Truyện dịch GÃ GIANG HỒ Le Grand Meaulnes (Alain Fournier)

Chủ Nhật, 22 Tháng Ba, 2020

Phần III - GÃ GIANG HỒ Le Grand Meaulnes - Alain Fournier

PHẦN III

Chương 1

Cuộc Bơi Lội

 

Hút thuốc lá, vuốt nước đường lên đầu cho quăn tóc, hôn những cô gái lớp Dự Bị bắt gặp ở dọc đường và núp sau hàng giậu la to: “Kìa cái sừng!” để hù dọa các bà phước... là những trò vui của bọn trẻ mất dạy trong làng. Tuy nhiên, tới hai mươi tuổi, những trẻ thuộc loại này cũng rất có thể tu tỉnh và trở nên những thanh niên giàu tình cảm. Đáng ngại chỉ là khi đứa trẻ đó có khuôn mặt sớm già héo, ưa quan tâm tới những chuyện mờ ám về phụ nữ quanh vùng, hoặc kể ra cả ngàn câu chuyện bậy bạ về cô Gilberte Poquelin để mọi người cười phá lên. Dù vậy, như thế cũng chưa đáng gọi là thất vọng hẳn…

Jasmin Delouche nằm trong trường hợp đó. Không hiểu sao gã vẫn tiếp tục theo học lớp Cao đẳng mà chắc chắn là không thích thú gì việc thi cử, trong khi tất cả mọi người đều muốn gã bỏ đi; đồng thời gã cũng theo ông cậu Dumas học nghề thợ hồ. Dạo sau này chỉ còn Jasmin Delouche, Boujardon và Denis tính tình dễ dãi, con trai ông phó xã trưởng, là những học trò lớn mà tôi thích giao du, vì họ là “những người của thời anh Meaulnes”.

Vả lại chính Delouche cũng rất thành thật muốn làm bạn với tôi. Thật tình mà nói, trước kia thù nghịch anh Meaulnes bao nhiêu thì nay gã lại muốn trở thành “một anh Meaulnes” của cả trường bấy nhiêu: ít ra gã cũng hối tiếc đã không phải là kẻ đồng hành tương đắc của anh. Thân hình không nặng nề như Boujardon, tôi nghĩ có lẽ gã cũng cảm thấy anh Meaulnes là người từng đã đem lại trong cuộc đời chúng tôi một dấu ấn khác thường, kỳ lạ. Thỉnh thoảng tôi nghe gã nhắc:

“Chính anh Meaulnes có nói…”,

hoặc “Chà, anh Meaulnes đã bảo rằng…”

Ngoại trừ tính cách già trước tuổi khác hẳn chúng tôi, gã còn có cả một kho tàng những trò chơi chứng tỏ gã hơn chúng tôi một bực: con chó lai giống màu trắng lông dài có cái tên Bécali khó nghe biết tha về những cục đá người ta liệng ra xa trước mặt nó, nhưng chỉ thế, ngoài ra nó chẳng biết làm trò gì khác; chiếc xe đạp cũ, đôi khi Jasmin cho chúng tôi cởi ké những chiều tan học dù gã vẫn thích dùng nó để tập cho đám con gái trong làng hơn; đặc biệt là con la trắng mù mắt có thể thắng cương vào với bất cứ loại xe nào.

Con la đó là của ông cậu Dumas nhưng mỗi mùa hè khi chúng tôi tổ chức đi tắm tại sông Cher, Dumas lại cho Jasmin mượn. Vào những dịp như vậy, mẹ gã thường bọc theo cho gã một chai nước chanh, đặt dưới chỗ ngồi lẫn trong mớ quần tắm còn khô. Thế rồi dưới sự chỉ đạo của Monsieur Seurel, một bọn tám hay mười người học trò lớn cùng khởi hành. Kẻ cuốc bộ, người trèo lên xe có con la kéo. Khi tới đoạn đường đưa đến sông Cher bị lồi lõm quá, chiếc xe sẽ được gửi lại ở trại Grand’ Fons.

Tôi cần phải kể lại đây với đầy đủ mọi chi tiết nhỏ về cuộc đi chơi năm ấy như vậy. Chiếc xe của Jasmin chở Monsieur Seurel cùng với những quần tắm, đồ đạc, chai nước chanh; còn tất cả đều đi bộ theo sau. Dịp đó vào khoảng tháng Tám. Vừa thi xong, mọi lo lắng được rũ bỏ hết, nên suốt cả mùa hè với tất cả hạnh phúc đều nằm trong tay chúng tôi. Khởi đầu một chiều thứ Năm tươi đẹp, cả đám vừa đi vừa vu vơ ca hát bất kể là bài gì.

