa dùng để Cứu Thế, thứ đến để chuẩn bị cho vinh hiển mai sau, như lời giảng trên núi, sửa soạn cho Ngày sống lại của Đấng hằng sống, Hằng ngự trị. Nhưng trên bình diện sáng tạo, quan niệm Đau thương đó đã thể hiện ra sao? Tôi tiếc không được đọc bài báo của Lê Tuyên về những chủ đề trong thơ Hàn Mặc Tử, đăng trên tạp chí Đại học sư phạm cách đây bảy, tám năm gì đó. Nay tôi lại đề cập lại vài hình tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử như Trăng, Máu và Hồn.
***
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”
Đó là một điệp khúc độc điệu của một ngư phủ, theo lời kể của Quách Tấn. Đó cũng là khúc nhạc lòng của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh sáng vừa của nội tâm, vừ của ngoại giới. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tương quan giữa những hình ảnh thi ca và đức tin.
Ảnh hưởng của đêm trăng đới với bệnh phong đã được ông Trần Thanh Mại khai triển đầy đủ. Còn nét quyến rũ muôn đời của ánh sáng trăng đối với thi nhân thì viết bao nhiêu pho sách cũng còn điều chưa nói. Nhưng không thể nói đến thơ Hàn Mặc Tử mà không đề cập tới trăng, vì theo Trần Thanh Mại thì hai phần ba tập Đau thương nói về trăng, nửa phần còn lại nói về hồn Trăng, trước hết là ánh sáng tràn ngập cả vũ trụ Hàn Mặc Tử:
“Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông chảy láng lai”
Trăng là thứ ánh sáng êm dịu, mầu nhiệm phủ ban đêm đối với với ánh sáng chói chang bỏng rát của mặt trời nhiệt đới;trăng tạo thi vị cho bóng tối tại những vùng nông nghiệp có sinh hoạt về đêm, và như Xuân Diệu kể, thì có “trăng của tình duyên, trăng của xa xôi, trăng của hão huyền” và trăng của “những đền đài mỏng thoáng”. Văn học của chúng ta, từ xưa đến nay, vẫn lé loi những ánh sáng trăng bất tận. Tôi không muốn dài dòng về địa hạt rộng rinh không bờ bến này, chỉ muốn đề cập đến khíacạnh tượng trưng của ánh sáng trăng trong giáo lý.
Trăng trước hết là Ánh Sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế, khi Đức Chúa Trời phân định ánh sáng và bóng tối, ?(Gen 1, 3-4), cho đến chương cuối cùng của Khải Huyền, khi con người, trong trời đất mới, hưởng một ánh sáng miên viễn (Ap, 22, 5). Như vậy thế giới di chuyển từ một vùng vùng ánh sáng tương đối, ánh sáng vật chất đối với bóng tối ban đêm, đến một ánh sáng tuyệt đối, ánh sáng vĩnh cửu ngay trong châu thân Thiên Chúa, vì “Ngài là Sự Sống mà Sự Sống là Ánh sáng” (Jean 1, 4). Và quá trình từ tương đối nọ đến tuyệt đối kia là sự phấn đấu không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối, tựa hồ như cuộc đấu giữa nguồn sống và cõi chết. Ở Hàn Mặc Tử, ánh sáng là một thứ Ánh Sáng đang tương tranh cùng Bóng Tối, trong một tư thế bi thảm, khác với mặt trời là chiến thắng – dù là tạm thời – của Ánh Sáng.
“Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô”
Mâu thuẫn tâm cảm của nhà thơ là vừa yêu bóng đêm – vũ trụ Hàn Mặc Tử là một vũ trụ về đêm – vừa ánh sáng, và vươn tới một nguồn chói lọi.
“Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên,
Và tắm gội trong nguồn ánh sáng”
Sự thật mâu thuẫn đó nằm trong những hình ảnh đa nghĩa của Kinh Thánh, vì bóng tối cũng là một sáng tạo của Đức Chúa Trời (Gen 1, 1-2). Từ điển giáo lý Kinh Thánh khai triển điểm tế nhị đó như sau: “Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm kép: hoặc nó xác nhận không có ánh sáng. Con người muốn có ánh sáng tràn đầy nhưng tìm đến bóng tối; Chúa là ánh sáng là lửa bỏng, mà cũng là bóng mát. Kinh Thánh lý theo sự đa nghĩa đó”.
Chúng tôi muốn đề nghị một nghĩa mới cho ánh trăng. Ở Hàn Mặc Tử trăng là một sự tương tranh đồng thời tương ứng giữa ánh ság và bóng tối, vừa tương khắc vừa tương sinh. Trăng là Bóng Tối hết là Bóng Tối và Ánh Sáng chưa đủ là Ánh Sáng. Trong biện chứng Sáng – Tối đó, tâm hồn Hàn Mặc Tử vẫn được xác định bằng Ánh Sáng, tức là “con của Ánh Sáng” khác với con của Bóng Tối hay “con của Hiện Thế” Luc, 16, 8). Vậy nhà thơ là Ánh Trăng, vì chàng là con của Ánh Sáng.
“Không gian dầy đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng”
Vì, bên dưới bình diện siêu hình, về mặt đạo đức, Vẫn phải có sự phân biệt giữa bóng tối và ánh sáng (2, Cor. 6,14) giữa ánh sáng chân chính và giả trá.
“Và tình ta sáng láng như trăng thanh”
Thỉnh thoảng Hàn Mặc Tử không ngại mượn một vài hìmh ảnh của Kinh Thánh để tả trăng, như:
“Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hường”
Chúng ta liên tưởng ngay đến một câu của Thi Thiên (104,2) “Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng như cái áo”
Trăng trong Hàn Mặc Tử là một thứ ánh sáng ảo huyền và hiu hắt. Nó có hình có trạng, như một vật cụ thể khả xác. Có khi là một món hàng – “Ai mua trăng ta bán trăng cho” – có khi là châu báu, là hơi nước chảy, hay là một người đàn bà, mà tôi mường tượng phải đẹp lắm trong nhan sắc làm bằng Ánh sáng và Im Lặng.
“Tôi lần cho Trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời”
Và nói chung, trăng là hồn, là máu của bóng đêm: tôi có nói đến ba chủ đề, kỳ thật chỉ là ba tiết diện của một thế giới:
“Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”
Hình ảnh máu hoặc nhỏ từng giọt, hoặc oẹ từng búng, hoặc đọng thành vũng, hoặc chảy thành sông, có lẽ là dấu hiệu của bệnh lý. Ý nghĩa của máu là cuộc sống vì máu mang sinh lực đến cho mỗi tế bào, mà đồng thời cũng là cõi chết, khi đã khô, đã đọng thành vũng máu đào trong ác lặn. Về hình ảnh máu vẫn thường gặp trong thơ Baudelaire, Jean Pierre Richard viết: “Sự xuất huyết thiêng liêng ở chỗ nó hội tu cuộc sống hiển nhiên và cái chết tàn nhẫn”. Máu là cuộc sống đang chết, hay là cái chết tiềm ẩn trong cuộc sống. Máu là hồn của thể xác mà cũng là xác của linh hồn, nói khác đi máu là thơ.
