PHẦN II
Chương 1
Cuộc Chơi Lớn.
Gió lớn, trời lạnh, mưa bão, tuyết phủ, những khó khăn làm chậm chạp sự tìm kiếm… đã là những thứ buộc anh Meaulnes và tôi không thể đả động tới cái xứ xa lạ kia trước khi chấm dứt mùa đông. Chúng tôi không cách nào bắt tay vào một công việc gì cho đứng đắn trong những ngày tháng Hai ngắn ngủi với những ngày thứ Năm lộng gió mà thường thường cứ vào khoảng năm giờ chiều lại được chấm dứt bằng một trận mưa lạnh cóng, buồn nản.
Không có gì nhắc nhở cuộc phiêu lưu của anh Meaulnes ngoài sự kiện kỳ lạ là từ ngày anh trở về thì chúng tôi không còn người bạn nào nữa. Những giờ ra chơi cũng vẫn các trò như cũ được tổ chức, nhưng Jasmin không bao giờ nói một lời với anh Meaulnes. Những buổi chiều, ngay sau khi lớp học được quét dọn sạch sẽ, ngoài sân lại vắng bóng người, giống như hồi tôi chỉ có một mình, tôi thấy anh bạn tôi cứ lang thang từ ngoài vườn vào trong nhà kho và từ ngoài sân vô tới phòng ăn.
Những buổi sáng thứ Năm, tôi và anh ngồi riêng rẽ tại bàn thầy giáo trong hai lớp học để đọc tiểu thuyết của Rousseau và Paul-Louis Courier được lục thấy trong các tủ, nằm lẩn giữa những sách học Anh văn và những cuốn vở chép các bản nhạc rất tinh vi. Buổi chiều có khách, chúng tôi phải rời khu nhà ở để đi ra khu trường học. Đôi khi cũng nghe thấy từng đám học trò lớn dường như vô tình ngừng lại, đạp mạnh vào cánh cổng nhân một trò chơi võ biền khó hiểu, rồi lại bỏ đi.
Cuộc sống buồn nản đó tiếp tục cho đến hết tháng Hai. Tôi bắt đầu tin rằng anh Meaulnes đã khuây khỏa. Bỗng một cuộc phiêu lưu còn kỳ lạ hơn cuộc phiêu lưu trước xảy ra đã báo cho biết rằng tôi đã lầm: Có một cuộc khủng hoảng dữ dội đang được sửa soạn dưới bộ mặt buồn tẻ của cuộc sống mùa đông.
Một tối thứ Năm vào cuối tháng Hai, tin tức thứ nhất về trang viện kỳ lạ, đợt đầu của cuộc phiêu lưu không được nhắc nhở nữa, được đưa tới cho chúng tôi.
Trong nhà, mọi người vẫn chưa đi ngủ. Ông bà tôi đã trở về quê, chỉ còn Millie và cha tôi cùng với hai chúng tôi mà thôi; (cha mẹ tôi không ngờ lớp học đã bị chia thành hai phe đối nghịch.)
Lúc tám giờ, Millie mở cửa để quẳng ra ngoài những mẩu thừa của buổi ăn tối, bỗng kêu lên “Chà!” bằng cái giọng trong trẻo đến nỗi tất cả đều chạy tới để xem có chuyện gì. Nơi bực cửa, tuyết xuống đầy. Vì trời tối nên tôi bước vài bước ra ngoài để xem xét. Những bông tuyết nhẹ rớt xuống trên mặt mặt rồi tan lập tức. Tôi bị gọi vào ngay. Millie vừa rét run vừa đóng cửa lại.
Tới chín giờ, chúng tôi sửa soạn đi ngủ; mẹ tôi tay đã cầm đèn, thì chợt cả nhà nghe rõ ràng có tiếng đập hai lần rất mạnh vào cánh cổng ở mãi tận cuối sân. Mẹ tôi đặt lại cây đèn lên bàn. Những người khác đều đứng im, tai vễnh lên nghe ngóng.
Chẳng ai nghĩ đến việc ra ngoài tìm xem có chuyện gì đã xảy, bởi vì trước khi đi hết một quãng sân thì ngọn đèn đã tắt. Im lặng một lúc ngắn rồi cha tôi sắp quen lệ mà bảo “Chắc hẳn…”, thì bỗng có một tiếng còi ré lên inh ỏi, kéo dài đến mãi tận phố Nhà Thờ, vang lên ngay dưới khung cửa sổ phòng ăn mở ra con đường về phía Nhà Ga. Liền sau đó, có những tiếng la the thé: “Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!” Từ phía đầu nhà bên kia cũng phát ra những tiếng la đáp lại như vậy. Bọn người đang la gào ấy chắc phải đi ngang cánh đồng của ông già Martin rồi leo qua bờ tường thấp ngăn cách cánh đồng với cái sân nhà tôi. Bằng giọng trại đi của khoảng 8 hay 10 người, những chữ “Bắt lấy nó!” cứ vang lên liên tục và ở khắp mọi nơi –la trên mái nhà chứa rượu mà chắc hẳn bọn họ leo tới được bằng cách trèo lên đống củi xếp cạnh tường; la trên bức tường thấp nối liền nhà kho với cánh cổng lớn có cái bờ được đắp tròn nếu cỡi bên trên thì rất tiện y như cỡi ngựa; la về phía có hàng rào sắt trèo qua rất dễ, mở ra ngã xuống Nhà Ga,… Sau hết, ở phía sau vườn, một bọn chậm chân cũng vừa tới, cùng một điệu như vậy, nhưng chuyến này lại la: “Tấn công!”
Chúng tôi nghe thấy tiếng la của họ vọng vang trong những lớp học bỏ trống mà cửa sổ vừa bị mở từ chính bàn tay các người này.
Anh Meaulnes và tôi biết hết mọi ngõ ngách của khu nhà lớn cho nên nhận biết ngay tất cả những điểm đang bị bọn kia tấn công.
Thật ra ở những phút đầu chúng tôi cũng cảm nghe thực sự sợ hãi. Tiếng còi khiến cả nhà nghĩ rằng đang bị bọn ăn trộm và bọn bô-hê-miêng phá quấy. Vừa vặn từ nửa tháng qua ai cũng thấy ở ngoài công trường phía sau nhà thờ có một tên bất lương đi cùng một thanh niên đầu quấn băng kín. Ở tiệm các nhà đóng xe và đóng cá ngựa cũng thấy xuất hiện những người thợ làm đồng không phải là người trong vùng này.
Nhưng, liền sau khi nghe những tiếng la, ai cũng tin là đang bị rắc rối với bọn thanh niên ngoài phố. Trong đám người đang tấn công khu nhà chúng tôi như người ta tấn công một chiếc tàu chắc cũng có cả đám thiếu niên –cứ nghe tiếng nói the thé của chúng thì biết.
Cha tôi kêu lên: “À, ra thế!”
Còn Millie thì hỏi nhỏ:
“Vậy là nghĩa lý gì?”
Bỗng dưng những tiếng la ngoài cổng và ở cạnh tường có rào sắt –rồi cả ở cửa sổ-- đều im bặt. Từ bên ngoài ré lên hai tiếng còi. Những giọng la của bọn leo lên chỗ kho chứa rượu, cũng như của bọn ở ngoài vườn đều dịu dần rồi tắt hẳn. Khi đó lại nghe thấy dọc theo bờ tường cạnh phòng ăn có nhịp chạy của cả đám đang vội vã rút lui, tiếng chân bước được lớp tuyết phủ làm cho nhẹ bớt.
Chắc chắn là có kẻ tới phá đám bọn họ. Vào giờ này ai nấy đều đi ngủ nên họ tưởng có thể tự do tấn công căn nhà trơ vơ ở đầu làng, nhưng bỗng có người tới phá mất kế hoạch của họ.
Chúng tôi vừa bình tĩnh lại-vì cuộc tấn công bất ngờ giống như một cuộc tấn công chiến thuyền địch có chỉ huy hẳn hòi-và sắp sửa mở cửa ra xem thì nghe một giọng nói quen thuộc đang vang lên ở ngoài cổng sắt nhỏ:
“Ông Seurel! Ông Seurel!”
Đó là ông Pasquier, chủ tiệm thịt bò, một người lùn và mập đang chùi guốc trên bậc cửa, rũ tuyết bám trên áo khoác ngoài rồi bước vào. Cái vẻ ông ta vừa láu lỉnh vừa hốt hoảng, y như vẻ của người vừa mới tóm được sự bí mật trong một vụ gì kỳ quái lắm:
“Tôi đang đứng ngoài sân nhà tôi về phía trông ra công viên Bốn Ngả. Mới sắp sửa đóng cửa chuồng dê, tôi chợt trông thấy giữa đám tuyết bay có hai thằng cha, vẻ như đang canh gác hay rình mò gì đó. Họ đứng về phía cây thập tự. Tôi tiến tới, nhưng mới bước được hai bước thì – hấp! hai thằng vội rảo chạy về phía nhà ông. Úi chao, không ngần ngừ gì cả, tôi xách vội cái đèn, định bụng:
Ta phải tới kể chuyện này cho ông Seurel nghe mới được.”
Rồi ông ta tiếp tục kể lại câu chuyện:
“Tôi đang đứng ngoài sân, phía sau nhà tôi…”
Tới đó, chúng tôi đưa mời ông một ly rượu ngọt; ông nhận; rồi khi được hỏi thêm những chi tiết thì ông không thể cho biết gì hơn. Trên đường tới đây ông không gặp ai cả. Cả đám địch đã được hai người lính gác đó đưa tin nên đã vội biến hết. Còn nếu bảo rằng hai tên thám thính đó là ai thì…
Ông ta nói:
“Có thể là bọn bô-hê-miêng. Từ gần một tháng nay họ đã về đây chờ trời tạnh ráo để diễn trò, không thể nào bọn họ không bày ra vài vụ.”
Bấy nhiêu chuyện không làm rõ hơn về việc mới xảy ra, chúng tôi cứ băn khoăn đứng đó, trong khi ông Pasquier nhấp nháp ly rượu ngọt, rồi lại kể câu chuyện của mình với nhiều điệu bộ. Anh Meaulnes từ nãy hết sức chăm chú nghe bỗng cúi xuống xách cây đèn của ông hàng thịt để dưới đất, lên tiếng quyết định:
“Phải đi xem cho rõ mới được.”
Anh mở cửa ra, có ông Seurel, ông Pasquier và tôi theo sau.
Millie yên bụng vì bọn người tấn công đã rút đi hết; rồi giống như những người có cá chất thứ tự và cẩn thận, lại rất ít tò mò, bà tuyên bố:
“Nếu muốn thì các người cứ việc đi, nhưng đóng cửa lại, đem theo chìa khóa. Tôi đi ngủ, cứ để ngọn đèn cháy sáng.”
Chương 2
Chúng Tôi Sa Vào Một Cuộc Mai Phục
Chúng tôi im lặng bước đi trên tuyết. Anh Meaulnes dẫn đầu, chiếu ánh sáng từ cây đèn có lưới bao quanh thành một hình bán nguyệt như chiếc quạt. Vừa ra khỏi cổng thì từ phía sau cây du công cộng áp sát tường, chỗ sân chơi có mái của ngôi trường, chúng tôi thấy có hai người lạ mặt đội mũ xùm xụp chạy vụt đi như hai con chim sẻ bị hoảng sợ. Không hiểu vì muốn đùa bỡn, vì thích thú với trò chơi lạ lùng mà họ đang tham dự, hay vì thần kinh căng thẳng và sợ bị rượt theo, hai người vừa chạy vừa thốt ra hai ba tiếng nói, kèm theo những tiếng cười.
Anh Meaulnes thả rơi cây đèn xuống đống tuyết, la lên: “Francois, chạy theo tôi!”
Bỏ lại đó hai người già không thể làm như vậy, chúng tôi đuổi theo hai cái bóng. Sau khi vòng quanh chỗ đầu phố, bọn này chạy ngược về phía nhà thờ, dọc theo con đường tới trại Vieille- Planche, chân bước sãi đều không có vẻ vội vã; và chúng tôi rượt theo cũng không khó nhọc. Họ chạy qua hai bên hàng phố lặng lẽ yên ngủ, rồi vào phía sau nghĩa trang trong đám những ngõ hẻm và ngõ cụt chi chít.
Đó là khu phố của những người lao động, những cô thợ may và các bác thợ dệt, được mệnh danh là Xóm Nhỏ. Chúng tôi ít quen thuộc nơi này và ban đêm chưa từng tới đây. Ngay ban ngày khu phố cũng vắng tanh: những người lao động đi vắng, các bác thợ dệt ẩn kín trong nhà. Trong cái đêm quá yên tĩnh đó, nó càng như là nơi bỏ trống và say ngủ hơn hết thảy mọi nơi khác trong làng. Không chút hy vọng nào có ai bắt gặp và tiếp tay cho chúng tôi.
Giữa những căn nhà xây cất không ngay ngắn giống như những chiếc hộp bằng giấy bồi, tôi chỉ biết mỗi một con đường đưa tới nhà cô thợ may có biệt danh là “cô Câm”. Trước hết phải đổ một cái dốc khá cao, quãng đường lác đác có chỗ trải đá, rồi sau khi đã rẽ hai hay ba lần giữa những cái sân nhỏ trong nhà các bác thợ dệt hay những chuồng ngựa bỏ hoang, người ta sẽ tới một ngõ cụt tận cùng bằng cái sân thuộc về một nông trại nay bỏ hoang. Trước kia có đôi lần tại nhà cô Câm, trong khi cô lặng lẽ trò chuyện với mẹ tôi, những ngón tay tới tấp ra dấu, thỉnh thoảng được cắt ngang bằng những tiếng kêu nho nhỏ của người tàn tật, thì qua khung cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy bức tường cao của nông trại –ngôi nhà cuối cùng quay lưng ra ngoài làng - và hàng rào luôn luôn đóng kín, ngăn cách với cái sân bao giờ cũng khô ráo không rơm rác, nơi vắng bóng hết mọi thứ.
Hai người lạ mặt theo đúng con đường đó. Đến mỗi khúc rẽ, chúng tôi chỉ sợ không bắt kịp họ, nhưng thật ngạc nhiên, hễ bao giờ chúng tôi tới đầu con hẻm kế thì họ mới vừa mất hút. Tôi lạ lùng nhận ra rằng những con hẻm đó rất ngắn, nên không thể nào như vậy được, trừ ra mỗi khi chúng tôi khuất dạng thì bọn họ lại chậm bước để đợi.
Sau cùng, không ngần ngại, họ chạy thẳng vào ngõ đưa tới nhà cô Câm. Tôi la lên với anh Meaulnes:
“Tóm được nó rồi, đây là một ngõ cụt.”
Thật ra chính bọn chúng đã tóm được chúng tôi. Họ đưa chúng tôi tới đúng chính chỗ họ muốn. Sát bức tường, họ mạnh dạn quay lại đối đầu và một người ré lên tiếng còi mà đêm đó hai lần chúng tôi đã nghe thấy.