Duy chỉ một vết đen điểm vào trong cảnh tượng trong sáng ấy: trên đường, bất thần chúng tôi trông thấy Gilberte Poquelin đi đàng trước. Cô gái có thân hình tròn lẵn, bận cái váy dài ngang gối, chân mang giày cao gót, vẻ hiền lành nhưng trông trâng tráo của một cô gái nhỏ đang trở thành thiếu nữ. Cô rời bỏ đường cái rẽ vào con ngõ tắt, có lẽ để mua sữa. Thằng nhãi Coffin lập tức bảo Jasmin đi theo. Gã kia huênh hoang đáp:

“Không phải lần đầu tiên tôi chạy theo hôn con bé đâu nhé.”

Trong khi tất cả đám chúng tôi vì hứng thú, cũng rẽ vào con ngõ tắt, để mặc ông Seurel cứ tiếp tục tiến lên ở đường cái trên chiếc xe có con la kéo, thì Jasmin bắt đầu kể rất nhiều chuyện thô tục về Gilberte và các cô gái khác trong làng. Tại đây, chúng tôi bắt đầu chia ra thành nhiều tốp. Có mặt chúng tôi, xem ra Delouche cũng không thích tấn công cô gái đang bước đi rất nhanh phía trước, nên không tiến lại gần cô mà chỉ để một khoảng cách chừng năm chục thước. Có vài tiếng tục tục như gà trống hay tác tác như gà mái cùng với đôi ba tiếng còi khiêu khích vang lên. Rồi chúng tôi bỏ cuộc, quay trở lên đường cái, bộ ngượng nghịu. Khi ấy trời đang nắng gắt nên phải chạy cho kịp. Không ai cất tiếng hát nữa.

Trong đám lau sậy mọc bên bờ sông Cher, chúng tôi cứ thay ra rồi lại mặc quần áo vào. Lau sậy che cho khỏi bị nhòm ngó, nhưng không che được ánh mặt trời nóng bức. Chân dậm trên cát hay trên lớp bùn khô, ai cũng nghĩ đến chai nước chanh của bà góa phụ Delouche đang ngâm cho lạnh ở vũng nước được đào ngay bên bờ sông Cher, trong trại Grand’ Fonds. Dưới đáy vũng bao giờ cũng có những cây cỏ màu lục nhạt và những con bọ đất; nhưng nước lại rất trong, trong vắt, khiến cho các người đi câu lúc nào cũng sẵn sàng quỳ xuống, vục đầu vào vũng, hai tay chống trên bờ.

Ôi, bữa đó cũng y như mọi bữa khác…

Khi quần áo đã chỉnh tề, ngồi xếp bằng thành một vòng tròn, chúng tôi chia nhau chút nước chanh đã được ngâm lạnh. Sau khi đã mời Monsieur Seurel uống phần của ông, thì phần của từng đứa chỉ còn một chút bọt đâm khiến cổ họng càng thêm ngứa và càng tăng cao nỗi khát. Thế là ai nấy đều chê không uống nữa, thay vào đó, vục mặt xuống vũng nước trong.

Dù vậy, không phải ai trong bọn cũng đều quen cái với lối uống kiểu nông dân đó. Nhiều anh, chẳng hạn như tôi, không làm sao cho hết khát được do bởi không thích uống nước, hoặc bởi sợ lỡ uống nhằm con bọ đất; có người lại bị lầm vì không tính được đúng chỗ trên mặt nước phẳng lì nên cứ vục cả nửa mặt xuống uống đến nỗi sặc, mũi cay sè; kẻ khác thì lại bởi tất cả những lý do vừa nói cộng lại. Dù sao chăng nữa, chúng tôi có cảm tưởng bao nhiêu sự mát mẻ trên thế gian này đều chỉ thu gọn nơi đó. Mãi tới bây giờ, ở bất kỳ đâu, hễ cứ nghe nói tới vũng nước là tôi nghĩ ngay tới cái vũng của mùa hè năm xưa…

Lượt trở về bao giờ cũng vào lúc hoàng hôn mà thoạt đầu ai nấy đều vô tâm như lượt ra đi. Mùa đông, con đường lên trại Grand’ Fonds và đưa tới đường cái là một dòng suối; còn ở mùa hè, nơi đây biến thành cái khe có những hố và những rễ cây lớn chắn ngang nên xe cộ không qua lại được. Một phần trong bọn tinh nghịch leo lên theo con đường giốc có hai hàng cổ thụ như hai hàng rào lớn. Còn tôi, Jasmin và nhiều đứa khác cùng với Monsieur Seurel đi trên một lối cát mịn thoai thoải, men theo thửa đất kế cận, song song với con đường kia. Chúng tôi nghe tiếng bọn họ cười nói rất gần, ngay dưới chân chúng tôi, nhưng vì trời tối nên không nhìn thấy họ. Trong khi đó, Delouche ba hoa kể những chuyện “người lớn” của gã… Qua các kẽ lá của những cây cao, giống côn trùng buổi tối đang cất tiếng hát vang. Thỉnh thoảng một con bổ xuống, kêu vù vù nghe rõ mồn một.

