Vua chúa ở nhà rường. Hoàng thân quốc thích ở nhà rường. Quan lại ở nhà rường. Người giàu ở nhà rường. Ông bà tổ tiên ở nhà rường. Con cháu cũng ở nhà rường. Nhà rường vẫn là đặc trương của kiến trúc, văn hóa Huế một thời xưa cũ. Nhà rường vẫn lác đác tồn tại đó đây trong nội thành, ngoại thành và cả những làng mạc xa xôi của Thừa Thiên Huế hôm nay. Nhà rường sẽ vững chãi đứng ở cái nơi của nó đến bao giờ? Bởi vì nhà rường là một bộ phận không thể tách rời của di sản lịch sử, văn hóa Huế.
Nét tài hoa của người thợ gốc Bắc cộng với tâm hồn của núi Ngự, sông Hương đã thổi vào những khúc cây, mảnh gỗ vô tri một linh hồn sâu thẳm, tinh tế, sinh động khi ta nhìn nhà rường giữa một bối cảnh mà nó là thành viên.
Nhà rường còn có một đời sống riêng vô cùng phong phú với những vật dụng, những con người, những lề thói tiêu biểu cho một thời kỳ văn minh nông nghiệp, quân chủ.
Ngoại trừ ngói ở mái, gạch đá ở nền móng, vách bao, toàn bộ các bộ phận khác của nhà rường đều bằng gỗ: cột, kèo, xuyên, trếnh, đòn tay, rui mè bằng gỗ, cửa bàn khóa, cửa hông, ngưỡng, vách ngăn, liên ba, thành vọng, rầm thượng, diềm… bằng gỗ. Bệ thờ, sập, ngựa, ván, bàn ghế, giường, tủ, tợ, kệ… bằng gỗ.
Cây của một mé rừng, đôi khi không đủ để làm một ngôi nhà rường hoàn chỉnh. Ngôi nhà hoàn chỉnh gồm cổng ngoài, cổng trong, bình phong, nhà chính, tả vu, hữu vu, nhà phụ, nhà bếp. Một ngôi nhà rường đủ tiêu chuẩn phải thượng chua, hạ mít hay thượng kiền hạ gõ. Mít là mít vườn cao tuổi ở những làng ven núi. Gõ thì Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên nổi tiếng có vân đẹp. Kiền kiền thì Bà Nà, Nam Đông mới tốt. Gỗ làm nhà lấy từ những cây có tên tuổi và lấy đúng thời vụ, để thật nguội (thật khô) hầu tránh sâu mọt vênh tréo.
Nhà rường có nhiều dạng. Nhà một căn hai chái, nhà ba căn hai chái, nhà năm căn hai chái, v.v..
Ở Huế phổ biến nhà rường ba căn hai chái. Dạng nhà rường này có mặt bằng khoảng 7,5 x 11,5 mét, có 8 cột cái (cột hàng nhất), 16 cột lỡ (cột hạng nhì), 24 cột con (cột hạng ba), 8 cột hiên (nếu hiên là nhà vỏ cua tiền đường thì nhiều cột hơn), tổng cộng 56 cột (không kể cột hiên bên, hiên sau, và tiền đuờng). Nhà ba căn hai chái có rầm thượng chạy suốt ba căn. Ở nhà rường bao giờ căn giữa (căn chủ) cũng có lòng căn rộng hơn các căn bên, căn bên rộng hơn căn chái.
Tất cảc các chi tiết gỗ của nhà rường được nối kết với nhau bởi các ngàm, miệng (miệng cột, miệng kèo), nêm, chốt. Ở nhà rường tuyệt đối không dùng đinh, óc vít, dây néo, hay bất cứ một chi tiết kim loại nào. Cũng không có sự nối kết kiên cố nào giữa phần gỗ và nền móng. Cột đặt trên các chân cột bằng đá đẽo hình khối vuông hay hình trái bí để chống ẩm, mọt mối. Mái nhà rường thường lợp bằng ngói liệt, ở nông thôn nhiều nhà lợp bằng tranh. Móng nhà rường được xây bằng đá hộc, đá chẻ, vách đố hay tường xây bằng gạch, nền bằng đất nện, lát gạch đỏ, tráng xi măng hay lát gạch ca rô (tráng xi măng hay lát ca rô ở thời sau này).
Điều đặc biệt ở nhà rường là nghệ thuật tạo hình bằng chạm khắc, khảm trên các đầu kèo, đầu xuyên, trếnh, các dây liên ba thành vọng, các dây đòn tay truớc, trên các vách ngăn, trên các hoành phi câu đối, sập gụ, tủ thờ, khám thờ, các khung tranh thờ.
Người Huế thường nói: “Sống cái nhà thác cái mồ”. Chữ sống ở đây không bao hàm ý nghĩa cư trú. Các hình tượng long lân qui phụng, phúc lộc thọ, nhị thập tứ hiếu, ngư tiều canh mục, tuyết nguyệt phong hoa, tứ thời bát tiết, bát tiên, thất thập nhị hiền, các loại văn hoa được khắc chạm trên nhiều vật thể, nhiều đồ dùng trong ngôi nhà rường là những khái niệm bao quát tư tưởng triết lý, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật chi phối mọi hoạt động, sinh hoạt hàng ngày cũng như khát vọng ngàn đời của những con người là thành viên của gia đình, của cộng đồng trần thế, của vũ trụ và cả của thế giới tâm linh.