Lập tức chừng một chục tên khác từ nơi cái sân bỏ hoang chạy ra, hẳn đã nấp chờ sẵn ở đó. Người nào cũng đội mũ xùm xụp, khăn quàng quấn cao che cả mũi.
Những người đó là ai, anh Meaulnes và tôi đều đã biết trước, nhưng quyết tâm không nói ra với Monsieur Seurel không liên quan chi tới công việc của chúng tôi. Trong số có Delouche, Denis, Giraudat và tất cả bọn trong lớp.
Trong lúc đánh nhau, chúng tôi nhận thấy rõ lối đánh và cả tiếng nói của chúng. Nhưng có một điểm xem ra đáng ngại, gần như khiến cho anh Meaulnes phải hoảng sợ là trong đám có một người mà chúng tôi không biết và hình như đang chỉ huy tất cả. Hắn không đụng tới anh Meaulnes, chỉ đứng yên nhìn đám tay chân bị đạp ngã xuống bùn, áo quần tơi tả, đang khổ công ra sức túm đánh anh chàng cao lớn thở hỗn hễn. Hai đứa trong bọn lo đối địch với tôi nhưng khó khăn lắm mới ôm chặt được tôi vì tôi vùng vẫy kịch liệt. Bị đè xuống đất, hai đầu gối gập lại, ngồi bệt lên gót chân, hai tay bị giữ quặt ra sau lưng, tôi đành thúc thủ chịu trận trong tâm trạng vừa hết sức tò mò vừa lo sợ chứng kiến khung cảnh đang diễn ra trước mặt.
Anh Meaulnes vung người quay mạnh một cái mạnh làm cho bốn gã học trò lớn đang níu lấy áo anh bị ngã nhào trên tuyết.
Đứng thẳng người, anh chàng lạ mặt chăm chú theo dõi trận đánh, vẻ rất bình tĩnh, thỉnh thoảng nhắc lại bằng một giọng dõng dạc: “Hăng lên… lao vào… go my boys! (*)”(*) Tiếng Anh trong nguyên tác.
Rõ ràng hắn ta là tay đầu sỏ. Nhưng hắn từ đâu tới? Huấn luyện cho bọn kia đi đánh nhau ở đâu và bằng cách nào? Thật là cả một sự bí mật đối với chúng tôi.
Cũng như bọn kia, hắn quấn khăn quàng kín cả mặt. Nhưng khi anh Meaulnes đã đánh bạt hết cả đám và tiến lại gần hắn, thì với bộ dáng hung hăng như để nhìn cho rõ hơn hầu sửa soạn đối phó với tình thế mới, hắn đã làm lộ ra một mẩu vải trắng quấn trên đầu như kiểu băng bó của kẻ bị thương.
Lúc đó tôi la lên cho anh Meaulnes nghe: “Coi chừng sau lưng! Còn một thằng nữa!”
Anh chưa kịp quay lại thì phía sau anh, chỗ cổng vào, có một gã to lớn vụt xuất hiện. Gã này khéo léo tung chiếc khăn quàng ra móc vào cổ anh Meaulnes và giật anh ngã ngửa. Lập tức bốn tên địch thủ khi nãy đang bị té cắm đầu xuống tuyết cùng nhào lại nắm chặt lấy anh, trói hai tay anh bằng một sợi giây thừng và hai chân bằng một chiếc khăn quàng. Còn anh chàng trẻ tuổi đầu có quấn băng thì tới lục soát trong các túi áo anh Meaulnes. Riêng cái gã vừa quăng thòng lọng thì thắp một ngọn nến, xong lấy bàn tay che gió. Cứ mỗi lần kiếm được một mảnh giấy, tên chỉ huy lại chạy tới gần bên cây nến giơ ra đọc xem giấy viết những gì. Sau cùng khi mở ra tấm bản đồ mà trên đó anh Meaulnes có ghi đầy những chi tiết đã khiến anh mất bao nhiêu công tìm kiếm từ sau khi trở về, hắn sung sướng la lên:
“Lần này thì tóm được rồi. Bản đồ đây. Bản chỉ dẫn đây. Ta thử xem cái ông này có tới đúng nơi mà ta vẫn đồ chừng hay không?”
Tên đồng lõa thổi tắt ngọn nến. Ai nấy thu nhặt mũ cùng dây lưng. Rồi cả bọn tản mác êm ru như khi chúng mới tới, bỏ mặc tôi vội vàng cởi trói cho bạn.
Anh Meaulnes đứng lên nói:
“Với bản đồ đó chúng cũng chẳng được việc gì.”
Cả hai chậm chạp ra về vì chân anh có khập khiễng đôi chút. Trên phố nhà thờ, chúng tôi gặp lại ông Seurel và ông già Pasquier. Họ hỏi:
“Các anh chẳng thấy gì cả phải không? Bọn tôi cũng vậy.”
Nhờ đêm tối, hai ông không nhận rõ được tình huống của tôi và anh Meaulnes. Ông hàng thịt từ giã, còn ông Seurel cũng vội về ngủ.
Còn lại trong căn phòng trên gác, y hệt như hai chiến binh tiu nghỉu trong buổi chiều một ngày thất trận, lại nhờ ánh sáng ngọn đèn mà Millie vẫn để đó, chúng tôi mất nhiều thì giờ vá víu lại áo ngoài bị sứt chỉ, rồi nho nhỏ tranh luận với nhau về vụ mới xảy ra.
Chương 3
Anh Chàng Bô-Hê-Miêng Đi Học.
Sáng hôm sau trở dậy thật là nặng nề. Tám giờ rưỡi, đúng lúc Monsieur Seurel sắp ra lệnh vào lớp, tôi và anh Meaulnes mới hớt hải chạy tới sắp hàng. Vì đến trễ nên cả hai len vào bất kỳ chỗ nào, chứ thường thì bao giờ anh Meaulnes cũng dẫn đầu một hàng dài những học trò đứng sát cánh nhau, tay ôm sách vở và bút viết, để Monsieur Seurel đi khám một lượt.
Tôi lạ lùng thấy bọn chúng lặng lẽ vội vã nhường cho anh Meaulnes và tôi đứng vào khúc giữa. Nhân lúc Monsieur Seurel chậm lại vài giây chưa cho học trò vào lớp để khám anh Meaulnes, tôi tò mò đưa đầu ra nhìn phía bên trái, bên phải, điểm mặt những địch thủ đêm qua.
Gã đầu tiên tôi trông thấy lại chính là kẻ mà tôi không ngớt nghĩ tới nhưng cũng là người cuối cùng tôi cho rằng ở đây sẽ phải gặp. Hắn đứng nơi chỗ anh Meaulnes vẫn đứng, ngay hàng đầu, một chân để lên bậc cửa bằng đá, còn một bên vai và một góc túi đeo trên lưng dựa vào thành cửa.
Khuôn mặt có điểm tàn nhang của hắn trông thanh tú nhưng rất xanh xao. Với vẻ vừa tò mò vừa kiêu kỳ thích thú, hắn quay nghiêng nhìn về phía chúng tôi. Cả đầu và một nửa mặt hắn quấn băng kín. Tôi nhận ra đó là tên trùm của bọn hôm qua.
Chúng tôi vào lớp, ai ngồi chỗ người ấy. Gã học trò mới ngồi gần cái cột, về phía tay trái chiếc ghế dài có anh Meaul- nes ngồi ở đầu tay mặt bên kia. Giraudat, Delouche và ba người nữa cùng ngồi trên hàng ghế này, đều thu lại để nhường chỗ cho hắn, làm như bọn họ đã thỏa thuận với nhau từ trước.
Về mùa đông trường tôi vẫn có những học trò bất ngờ như vậy. Đó thường là những thủy thủ có tàu bị băng đóng trên con kênh; các du khách bị tuyết xuống nhiều phải tạm ở lại. Họ tới lớp học hai ngày, một tháng, ít khi lâu hơn. Giờ đầu họ được mọi người lưu tâm, nhưng rồi bị bỏ quên ngay và lẩn vào đám mọi học trò khác.
Riêng anh học trò mới hôm nay xem chừng không bị quên lãng mau chóng. Tôi còn nhớ mãi con người đặc biệt này cùng những bảo vật kỳ lạ hắn mang tới trong chiếc túi đeo sau lưng. Đầu tiên là những cây bút có hình được hắn lấy ra để viết chính tả. Nhắm một mắt nhìn vào cái lỗ tròn ở cán bút, người ta sẽ thấy hiện lên hình ảnh đục lờ và to ra nhiều của ngôi giáo đường thành Lourdes hay một kiến trúc nào xa lạ. Hắn chọn lấy một cây, thế là lập tức mọi người chuyền tay nhau. Rồi đến một hộp đựng bút của người Tàu chứa đầy những com-pa cùng nhiều đồ dùng hay hay khác, được che giấu dưới quyển vở để Monsieur Seurel khỏi trông thấy và lặng lẽ kín đáo chuyền từ tay người này sang tay người khác cho tới đầu bàn bên trái, chỗ anh Meaulnes ngồi.
Những cuốn sách mới toanh mà tôi vẫn thèm thuồng đọc tên sách ở bìa sau mấy tác phẩm ít oi của thư viện nhà, như những cuốn: La Teppe aux Merles, La Roche au Mouettes, Mon Ami Benoist… cũng được chuyền tay nhau. Đám học trò, có người một tay lật trên đùi những cuốn sách không biết từ đâu tới, ăn cắp được không chừng, còn tay kia vẫn viết chính tả. Có người thì quay com-pa ở dưới gầm bàn. Lại có kẻ, đợi khi Monsieur Seurel xoay lưng lại vừa đi vừa đọc chính tả từ bàn viết của ông ra tới cửa sổ, bỗng nhắm một mắt lại, còn mắt kia dán vào cái lỗ có hình màu lục của ngôi nhà thờ Đức Bà ở Paris.
Riêng gã học trò mới, tay cầm bút, ghé nửa khuôn mặt thanh tú vào bên cây cột, nheo mắt lại ra vẻ bằng lòng cuộc chơi lén lút đang được tổ chức chung quanh anh ta.
Lần lần, cả lớp đều lo ngại: những món đồ chuyền tay nhau lần lượt tới chỗ anh Meaulnes nhưng anh chẳng hề ngó đến, vẻ thản nhiên không chút tò mò lưu ý. Lâu dần chúng thành một đống vuông vắn nhiều màu, giống như những món hàng đặt dưới chân người đàn bà tượng trưng cho Thần Khoa Học được nhìn thấy trong những bức họa của phái Biểu Tượng. Sớm muộn rồi Monsieur Seurel cũng sẽ khám phá ra cuộc trưng bày bất thường và giấu diếm này. Với lại, ông cũng nghĩ tới việc điều tra về những chuyện xảy ra đêm trước. Sự có mặt của anh chàng bô-hê- miêng sẽ giúp cho sự điều tra ấy trở thành dễ dàng hơn.
Quả vậy, lát sau Monsieur Seurel ngạc nhiên dừng lại trước mặt anh Meaulnes. “Những cái này là của ai đây?”
Vừa hỏi, ông vừa lấy cái gáy cuốn sách gấp lại có ngón tay trỏ của ông ngăn ở giữa chỉ vào “những cái này”.
Anh Meaulnes không ngẩng đầu lên, giọng đáp có vẻ khó chịu:
“Con không biết nữa.”
Nhưng anh học trò lạ vội can thiệp:
“Của con ạ.”
Rồi, với một cử chỉ hào phóng, lịch sự của một thứ quý phái trẻ tuổi khiến ông giáo già không thể cưỡng lại, anh ta nói tiếp:
“Thưa thầy, con xin biếu thầy những thứ ấy, mời thầy thử xem.”
Thế là trong vòng vài giây, lặng lẽ để khỏi làm náo động tình trạng mới gây ra, tất cả lớp tò mò lén tới đứng bao quanh ông thầy đang cúi cái đầu tóc nửa hói nửa quăn trên kho bảo vật. Còn chàng trẻ tuổi da mặt tái xanh thì đang hân hoan giảng giải những điều cần thiết một cách thản nhiên.
Vào lúc đó, lặng lẽ và hoàn toàn bị bỏ rơi, anh Meaulnes mở cuốn vở nháp, chau mày chăm chú giải một bài toán đố khó.
Trong khi mọi người đang mải mê thì tới giờ ra chơi. Bài chính tả chưa viết xong, lớp học rất là lộn xộn. Thật tình giờ chơi đã kéo dài cả buổi sáng rồi.
Lúc mười giờ rưỡi, khi sân chơi âm u và lầy lội đầy những học trò, người ta thấy ngay rằng đã có một người chỉ huy mới đang ngự trị trên các trò chơi.
Trong số những thú vui mà anh chàng bô-hê-miêng đem tới trường buổi sáng hôm đó, tôi chỉ nhớ có một trò chơi tàn nhẫn nhất: đó là cuộc đấu mà ngựa được thay bằng những học trò lớn, trên vai kiệu những học trò nhỏ.
Chia thành hai toán khởi hành từ hai góc sân, họ lao vào nhau, cố gắng đụng cho mạnh để đối phương phải ngã ra, những người cỡi trên lưng thì dùng khăn quàng làm thòng lọng, hoặc đưa cánh tay ra dùng làm giáo mác, cố gắng hất ngã đối phương xuống ngựa. Có bọn vì tránh để khỏi bị đụng mạnh thành mất thăng bằng, ngã sóng soài dưới bùn; anh cỡi ngựa bị anh làm ngựa lăn đè lên trên. Có những cậu gần ngã ‘ngựa’ nhưng được ‘ngựa’ đỡ kịp hai chân, lại hăng hái trèo lên và tiếp tục chiến đấu.
Cỡi trên lưng anh Delage có đôi tay đôi chân dài quá khổ, bộ tóc hung và hai tai vễnh, chàng kỵ mã thanh tú đầu quấn băng kín luôn miệng thôi thúc hai bọn đối thủ. Vi thái độ láu lỉnh, hắn vừa điều khiển ngựa vừa cười vang.
Đứng nơi cửa lớp học, ban đầu anh Meaulnes còn bực bội ngó theo trò chơi đó. Tôi phân vân đứng cạnh, hai tay thọc vào túi, miệng lẩm bẩm:
“Gã này ranh lắm. Tới đây ngay sáng nay để tránh khỏi nghi ngờ. Thế mà Monsieur Seurel cũng bị mắc lừa.”
Anh Meaulnes đứng im lúc lâu, đầu tóc ngắn đưa ra gió, rủa thầm chàng kép hát sắp đẩy những gã con trai-mà mới đây còn được anh cầm đầu-đập cho chết lẫn nhau. Tuy bản chất hiền lành, tôi không thể không đồng ý với anh.
Khắp nơi, ở mọi góc sân, trong khi vắng mặt ông thầy, cuộc đấu tiếp tục: những đứa thật bé cũng đua trèo lên lưng nhau; chạy theo nhau và ngã nhào trước khi đụng độ với đối thủ. Lát sau chỉ còn lại ở giữa sân một bọn còn đứng được, hăng hái quay cuồng, trong đám thỉnh thoảng lại ló ra cái đầu có quấn khăn trắng của anh đầu đàn mới.