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Cho mê man chết điếng cả làn da
Cứ để cho ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mãnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ai trong mớ chữ rung rinh”
Máu, cũng như thế, vừa là một hành hạ, vừa là một giải thoát. Chúng ta vẫn thường gặp những hình ảnh máu trong Kinh Thánh: máu là nguyên lý sự sống, nhưng káhc với linh hồn ở chỗ máu là thành phần hư nát trong cơ thể, còn linh hồn vẫn tồn tại đợi ngày Phục sinh. Từ máu Cứu Thế trên Thánh giá đến máu chiên con, hình ảnh của đau đớn, của hư nát lại là hình ảnh của Hy vọng; máu của chúng sinh tuy không vào được nước Đức Chúa trời (1, Cor. Xv,50) vẫn là một môi giới, một phương tiện, một ánh sáng, một thẩm mỹ:
“Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang”
Trong bài Biển hồn ta (tr. 52) bắt đầu bằng câu “Máu tim ta tuôn ra làm biển cả…”, người đọc có cảm giác như máu và hồn là một, hay máu là hồn của xác thịt còn thể phách là hồn của toàn cơ thể, vì chính nhà thơ cũng phân biệt hồn người và hồn trong:
“Hồn hãy thoát ly ra khỏi ngoài tâm tưởng
Là hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong
Cứ để hồn ngoài bay lưởng vưởng
Ngao du cùng khắp cõi trí mênh mông
… Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa…”
Đã là hồn hồn rồi mà còn có tử thi nữa sao? Lại còn ngắm được tử thi của mình nữa sao? Ở đây, ngoài sự phân biệt “hồn” và xác cố hữu trong tiềm thức người Việt Nam, ta còn phải ghi nhận thêm ảnh hưởng phong thổ vùng từ Qui Nhơn đến Phan Thiết nơi Hàn Mặc Tử sống, vùng đất của người Chàm. Nhà thơ thế nào cũng nghe câu chuyện ma Hời đêm đêm lìa khỏi xác đi chơi hay ăn đêm, và nhớ đến những chuyện đó trong cơn mê sảng bệnh hoạn. Nhưng trong Thánh Kinh, nhất là Cựu ước, chúng ta còn bắt gặp dấu tích sự phân biệt đó, bắt nguồn từ tư tưởng Do Thái giáo. Thân thể, tiếng hébreu (Do Thái) gọi là basar, dịch ra La tinh là caro, thành tiếng Pháp là chair. Xác thịt, nếu không có sinh khí, chỉ là một “tử thi”. Hơi thở của Jabweh đã hà sinh khí vào xác thịt, nhưng chỉ tạo nên một quân bình mong manh: “thần khí của ta sẽ không lưu lại mãi trong loài người, vì loài người chỉ là thân xác” (gen 6, 3); vậy trong tư tưởng Do Thái giáo, chẳng những hồn và xác khác biệt nhau, mà hồn là thần khí mà Đức Chúa Trời ký xác vào thân xác con người đó thôi, chứ không hẳn của con người. Do đó, trước khi chết, Chúa Jésus đã nói “Thưa Cha, trong tay Cha con trả lại linh hồn” Luc 23, 46) và Huy Cận đã nhắc lại trong câu “Lạy Thượng đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi”. Linh hồn đó, là cái thần khí của jebweh nay trở về với Jebweh, chứ không phải là cái hồn lìa khỏi xác của Hàn Mặc Tử. Hồn này lại là một chuyện khác, một biểu hiện của sự sống; hồn này có thể chết, có thể hư nát như xương thịt (Ps, 78, 50) lang thang xuống âm ty sống đời khổ ải, cho đến ngày td1 cho linh hồi sinh những đống xương tản mác. Trong những lời truyền dạy của Thánh Tự, Hàn Mặc Tử đã nhớ những chi tiết phù hợp với tâm hồn hay bệnh trạng mình nhất, nghĩa là sự phân biệt giữa hồn xác, trong khi giáo lý Thiên Chúa về vấn đề này, phức tạp hơn nhiều.