Thật là một buổi chiều hè êm tịnh và đẹp đẽ! Cuộc trở về, không có gì hy vọng mà cũng không còn thèm thuồng gì sau một cuộc đi chơi mộc mạc ngoài đồng… Nhưng lại chính Jasmine đã làm náo động cảm nghĩ yên bình đó dù rằng gã chẳng định tâm…

Khi tới đầu giốc, nơi còn lại hai phiến đá lớn đã xưa mà người ta cho là tàn tích của một tòa lâu đài cổ, gã nói tới chuyện những lãnh địa gã đã từng có tới, nhất là cái Lãnh địa Sablonnières hầu như bỏ hoang ở gần Vieux-Nancay. Với giọng nói vùng Allier có cái lối huênh hoang uốn lưỡi kéo dài vài chữ hoặc cắt cụt vài chữ khác một cách rất tởm, gã kể lại, mấy năm trước đã trông thấy trong ngôi giáo đường bỏ hoang tại trang viện cổ xưa đó một tấm bia trên có khắc những hàng chữ:

“Nơi đây yên nghỉ chàng Hiệp sĩ Galois

Trung thành với Chúa, Nhà Vua, và với Người Đẹp.”

Monsieur Seurel nhún vai ậm ừ mấy tiếng như có vẻ khó chịu, nhưng cũng để mặc bọn tôi bô bô câu chuyện như những người đàn ông thực thụ.

Thế là Jasmin lại tiếp tục mô tả tòa lâu đài ra tuồng như gã đã từng trải qua ở đó cả đời.

Nhiều lần từ Vieux-Nancay trở về, cậu Dumas và gã đều lưu ý đến cái tháp cổ màu xám ló ra trên những ngọn thông. Ngay giữa rừng, có cả một dãy nhà đổ nát ai cũng có thể tự do tìm tới trong lúc vắng mặt chủ. Một lần, người trông coi trang viện còn tháp tùng theo xe hai chú cháu, đưa họ vào thăm tòa lâu đài kỳ dị. Nhưng về sau, theo lời người ta nói, tất cả dãy nhà giữa rừng đều bị giở đi hết; chỉ còn lại khu nông trại và một ngôi nhà nhỏ có mái hiên nhô ra. Những người ở lại vẫn là gia đình chủ cũ, một viên sĩ quan hồi hưu đã già, gần phá sản, và cô con gái.

Gã nói… nói mãi…

Tôi đang chú ý nghe, vô tình cảm thấy rằng đó là câu chuyện mà tôi rất quen thuộc... Bỗng dưng, giống như những chuyện bất ngờ thường xảy ra, Jasmin quay lại, thúc vào cánh tay tôi, vẻ như đang bị choáng váng vì một ý nghĩ chưa bao giờ gã có:

“Này, tôi cho rằng đó là nơi mà anh Meaulnes –anh Meaulnes ấy... đã đi tới.” Khi thấy tôi không nói gì, gã tiếp:

“À, phải rồi, người trông coi ở đó cho tôi biết cậu con trai nhà ấy là một tên kỳ dị, có những tư tưởng khác thường.”

Tôi không nghe gã nữa, ngay từ đầu đã tin chắc rằng gã đoán trúng. Thế rồi, trước mắt tôi, khi không còn anh Meaul- nes với chẳng chút hy vọng nào, một cách thật dễ dàng và quang đãng như mọi con đường ta vẫn đi, bỗng như thấy mở ra lối đưa tới trang viện có cái lâu đài cổ không tên.

 

 

Chương 2

Tại Nhà Florentin.

 

Trước kia là đứa trẻ khổ sở, mơ mộng và lầm lỳ bao nhiêu, thì nay tôi trở nên vững vàng, “cả quyết” (như lối nói của người làng) bấy nhiêu khi cảm thấy tự tôi sẽ định đoạt được phần kết cục của cuộc phiêu lưu nghiêm trọng.

Kể từ buổi chiều đó, tôi tin chắc, hai đầu gối tôi đã hoàn toàn hết đau.