Đến lúc này, không thể dằn được nữa, anh Meaulnes cúi xuống, đặt hai tay lên đùi và bảo tôi: “Xông vào đi, Francois!”
Dẫu ngạc nhiên vì quyết định bất ngờ đó nhưng tôi cũng không ngần ngại nhảy lên lưng anh và một giây sau chúng tôi đã ở giữa đám đang quần thảo, trong khi một số đông các chiến sĩ hoảng sợ vừa chạy vừa la:
“Anh Meaulnes kìa! Anh Meaulnes kìa!”
Giữa đám còn lại, anh Meaulnes quay tròn người bảo tôi: “Giang tay ra, túm lấy chúng nó như đêm hôm qua ấy.”
Hăng say vì cuộc đấu, tin chắc sẽ thắng thế, tôi tiện tay túm lấy bọn nhỏ làm cho chúng phải vùng vẫy, lắc lư một lát trên vai những anh lớn rồi mới rớt xuống bùn.
Thoáng một cái chỉ còn lại anh chàng mới tới ở trên vai Delage; nhưng anh ta không muốn giao đấu với anh Meaulnes nên đưa mạnh người hất ra phía sau rồi đứng thẳng lên, đẩy chàng kỵ mã xuống đất.
Tay đặt trên vai người làm ngựa, giống như một đại úy nắm hàm thiếc con ngựa của mình, chàng trẻ tuổi đứng dưới đất mà ngó anh Meaulnes với một vẻ có đôi chút kinh ngạc nhưng hết sức khâm phục. Hắn nói: “Vừa may!”
Ngay khi ấy, chuông vào lớp điểm vang làm cho bọn học trò đang xúm quanh chúng tôi như để chờ một vụ gì đáng xem lắm, phải tản mác đi hết. Anh Meaulnes, bực mình vì không hạ được kẻ thù rớt xuống đất, cáu tiết quay lưng lại nói: “Đợi lần sau sẽ biết!”
Lớp học tiếp tục cho tới trưa như thói quen thời gian gần nghỉ hè, thỉnh thoảng có xen vào những cuộc nói chuyện vui mà anh học trò kép hát là trung tâm điểm.
Hắn giải thích tại sao mà phải nán lại nơi đây. Vì không thể diễn trò vào buổi tối sợ không ai đến xem, hắn quyết định tới trường học cho khuây khỏa những lúc ban ngày, trong khi người bạn đồng hành chăm lo đàn chim lạ và con dê biết làm trò xiếc. Rồi hắn kể lại những chuyến đi quanh vùng với những lần khi mưa rơi như trút trên mái tôn cũ của chiếc xe thì mỗi khi đến chân dốc, bọn hắn phải nhẩy xuống để ghìm bánh xe lại. Bọn học trò ngồi ở cuối lớp đều bỏ chỗ tới gần nghe cho rõ. Những học trò không ưa phiêu lưu mấy thì chạy đến bên lò sưởi cho ấm. Nhưng rồi sự tò mò thúc đẩy, chúng cũng ghé lại gần đám nói chuyện vễnh tai nghe, một tay đặt trên lò sưởi để giữ chỗ.
Monsieur Seurel dõi theo câu chuyện với vẻ tò mò trẻ con của một thầy giáo thích hỏi chuyện: “Thế con sống ra sao?”
Chàng trẻ tuổi lưỡng lự một lát, dường như chưa bao giờ anh ta phải bận tâm vì chuyện đó, đáp: “Dạ bằng tiền chúng con kiếm được mùa thu trước, Ganache lo về việc tiền bạc.”
Không ai hỏi hắn Ganache là ai. Nhưng tôi nghĩ tới người to lớn tối hôm qua đã tráo trở tấn công anh Meaulnes phía sau lưng và hạ cho anh ngã.
Chương 4
Ở Đây Bàn Tới Vụ Trang Viện Bí Mật
Buổi chiều cũng đem lại những thích thú như vậy, và suốt giờ học, vẫn những lộn xộn trí trá như buổi sáng. Anh chàng bô-hê-miêng lại trình thêm nhiều bảo vật khác, vỏ ốc, món đồ chơi, bài hát mới và cả đến một chú khỉ con cào nhè nhẹ bên trong túi áo da của hắn… Mỗi lần anh chàng tinh ranh đó rút trong túi ra một món đồ chơi mới thì Monsieur Seurel vẫn cứ phải ngừng lại để ngắm nó. Tới bốn giờ chiều, chỉ mỗi anh Meaulnes là người duy nhất làm xong bài toán.
Mọi người không vội vã ra cửa. Dường như giữa những giờ học và giờ chơi đã không còn có cái ranh giới cứng rắn khiến cho đời học sinh trở thành đơn giản và ngăn nắp như sự tiếp diễn của đêm và ngày. Chúng tôi quên cả thói quen vào khoảng bốn giờ thiếu mười lại đề cử với Monsieur Seurel hai người tới phiên ở lại quét lớp. Thật ra chúng tôi không bao giờ quên vì đó cũng là một cách tuyên bố và đẩy cho mau tới giờ tan học.
Tình cờ dun dủi hôm ấy lại tới lượt anh Meaulnes; và từ ban sáng, tôi đã báo trước cho gã bô-hê-miêng biết rằng một cách tự nhiên, những người mới tới bao giờ cũng được chỉ định là người thứ hai giữ việc quét lớp ngay từ bữa đầu vào học.
Sau khi đã lấy mẩu bánh mì bữa chiều của mình, anh Meaulnes liền quay lại lớp. Còn anhchàng bô-hê-miêng thì để cho mãi đến lúc trời sắp tối mới vội vã chạy đến.
Trước đó, anh Meaulnes đã dặn tôi:
“Cậu cứ ở trong lớp; trong khi tôi giữ hắn, cậu lấy lại tấm bản đồ mà nó đã cướp của tôi.”
Vì vậy tôi ngồi ở một bàn nhỏ gần cửa sổ, đọc sách nhờ chút ánh sáng cuối cùng của ban ngày. Ngồi đó tôi thấy hai người lặng lẽ dẹp những ghế dài –anh Meaulnes vẻ mặt lầm lỳ, dữ tợn, cái áo khoác màu đen cài cả ba khuy ra phía sau có thắt dây lưng cẩn thận; gã kia thì nhẹ nhàng, nóng nảy, đầu quấn băng như người bị thương. Gã bận một chiếc áo khoác đã sờn, có những vết rách mà vào lúc ban ngày tôi không trông thấy. Hăng hái một cách gần như man rợ, gã hấp tấp nhấc lên, xô đẩy các bàn như người điên và hơi nhếch mép cười. Có thể là gã đang bày một trò chơi nào đó mà chúng tôi không hiểu rõ đầu đuôi.
Hai người cứ thế đi tới cuối góc phòng tối nhất để dẹp cái bàn cuối cùng.
Nơi đây anh Meaulnes chỉ vung tay một cái cũng đủ vật ngã địch thủ mà không một người nào ở ngoài có hy vọng nhìn được hay nghe thấy họ qua cửa sổ. Tôi không hiểu tại sao anh bỏ lỡ một cơ hội như vậy. Gã kia sắp trở lại gần cửa ra vào sẽ mượn cớ công việc đã xong để trong khoảnh khắc chạy đi, và bọn tôi sẽ không còn thấy gã trở lại. Bản đồ cùng hết thảy những chi tiết mà anh Meaulnes đã mất bao lâu để tìm tòi, so đọ, sắp đặt, sẽ mất toi đối với chúng tôi.
Từng giây, tôi chờ đợi một dấu hiệu, một cử chỉ của anh Meaulnes báo cho tôi biết cuộc tranh đua sắp bắt đầu, nhưng anh chàng cao lớn vẫn điềm nhiên như không. Chỉ đôi lúc với vẻ chăm chú lạ lùng pha phần thắc mắc, anh nhìn lớp băng quấn trên đầu anh chàng bô-hê-miêng trong bóng tối sắp tàn thấy dường như có loang một vết đen lớn.
Cái bàn cuối cùng được dẹp xong mà không có chuyện gì xảy ra.
Lúc cả hai trở lại đầu lớp để chuẩn bị quét mấy lát cuối cùng ngoài bậc cửa, đột nhiên anh Meaulnes cúi xuống, không ngó mặt kẻ địch, nói nhỏ:
“Băng quấn trên đầu anh đỏ những máu, quần áo anh bị rách hết.”
Gã kia nhìn anh một lát, không phải ngạc nhiên vì câu nói, nhưng vô cùng cảm động vì đã nghe anh nói vậy. Gã đáp:
“Ban nãy ở ngoài công viên bọn chúng nó tính giật lại từ tôi tấm bản đồ của anh. Khi biết tôi sắp trở lại đây quét lớp, chúng nó hiểu rằng tôi tính làm lành với anh cho nên nổi nóng với tôi. (Gã đưa ra tấm giấy quí báu gấp làm tư và hân hoan nói tiếp) Nhưng dù sao tôi vẫn giữ được cho anh.” Anh Meaulnes chậm rãi quay lại phía tôi, nói:
“Cậu nghe ra chưa, Francois? Anh ấy vừa đánh nhau, để chúng nó làm cho bị thương vì chúng mình, trong khi chúng mình tính đưa anh ấy vào bẫy.”
Rồi bỏ không dùng tiếng “anh” lạ tai đối với đám học trở ở Sainte-Agathe, anh Meaulnes tiếp: “Cậu là một người bạn chân chính.”
Và đưa tay ra. Chàng kịch sĩ nắm lấy tay anh, đứng lặng một giây không nói gì, điệu nghẹn ngào bối rối. Sau đó với một vẻ tò mò nồng nhiệt, chàng nói tiếp:
“Thế ra các anh định đưa tôi vào bẫy. Thú quá nhỉ! Tôi cũng đã đoán trước nên tự nhủ: họ sắp phải ngạc nhiên lắm khi lấy lại được bản đồ, lại còn thấy tôi ghi chú thêm cho đầy đủ…”
“Ghi chú thêm?”
“Ồ đây này. Không hoàn toàn đầy đủ…”
Rồi bỏ cái giọng đùa bỡn, chàng ghé lại gần chúng tôi, nói nghiêm trang và chậm rãi: “Meaulnes ạ, đã đến lúc tôi phải nói ra với anh: chính tôi cũng có tới cái nơi mà anh đã tới. Tôi có dự buổi hội thú vị đó. Khi bọn học trò lớn ở lớp kể cho tôi nghe cuộc phiêu lưu kỳ lạ của anh, tôi đã nghĩ ngay đó là trang viện bỏ hoang. Để coi lại xem có đúng không, tôi đã lấy cắp bản đồ của anh… Nhưng cũng như anh, tôi không biết tên tòa lâu đài đó; không biết lối trở lại đó; không biết rõ hết đường đi từ đây tới đó.”
Chúng tôi quấn lấy chàng một cách vồn vã với cái vẻ tò mò nồng nhiệt và bằng một tình bạn thắm thiết. Anh Meaulnes háo hức gạn hỏi… Cả tôi và anh đều cho rằng nếu nhiệt thành nài nỉ anh bạn mới, chúng tôi sẽ đẩy chàng tới chỗ nói ra hết những điều mà chàng bảo là không biết.
Chàng trẻ tuổi vẻ vừa chán nản vừa bối rối đáp:
“Các anh sẽ thấy, các anh sẽ thấy, tôi có ghi trên bản đồ mấy chi tiết mà các anh không có… Tôi chỉ có thể làm được như vậy.”
Rồi, nhìn thái độ hết sức cảm phục và sốt sắng của chúng tôi, chàng vừa buồn vừa đắc ý nói:
“Ồ! Tôi muốn dè chừng các anh rằng tôi không phải là một đứa con trai giống như mọi đứa khác. Ba tháng trước tôi đã bắn một phát đạn vào đầu, vì vậy các anh mới thấy lớp băng quấn trên trán tôi đây, y hệt một chàng vệ binh quốc gia lưu động ở quận Seine hồi 1870…”
Anh Meaulnes thân mật hỏi:
“Rồi chiều nay lúc đánh nhau với bọn chúng, vết thương cậu lại rỉ máu…” Nhưng chàng trẻ tuổi không lưu ý lời anh, tiếp tục bằng giọng tự mãn:
“Tôi muốn chết. Nhưng vì không chết được nên tôi tiếp tục sống cho vui, như một đứa trẻ nhỏ, như một người bô-hê-miêng chính cống. Tôi từ bỏ hết. Tôi không còn có cha, có chị, có nhà, có tình yêu chi nữa… Hết, chỉ còn những bạn chơi.”
Tôi nói:
“Nhưng những bạn chơi đó đã phản bội anh.” Chàng hăng hái đáp:
“Đúng thế. Lỗi do một thằng tên Delouche. Nó đoán rằng tôi sẽ ăn cánh với các anh, nên làm cho bọn đàn em của tôi lúc đầu rất ngoan ngoãn trở nên mất tinh thần. Đêm hôm qua các anh đã thấy vụ tấn công chứ, thật là khéo điều khiển, mọi sự gọn gàng diễn tiến. Từ nhỏ đến giờ tôi chưa từng tổ chức được một vụ nào có kết quả tốt như vậy…”
Chàng đứng im vẻ suy nghĩ trong một lúc, rồi nói tiếp, khiến cho chúng tôi hoàn toàn không còn lầm tưởng gì về chàng:
“Chiều nay tôi đến với các anh là vì một lý do mới nhận ra ban sáng: chơi với các anh thú hơn là với những đứa kia. Tên Delouche làm cho tôi chán quá. Mới mười bảy tuổi đã muốn làm người lớn! Không có gì làm cho tôi ghê tởm hơn điều ấy. Các anh có nghĩ rằng chúng mình có thể kéo nó lại được?”
Anh Meaulnes đáp:
“Được chứ. Nhưng anh có ở đây lâu với chúng tôi không?”
“Tôi không biết nữa. Tôi muốn lắm. Tôi cô độc quá. Tôi chỉ có một mình Granache.”
Bỗng chốc bao nhiêu sốt sắng, bao nhiêu vui vẻ nơi chàng biến mất. Trong khoảnh khác chàng lại chìm vào nỗi thất vọng của cái ngày mà chắc hẳn chàng chợt nẩy ý định tự sát. Chàng bỗng nói: “Các anh là bạn tôi nhé? Các anh thấy chưa: tôi biết rõ sự bí mật của các anh, tôi lại bảo vệ nó để chống cự với tất cả mọi người. Tôi có thể đưa các anh vào đúng những dấu vết mà các anh đã bị lạc mất…”
Rồi trịnh trọng tiếp:
“Xin hãy cứ là bạn tôi cho đến ngày nào mà tôi chỉ còn hai bước là tới địa ngục, như đã có một lần… Các anh hãy thề là sẽ đáp lời tôi khi nào tôi kêu gọi tới các anh –khi nào tôi kêu lên như thế này… (chàng phát ra một tiếng kêu quái lạ: Hú-u!...) Anh Meaulnes, anh hãy thề trước đi.”