Vì nhà thơ, trong cơn hành hạ của bệnh lý dĩ nhiên là tìm cách giải thoát, dù chỉ bằng mê sảng:
“Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng em
Cho trăng ngập dồn lên tới ngực”
Ở đây, ta bắt gặp ba hình tượng Trăng, Hồn và Máu dồn dập lại trong tương quan rất chặt chẽ; nhà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, hay điên cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng ta trăng là trăng, cả ba hình ảnh đều oà vỡ từ thân xác, và từ thân xác Đau thương Hàn Mặc Tử đã dùng thơ để sống trọn vẹn tín lý của mình. Chàng đã thấy hồn mình trong máu vọt, và hồn mình chính là máu đang tuôn trào lenh láng; chàng đã ghi lại những cảm giác rùng rợn đó, bằng những hình ảnh ta đã gặp trong Cựu ước; hồn ở trong máu (Luc 17, 10), hồn là máu (Luc 17, 14), Một thứ máu luôn luôn vươn đến ánh sáng, như hình ảnh Đức Chúa Trời chói chang trong tấm áo dệt bằng Ánh Sáng trong Thi Thiên (104, 2) và đẫm máu chiên con trong Khải Huyền (Luc 19,13). Máu chiên con trở thành Ánh Sáng, và chiên con là ngọn đèn bất diệt của jérusalem mới. Do đó, tôi nói hồn, Máu và Trăng chỉ là ba màu sắc chiết quang của một Ánh sáng Duy nhất. Người đi trong Mơ ước. Trong mơ ước, Hàn Mặc Tử đã gọi Ánh Sáng Khải Huyền đó là Xuân Như Ý.
***
“Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào đây…
Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương nấm, mộng ngọc
và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chư nguôi được chí muôn sao!…
Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời…”
Như vậy Xuân Thiên ở đây phải là một mùa xuân khác. Không còn là mùa xuân phảng phất ngày xưa trong làn nắng ửng khói mơ tan. Tuy là trời hạo nhiên trong thế giới đợi chờ của Gái Quê cũng là một công trình châu báu, do phép tắc mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung, nhưng là một thế giới sẽ hư nát, sẽ vỡ lở, sẽ chấm dứt. Vì ông trình châu báu của Thượng đế, sau khi con người tự dấn thân vào tội ác, cũng đồng thời là sự phẫn nộ của Thượng đế; mặt đất, nguyên là Quê hương của loài người trở thành một Lưu đày, không còn là vườn Địa đàng long lanh nhũ hương và bích ngọc, cũng không phải là Đất hứa óng ánh sữa thơm và mật ngọt; Trên mặt đất, lúa tốt còn mọc với cỏ hoang, trái lành ửng chín trong gai bụi, và lương thực loài ngoài còn trộn lẫn các bụi với mồ hôi; và con người không những thịt da sượng sần và tê điếng mà còn nức nẻ như muốn tan rã ra cùng vũ trụ, làm cho mê lẫn máu và hồn, ta là ta không phải là ta. Thế giới hiện tại, tuy vẫn có thanh sắc, nhũ hương, vẫn mang sẵn mục nát trong mầm sống. Và mầm sống đó, có sung mãn đến đâu, thì nhà thơ vẫn lòng thương chưa đã mến chưa bưa, nên phải mời cho được Xuân Thiên.
Chúng ta chưa quên được Người đang say sưa đi trong Mơ ước đã gặp ở trang đầu. Vậy Xuân Thiên Chúa đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được hồi phục trong cảnh trời mới đất mới, rạng ngời trong danh cha cả sáng Những thi phẩm cuối cùng của Hàn Mặc Tử như Xuân như ý gom góp xong đầu năm 1939,Thượng thanh khí đầu năm 1940 và Cẩn châu duyên viết giữa năm 1940, gồm hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội viết dở dang, đều nói lên niềm mơ ước đó. Trong bài này, tôi tạm xếp ba tác phẩm trên cùng những bài cuối tập Đau thương vào chủ đề Xuân Như Ý, cho gọn, và như một giai đoạn trong thi trình Hàn Mặc Tử.
Mùa Xuân thượng thanh đó sao? Về chủ đề mơ ước trong Thánh Kinh một chuyên gia về giáo lý Thiên Chúa nhận xét: “Cuộc sống vĩnh viễn được xác nhận ro rệt bao nhiêu, thì những đường nét của nó lại mờ nhạt bấy nhiêu. Không những mờ nhạt, mà đôi khi còn thiếu xót. Sự tồn sinh không được mô tả, dù dưới những hình ảnh Khải Huyền”.