Vieux-Nancay, thôn xã gồm cả khu trang viện Les Sablon- nières, là trú quán của cả gia đình Monsieur Seurel và nhất là của ông chú Florentin, một nhà buôn; nơi đôi khi chúng tôi có tới ở vào dịp cuối tháng Chín. Khỏi phải thi cử nữa, tôi không muốn đợi lâu hơn nên xin phép đến chơi ngay nhà ông chú. Tôi cũng định không nói cho anh Meaulnes hay điều gì trước khi tin chắc có thể báo cho anh một tin mừng. Tốt hơn hết là chẳng nên lôi anh ra khỏi nỗi thất vọng để rồi lại dìm anh vào một nỗi thất vọng khác.

Trong một thời gian rất lâu, trên trái đất này, Vieux-Nancay, cái xứ của những dịp gần tựu trường, là nơi chốn được tôi ưa thích nhất. Dù vậy, cũng ít khi chúng tôi đến đó, trừ những lần kiếm thuê được một cỗ xe riêng. Có lẽ thuở trước gia đình tôi với chi họ ở vùng này từng xảy ra một chuyện xích mích nào đó nên mỗi khi có dịp, mẹ tôi thường để cho nài nỉ mãi mới chịu ngồi lên xe. Riêng tôi thì chẳng hề quan tâm tới những vụ bất hòa như vậy… Mỗi lần ngay sau khi đến đó là tôi đã lẫn nhanh vào đám những anh chị em họ để tận hưởng những ngày nghỉ hè tràn đầy các trò chơi rất mê say.

Chúng tôi ngụ lại nhà chú Florentin và thím Julie, hai người có với nhau một cậu con trai tên Firmin bằng tuổi tôi và 8 cô con gái, hai cô lớn nhất, Marie-Louise 17 tuổi, và Charlotte 15 tuổi. Gia đình chú tôi mở một cửa hàng bách hóa lớn ngay đầu làng thuộc xứ Sologne, đàng trước nhà thờ chính. Nơi đây, tất cả các thợ săn hoặc chủ nhân các lâu đài sống trơ vơ giữa vùng hoang vu, cách nhà ga hằng ba chục cây số. thường tới mua sắm.

Khu bày bán hương liệu và vải vóc là gian có nhiều cửa sổ quay ra đường cái; về hướng công viên nhà thờ là một cửa lớn ra vào có lắp khung kính. Một điều lạ (tuy rằng rất thường đối với vùng dân nghèo này) là sàn nhà trong cửa hàng chỉ được nện bằng đất chứ không lát ván.

Phía sau là sáu phòng, mỗi phòng chất đầy một loại hàng: phòng bày mũ nón, phòng bày các đồ làm vườn, phòng bày các loại đèn… kể ra không hết. Hồi còn nhỏ, mỗi khi đi ngang nơi mê cung chứa đầy những thứ hàng kỳ lạ đó, tôi cứ có cảm tưởng sẽ không bao giờ ngắm chúng cho hết được. Mãi tới bây giờ, tôi cũng vẫn còn cho rằng chỉ ở đó mới thật là nơi xứng đáng cho một cuộc nghỉ hè.

Gia đình chú tôi sống trong một căn nhà bếp rộng có cửa thông sang bên cửa hàng. Trong căn bếp vào dịp cuối tháng Chín có đốt một lò sưởi lớn đó, từ tảng sáng các thợ săn thường đem tới bán các con thú đã săn bắn được, xong cùng nhau ngồi uống rượu; trong khi các cô em họ tôi cũng đã thức dậy, chạy đi chạy lại bôi dầu thơm lên mái tóc chải mượt cho nhau. Trên tường có treo những bức hình đã cũ, chụp các toán học sinh, trong đó có cha tôi đứng giữa nhóm học sinh mặc đồng phục của trường Sư Phạm mà tôi đã phải mất công lắm mới nhận ra được ông.

Những buổi sáng của chúng tôi đều qua tại căn bếp đó; có khi ở ngoài sân, nơi chú Florentin trồng hoa thược dược và nuôi gà sao. Tại đây, người ta ngồi rang café trên những thùng đựng sà phòng đã rỗng; còn đám trẻ con thì giở từ trong hòm ra đủ các thứ được gói bọc kỹ lưỡng, có những món không biết cả tên.

Suốt ngày cửa hàng đông nghẹt những nông dân và những chú đánh xe ở các lâu đài quanh vùng. Bên ngoài cửa ra vào, trong lớp sương mù tháng Chín, các xe ngựa chở đồ từ các làng mạc xa tới đậu ở đó. Và trong nhà bếp, chúng tôi tò mò ngồi nghe các bà nhà quê kể đủ thứ chuyện…

Nhưng buổi tối, sau tám giờ, khi người nhà xách đèn mang rơm xuống cho bầy ngựa đang bốc hơi nghi ngút dưới chuồng thì tất cả cửa hàng đều là của chúng tôi!