Và chúng tôi đã thề, bởi vì, cho dù còn nhỏ tuổi, nhưng những gì quan trọng và đúng đắn hơn bình thường đều làm cho chúng tôi thật sự say mê. Chàng tuổi trẻ lại nói:
“Đáp lại, đây là tất cả những gì tôi có thể nói với các anh: tôi sẽ chỉ cho các anh biết căn nhà ở Paris mà cô gái ở tòa lâu đài thường có thói quen tới trú vào dịp lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống, vào mỗi tháng Sáu, đôi khi một phần trong vụ rét mùa đông.”
Lúc đó, trong đêm tối, có tiếng người lạ mấy lần gọi từ ngoài cổng lớn. Chúng tôi đoán chừng đó là người bô-hê-miêng Ganache không dám hay không biết làm sao đi vào trong sân. Tiếng gọi của hắn thôi thúc, lo lắng, lúc thì to, lúc lại thật nhỏ: “Hú-u! Hú-u!”
Anh Meaulnes la lên với chàng trẻ tuổi vừa giựt mình xốc lại áo để chạy đi: “Nói đi! Nói mau đi!”
Chàng tuổi trẻ vội đưa ra một địa chỉ ở Paris, chúng tôi thầm nhẩm lại. Rồi chàng chạy biến vào bóng tối theo người bạn đồng hành đang đợi ở ngoài hàng rào sắt, để chúng tôi ở lại trong một tình trạng bối rối không thể tả được.
Chương 5
Người Đàn Ông Mang Giày Vải
Khoảng ba giờ sáng đêm hôm đó, bà quả phụ Delouche, chủ quán ở giữa làng, thức dậy nhóm bếp. Người em chồng tên Dumas cũng ở chung nhà, phải lên đường lúc bốn giờ. Người đàn bà buồn rầu, bàn tay phải co quắp vì bị phỏng nặng đã lâu, tất tả lo pha cà phê ở dưới bếp tối thui. Trời lạnh giá. Bà khoác bên ngoài áo ngủ một tấm khăn quàng cũ. Rồi một tay cầm cây nến, một tay – bàn tay có tật—che ngọn lửa, bà sắn áo đi qua chỗ sân đầy những vỏ chai và thùng sà phòng, mở cửa nhà chứa củi còn dùng làm chuồng gà để lấy ít củi vụn. Cánh cửa vừa được đẩy ra bỗng có một chiếc mũ lưỡi trai vung lên bay vèo trong không khí, một người nào đó từ trong bóng tối đen nghịt vùng lên làm tắt ngọn nến, đồng thời hất ngã người đàn bà và co chân chạy mất trong tiếng kêu inh ỏi của đàn gà đang hoảng sợ.
Lát sau khi bà Delouche bình tĩnh lại mới nhận thấy người vừa chạy đó đã vác theo cái túi trong có hơn một chục con gà mái tơ tốt mã nhất.
Nghe tiếng bà chị dâu kêu, Dumas chạy tới. Ông ta nhận thấy tên trộm đã dùng chìa khóa giả mở cổng vào chỗ sân nhỏ, rồi cũng theo lối đó mà bỏ chạy, không kịp đóng cửa lại. Lập tức, vì đã quen với những trò đánh bẫy lén hay ăn trộm vặt, ông ta thắp ngọn đèn xe, một tay xách đèn, một tay vác cây súng, cố gắng dõi theo vết tích không rõ rệt –tên ăn trộm chắc là chân mang giày vải— đưa tới con đường về phía Nhà Ga rồi mất hút bên hàng dậu một khu đồng cỏ. Buộc phải ngưng cuộc dọ tìm tại đó, ông Dumas ngẩng đầu lên và đứng dừng lại… Từ xa xa, cũng trên con đường đó, có tiếng một chiếc xe đang phóng nước đại chạy trốn.
Phần Jasmin Delouche, con trai bà quả phụ, cũng trở dậy. Hắn trùm vội lên vai chiếc mũ, xỏ chân vào dép, chạy đi thám thính quanh phố. Mọi nhà đều ngủ kỹ, mọi vật đều chìm trong bóng tối im lặng nặng nề lúc trời sắp sáng. Đi tới công viên Quatre-Routes, cũng như ông chú, gã chỉ nghe thấy từ xa lắm, về phía đồi Riaudes, tiếng xe độc mã đang chạy tung cả bốn vó lên trời. Vốn trai trẻ ranh mãnh và tự đắc, gã tự nhủ, cũng như sau đó gã nhắc lại với cái giọng lè nhè rất khó chịu của vùng ngoại ô Montlucon:
“Bọn đó chạy mất về phía Nhà Ga rồi, nhưng không phải là ta sẽ không chộp được bọn khác ở đầu làng bên kia.”
Trong sự im lặng ban đêm đó, gã đi ngược trở lại phía nhà thờ.
Tại công viên Quatre-Routes, trong nhà lăn của mấy người bô-hê-miêng, gã thấy có ánh đèn sáng. Chắc hẳn có người đang bệnh. Sắp sửa tiến lại gần để hỏi xem chuyện gì, chợt gã thấy một cái bóng lặng lẽ, chân mang giày vải, từ khu Petits-Coins xuất hiện. Tên kia không nhìn ai hết, phóng nhanh tới chỗ bàn đạp và bước lên xe…
Nhận ra dáng Ganache, Jasmin vội chạy bổ về hướng ánh sáng và hỏi nhỏ: “Nào, có chuyện gì vậy?”
Ngơ ngác, tóc bơ phờ, cái miệng móm há ra trông ghê sợ, miệng thở hồng hộc, gã kia dừng lại nhìn Jasmin, đáp:
“Người bạn tôi đau... Chiều hôm qua hắn đánh lộn, vết thương lại chảy máu… Tôi vừa đi kiếm bà phước về.”
Thật vậy, khi quay trở về với tâm trạng hết sức nghi hoặc, Jasmin có gặp ở giữa phố một bà phước đang bước vội.
Sáng ra, nhiều người trong làng Sainte-Agathe ra đứng trước cửa với cặp mắt sưng và đục ngầu vì một đêm mất ngủ. Ai nấy đều lên tiếng trút nỗi bực tức của mình; sự công phẫn lan tràn khắp phố như một dây thuốc nổ.
Ở nhà Giraudat, người ta có nghe thấy vào khoảng hai ba giờ sáng, một chiếc xe đậu lại và có người vội vã chất lên xe những cái bọc rơi bịch bịch. Trong nhà chỉ có hai người đàn bà nên chẳng ai dám động đậy. Sáng ra, khi mở cửa vào chỗ sân nuôi gà vịt, họ mới hiểu những bọc đó chính là thỏ và gà, vịt…
Lúc giờ chơi thứ nhất, Millie tìm thấy ở trước chỗ giặt quần áo nhiều que diêm cháy dở. Mọi người kết luận rằng bọn trộm không biết rõ địa thế nhà tôi nên không vào được.
Ở nhà Perreur, nhà Clément và nhà Boujardon, ban đầu người ta tưởng chúng đã ăn trộm cả bầy heo, nhưng sáng ra lại tìm thấy heo đang phá những gốc sà-lách ở vườn. Các bầy heo được dịp cửa mở sẵn nên kéo nhau đi rong một chuyến trong đêm…
Hầu như khắp mọi nơi đều bị mất trộm gà; nhưng chỉ vậy thôi. Bà hàng bánh mì Pignot không chăn nuôi gia súc, than van suốt một ngày rằng có người ăn trộm mất của bà một cái bàn đạp và nửa cân chàm, nhưng việc này không hề được chứng minh, cũng không được ghi vào biên bản.
Vụ náo động, sợ hãi và chuyện vãn trao đổi tin tức kéo dài cả buổi sáng. Đến lớp, Jasmin kể lại cuộc phiêu lưu trong đêm tối của hắn:
“Chà, bọn chúng ranh lắm. Nếu chú tôi mà bắt gặp một thằng nào thì sẽ như ổng đã nói, nả cho nó một phát như bắn con thỏ vậy.”
Vừa nhìn chúng tôi hắn vừa nói tiếp:
“Cũng may là ổng không gặp Ganache, chứ nếu có, ổng dám bắn lắm. Ổng bảo chúng chỉ cùng một bọn, Dessaigne cũng nói thế.”
Dù vậy, không ai nghĩ tới điều làm phiền tới những người bạn mới của chúng tôi.
Mãi tối hôm sau nữa Jasmin mới nói cho ông chú biết Ganache cũng mang giày vải như tên trộm. Hai chú cháu đồng ý cần nên báo điều đó với hiến binh. Họ hết sức bí mật quyết định rằng nếu sắp tới đây mà có dịp nào rảnh, sẽ tới tổng lỵ báo cho ông đội biết điều đó.
Trong những ngày sau, chàng bô-hê-miêng trẻ tuổi bị đau vì vết thương lại chảy máu đôi chút, nên không thấy xuất hiện.
Buổi tối, anh Meaulnes và tôi tìm đến công viên nhà thờ chỉ để ngó thấy ánh đèn của chàng sau bức rèm màu đỏ trong cái nhà lăn. Vừa nóng nảy vừa hốt hoảng, chúng tôi cứ đứng im tại chỗ, không dám lại gần chiếc xe đã cũ mà chúng tôi xem giống như là con đường bí mật, hoặc là nơi tiền đường đưa tới cái Xứ Xa Xôi đã lạc mất rồi.
Chương 6
Một Cuộc Cãi Lộn Nơi Hậu Trường
Những ngày vừa qua, biết bao lo lắng và náo động khác biệt xảy ra đã khiến chúng tôi quên không lưu ý rằng tháng Ba đang tới và gió bắt đầu dịu bớt. Ngày thứ ba sau khi xảy ra vụ trộm vừa kể, buổi sáng ra sân, tôi chợt hiểu là đã sang Xuân. Một luồng gió mát lành như nước ấm chảy trôi trên đầu tường; cơn mưa đêm nhè nhẹ làm đẫm ướt những chùm lá thược dược; đất đã sới ở ngoài vườn thoảng lên một vị nồng nồng; tôi lại còn nghe thấy trong lùm cây bên cửa sổ, có con chim đang tập hót…
Ngay giờ ra chơi thứ nhất, anh Meaulnes đã bàn với tôi nên lập tức dọ thử lộ trình mà chàng học trò bô-hê-miêng đã chỉ. Tôi cố hết sức khuyên anh nên đợi gặp anh bạn, và để trời thật hoàn toàn đẹp trở lại, hãy chờ bao nhiêu cây đào ở Sainte-Agathe rộ nở hoa rồi hãy thực hành. Tựa lưng vào bức tường thấp nơi ngõ hẹp, hai tay đút túi, đầu để trần, chúng tôi trò chuyện trong cơn gió lúc thì làm cho cả hai rét run, lúc lại phả từng luồng ấm nóng làm khui dậy trong tim cả hai niềm háo hức sâu kín. Chao ơi! Hai anh em, hai người bạn, hay là hai lữ khách, cũng đều tin tưởng biết bao rằng hạnh phúc đã gần kề, chỉ cần lên đường là đạt được!...
Mười hai giờ rưỡi trưa, trong bữa ăn, mọi người nghe có tiếng trống dồn ở công viên Quatre- Routes. Trong nháy mắt tất cả đều chạy tới bục để chân ở cổng sắt nhỏ, tay cầm khăn ăn… Đó là Ganache đi loan báo tối hôm nay, hồi tám giờ, “vì trời đẹp”, sẽ có một buổi đại trình diễn ở công viên nhà thờ. Đề phòng trời mưa, đã có dựng lều sẵn. Tiếp theo là một chương trình dài những màn biểu diễn theo gió bay đi nhưng chúng tôi cũng mơ hồ nghe thấy những “hoạt cảnh… bài ca… vũ điệu trên lưng ngựa…” được xướng lên trong những tiếng trống điểm nhịp dập dồn.
Trong bữa ăn tối, tiếng trống lớn báo tin buổi trình diễn vang dội ngoài cửa sổ nhà tôi, làm cho kính cửa rung lên. Liền sau đó, cùng với tiếng nói chuyện rì rào là tiếng chân bước của từng nhóm nhỏ những người thuộc vùng ngoại ô, tiến về phía công viên nhà thờ. Bị buộc phải ngồi lại bàn ăn, anh Meaulnes và tôi đều tỏ ra nao nức mong đợi.
Sau cùng, tới chín giờ, có tiếng chân lệt xệt và tiếng cười bị nén lại bên ngoài cổng sắt nhỏ: các cô giáo tới rủ chúng tôi đi. Trong bóng tối đã dầy, cả bọn cùng kéo nhau đến nơi trình diễn. Từ xa đã thấy tường nhà thờ sáng trưng như có đốt một ngọn lửa lớn. Hai ngọn đèn dầu hỏa thắp sáng trước cửa căn nhà lăn đang đu đưa trước gió…
Bên trong, ghế ngồi được xếp đặt thành nhiều tầng như trong rạp xiếc. Ông Seurel, các cô giáo, anh Meaulnes và tôi đều ngồi trên hàng ghế thấp nhất. Tôi còn nhớ, chật hẹp như trong rạp xiếc thật với những khu bóng tối, ở đó ngồi thành từng lớp có bà Pignot bán bánh mì, cô hàng xén Fernande với các cô gái ở ngoài phố, người thợ đóng móng ngựa, các bà, bọn trẻ nhãi, những nông dân và nhiều người khác.
Buổi diễn đã khởi sự tới quá nửa. Ở chỗ sân diễn, con dê cái biết làm trò đang ngoan ngoãn đặt chân lên bốn cái ly, rồi lên hai ly, sau cùng lên mỗi một ly. Ganache nhẹ nhàng điều khiển con vật, tay cầm chiếc đũa nhỏ gõ từng tiếng mỏng, miệng mở rộng, hai con mắt lạc hẳn tinh thần.
Ngồi trên ghế đẩu, gần hai ngọn đèn treo, chỗ sân diễn ăn thông với xe lăn, chúng tôi nhận ra anh bạn mới mình bận áo nịt đen, đầu quấn băng trắng đang là người chỉ huy buổi diễn.
Ai nấy vừa ngồi xuống thì một chú ngựa con nai nịt hẵn hòi nhẩy ra sân diễn. Chàng trẻ tuổi bị thương sai khiến con vật chạy vài vòng, rồi bao giờ cũng ngừng lại trước mặt những người trong gia đình tôi khi nó phải chỉ trong đám khán giả xem ai là người dễ thương nhất hoặc can đảm nhất; rồi khi phải khám phá ra người nói dối nhất, keo kiệt nhất hay là “đa tình nhất”… thì bao giờ nó cũng ngừng lại trước mặt bà Pignot. Thế là chung quanh bà ta nổi lên những tiếng cười, tiếng la, tiếng gào quang quác giống như một bầy ngỗng đang bị chó rượt chạy đi…
Lúc tạm ngừng, người chỉ huy cuộc diễn tới trò chuyện một lát với Monsieur Seurel. Giá có dịp nói chuyện với cô đào Talma hay kép hát Léonard nổi danh, Monsieur Seurel cũng không thấy đắc ý bằng. Còn chúng tôi thì mải mê chăm chú nghe những lời chàng nói về vết thương: đã lành lại rồi; về buổi diễn: đã được sửa soạn trong những ngày mùa đông dài đặc; về ngày khởi hành của chàng: chắc không thể trước cuối tháng vì họ tính từ nay cho đến đó còn trình diễn nhiều buổi với nhiều trò mới lạ nữa.