Lẫn trong mơ hồi đó, nhà thơ tha hồ mà tưởng tượng quan cảnh trời đất mới. Nếu Xuân như ý còn nhiều còn nhiều hình ảnh dựa theo tín lý Thiên Chúa, thì Cẩm châu duyên lại gần với huyền tượng của dân gian, phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo – một thứ Đạo giáo bình dân, không ăn thua gì đến cái “đạo khả đạo” của Lão Tử. Vì vậy Hoài Thanh cho rằng Hàn Mặc Tử “chốc chốc lạc vào thế giới của đồng bóng”. Thật ra trong cái hoa hoè của dự tưởng, nội dung nòng cốt của Xuân như ý vẫn là một tín điều Thiên Chúa giáo.
Trước hết đó là một mùa xuân. Nghĩa là một thế giới mới, một khung cảnh tái tạo, như cảnh thành Jerusalem mới được thánh Jean rao truyền ở chương cuối Phác Âm. Trời mới đất mới được dựng lên trên cảnh trộn trạo, tán loạn của ngày tận thế.
“Cả vũ trụ tàn theo ngày Phán xét
Là khủng khiếp cả Trời Đất tiêu diệt”
Mùa Xuân đó ở xa. Ở thật xa nếu nhìn từ thế giới hồn nhiên của Gái quê.
“Cửu trùng là chốn xa xôi ấy
Chim én làm sao bay đến nơi”
Nhưng kinh nghiệm Đau thương, kinh nghiệm của xác tín trong khổ não, đã chắp lên thân xác nứt nẻ của nhà thơ đôi cánh phượng hoàng. Bằng những bất hạnh, Hàn Mặc Tử đã đến gần với Chúa, và gắn với mùa xuân Mơ ước hơn là cánh én bơ vơ:
“Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bây giờ mới đậu
Trên triều thiên ngợi sáng vạn hào quang”
Trong bài Thánh nữ đồng trinh Maria này, với nguồn rung cảm mãnh liệt của đức tin, nhà thơ đã sống cả thế giới hiện tại lẫn mùa xuân dự tưởng, đã nói đến cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế như là một quá khứ. Và trong đức tin đó, nhà thơ đã vẽ cho ta địa hình của Đất Mới, trong bài tựa tập Xuân như ý: “Vì chưng muôn dân là lương thực ngon ngọt, mỹ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc Như Y, tên xuân là Dạ Lan Hương.
Và xuân là phong vị thái hoà của muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàn bạc cả dải Hà Sen, chen lấn vô tận hồn tạo vật…
Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng…”
Chúng ta thử khai triển vài nét chính của Xuân như ý. Chúng ta đã thấy đó là mùa xuân hồi sinh, sau khi"trời thứ nhất, đất thứ nhất tan biến” (Ap. 21, 2). Như đặc biệt mùa xuân này nảy lộc từ mùa đông, nhưng sẽ không bao giờ chuyển sang mùa hạ Mai này thiên địa mới tinh khôi… Và sẽ còn tinh khôi mãi mãi, vì đã đi vào tứ thời xuân non nước. Trong Cẩm châu duyên nhà thơ gọi là Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước và mô tả như một tươi sáng triền miên:
“Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làn nước mát và chưa bao giờ gợn
Vết phong trần đưa lại ở xa khơi”
Đoạn cuối Khải Huyền truyền giảng rõ ràng. Đất mới đây, là châu thân Thiên Chúa; mùa xuân của Hàn Mặc Tử trường sinh bất tử, năm của muôn năm, vì ở Khải Huyền, Chúa đã kết luận: “Ta làm mới mọi vật. Ta là Alpha và Oméga, là nguyên lý và cực chung” (Ap. 21, 5-6).