Marie Louise, chị cả, nhưng vóc người lại bé nhỏ nhất, đang thu dọn gần xong những tấm nỉ ngoài cửa hàng, cất tiếng rủ cả bọn cùng ra đó chơi cho vui. Thế là Firmin, tôi và đám con gái nhỏ ùa ra bên ngoài có những cây đèn lạ kiểu vẫn được dùng thắp sáng ở các quán ăn. Chúng tôi quay những cối xay café, nhảy qua các quầy hàng; đôi khi Firmin lại leo lên tầng gác xép kiếm đem xuống cái đèn đầy những vết mốc xanh. Nền nhà bằng đất nện lại khiến tất cả bỗng muốn khiêu vũ…

Bây giờ tôi còn thấy đỏ mặt khi nghĩ rằng những năm trước, cô de Galais có thể xuất hiện ở

cửa hàng vào giờ đó và bắt gặp chúng tôi đang nô giỡn các trò trẻ con kia…

Năm ấy, vào một chiều tháng Tám, lúc trời đã chạng vạng tối, trong khi đang bình thản trò chuyện với Marie-Louise và Firmin thì lần đầu tiên tôi được gặp cô Yvonne de Galas.

Ngay buổi tối tới Vieux-Nancay, tôi đã hỏi chú Florentin về Lãnh địa Les Sablonnière rồi. Chú

đáp:

“Bây giờ nơi đó không còn là lãnh địa nữa. Đã bán hết cả; các chủ mới đều là thợ săn nên cho phá hết các ngôi nhà cổ để rộng đất săn bắn; sân chính bây giờ chỉ là một bãi lớn đầy những hoa thạch thảo và kim tước. Chủ cũ giữ lại một căn nhà nhỏ có gác và khu nông trại. Rồi đây cháu sẽ có nhiều dịp gặp cô de Galais; cô vẫn tới mua hàng, khi cỡi ngựa, lúc đánh xe nhưng bao giờ cũng vẫn một con ngựa già tên Bélisaire… Còn cái xe lại trông thật kỳ dị!”

Tôi thấy bối rối đến không biết hỏi thêm điều gì để rõ hơn mọi chuyện. “Có phải trước kia gia đình đó rất giàu?”

“Đúng. Ông cụ de Galais vẫn mở hội để làm vui cho cậu con trai. Cậu bé tính nết kỳ cục lắm, trong đầu luôn mang nhiều tư tưởng khác lạ. Muốn làm vui cho con, ông cụ bày ra đủ thứ trò khác biệt. Có khi còn mời các thanh niên nam nữ ở Paris và các nơi khác về chơi nữa… Trang viện Les Slabon- nières hoàn toàn đổ nát khi bà de Galais sắp chết và được mọi người trong nhà chiều theo tất cả những ý thích khác thường của bà, cố tìm hết mọi cách làm cho bà vui. Mùa đông năm ngoái, không, năm trước nữa, ở đó có tổ chức một dạ hội trá hình lớn lắm. Họ mời khách, một nửa từ Paris và một nửa ở các vùng quê đến. Họ mua và mướn rất nhiều quần áo đẹp sang trọng, bày ra các trò đua ngựa và đáp du thuyền. Tất cả chỉ để mua vui cho Frantz de Galais. Người ta bảo Frantz sắp lấy vợ và buổi hội đó là để mừng lễ đính hôn của cậu ta. Nhưng Frantz còn nhỏ quá. Mọi sự bỗng tan vỡ, cậu ta bỏ đi mất, chẳng ai còn gặp lại… Sau đó bà chủ Lãnh địa chết, cô de Galais bỗng dưng còn lại một mình với ông bố già trước kia là đại tá hải quân.”

Mãi lâu tôi mới hỏi được: “Thế cô ta đã có chồng chưa?” Chú tôi đáp:

“Chưa. Chú không hề nghe nói chuyện đó. Hay cháu muốn làm rể nhà ấy?”

Hết sức bối rối, tôi chỉ kể rất gọn và kín đáo rằng anh bạn Augustin Meaulnes thân nhất của tôi có lẽ muốn lấy cô ta làm vợ. Chú Florentin mỉm cười:

“À, nếu cậu ta không quan tâm tới vụ hồi môn thì đó thật là một đám tốt. Có cần để chú nói với ông de Galais cho không? Thỉnh thoảng ông cụ vẫn tới đây mua ít đạn chì. Lần nào chú cũng mời ông cụ nếm thứ rượu mạnh cất bằng bã nho đã lâu năm.”