Buổi diễn kết thúc bằng một trò kịch câm dài. Sắp hết đoạn tạm nghỉ, anh bạn của chúng tôi cáo lui. Muốn trở về chỗ cửa xe, anh phải đi ngang một bọn đang đứng tràn ra ngoài sân diễn, giữa đám thấy có Jasmin Delouche. Các bà các cô đều tránh sang một bên nhường chỗ. Bộ áo đen, vẻ người bị thương, kỳ dị và can đảm của chàng khiến cho họ thấy mê. Còn Jasmin, hình như gã mới đi đâu về, đang nói nhỏ với bà Pignot ra vẻ hăng hái lắm. Xem ra gã ưa thích sợi dây buộc cổ, và cái quần ống chân voi làm cho gã trông bảnh bao hẳn. Dáng điệu vừa hợm hĩnh vừa lúng túng, gã đứng, móc hai ngón tay vào ve áo. Khi chàng bô-hê-miêng đi ngang qua gã, vẻ bực tức, gã nói lớn với bà Pignot một câu gì tôi không nghe rõ, nhưng chắc chắn là một câu chửi, một lời khiêu khích ám chỉ anh bạn. Có lẽ đó là một lời đe dọa nặng nề và bất ngờ nên chàng trẻ tuổi không thể không quay lại ngó gã kia. Gã này muốn khỏi lúng túng nên cười gằn và lấy khuỷu tay thích vào hai người ngồi bên như để kéo họ về phe với mình. Việc đó xảy ra trong vòng có mấy giây. Hình như chỉ một mình tôi ở hàng ghế này là để ý thấy mà thôi.
Người chỉ huy buổi diễn quay vào với đồng bạn ở phía sau tấm màn che kín cửa nhà lăn. Ai nấy về chỗ của mình trên các tầng ghế. Tin rằng phần thứ hai của buổi diễn sắp bắt đầu ngay đó nên mọi người đều im lặng. Trong khi ấy, ở sau tấm màn, lúc những tiếng nói chuyện xì xào bên ngoài bắt đầu ngớt thì bỗng có tiếng cãi cọ nổi lên. Chúng tôi không nghe được lời gì, nhưng nhận ra giọng nói của chàng thanh nên và gã Ganache cao lớn. Giọng Ganache mang âm điệu biện bác; còn giọng kia thì mắng mỏ, vẻ vừa giận dữ vừa buồn nản. Giọng đó nói:
“Đồ khốn kiếp! Tại sao không cho ta biết trước…”
Tuy mọi người đều lắng tai nhưng chúng tôi không nghe rõ đoạn sau. Rồi im lặng hẳn. Cuộc cãi lộn tiếp tục rất nhỏ; bọn trẻ nhãi ở những hàng cao bắt đầu la lớn:
“Bật đèn, mở màn!” Và đập mạnh chân.
Chương 7
Chàng Bô-Hê-Miêng Tháo Băng Ra
Sau cùng, lách qua tấm màn là một bộ mặt chi chít những vết nhăn, đầy những vết tròn như bị đóng dấu, vẻ căng thẳng trong sự vui tươi pha lẫn buồn thảm, thân hình trang phục kiểu Pierrot chia làm ba phần không đều, bụng gập lại như đang trong cơn đau, chân đi nhón gót, vẻ thận trọng và như sợ hãi quá đáng, hai bàn tay trong hai ống tay áo quá dài kéo lê trên sàn diễn.
Tôi không thể hồi tưởng lại đầy đủ đề tài của tấn kịch câm, mà chỉ nhớ, vừa xuất hiện trên sân khấu, anh chàng đã ngã nhoài ra sau khi cố gắng hết sức để đứng thẳng người. Ráng mãi vẫn không được, anh ta lại cứ té lên té xuống; liền một lúc vướng luôn vào bốn cái ghế, kéo thêm một cái bàn mới vừa đem đặt ở giữa sân. Rốt cuộc anh ta té nhào ra ngoài hàng gỗ ngăn, xuống ngay gần chân khán giả. Hai người phụ diễn phải khó khăn lắm mới kiếm thấy; ra sức nắm chân anh ta lôi lên sân khấu, xong khó nhọc lắm mới đặt cho đứng thẳng được. Cứ mỗi lần ngã là anh ta lại cất tiếng kêu nho nhỏ, mỗi lần kêu một khác, nghe rất khó chịu. Khi kết thúc, anh ta leo lên một mớ ghế chồng cao rồi té nhào, rất chậm, miệng phát ra tiếng la kéo dài cùng với nhịp té, nghe vừa hân hoan the thé mà cũng rất thảm thương, khiến cho các bà cũng kinh hoảng la theo.
Trong phần thứ hai của tấn kịch câm, tôi nhớ lại, tuy vẫn không hiểu lý do vì sao, “anh chàng Pierrot đáng thương hay té sấp” bỗng rút ra từ trong tay áo một con búp bê nhỏ nhồi cám và cùng với con búp bê diễn một màn hài kịch câm. Sau cùng, anh ta bóp trọn bao nhiêu cám trong người nó phụt hết ra miệng. Xong, vừa cất lên những tiếng kêu thảm hại, anh ta vừa nhét đầy cháo lỏng vào ruột con búp bê. Vào đúng lúc mọi người ai nấy đều đang há hốc miệng, mắt chăm chú dán vào đứa con gái nhỏ nhầy nhụa và thủng ruột của anh chàng Pierrot đáng thương thì anh ta chợt giơ tay vung con búp bê lên và liệng thật mạnh vào mặt Jasmin Delouche. Nhưng con búp bê chỉ làm ướt được một bên tai gã kia, rồi văng qua nằm xẹp trên bụng bà Pignot sau khi đụng phải phía dưới cằm bà ta. Bà hàng bánh mì thốt lên tiếng la kinh hãi, né người về đằng sau. Các bà ngồi cạnh cũng né tránh như vậy khiến cho chiếc ghế dài gãy làm đôi. Thế là cô hàng xén Fernande, bà góa phụ buồn rầu Delouche với hai chục khán giả khác nữa cũng ngã xuống, hai chân đưa lên trời, giữa những tiếng la, tiếng cười và tiếng vỗ tay. Trong khi đó anh hề cao lớn cũng ngã nằm rạp xuống đất, xong đứng lên cúi chào và nói:
“Thưa quí ông, quí bà, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.”
Ngay lúc đó, giữa sự ồn ào vang dậy, anh Meaulnes từ đầu tấn tuồng câm vẫn nín lặng và càng lúc càng tỏ ra chăm chú, chợt đứng lên nắm lấy tay tôi, la to bằng cái giọng không thể đè nén nổi:
“Coi kìa, coi kìa, chàng bô hê-miêng! Tôi nhận ra rồi.”
Dường như từ lâu lắm, trong đầu tôi, cái ý tưởng đó cũng được ấp ủ một cách vô ý thức và chỉ chờ dịp phát lộ, nên trước khi kịp nhìn ra thì tôi đã đoán rõ mọi việc. Đứng gần một ngọn đèn ở lối bước lên xe, chàng trẻ tuổi kia đã gỡ cuốn băng quấn trên mặt và khoác lên vai chiếc áo choàng. Trong ánh đèn ám khói, giống như hồi nào dưới ánh sáng ngọn nến trong căn phòng ở nơi trang viện, thấy xuất hiện một gương mặt rất thanh tú, mũi rất cao, và không có râu. Nước da tái xanh, đôi môi hé mở, anh ta đang vội vã lật từng trang cuốn sách nhỏ bìa đỏ, có lẽ một cuốn bản đồ bỏ túi. Ngoại trừ vết thương nằm ngang thái dương lẩn vào mái tóc rậm, tôi tin chắc đó chính là anh chàng chú rể nơi trang viện xa xôi, như đã được anh Meaulnes cặn kẽ tả cho nghe.
Rõ ràng anh ta cố tình gỡ băng quấn đầu ra cho chúng tôi nhận diện. Nhưng, vừa lúc anh Meaulnes đứng bật dậy và thốt la với tôi thì chàng trẻ tuổi bước vào trong xe sau khi đã đưa mắt ngó lại chúng tôi, vẻ thông cảm, và mỉm cười; cái cười phảng phất một chút buồn, như chàng vẫn thường mỉm cười như vậy.
Anh Meaulnes nóng nảy nói:
“Còn người kia, tại sao ta không nhận ra ngay. Đúng là anh chàng Pierrot trong đám hội ở đó…”
Anh bước xuống để chạy lại gần. Nhưng Ganache đã ngăn hết mọi lối thông với sân diễn; rồi lần lượt tắt cả bốn ngọn đèn trong rạp, nên chúng tôi buộc phải từng bước một theo sau dòng người tiến lên rất chậm giữa hai dãy ghế dài, trong bóng tối, tâm trạng vô cùng sốt ruột.
Sau cùng khi ra được bên ngoài, anh Meaulnes vội chạy lại chỗ xe đậu, bước lên bục gỗ, gõ vào cánh cửa, nhưng cửa đã đóng kỹ. Ý hẳn trong chiếc xe có kéo rèm, cũng như bên xe chở con ngựa nhỏ, con dê con và mấy con chim biết làm trò xiếc ai nấy đều đã rút về để bắt đầu giấc ngủ yên.
Chương 8 Có Cảnh Binh!
Anh Meaulnes và tôi đành phải theo đám các ông các bà đang bước trên những con đường tối tăm trở về trường. Lần này chúng tôi đã hiểu rõ hết. Cái bóng trắng cao lớn mà anh trông thấy trong đêm tan hội, thoăn thoắt chạy giữa những hàng cây đúng là Ganache; khi ấy hắn vừa đón được chú rể hụt và cùng với cậu ta trốn đi. Cậu ta chấp nhận cuộc sống lang thang đầy nguy hiểm, nhiều trò vui và phiêu lưu này, coi như bắt đầu lại thời kỳ niên thiếu của mình.
Cho tới lúc bấy giờ, Frantz de Galais vẫn giấu không cho chúng tôi biết tên và làm bộ như không biết lối đi về trang viện, ý hẳn anh sợ phải bắt buộc quay lại với cha mẹ. Nhưng tại sao đêm nay bỗng dưng anh muốn lộ diện với chúng tôi và để cho chúng tôi đoán biết hết sự thật?
Trong khi bước theo dòng khán giả từ từ trôi qua trên phố, anh Meaulnes đã nghiền ngẫm bao nhiêu dự tính. Anh định sáng sớm mai thứ Năm, sẽ tới kiếm Frantz. Rồi cả hai cùng đi tới đó. Một chuyến đi trên con đường còn đẫm sương ướt! Frantz sẽ giải thích rõ hết; mọi sự sẽ thu xếp xong và cuộc phiêu lưu kỳ diệu sẽ tiếp tục đúng chỗ bị gián đoạn…
Về phần tôi đi giữa bóng tối mà trong lòng nghe rung cảm lạ thường. Mọi sự nhập lại khiến tôi thêm vui, từ nỗi vui nhè nhẹ đợi chờ ngày mai thứ Năm cho tới cuộc khám phá lớn vừa xảy ra, luôn cả sự may mắn lạ lùng chúng tôi vừa bắt gặp. Tôi còn nhớ, khi đó trong lòng bỗng dưng cởi mở, tôi bước lại gần cô con gái xấu nhất trong số con gái nhà ông quản lý văn khế mà thỉnh thoảng tôi vẫn bị buộc phải dẫn cô ta đi bên cạnh, và tự nhiên đưa tay ra cho cô ta vịn.
Kỷ niệm chua chát làm sao! Hy vọng vô cớ và bị chà đạp làm sao!
Sáng hôm sau, mới tám giờ, khi tới công viên nhà thờ với đôi giày đánh xi rất kỹ, khóa thắt lưng bóng loáng và cái mũ lưỡi trai mới, thì anh Meaulnes --từ nãy mỗi khi ngó tôi vẫn cố giữ không mỉm cười-- bỗng la lên một tiếng và chạy bổ về phía công viên bỏ trống. Chỗ dựng rạp và đậu xe, nay chỉ còn một cái bình vỡ và mấy nắm giẻ rách. Bọn người bô-hê-miêng đã bỏ đi rồi.
Một luồng gió nhẹ lướt qua khiến tôi cảm nghe lạnh giá. Tưởng như cứ mỗi bước đi là chúng tôi sẽ vấp phải nền đất sỏi nơi công viên và sẽ ngã. Anh Meaulnes vẻ hốt hoảng, hai lần toan vùng chạy, lần đầu về phía đường đi Vieux-Nancay, lần sau về phía đường Saint-Loup-des-Bois. Anh đưa bàn tay lên che mắt, thoáng hy vọng rằng bọn người của chúng tôi mới vừa đi khỏi. Nhưng biết làm sao? Trên công viên có tới cả chục vết xe lộn xộn và tan mờ mất khi ra tới đường đá cứng. Đành vô phương mà đứng đó.
Trong khi quay trở về, đi qua làng vào lúc bắt đầu buổi sáng một ngày thứ Năm thì chúng tôi thấy bốn viên cảnh binh, đêm hôm qua đã được Delouche đến báo, phóng ngựa tới công viên rồi tỏa ra các phố để ngăn hết mọi lối thoát, giống như một đoàn kỵ binh tới thám thính trong làng. Nhưng đã chậm quá rồi. Anh chàng ăn trộm gà Ganache đã cùng người đồng bạn bỏ trốn mất. Cảnh binh chẳng kiếm được Ganache lẫn những người đã chất lên xe những con gà bị vặn cổ. Kịp thời được báo trước do câu nói trống trải của Jasmin, Frantz chắc bỗng nhiên hiểu ra bằng cách nào mà người đồng bạn và anh ta vẫn sống được vào những khi hòm tiền trong xe rỗng không; nên vừa xấu hổ vừa tức giận, anh liền quyết định một lộ trình và đào tẩu trước khi cảnh binh tới. Rồi không còn sợ có người sẽ kiếm cách bắt về nơi trang viện, anh đã cho chúng tôi thấy bộ mặt không băng bó trước khi biến mất.
Chỉ còn một điểm vẫn tối mò: làm sao Ganache vừa vét sạch các sân nuôi gia cầm lại vừa đi mời được bà phước tới săn sóc cho bạn? Phải chăng đó là tất cả bộ mặt thật của con người đáng thương ấy? Một mặt chuyên môn trộm cắp, lang thang, một mặt lại là kẻ có lòng, tốt bụng.