Xuân Như Ý tiếp đến là một vũ trụ thơm tho và tinh khiết, vì là càn khôn mới dựng nên. Ở đây, nhà thơ như rợn ngợp trong trinh nguyên của Đất mới, mà tượng trưng là chiên con vô tật và vô tội, làm ngòn đèn trinh bạch rọi sáng cả hoàng thành. Thi sĩ vội nguyện cầu gội rửa:
“Tôi van lơn thầm gọi Chúa Giê su
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng”
Và để ngợi ca vinh hiển của Nguồn thơm, nhà thơ đã cao ngâm một giọng long lanh, thanh thoát:
“Ta cho ra một dòng thơ rất mát
Mới tinh khôi và thanh sạch bằng hương”
Theo Hoài Thanh – người may mắn hơn chúng ta, được đọc toàn bộ thi phẩm – thì Cẩm châu duyên, thi phẩm cuối cùng, là “trong trẻo hơn cả”. Âu cũng là chuyện lạ. Gái quê, từ ban sơ, đã là một dòng suối rừng vẫn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên chở không biết bao nhiêu phiền luỵ, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ ra đại dương bằng một dải Cẩm châu trong vắt. Thật là một đặc điểm thẫm mỹ thi ca.
Đất mới còn là một xứ rực rỡ, cao sang, vì xuân mang tên một loài Ngọc:
“Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly
Ôi! Cao sang khôn ví, trọng ai bì
Trên nước cả có vô vàn châu báu”
Những hình ảnh tráng lệ như gấm, ngọc, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn gợi lên một vinh hiển, như khi sứ đồ tả thành Jerusalem mới trong Khải Huyền: “Thành ấy chiếu sáng như một viên bửu bạch, như bích ngọc rạng ngời… Tường thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thuỷ tinh trong vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (Ap. 21, 11, 18 và 21). Dựa theo Khải Huyền, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mặc Tử là một phóng thể của đức tin Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng, rực rỡ đó.
Cuối cùng Xuân Như Ý là một thái hoà tuyệt đối, trong không gian và thời gian. Thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời. Ở đó, trời thì bình an như nguyệt bạch, còn người thì hoan hảo, no nê nhờ trái cây bằng ngộc, vỏ bằng gấm. Còn nói chung:
“Thiên hạ thái bình và trời tuôn ơn phước
Như triều tiên vờn lượn khắp không gian”
Ở đây, sầu đau đã chìm trong quên lãng. Đất mới không còn cảnh “chết chóc, than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa” (Ap. M21, 4) vì những lâm luỵ dưới thế đã qua. Ở đây, tất cả đều là ánh sáng. Và ánh sáng là linh thị cuối cùng bao trùm trọn vẹn thi trình Xuân như ý, đồng thời rọi lại toàn bộ tác phẩm Hàn Mặc Tử như một Thánh thể kết tinh triền miên vươn tới Ánh Sáng, vươn tới Ánh hào quang chan chói ngát lưu ly. Hay trở về Ánh Sáng. Ở đây, chúng ta đi sâu vào ngõ ngách cuối cùng trong đức tin Hàn Mặc Tử:
“Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội trong nguồn ánh sáng”
Tôi sẽ dừng lại đây, dừng lại ở hình ảnh Nguồn Ánh Sáng, vừa là một vươn tới, vừa là một trở về. Mùa Xuân như ý đẹp trước hết vì là Xuân, thứ đến vì nó là Như ý, nó đưa con người về với Chúa, về với nguồn. Vậy Nguồn Ánh Sáng ở đây là Alpha và là Oméga, vừa là cội rễ vừa là cứu cánh con người. Và cơ cấu thơ Hàn Mặc Tử do đó gói ghém cả mặc khải Thánh Tự lẫn lịch trình Cứu rỗi. Tôi có cảm giác đã làm xong một bài luận mạch lạc. Bây giờ là hết.
***
Tham vọng của tôi trong bài này là đề nghị một lối nhìn nhất quán vào tác phẩm Hàn Mặc Tử, trong giới hạn những bài thơ còn lưu truyền, nghĩa là trên một sự nghiệp bị thời gian cắt xén. Khai quật cơ cấu nội tại của sự nghiệp đó, chúng tôi lại còn mong ước rọi sáng những bài, nhưng câu thơ mà các nhà phê bình xưa nay, từ Trần Thanh Mại đến Vũ Ngọc Phan, cả thi sĩ Quách Tấn đều cho là khúc mắc. Theo chúng tôi, hiểu tất cả các câu thơ, các bài thơ trong một tập thơ, chưa hẳn là đã hiểu toàn bộ tập thơ, ít nhất cũng đối với người viết phê bình. Chúng ta còn phải hiểu liên hệ nội tại trong mỗi tập thơ để nắm vững cơ cấ sáng tạo của thi sĩ ít ra cũng trong chủ quan người đọc.