Nhưng tôi vội vàng dặn chú hãy đợi mà đừng nói chi hết. Luôn chính tôi cũng không muốn vội vàng cho anh Meaulnes biết. Bao nhiêu may mắn đồng lúc đưa đến làm cho tôi e ngại. Vì e ngại như vậy nên tôi thấy ít nhất cần phải gặp cô de Galais trước khi báo điều gì với anh.

 

Tôi đợi không lâu. Ngày hôm sau, trước bữa cơm chiều một chút, trời bắt đầu xẩm tối trong một màn sương như thể đang ở vào tháng Chín hơn là tháng Tám. Firmin với tôi cho rằng cửa hàng sắp vãn khách nên cùng nhau ra chơi với Charlotte và Marie-Louise. Hai cô em họ đã được tôi kể cho nghe câu chuyện thúc đẩy tôi tìm tới Vieux-Nancay sớm hơn dự tính. Đang tỳ tay vào quầy hàng hay chống trên mặt quầy gỗ đánh xi để cùng nói cho nhau nghe những gì mình biết về cô gái bí mật đó –những điều thật ra cũng rất hạn chế— thì bỗng nghe có tiếng bánh xe lăn trên đường cái, nên cả bốn người cùng quay đầu nhìn ra. Một người nói nhỏ:

“Cô de Galais đấy!”

Chỉ độ mấy giây, trước khung kính, một chiếc xe lạ kiểu đậu lại. Đó là thứ xe cổ xưa dùng ở nông trại; cạnh xe được gọt cho tròn trịa với những đường viền chạm nổi –điều không thấy có nơi các cỗ xe khác trong vùng. Một con ngựa trắng già vừa đi vừa cúi đầu sát đất như thể lúc nào cũng gặm cỏ bên đường. Và --tôi nói điều này với tất cả bản chất đơn giản nhưng hiểu rõ mỗi lời mình nói- trên ghế ngồi, đúng thật là một cô gái đẹp nhất trên đời có thể có được.

Chưa hề bao giờ tôi được nhìn thấy bao nhiêu duyên dáng hòa hợp cùng với nét đoan trang dường đó trên một cô gái. Bộ y phục bó sát mình làm cho cô có vẻ yếu ớt quá. Chiếc áo choàng rộng màu hạt dẻ được khoác hờ trên vai khi cô bước vào nhà. Đó là cô gái nghiêm nghị nhất và mỏng mảnh nhất tôi từng gặp. Mái tóc dầy rủ xuống vầng trán và khuôn mặt có những đường nét thanh tao như tranh vẽ, điểm đôi chấm tàn nhang trên làn da mơn mởn… Nơi cái sắc đẹp tuyệt vời này, tôi chỉ thấy có một chút khuyết điểm: những lúc thoáng buồn, chán nản hay mải suy nghĩ, khuôn mặt thanh tú xiết bao nổi lên những lằn gân máu thấp thoáng, giống như ở những người bị bệnh nặng mà không biết. Khi ấy bao nhiêu ngưỡng mộ của người ngắm đều nhường chỗ cho một sự thương cảm thật xót xa bất ngờ trỗi dậy trong tim.

Đó là tất cả những gì tôi khám phá ra, trong khi cô gái từ từ bước xuống xe và sau khi Marie- Louise, một cách rất tự nhiên, giới thiệu tôi với cô gái và bảo tôi tiếp chuyện cô.

Chiếc ghế có đánh xi được đưa ra mời cô ngồi, lưng ghế tựa vào quầy hàng, còn bọn chúng tôi thì đứng chung quanh. Xem ra cô gái quen thuộc và yêu thích cửa hàng này lắm. Thật nhanh, thím Julie nghe báo, cũng chạy ra chào cô. Thím thân mật tiếp chuyện; hai tay chắp trước bụng, cái đầu nửa thôn quê nửa nhà buôn có đội chiếc mũ trắng nhỏ lúc lắc, gật gù. Thành ra thời gian tôi được trò chuyện với cô de Galais phải bị chậm lại. Trong khi chờ đợi, tôi thấy trong lòng có đôi chút run run.

Câu chuyện rất nhẹ nhàng. Cô de Galais hỏi: “Thế ra anh sắp đi dạy học?”

Thím tôi thắp lên ngọn đèn bằng sứ treo phía trên đầu chúng tôi, làm tỏa ra khắp cửa hàng một làn ánh sáng nhòa nhạt. Tôi ngắm khuôn mặt dịu hiền, ngây thơ của cô gái, đôi mắt xanh trông thật chất phác, và tôi cảm thấy ngạc nhiên theo giọng nói đoan trang và khúc chiết của cô. Khi ngừng nói, đôi mắt cô nhìn ra xa, bất động, đôi môi hơi cắn lại một chút.