Chương 9
Đi Tìm Con Đường Cũ
Mặt trời đã đánh tan màn sương mỏng buổi sáng khi chúng tôi về tới nhà: các bà nội trợ đứng trên bực thềm rũ thảm hay chuyện vãn; một buổi sáng mùa xuân rạng rỡ nhất còn lưu lại mãi trong ký ức tôi đang bắt đầu trải dài ở ngoài đồng và trong cánh rừng nơi đầu làng.
Buổi sáng thứ Năm hôm đó, tất cả các học trò lớn đều phải tới trường lúc tám giờ để lo sửa soạn, anh thì được cấp bằng Cao Học, anh khác nhận đơn thi vào trường Sư Phạm. Khi hai chúng tôi về đến nhà, Meaulnes trong trạng thái xúc động mạnh vì luyến tiếc và bồn chồn thôi thúc, còn tôi rất là ủ rũ, thì ngôi trường đã vắng tanh… Một tia nắng mới chiếu trên chiếc ghế mốc và trên lớp men đã rạn nứt của một trái cầu.
Làm sao có thể ngồi yên trước cuốn sách để nghiền ngẫm nỗi niềm thất vọng trong khi biết bao nhiêu thứ đang réo gọi bên ngoài: bầy chim đuổi nhau trên các cành cây bên cửa sổ, những học trò khác đã bỏ trốn vào rừng hay ra ngoài đồng, và nhất là ý muốn lập tức thử lộ trình thiếu sót mà anh chàng bô-hê-miêng đã soát lại –ván bài cuối cùng trong cái túi đã gần rỗng tuếch, chiếc chìa khóa còn lại duy nhất sau khi đã thử hết với mọi cái khác rồi… Điều ấy quả thật vượt quá sức chịu đựng của chúng tôi! Anh Meaulnes cứ bước tới bước lui, xong đến bên cửa sổ nhìn ra vườn rồi quay trở lại đứng ngó về phía làng như thể đang mong đợi người nào chắc chắn sẽ không tới. Sau cùng anh bảo tôi:
“Tôi nghĩ có lẽ chẳng xa lắm như mình vẫn tưởng. Frantz đã xóa bỏ trên bản đồ cả một đoạn đường mà tôi đã vẽ. Như vậy có nghĩa là trong khi tôi chợp ngủ, con ngựa chắc đã đi một vòng vô ích.”
Tôi ngồi ghé vào một góc bàn lớn, một chân thả xuống đất, một chân đu đưa, vẻ chán nản, rỗi rãi, đầu cúi xuống, góp ý:
“Nhưng khi trở về trên chiếc xe có thùng kín anh cũng mất cả một đêm.” Anh Meaulnes vội đáp:
“Chúng tôi ra đi lúc đã khuya. Tới bốn giờ sáng người ta thả tôi xuống ở chỗ cách Sainte- Agathe chừng sáu cây số về phía tây, trong khi con đường đưa tới nhà ga mà tôi đã khởi hành thì lại hướng về phía đông. Vậy phải trừ bớt sáu cây số trên đường đưa từ Sainte-Agathe tới cái xứ xa lạ đó. Tôi gần như tin chắc rằng nếu đã ra khỏi rừng Communaux thì ta sẽ cách cái nơi muốn kiếm không quá hơn hai dặm đâu.”
“Thì chính hai dặm đường đó không có vẽ trên bản đồ.”
“Đúng thế. Từ đây tới chỗ ra khỏi rừng cách xa một dặm rưỡi, nhưng đối với một người cuốc bộ khỏe có thể trong một buổi sáng cũng đi đến được.”
Vừa lúc đó Moucheboeuf xuất hiện. Gã có cái thói rất khó chịu là lúc nào cũng cứ muốn tỏ ra mình là người học trò tốt, không phải vì gã chăm học hơn kẻ khác, mà chỉ bằng cách làm sao cho mình nổi bật lên trong những dịp như thế này.
Gã hân hoan nói:
“Tôi đã biết sẽ chỉ gặp có mỗi hai cậu. Tất cả bọn kia đều đã đi vào rừng Communaux hết.
Cầm đầu là Jasmin Delouche, nó biết những nơi có tổ chim.”
Muốn tỏ ra là người kiểu mẫu, gã bắt đầu kể lại hết những lời bọn kia đã nói khi chúng tỏ ý vì muốn chọc tức cả trường --Monsieur Seurel và hai chúng tôi-- nên mới quyết định bỏ lớp kéo nhau đi như vậy.
Anh Meaulnes nói:
“Nếu bọn họ ở trong rừng, có lẽ dọc đường tôi sẽ gặp vì tôi cũng sắp đi đây. Chừng mười hai giờ rưỡi tôi sẽ về.”
Moucheboeuf chưng hửng.
Anh Meaulnes ngừng lại một giây trên bực cửa đã hé mở và hỏi tôi: “Cậu không đi sao?”
Một luồng gió ấm áp bởi ánh mặt trời thổi vào phòng theo cánh cửa mở cùng với tiếng ríu rít, tiếng gọi nhau, tiếng chiêm chiếp, tiếng gầu nước chạy trên miệng giếng và tiếng một ngọn roi vút từ xa.
Tuy rất thèm đi, tôi vẫn đáp:
“Không. Tôi không đi được vì sợ Monsieur Seurel la. Nhưng anh đi mau lên nhé, tôi mong anh về ghê lắm đấy.”
Anh khoát tay ra dấu vội vàng, vẻ hăm hở đầy hy vọng.
Khoảng mười giờ, khi đến lớp, Monsieur Seurel đã thay cái áo ngoài màu đen vải anpaga bằng một chiếc áo rộng kiểu đi câu có những cái túi cài khuy rất to, đầu đội mũ rơm, chân mang đôi ghệt ngắn bằng da láng bó chẽn. Tôi tin rằng ông không ngạc nhiên khi chẳng thấy ai trong lớp. Ông cũng không lắng nghe Moucheboeuf ba lần mách rằng bọn kia đã nói: “Nếu ông ấy cần bọn tôi thì ông ấy tới đây mà kiếm.”
Monsieur Seurel ra lệnh:
“Xếp sách vở lại, lấy mũ đội rồi mình đi kiếm bọn chúng. Francois có thể đi bộ tới đó được không?”
Tôi nói rằng được và chúng tôi cùng đi.
Hẳn nhiên là Moucheboeuf dẫn đường và làm còi nhử cho ông Seurel. Tức là gã biết rõ những khu rừng mà bọn đi bắt chim đang trốn. Thỉnh thoảng gã lớn tiếng hỏi:
“Hấp! Hấp! Giraudat! Delouche! Các người ở đâu thế? Có tìm được gì không? Bắt được nhiều chim không?”
Phần tôi, tâm trạng thích thú, lại được ông Seurel cử đi men theo cánh rừng để phòng trường hợp có đứa trốn học nào lẻn ra phía đó.
Trong bản đồ mà anh chàng bô-hê-miêng đã sửa lại và tôi cùng với anh Meaulnes nghiên cứu mãi, dường như có một con đường đất vẽ bằng một gạch đen, đi từ bìa cánh rừng này về phía trang trại. A! Giá mà tôi khám phá ra nó sáng hôm nay!...
Tôi bắt đầu tin tưởng rằng trước mười hai giờ trưa tôi sẽ tìm ra lối đi tới tòa trang viện cổ.
Thật là một cuộc dạo chơi kỳ thú! Liền sau khi qua khu Bãi Phẳng và đi vòng quanh Nhà Cối Xay, tôi tách khỏi hai bạn đồng hành: Monsieur Seurel với cái vẻ như đang đi tác chiến –tôi chắc thế nào ông cũng bỏ trong túi cây súng lục đã cũ—và gã Moucheboeuf tâm địa phản trắc.
Rẽ vào một con đường ngang, lát sau tôi tới ven rừng. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra mình
đang ở một mình giữa đồng ruộng, giống như một anh lính đi dò thám bị lạc mất đơn vị chỉ huy.
Tôi tưởng tượng mình đang sắp sửa đạt tới cái hạnh phúc mà anh Meaulnes đã có lần thấp thoáng gặp. Cả một buổi sáng là của riêng tôi, tha hồ thám hiểm ven rừng, nơi mát mẻ và kín đáo nhất trong vùng, trong khi người anh lớn của tôi cũng đang tìm kiếm. Nơi đây như thể là một giòng suối đã cạn. Tôi chui qua dưới những cành cây không biết tên nhưng đoán là cây trăn; nhảy qua một khúc chắn ở đầu đường mòn và đi vào một con đường mọc toàn cỏ xanh chảy trôi dưới tàng lá, thỉnh thoảng giẫm phải những bụi gai hay đạp lên những bụi hoa nữ lang mọc cao.
Đôi khi chân tôi giẫm vài bước lên nền cát mịn. Trong tĩnh mịch, nghe có tiếng chim –có lẽ họa mi, nhưng cũng có thể tôi lầm vì họa mi chỉ hót vào buổi chiều. Con chim cứ nhắc đi nhắc lại mãi một điệp khúc: tiếng nói của ban mai, tiếng nói dưới bóng mát, xin mời đi dạo giữa những gốc trăn. Không trông thấy nhưng luôn luôn có mặt, nó cứ theo sát bên tôi dưới tàng lá.
Lần thứ nhất, tôi cũng đang đi trên con đường phiêu lưu. Không phải là những vỏ ốc mà tôi đang tìm kiếm dưới sự chỉ dẫn của Monsieur Seurel, không phải những cây tướng quân mà chính ông giáo cũng không biết; cũng không là cái giếng sâu đã cạn nước bên trên có phủ tấm phên và bị vùi lấp dưới đám cỏ rậm đến nỗi cứ mỗi lần đi qua lại càng thấy khó kiếm hơn nữa, như cái giếng chúng tôi vẫn thường gặp trong cánh đồng nhà ông Martin;... mà tôi đi tìm một cái gì còn bí mật hơn nhiều. Đó là con đường cũ đã mất dấu trong sách thường nói đến mà vị hoàng tử đi đã mỏi đừ đôi chân vẫn chưa tìm thấy lối. Thế rồi vào cái giờ thong thả nhất của buổi sáng, mười một hay mười hai giờ không biết… bỗng nhiên, rẽ những cành lá um tùm, cử chỉ lờ lững, hai tay đưa lên ngang mặt, hốt nhiên người ta thấy lù lù hiện ra con đường u tối kéo dài đến tận mút xa bằng một khung sáng tròn nhỏ xíu.
Trong khi đang hy vọng và say sưa như vậy thì tôi chợt bước vào một khu rừng thưa, thật ra chỉ là một cánh đồng cỏ. Không dè đã tới bìa cánh rừng Communaux mà tôi vẫn tưởng hãy còn xa lắm. Bên tay mặt, giữa một đống khúc cây, là nhà của ông gác, có tiếng vang vang dưới bóng mát. Trên khung cửa sổ phơi hai đôi tất dài. Nhiều năm trước, mỗi khi đi tới ven rừng, bao giờ chúng tôi cũng chỉ tay về vùng ánh sáng ở cuối con đường đầy bóng tối mà nói: “Đằng kia là nhà của ông gác Baladier.” Nhưng chưa bao giờ chúng tôi đi tới tận nơi ấy. Đôi khi nghe có người nói: “Nó đã đi mãi tới nhà ông gác đấy” thì tưởng như kẻ nào đó đã làm một cuộc mạo hiểm ghê gớm.
Vậy mà lần này tôi đi tới tận nhà ông Baladier nhưng chẳng thấy gì hết.
Tôi bắt đầu đau ở đôi chân mỏi và cảm nghe khó chịu vì trời nóng mà từ nãy đã không lưu ý. Đang e ngại sẽ phải một mình trở về thì nghe thấy còi nhử của ông Seurel, tức là giọng của Moucheboeuf, rồi nhiều giọng khác nữa, gọi tôi…
Một bọn 6 gã con trai lớn –mà chỉ riêng gã phản phúc Moucheboeuf là ra vẻ tự đắc-- Giraudat, Auberger, Delage và nhiều gã khác, đang đứng ở đó… Nhờ tiếng còi nhử nên bọn này đã bị bắt, kẻ thì đang một mình trên cây anh đào dại giữa khoảng rừng thưa, kẻ thì đang bắt những tổ chim gõ mõ. Anh chàng khùng Giraudat mắt lúc nào cũng híp, bận cái áo ngoài rất bẩn, giấu mấy con chim non trong áo ngay trước bụng. Thấy Monsieu Seurel tới, hai gã trong bọn bỏ chạy mất: đích thị là Delouche và thằng nhỏ Coffin. Ban đầu bọn chúng còn đáp lời Mouchebouef bằng cách la to cái tên anh ta thành ra “Mouchevache!”(*) vang dội trong rừng. Anh này tin chắc là sẽ bắt được họ bèn tức giận đáp:
(*) Trong Pháp ngữ, Vache có nghĩa là “Con bò cái”, cũng còn là một tiếng chửi, có nghĩa “đồ đểu”. Và “Boeuf” nghĩa là “Con bò đực” Đám học trò đọc trại tên Moucheboeuf thành a “Mouchevache” để chửi anh chàng phản phúc.
“Này, các cậu xuống hết đi, Monsieur Seurel đã đến đó.”
Thế là mọi người bỗng im bặt, rồi lặng lẽ lủi vào rừng. Bọn họ thuộc hết mọi lối đi, nên đừng mong nghĩ tới chuyện chạy theo lùng bắt lại. Mặt khác, không ai biết anh Meaulnes đi lối nào. Không ai nghe tiếng nói anh ở đâu; sau cùng mọi người thôi không tìm nữa.
Trời đã quá trưa khi chúng tôi trở về Sainte-Agathe, mệt mỏi, lấm lem những đất, đầu cúi xuống, bước đi chậm chạp. Nắng bắt đầu gắt sau khi chúng tôi đã ra khỏi rừng và rũ sạch trên mặt đường khô những bùn bám vào gót giầy. Bây giờ không còn là buổi sáng mùa xuân mát mẻ, rực rỡ nữa. Những tiếng động buổi chiều đã vang lên. Xa xa về phía các nông trại trơ vơ bên đường, một con gà cất tiếng gáy đơn độc. Khi đi xuống chỗ Bãi Phẳng, chúng tôi ngừng lại một lát để trò chuyện với các chú nông phu đang bắt tay làm việc trở lại sau bữa nghỉ ăn trưa. Họ đứng tựa lưng vào hàng giậu nghe Monsieur Seurel nói:
“Thật đúng là một bọn nhãi ranh! Này các chú thử trông thằng Giraudat kìa. Nó giấu chim non vào trong bọc. Lũ chim tha hồ bĩnh ra bụng nó. Giỏi thật!”
Đám nông phu phì cười, tôi có cảm tưởng họ còn cười nhạo cả sự thất bại của tôi. Họ vừa cười vừa lắc đầu, ra vẻ như không hoàn toàn chê trách bọn trai trẻ mà họ đều quen biết. Khi Monsieur Seurel ra lệnh lên đường, họ còn cho chúng tôi biết:
“Có một cậu nữa mới đi qua, cậu cao lớn đó. Có lẽ khi trở về, cậu ta gặp xe nhà Granges ở dọc đường cho quá giang. Tới trước lối rẽ vào trại Des Grange, cậu mới leo xuống, quần áo rách bươm, be bét những bùn. Tụi tôi có nói cho cậu ta biết là ban sáng thấy ông giáo với các cậu đi qua, nhưng chưa quay lại. Thế là cậu ta tiếp tục thủng thẳng đi về hướng Sainte-Agathe.”