Phần chính, phần trang trọng nhất trong ngôi nhà rường nhất thiết phải là nơi thờ tự. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người ruột thịt khác đã chết vẫn tồn tại nơi đây. Và người đàn ông, đặc biệt là gia trưởng, là nhân vật trung gian giữa người chết và kẻ sống, ông ta đi lại, đứng ngồi, ngủ nghỉ, sai phái, điều hành công việc đại gia đình, thờ cúng tổ tiên, tổ chức các ngày kỵ chạp, gả cưới, các lễ lạc với tư cách là gia trưởng và đồng thời là giáo trưởng. Người này ở cạnh bàn thờ. Đôi khi ở trước bàn thờ. Con trai cả ở cạnh ông ta. Con trai thứ, út ở xa hơn, phụ nữ, đàn bà con gái, trẻ con thì ở căn chái sát lều hay nhà phụ, tuyệt đối không được nằm ngồi, đi đứng, nói cười trước bàn thờ. Vâng lời, khép nép, nhỏ nhẹ, lễ phép, dịu dàng, chịu đựng là những đức tính của những con người trong khu nhà rường một thời vang bóng.
Ngày nay thì mọi chuyện đã khác. Những người chủ đích thực của các ngôi nhà rường đã về với tổ tiên. Ở khu vực thờ tự ông ta không còn là nhân vật số một như khi còn tại thế. Ông ta đã bị xuống cấp rồi. Và người con trai cả mà ông ta đã tập tành để kế nghiệp ông ta cũng chẳng còn vai trò. Hầu hết các ngôi nhà rường đã cũ kỹ, dột nát, sụp đổ hư hao. Tràng kỷ sập gụ, tủ chè, ngựa gõ, đồ cổ, vật thờ để mất mát, bán nhượng khá nhiều. Vườn tược thì tiêu điều, chia năm xẻ bảy, xây cất lung tung. Những đứa con, đứa cháu sinh ra và lớn lên trong và quanh ngôi nhà rường đa phần tan tác tứ phương như bầy chim trước những cơn bão dữ tợn của cuộc bể dâu.
Người thủ từ hiện tại của ngôi nhà rường nổi tiếng ở Long Thọ (nhà cụ nghè Đường) là anh con trai đời vợ thứ bảy của một ông Nghè đã rất chật vật để giữ gìn di sản của cha ông. Anh này là một thầy giáo ở trường đại học đồng thời là một nhà nghiên cứu về các nghề truyền thống ở Huế. Anh ta đã trân trọng trìu mến ngôi nhà cũng như hàng ngày phụng dưỡng người mẹ già đã gần tròn trăm tuổi.
Một ngôi nhà rường khác của cụ Thượng ở Lại Thế hiện do một bà cháu gái trông coi và hương khói. Ngôi nhà tương đối tồn tại hoàn chỉnh, chỉ mất đi căn nhà khách và các đồ khí bảo quí giá. Gần nhà cụ Thượng là một cái nền hoang trong khu vuờn xơ xác vốn là tư dinh của một đại thần một thời khét tiếng.
Một phụ nữ gốc Huế, tuổi ngoài bốn mươi, cháu nội của ông chủ nhà rường vọng tộc, đã tâm sự: “Về lại Huế ư? Năm nào cũng có về một hai bận. Không thể không ngoái đầu lại được. Nhưng về ở hẳn ‘trong khung cửa hẹp’ thì không. Các con mình chúng cao, đi qua cửa phải khom lưng, cúi đầu. Trong nhà thì cột nhiều quá, tới, lui, qua, lại phải chú ý coi chừng, không thì bưu đầu bể trán. Chẳng những đụng cột, đụng ngựa gõ, sập gụ, tủ chè mà đụng cả quá khứ, giáp mặt với quá nhiều vong linh.”
Một người Huế khác, tuổi chưa lấy gì làm cao, một tay chơi đồ cổ, thì hùng hồn liếng thoắt: “Nhà rường ư? Tuyệt, tuyệt lắm. Những thợ mộc, thợ chạm khắc, khảm của ta thật tài tình. Nhìn các hàng cột bóng láng, các dây kèo xuyên, trếnh, liên ba, thành vọng chạm khắc phượng múa rồng bay, ta như sống lại một thời huy hoàng. Nhà rường là cả một thế giới sinh động mà sâu thẳm, một thế giới mà những giá trị truyền thống làm phong phú tâm hồn chúng ta hôm nay…”
Chỉ trong vòng một năm, tôi đã gặp tay chơi đồ cổ ở Huế ba lần. Một lần anh ta mang ra khỏi Huế một căn nhà rường với rất nhiều đồ cổ. Anh ta nói: “Bảo quản nhà rường tại Huế quả thật quá khó. Đa phần các gia đình còn ở trong nhà rường ngày nay khó khăn kinh tế, họ không có điều kiện để gìn giữ, tôn tạo ngôi nhà họ đang ở. Trách họ không được. Tôi muốn bảo quản nhà rường ở nơi tôi có điều kiện…”
Lời của hai người gốc Huế đều có phần hay ho của nó “Rằng hay thì thật là hay…”
Chu Sơn