“Nếu ông de Galais cho phép”, cô nói, “tôi cũng thích đi dạy học. Tôi sẽ dạy những em bé nhất, như bà thân sinh của anh…”

Rồi cô mỉm cười, để lộ điều rằng các cô em họ của tôi cũng đã từng có nói chuyện về tôi cho cô nghe. Cô gái lại tiếp:

“Ấy bởi vì dân trong vùng bao giờ cũng lễ phép, tử tế và ân cần với tôi. Tôi quí họ, nhưng tự thấy mình không xứng đáng với lòng yêu quí đó… Trái lại… À này, có phải đối với một cô giáo họ sẽ hay kiếm chuyện, hoặc tỏ ra keo kiệt không? Luôn luôn sẽ có những chuyện mất bút, chuyện sách vở đắt đỏ, hoặc học trò không chăm học… nhưng không sao, tôi sẽ trao đổi với họ, và họ vẫn sẽ quí mến tôi. Như vậy khó khăn cho tôi nhiều hơn...”

Rồi, không mỉm cười nữa, cô gái ngồi yên suy nghĩ, vẻ ngây thơ, đôi mắt xanh không lay động. Cả ba chúng tôi đều lúng túng trước sự thoải mái chuyện trò của cô khi đề cập những chuyện tế  nhị, các điều thầm kín chỉ có thể nói rõ ra được ở trong sách. Im lặng trong giây lát rồi cuộc thảo

luận lại được tiếp tục…

Cô nói, nhưng bây giờ trong giọng điệu cho thấy có vẻ gì như tiếc nuối và ác cảm đối với một nỗi bí mật nào đó trong đời mình:

“Với lại, tôi sẽ dạy cho lũ trẻ biết ngoan ngoãn, sự ngoan ngoãn mà tôi quá hiểu. Tôi sẽ không gây trong lòng chúng nỗi ham thích phiêu lưu, điều chắc hẳn anh sẽ có, anh Seurel ạ, khi đã trở thành phụ giáo. Tôi sẽ dạy cho chúng tìm thấy hạnh phúc ở ngay gần chúng, thứ hạnh phúc mà bề ngoài tưởng rằng không phải…”

Marie-Louise và Firmin cũng bị sững sờ như tôi nên cả ba cùng lặng người không biết đáp sao. Cô gái nhận thấy sự ngượng ngập đó nên ngừng nói, cắn môi và cúi đầu xuống, rồi mỉm cười như muốn chế giễu:

“Thành ra có lẽ hiện đang có một chàng trai trẻ điên khùng nào đó đi tận đâu đâu để kiếm tôi, trong khi tôi ở đây, trong cửa hàng bà Florentin, dưới ngọn đèn kia, và con ngựa già của tôi thì đang đứng chờ ngoài cửa? Giá trông thấy tôi nơi này, chắc hẳn cậu ta sẽ không tin là thật nhỉ?”

Thấy cô mỉm cười, tôi đâm ra bạo dạn và nghĩ đã đến lúc nên nói. Nên cười cười, tôi lên tiếng: “Và chắc là tôi có quen biết rõ với chàng trai điên khùng ấy, thưa cô.”

Cô gái chăm chú nhìn tôi.

Vừa lúc đó chuông cửa rung lên, có hai bà đứng tuổi xách giỏ bước vào cửa hàng.

“Cô vào chơi trong ‘phòng ăn’ này này, yên tĩnh hơn”, thím tôi vừa đẩy cánh cửa căn bếp vừa

nói.

Thấy cô de Galais từ chối muốn ra về ngay, thím tôi nói tiếp:

“Cụ de Galais cũng đang chuyện trò với Florentin bên lò sưởi nơi đây.”

Bao giờ cũng vậy, kể cả tháng Tám, trong căn bếp rộng có một cây củi thông lớn luôn luôn

cháy nổ lép bép. Tại đây cũng có thắp một ngọn đèn bằng sứ. Một ông già nét mặt hiền từ, nhiều vết nhăn, lúc nào trông cũng lặng lẽ như một người bị tuổi tác và kỷ niệm cũ đè nặng, đang ngồi gần chú Florentin với ly rượu mạnh trước mặt.