Liên hệ nội tại đó, tôi đặt trên đức tin của Hàn Mặc Tử. Tôi cũng có thể đề nghị một nền tảng khác; tôi chọn chủ đề này với một dụng ý: giải thích những nhận xét cố hữu của các nhà phê bình tiền bối vẫn cho Hàn Mặc Tử là nhà thơ Thiên Chúa giáo, mà không nói rõ, nói đầy đủ, tại sao. Các vị đó thường trích dẫn những bài thơ, hay những câu thơ có âm vang tôn giáo, có hình thức tín ngưỡng như “Maria linh hồn tôi”… rồi kết luận; theo tôi, thì chưa đủ vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên Thánh, làm thơ ca tụng đấng Tối linh, như ngày xưa Nguyễn Hữu Tiến hay Tản Đà nhắc đến Thượng đế trong Quả dưa đỏ hay Giấc mộng con. Theo tôi, chúng ta chỉ có thể nói đến tín lý trong một tác phẩm khi toàn bộ tác phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu. Nói khác đi một người Thiên Chúa giáo chưa hẳn là kẻ đọc kinh vanh vách, mà là người đem trọn cuộc đời mình đáp lại lời gọi của ơn Trên, và một thi sĩ Thiên Chúa giáo không hẳn là kẻ tự xưng là thi sĩ của đạo quan Thánh giá (tr. 74) như Hàn Mặc Tử đã nhận, mà là kẻ đem cả sự nghiệp thi ca của mình” như Quách Tấn nhận định ở trang 118 số Văn thượng dẫn. Do đó mà tôi cố gắng chứng minh toàn tập thi phẩm Hàn Mặc Tử là một tiếng vọng của Thánh Tự.
Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mặc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam.Tín ngưỡng Thiên Chúa đã nảy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì hồn thơ Hàn Mặc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau, như Giáo hoàng Paul 6 đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật 29-11 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông: “Chúng ta đang ở một vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới mẻ hơn của Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau”.
Và bạn đọc sẽ hoan hỉ nếu Quách tiên sinh thủ lời hứa “nói về đao Từ bi trong thơ Tử” vì sẽ hiểu thêm một khía cạnh của thi phẩm, qua kiến thức uyên bác của tiên sinh về phương diện Phật lý cũng như tác phẩm Hàn Mặc Tử. Cuối cùng, viết bài này tôi cũng có hai hậu ý riêng tư. Trước là để giải một lời hứa với Toà soạn Văn từ hai năm nay; một đề tài bao quát và hệ trọng như vầy đòi hỏi một suy nghĩ dài hạn, khiến anh Trần Phong Giao cứ trách tôi là “thề cá trê chui ống”.
Thứ đến là hồi đầu năm nay, tôi có viết vài điểm sách về vở kịch Ngộ nhận của Vũ Khắc Khoan. Bài đó đã gây nhiều hiểu lầm, nhất là trong những người thân của tôi, cho là tôi bất kính đối với đức tin Thiên Chúa; và tôi rất khổ tâm; nếu có hiểu lầm đó, dĩ nhiên lỗi về phần tôi, viết không khéo, nói không trọn, lời không thanh, ý không minh. Vậy bài này viết vào mùa Giáng sinh, cho số Văn Giáng sinh nếu kịp lên khuôn và Bưu điện phát đúng kỳ, sẽ là một bổ chính cho bài trước, và cùng là lời tạ lỗi thành khẩn của tôi.
Lòng thành khẩn đó, của riêng tôi, nhân mùa Hy vọng còn là cánh hoa huệ từ một lưu vực xa xôi gửi về cho quê hương yêu dấu.