Quả vậy, anh Meaulnes đang ngồi đợi chúng tôi ở một chân cột cầu gần chỗ Bãi Phẳng, dáng mệt rũ. Đáp câu hỏi của Monsieur Seurel, anh nói chính anh cũng đi kiếm bọn học trò trốn học. Còn với câu hỏi nhỏ của tôi, anh thất vọng lắc đầu:
“Không, không gặp chỗ nào giống như vậy cả.”
Sau bữa trưa, trong khi bên ngoài chan hòa ánh nắng thì trong lớp học cửa đóng kín tối đen và trống trải, anh Meaulnes ngồi ở một chiếc bàn lớn, gục đầu trên hai cánh tay, ngủ một giấc dài, nặng nề và buồn nản. Đến chiều, sau một hồi suy nghĩ, anh viết thư cho mẹ, như vừa quyết định một điều gì hệ trọng lắm. Đó là tất cả những gì tôi còn nhớ lại về lúc gần tàn của một ngày thất bại lớn.
Chương 10 Vụ Giặt Quần Áo
Ngỡ rằng mùa xuân đã đến nhưng thật là quá sớm và hão huyền.
Chiều thứ Hai tính làm bài ngay sau lúc tan học bốn giờ như vào giữa mùa hè, nên để nhìn cho rõ hơn, chúng tôi khiêng hai cái bàn lớn ra sân. Trời bỗng tối xập ngay, một giọt mưa rơi xuống quyển vở làm bài, vì thế cả bọn tức tốc thu dọn vào trong lớp. Trong căn phòng mênh mông nay đã tối mò, qua khung cửa sổ rộng, ai nấy lặng lẽ nhìn những đám mây trôi trên nền trời xám.
Khi đó anh Meaulnes, một tay cầm quả đấm cửa, cũng nhìn ra bên ngoài, thốt nói to, coi bộ như đang cảm thấy trong lòng một nỗi xốn xang luyến tiếc:
“Chà! Mây có trôi như thế kia đâu khi tôi đang cưỡi trên chiếc xe của trại La Belle-Etoile ở dọc
đường.”
Jasmin hỏi:
“Dọc đường nào?”
Anh Meaulnes không đáp. Tôi nói chen vào như để đánh lạc câu chuyện: “Tôi lại thích đi trên xe lúc trời mưa to, ngồi dưới một cái dù lớn.”
Một anh khác tiếp:
“Cứ thế xem sách suốt dọc đường y như là ngồi trong nhà vậy.” Anh Meaulnes đáp:
“Khi đó trời không mưa, tôi không thấy muốn đọc sách, mà chỉ lo ngắm khung cảnh chung quanh.”
Đến lượt Giraudat hỏi nơi đó là nơi nào, anh Meaulnes lại nín thinh. Jasmin lên tiếng: “Tôi biết… Vẫn cái vụ phiêu lưu kỳ lạ!...”
Hắn ta nói câu đó với giọng thân thiện và trịnh trọng như thể đã có dự phần trong vụ bí mật. Nhưng vô ích; những cố gắng làm thân của hắn cũng bị bỏ rơi; khi trời sập tối, ai nấy vén vạt áo lên che đầu, chạy vội về nhà trong cơn mưa lạnh.
Cho tới thứ Năm sau, trời vẫn mưa không dứt. Thứ Năm đó còn buồn hơn thứ Năm trước. Khắp làng đều bao trùm dưới một màn sương lạnh như trong những ngày u ám nhất của mùa đông.
Lầm tưởng trời sẽ nắng đẹp như tuần trước, Millie đem quần áo ra giặt, nhưng không thể cho phơi trên hàng giậu ngoài vườn hay trên dây căng trong vựa lúa vì không khí vừa lạnh vừa ẩm ướt. Bàn với Monsieur Seurel, mẹ tôi nẩy ra ý đem trải đồ giặt trong các lớp học, đốt một lò lửa thật nóng vì bữa đó là thứ Năm. Để tiết kiệm củi đốt dưới bếp và trong buồng ăn, bà định sẽ nấu nướng ngay trên lò lửa. Vì thế, suốt buổi hôm ấy, anh Meaulnes và tôi lưu lại trong phòng học lớn.
Hồi đó còn nhỏ quá nên ban đầu tôi coi sự mới lạ ấy như một dịp hội.
Thật là một thứ hội quá buồn tẻ!... Bao nhiêu hơi nóng ở lò đều bị quần áo ướt hút hết nên không khí trở thành rất lạnh. Ngoài sân, lớp mưa phùn mùa đông rơi không dứt. Tuy vậy, ngay từ chín giờ sáng, đang buồn nản quá, tôi đã đến gần anh Meaulnes. Lặng lẽ tựa đầu vào cánh cửa nhìn qua những chấn song ở cổng lớn, chúng tôi thấy một đám ma từ trong làng xa đi tới đầu phố, ngay chỗ ngã tư Quatre-Routes. Chiếc áo quan đặt trên xe bò được nhấc xuống để trên một phiến đá dưới chân cây thập tự lớn, cái chỗ mà hôm trước ông hàng thịt bắt gặp hai tên thám thính của anh chàng bô-hê-miêng! Ôi! Bây giờ anh đang ở đâu, viên chỉ huy khéo cầm đầu cuộc tấn công đêm ấy?... Theo tục lệ, vị linh mục và ban hát tiến tới trước quan tài. Chúng tôi nghe tiếng hát buồn buồn văng vẳng vang lên. Cả tôi lẫn anh Meaulnes đều biết rõ đó là trò giải trí độc nhất trong ngày, một ngày chảy trôi bình thường như dòng nước đục chảy trong khe.
Bỗng dưng anh nói:
“Bây giờ tôi đi sửa soạn hành lý. Francois ạ, tôi cho cậu biết, thứ Năm tuần trước tôi đã viết thư cho mẹ tôi xin phép lên Paris tiếp tục học. Hôm nay tôi sẽ khởi hành. ”
Hay tay anh vẫn tỳ vào chấn song đối diện, mắt ngó mãi về phía thị trấn. Tôi chẳng cần phải hỏi xem bà mẹ giàu và ưa chiều theo mọi sở thích của con có đã nhận lời cầu xin của anh chưa. Cũng chẳng cần phải hỏi anh tại sao bỗng nẩy ra ý muốn đi Paris ấy. Nhưng tôi tin chắc là trong tim anh đã có luyến tiếc và e ngại phải dời bỏ vùng Sainte-Agathe thân yêu này, nơi mà anh khởi sự đi vào cuộc phiêu lưu kỳ diệu. Về phần tôi, tôi cảm thấy một nỗi cô quạnh mãnh liệt --thoạt đầu không nhận ra-- xâm chiếm tâm hồn. Anh Meaulnes thở dài, nói như để giải thích:
“Gần tới lễ Phục Sinh rồi.” Tôi bảo:
“Nếu đến Paris mà gặp được cô ta, anh nhớ viết thư cho tôi nhé?”
“Đã đành. Tôi hứa sẽ viết. Cậu không vừa là bạn vừa là người anh em ruột của tôi sao?” Anh đặt bàn tay lên vai tôi.
Dần dần tôi hiểu rõ thế là mọi chuyện đã chấm dứt. Anh Meaulnes đi Paris học tiếp, tôi sẽ không bao giờ còn có được một người bạn lớn như anh.
Để gặp lại, chúng tôi chỉ còn hy vọng vào căn nhà ở Paris, nơi anh sẽ tìm được vết tích của cuộc phiêu lưu đã tan biến… Nhưng cứ trông anh buồn rầu thế kia, tôi cũng thấy là mối hy vọng của tôi thật quả là mỏng mảnh.
Khi được báo, Monsieur Seurel ngạc nhiên lắm, nhưng liền sau đó ông đã tin theo lời bày tỏ của anh Meaulnes. Phần mẹ tôi, với tư cách một người nội trợ, lại chỉ lấy làm ân hận theo sự bất thường lủng củng của nhà cửa bữa đó… Thảm thương! Cái rương của anh chỉ một lát đã xếp xong mọi thứ! Chúng tôi kiếm ở dưới gầm cầu thang đôi giày anh vẫn mang những bữa chủ nhật, một ít quần áo trong tủ, và những giấy tờ, sách vở –hết thảy những gì mà một chàng thanh niên mười tám vẫn có ở trên đời này.
Vào lúc trưa, bà mẹ anh Meaulnes đi xe tới. Hai mẹ con ăn cơm ở hàng café Daniel, rồi gần như không giải thích lời nào, bà đón anh Meaulne đi ngay sau khi ngựa đã được cho ăn cỏ và thắng vào xe. Chúng tôi đứng trước thềm chào từ biệt, rồi chiếc xe khuất dạng sau khúc rẽ ở ngã tư Quatre-Routes.
Millie chùi chân trước cửa, bước vào phòng ăn lạnh lẽo thu xếp lại những đồ vật đã bị xáo trộn. Còn tôi, lần đầu tiên sau bao tháng trường, đâm cô đơn trở lại trước một buổi tối thứ Năm dầy đặc
– với cảm tưởng tuổi thiếu niên của tôi đã vĩnh viễn ra đi trên chiếc xe kia rồi.
Chương 11 Tôi Phản Bội…
Biết làm gì bây giờ?
Không gian bắt đầu sáng sủa. Xem ra mặt trời sắp ló dạng. Có tiếng cửa đóng trong căn nhà rộng. Rồi trở lại im lặng như cũ. Thỉnh thoảng cha tôi đi ngang qua ngoài sân để lấy một thùng than đem vào đổ đầy lò sưởi. Tôi nhìn thấy những quần áo trắng phơi ở dây và chẳng chút nào muốn quay về cái nơi được dùng làm chỗ hong quần áo để một mình đụng độ với kỳ thi cuối năm vào trường Sư Phạm, mối lo duy nhất của tôi từ nay.
Lạ thay, xen lẫn với sự chán nản khiến tôi buồn khổ lại có chen vào một cảm giác tự do mới mẻ. Anh Meaulnes đi rồi, cuộc phiêu lưu dở dang đã hoàn toàn chấm dứt. Ít ra điều ấy cũng giúp tôi thoát khỏi những mối bận tâm kỳ lạ và khác thường đã không cho phép tôi được hành động giống như mọi người. Anh đi rồi, tôi không còn là người bạn phiêu lưu của anh nữa, không còn là đứa em của con người lúc nào cũng lần dò theo những dấu vết; mà tôi trở lại là một đứa trẻ giống như mọi đứa khác trong làng. Chuyện này thật dễ cho tôi vì tôi chỉ cần hành xử theo khuynh hướng tự nhiên nhất của mình là đủ.
Thằng nhỏ út của gia đình Roy đi qua ngoài phố lầy lội, tay cầm sợi dây gai có buộc ba hột dẻ ở đầu, quay tít chúng rồi thả tung trên trời; ba hột dẻ và sợi giây rơi vào trong sân nhà tôi. Tôi rỗi rãi đến độ lấy làm thích thú theo hành động của nó, hai ba lần tung trả lại mấy hột dẻ ra phía ngoài tường cho nó.
Bỗng dưng nó bỏ cuộc chơi trẻ con để chạy về phía một chiếc xe bò đang từ phía trại Vieille- Planche đi tới, rồi trèo tót lên phía sau trong khi xe vẫn chạy. Tôi nhận ra đó là chiếc xe nhà Delouche và con ngựa của hắn. Jasmin đánh xe, còn anh chàng mập Boujardon đứng ở trên. Họ mới từ phía cánh đồng trở về.
Chắc hẳn biết rằng anh Meaulnes đã từ biệt, Jasmin la lớn với tôi: “Tới chơi với bọn này đi, Francois!”
Thú thật, chẳng báo cho cha mẹ hay, tôi vội trèo lên chiếc xe đang lắc lư và cố đứng vững như mọi người, tay vịn vào thành gỗ. Jasmin đưa tất cả tới nhà bà quả phụ Delouche…
Bây giờ chúng tôi họp lại ở phía sau cửa tiệm, căn nhà vừa dùng làm chỗ bán hàng xén vừa mở quán trọ. Một chùm nắng nhạt len qua khe cửa sổ thấp, chiếu sáng trên những cái hộp thiếc và những thùng đựng dấm. Gã Boujardon mập ú đang ăn bánh bích qui vụn, ngồi trên bực cửa quay lưng lại phía chúng tôi và cất tiếng cười khan. Gần đó, trên nắp một thùng rượu, có một hộp bánh đã mở, vơi hết một phần. Thằng nhãi Roy thích thú la lên từng tiếng nhỏ. Một nỗi thân mật không được chính đáng đang nẩy ra giữa đám chúng tôi. Tôi cảm nhận, từ nay Jasmin và Boujardon sẽ là bạn của tôi. Cuộc đời tôi đột nhiên đổi hướng, tưởng như anh Meaulnes bỏ đi đã từ lâu lắm và cuộc phiêu lưu của anh trở thành một câu chuyện cũ, tuy buồn nhưng không còn gì để phải bận tâm.
Từ dưới một tấm ván, thằng nhãi Roy lôi ra một chai rượu ngọt đã uống dở. Delouche mời chúng tôi mỗi người một hớp, nhưng vì chỉ có một cái ly nên phải uống chung. Tôi là người được mời đầu tiên, lời mời pha chút hạ cố, làm như tôi chưa hề quen với những lề thói của các tay thợ săn hoặc những bác nông phu như vậy… Tôi cũng đâm ngượng. Cho nên khi mọi người vừa nhắc đến tên anh Meaulnes là tôi thấy muốn làm tan bớt sự ngượng ngập đó để tìm lại sự tự nhiên của mình bằng cách tỏ ý cho bọn kia biết rằng tôi đã thấu hiểu câu chuyện của anh, xong đem ra kể lại một phần. Tự nghĩ, làm như vậy đâu có hại gì cho anh vì ở đây cuộc phiêu lưu coi như đã hoàn toàn chấm dứt.
… … … … … … .. .. .. ..
Không hiểu có phải vì cái cách kể chuyện của tôi quá dở nên chẳng hề có một phản ứng nào từ bọn kia như tôi mong đợi. Với bản chất nông dân không có gì đáng phải ngạc nhiên, đám Delouche không thấy sửng sốt vì một chuyện cỏn con như vậy. Boujardon hỏi:
“Hẳn là một đám cưới phải không?”
Phần Delouche cũng có dự một đám cưới ở Préveranges còn đáng lạ lùng hơn nữa.
Về tòa lâu đài? Chắc chắn là có thể kiếm được một người trong vùng đã từng nghe nói tới nó. Về cô con gái? Anh Meaulnes sẽ cưới cô ta sau khi xong một năm quân dịch.
Một người trong bọn nói:
“Đáng lẽ hắn phải nói chuyện đó với bọn mình, đưa bản đồ cho bọn mình coi, còn hơn là giao phó cho một thằng bô-hê-miêng.”
Luống cuống trong thất bại, tôi muốn tranh thủ thời cơ để gợi sự tò mò của đám này nên định nói ra gốc tích và định mệnh lạ lùng của anh chàng bô-hê-miêng đó. Nhưng Boujar- don và Delouche ra vẻ như chẳng thèm nghe:
“Chính thằng đó đã gây nên chuyện. Chính nó làm cho Meaulnes trở nên khó chịu, trong khi thật, Meaulnes là một người bạn rất tốt. Chính nó đã tổ chức những vụ tấn công ngu dại vào ban đêm sau khi đã đưa bọn tôi vào kỷ luật y như một tiểu đoàn học sinh…”
Jasmin nhìn Boujardon, lúc lắc đầu, nói:
“Cậu biết không, việc tôi đi tố cáo nó với hiến binh là rất đúng. Thằng đó đã làm hại cho cả vùng này và còn có thể làm hại nhiều hơn nữa.”
Thế là tôi gần như đồng ý với bọn họ. Mọi sự hẳn đã xoay chiều nếu ban đầu anh Meaulnes và tôi không nhìn ra vụ đó bằng khía cạnh bí mật và bi thảm của nó. Đúng là vì ảnh hưởng của tên Frantz ấy mà tất cả đều hỏng bét…
Trong khi tôi đang mải suy nghĩ như vậy, bỗng nhiên có tiếng động ở ngoài cửa tiệm. Jasmin Delouche vội cất giấu chai rượu ngọt phía sau một thùng rượu; gã mập Boujardon nhào từ trên cửa sổ xuống, đạp nhằm một cái vỏ chai lớn; cái chai lăn đi khiến hắn hai lần suýt ngã nhoài ra đất. Thằng nhóc Roy vừa đẩy lưng bọn kia để tìm đường thoát vừa cất tiếng cười sặc sụa.
Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tôi cũng theo họ, ù chạy qua sân rồi trèo thang lên chỗ chứa rơm.
Có tiếng đàn bà mắng bọn tôi là đồ vô dụng!...
Jasmin nói nhỏ:
“Mình không dè bà ấy về sớm thế.”
Lúc bấy giờ mới hiểu là bọn chúng tôi đã lẻn vào nhà ăn vụng bánh và uống trộm rượu. Tôi đâm thất vọng không khác nào một kẻ bị đắm tàu, lên bờ tưởng rằng đang nói chuyện với một con người, bất thần nhận ra đó chỉ là một chú khỉ. Tôi mải nghĩ cách dời khỏi ổ rơm vì thứ phiêu lưu như vậy, tôi không thích. Trời cũng bắt đầu tối. Đám Delouche đưa tôi đi qua hai thửa vườn phía sau nhà, vòng một cái ao, tới đường cái lầy lội có ánh lửa ở hàng café Daniel phản chiếu.
Tâm trạng chẳng chút hân hoan gì về buổi chiều hôm đó, tới ngã tư Quatre-Routes, ở một khúc quẹo, bỗng nhiên tôi nhìn thấy một gương mặt rắn rỏi và thân ái đang mỉm cười với tôi; đưa bàn tay lên vẫy –rồi chiếc xe khuất dạng.
Một cơn gió lạnh làm tà áo bật tung, giống như những cơn gió của mùa đông đẹp mà thê lương năm ngoái, tôi bắt đầu nhìn mọi sự chung quanh với tâm trạng không dễ dàng như trước. Trong phòng học lớn nơi cha mẹ đang chờ tôi về ăn bữa tối, những cơn gió lộng thỉnh thoảng lại thổi vào khu vực có đôi chút ấm áp chung quanh lò lửa. Tôi thấy rét run trong khi bị mắng vì tội bỏ đi chơi hoang cả buổi chiều. Để quay lại với cuộc sống bình thường xưa cũ, tôi cũng không có cả sự an ủi được ngồi vào cái chỗ quen thuộc của mình. Buổi tối mẹ tôi không dọn bàn; thế vào đó, mỗi người kiếm một nơi trong phòng học thiếu ánh sáng, đĩa thức ăn đặt trên đùi. Tôi lặng lẽ ăn miếng bánh ngọt nướng đáng lẽ là phần thưởng cho một ngày thứ Năm vẫn đi học, nhưng bánh đã cháy xém trên cái khuôn để lửa quá già.
Tối hôm đó, một mình trong phòng ngủ, tôi đi nằm sớm để nhận chìm nỗi buồn dâng lên cao phát sinh từ lòng hối hận. Nhưng nửa đêm có đến hai lần tôi chợt thức giấc, lần đầu tưởng như nghe có tiếng cọt kẹt ở giường bên cạnh, nơi anh Meaulnes vẫn thường hay trở mình đột ngột; và lần thứ hai, tiếng chân anh lướt nhẹ từ phía mấy căn gác xép, y như tiếng chân của một người thợ săn đang nhón bước rình mồi…
Chương 12
Ba Bức Thư Của Anh Meaulnes
Cả đời, tôi chỉ nhận được có ba bức thư của anh Meaulnes. Ba lá đó vẫn còn nằm trong một ngăn tủ ở nhà tôi. Mỗi lần đọc lại, tôi vẫn tìm thấy nỗi buồn man mác của thuở nào xưa cũ…
Thư thứ nhất gửi tôi sau ba ngày anh ra đi:
“Francois thân mến,
Hôm nay khi tới Paris, tôi đã đến trước ngôi nhà mà Frantz đã chỉ. Chẳng thấy gì. Và cũng không gặp ai. Chẳng bao giờ sẽ gặp ai đâu.
Đó là một ngôi nhà nhỏ có tầng lầu dùng để ở. Phòng của cô de Galais chắc phải ở tầng trên. Những cửa sổ lầu đều bị hàng cây che khuất. Nhưng đi dưới hè đường ta có thể nhìn thấy chúng rất rõ. Bao nhiêu rèm cửa đều được kéo kín, họa có điên mới hy vọng một ngày nào đó, qua những tấm rèm kia, bộ mặt của Yvonne de Galais sẽ hiện ra.
“Nơi đó là một đại lộ… Trời mưa lất phất trong đám cây lá đã xanh tốt. Có tiếng chuông rung leng keng của những xe điện qua lại không ngớt.
“Trong gần hai giờ đồng hồ, tôi đi qua lại dưới dãy cửa sổ. Gần đó có một quán rượu nên ghé vào uống để khỏi bị nghi là kẻ gian đang tính ra tay một vụ gì. Rồi lại tiếp tục rình mò, nhưng vô hiệu.
“Tối đến, ở khắp mọi nhà chung quanh, ánh đèn đều sáng lên nơi các cửa sổ, ngoại trừ căn nhà đó. Chắc chắn nơi đây chẳng có ai, tuy đã sắp tới lễ Phục sinh rồi.
“Lúc gần ra về, tôi thấy có một cô gái –hay một thiếu phụ, cũng không biết nữa— bận bộ đồ đen có cái cổ áo nhỏ màu trắng, tới ngồi trên chiếc ghế dài ướt nước mưa. Khi tôi đi rồi, cô ta vẫn còn lặng lẽ ngồi ở đó mặc dầu trời càng về khuya càng lạnh, chẳng hiểu đợi gì, đợi ai. Cậu thấy, Paris cũng có đầy những người điên như tôi.
Augustin.”
Thời gian trôi...
Ngày thứ Hai sau lễ Phục sinh và suốt những ngày kế tiếp –những ngày sao mà bình lặng sau dịp lễ lớn để chỉ gợi nhớ rằng mùa hè sắp đến—tôi mong thư anh Meaulnes mãi mà vẫn hoài công.
Rồi tháng Sáu đem về những kỳ thi và một không khí oi nồng ghê gớm, hơi nóng bốc lên bao trùm cả vùng đến như ngẹt thở mà không có lấy một ngọn gió thổi qua làm cho tan đi. Ban đêm trời cũng không dịu bớt; do đó vẫn phải chịu đựng cái cực hình ấy.
Chính trong khoảng tháng Sáu thật khó chịu này, tôi nhận được lá thư thứ hai của anh Meaulnes:
“Tháng Sáu 189…
Bạn thân ơi, lần này bao nhiêu hy vọng đều tiêu tan. Tôi biết vậy từ hôm qua. Nỗi đau gần như không cảm thấy ngay khi đó, đang bắt đầu dâng lên trong hồn.
Chiều nào tôi cũng tới ngồi ở chiếc ghế trước nhà cô de Galais, rình đợi, suy nghĩ, hy vọng, bất kể mọi thứ.
Hôm qua, lúc chạng vạng, trời tối đen và oi bức. Người ta trò chuyện đó đây trên vỉa hè, dưới gốc cây. Các tàng lá màu đen biến thành màu lục nhờ ánh đèn tỏa ra ở những tầng lầu hai, lầu ba của các căn nhà. Rải rác có những khung cửa sổ mở rộng… Tận cùng gian phòng, người ta trông thấy các ngọn đèn trên bàn đã đẩy ra xa đôi chút bóng tối nóng hổi của mùa hạ… Chao ơi! Nếu khung cửa sổ tối đen của Yvonne de Galais cũng được thắp sáng thì tôi tin mình sẽ dám trèo cầu thang, tới gõ cửa bước vào phòng…
Cô gái mà tôi đã nói chuyện với cậu trong thư trước vẫn còn, cũng đang trông đợi như tôi. Tôi nghĩ rằng cô ta có quen biết với những người trong nhà đó nên tới hỏi chuyện.
Cô ta đáp:
“Tôi biết trước kia vẫn có một cô gái và cậu em trai tới đây nghỉ lễ. Nhưng được tin rằng cậu em đã bỏ trốn khỏi tòa lâu đài của cha mẹ không ai có thể tìm ra, còn cô gái thì đã lấy chồng. Bởi vậy căn nhà bao giờ cũng đóng kín cửa.”
Tôi bỏ đi. Độ mười bước, bỗng vấp phải hè phố suýt ngã. Đến đêm –tối hôm qua—khi đám trẻ con và các phụ nữ dưới sân đã hết làm ồn để tôi có thể ngủ thì tôi lại bắt đầu nằm nghe tiếng xe ngựa ngoài phố. Thỉnh thoảng mới có một cái chạy qua. Nhưng khi cái này vừa đi khỏi, tôi lại chờ đón cái sắp tới: tiếng lục lạc, tiếng chân ngựa đập trên mặt đường nhựa… cứ thế tiếp diễn: thành phố vắng bóng người, mối tình bị tan vỡ, đêm dài không hết, mùa hè, cơn sốt nóng…
Seurel bạn ơi, tôi đang trong một cơn khốn quẫn. Augustin.
Tuy vậy trong thư không thấy bộc bạch chút nào tâm sự. Anh Meaulnes chẳng cho tôi biết tại sao bấy lâu anh im lặng, cũng không nói cho hay nay anh tính làm gì. Tôi có cảm tưởng anh muốn cắt đứt liên lạc với tôi vì cuộc phiêu lưu đã chấm dứt, giống như anh cắt đứt với quá khứ vậy. Tôi mặc sức viết thư cho anh nhưng không hề được hồi âm.
Khi tôi thi đậu bằng Tiểu Học, anh có viết gửi tôi một câu chúc mừng.
Tới tháng Chín, tôi được một anh bạn học báo cho biết anh Meaulnes có về nghỉ hè ở nhà mẹ anh tại La Ferté-d’Angillon. Nhưng mùa hè năm đó gia đình tôi được ông chú Florentin mời về nghỉ ở Vieux-Nancay. Do đó tôi đã không kịp gặp trước khi anh trở lại Paris.
Cuối tháng Một tựu trường, trong khi tôi hăng hái một cách buồn nản sửa soạn thi bằng Cao học với hy vọng năm sau sẽ được bổ làm giáo viên mà khỏi phải học qua trường Sư Phạm ở Bourges, thì nhận được bức thư cuối cùng trong số ba bức vỏn vẹn anh Meaulnes đã gửi cho tôi:
“Tôi vẫn đi qua dưới khung cửa sổ. Và vẫn mong đợi, tuy không hy vọng gì, vì điên. Lúc cuối thu, vào những ngày chủ nhật, khi trời sắp tối, tôi không sao trở về nhà hay đóng cửa sổ phòng mà không quên đi tới con đường lạnh giá đó trước, giống như người đàn bà điên ở Sainte-Agathe cứ từng phút lại ra đứng cửa ngóng trông về phía nhà ga, tay che trên mắt, xem cậu con trai đã chết có trở về hay không.
Ngồi run rẩy, khổ sở trên ghế, tôi thả mình mơ tưởng sẽ có người bước tới nhè nhẹ nắm tay tôi... Tôi sẽ quay lại. Thì ra nàng. Nàng đơn sơ bày tỏ: ‘Em chậm mất một chút.’ Thế là bao nhiêu đau khổ, điên dại trước kia đều tiêu tan hết. Chúng tôi cùng bước vào nhà. Chiếc áo lông của nàng lạnh giá; tấm voan che mặt ướt sũng; nàng đem theo mùi hương từ bên ngoài; khi nàng ghé gần lò sưởi, tôi thấy băng đọng cả trên mái tóc, khuôn mặt bán diện với những đường nét tuyệt đẹp cúi gần ngọn lửa...
“Thảm thương thay! Khung kính vẫn trắng xóa vì tấm rèm che phía sau. Cho dù bây giờ cô gái
ở tòa lâu đài bỏ hoang có mở cánh cửa ra thì tôi đâu còn lời lẽ nào để nói với nàng.
Cuộc phiêu lưu đã tan vỡ. Mùa đông năm đó đã khép hẳn như một nấm mồ. Không chừng khi chúng ta chết đi, cái chết sẽ đem tới chiếc chìa khóa cùng với đoạn kế tiếp và đoạn chót của cuộc phiêu lưu dang dở.
“Seurel ơi, trước kia tôi yêu cầu cậu hãy nhớ đến tôi. Bây giờ thì trái lại, tốt hơn hết là cậu hãy quên tôi đi. Quên tôi đi...
Augustin Meaulnes. ”
Rồi tới một mùa lạnh nữa, một mùa chết so với mùa lạnh năm trước sống động bao nhiêu nhờ một sự sống kỳ bí: công viên nhà thờ vắng bóng những người bô-hê-miêng; sân trường mà lũ học trò đã bỏ trống ngay từ lúc bốn giờ chiều... căn phòng nơi tôi một mình ngồi học trong chán ngán... Tới tháng Hai, lần đầu tiên trong mùa lạnh, tuyết bắt đầu rơi, hoàn toàn chôn vùi cuốn tiểu thuyết phiêu lưu năm trước của chúng tôi, xóa nhòa mọi vết tích, đảo lộn hết mọi lối đi. Như lời
anh Meaulnes đã yêu cầu trong thư, tôi sẽ cố gắng quên hết.