Chú Florentin đứng lên chào. “Francois à --chú tôi cất giọng ồ ồ của người chuyên rao bán ở

các phiên chợ như thể giữa chú và chúng tôi bị ngăn cách bằng cả một con sông hay nhiều mẫu đất-

- chú vừa nẩy ra ý định sẽ tổ chức một buổi chiều đi chơi trên sông Cher vào thứ Năm tuần tới. Ai muốn săn bắn, câu cá, hay khiêu vũ cũng đều được cả. Thưa cô de Galais, mời cô cùng đến nhé, tôi đã xin phép cụ ông rồi. Mọi việc đã thu xếp xong.”

Và chú tôi tiếp, như vừa nghĩ ra:

“Còn Francois, cháu có thể cùng đưa anh bạn cháu tới. Có phải anh ta tên Meaulnes không nhỉ?”

Cô de Galas đứng dậy, khuôn mặt bỗng trở nên tái mét. Đúng ngay giây lát đó, tôi mới chợt nhớ ra rằng, trước kia, nơi vùng lãnh địa lạ lùng, cạnh bờ hồ, anh Meaulnes có xưng tên mình với cô…

Khi cô đưa tay cho tôi bắt để chào tạm biệt, giữa chúng tôi đã có một sự thông cảm còn rõ rệt hơn là đã trao đổi rất nhiều chuyện với nhau– sự thông cảm thầm kín mà chỉ có cái chết mới làm tan vỡ được—và một tình bạn còn thắm thiết hơn cả một tình yêu nồng nàn.

Bốn giờ sáng hôm sau, Firmin gõ cửa căn phòng nhỏ của tôi, trông ra sân nuôi gà. Trời còn tối, tôi mất công lắm mới thu thập được mọi vật dụng riêng trên chiếc bàn bày đầy những cây đèn bằng đồng và tượng chư thánh nhỏ còn mới nguyên được lựa từ cửa hàng trước cái hôm tôi tới. Ngoài sân có tiếng Firmin đang bơm xe đạp cho tôi và tiếng thổi lửa của thím Julie trong nhà bếp. Khi tôi giã từ thì trời vừa rạng sáng.

Chỉ trong một ngày, tôi sẽ phải đi rất nhiều. Khởi đầu là phải về Sainte-Agathe ăn trưa với cha mẹ để giải thích về sự vắng mặt lâu của tôi, sau đó, trước khi trời tối, phải đi tiếp tới nhà anh Meaulnes ở La Ferté-d’Angillon.

 

Chương 3 Một Sự Linh Hiển

 

Chưa bao giờ tôi đi đâu xa bằng xe đạp. Chuyến này là chuyến đầu tiên. Nhưng từ lâu, mặc dù hai gối bị đau, Jasmin vẫn lén dạy tôi tập đi. Nếu xe đạp đối với một thanh niên bình thường là một vật dụng đáng thích thú thì nó còn thích thú biết bao với một đứa con trai đáng tội nghiệp như tôi, vừa ngày nào còn khổ sở lê đôi chân, mới đi bộ tới cây số thứ tư đã mướt mồ hôi nhễ nhãi…

Từ đầu dốc đổ xuống, tôi như len sâu vào trong cảnh vật bên dưới và bay tới những khúc đường trông thấy từ xa nhưng khi tới gần lại càng mở rộng tưng bừng hoa lá; xong vượt qua một làng mạc chỉ trong nháy mắt mà tưởng như có cảm giác bao trùm cả làng… Trước kia, chỉ trong giấc mơ tôi mới được biết những cuộc đi chơi nhẹ nhõm và tốt đẹp như vậy. Bây giờ, ngay cả khi leo dốc cũng thấy hăng hái nữa. Lẽ duy nhất phải nói đó chính là con đường đưa tới nhà anh Meaulnes mới tạo cho tôi cảm nghĩ hăng say ngấu nghiến như hiện tại.

Trước đây khi mô tả làng anh, anh Meaulnes có nói với tôi: “Một quãng trước khi tới đầu làng sẽ thấy một cái vòng lớn có cánh, gió thổi quay tròn…” Anh cũng không biết cái vòng đó dùng làm gì, hay tảng lờ không biết để cho tôi thêm tò mò muốn biết.

Mãi tới cái ngày gần tàn vào cuối tháng Tám năm ấy trông thấy chiếc vòng lớn đang quay trước gió giữa cánh đồng rộng, tôi mới hiểu rằng đó là cái vật dùng để kéo nước lên cho gia đình một tá điền ở gần. Những ngôi nhà đầu tiên của vùng ngoại ô đã xuất hiện đàng sau những cây dương. Khi tôi vòng quanh một khúc dài trên con đường lộ chạy dọc dài theo một dòng suối thì phong cảnh như mở rộng và bừng nở. Tới chân cầu lại trông thấy con đường chính trong làng.

Những con bò ăn cỏ thấp thoáng sau đám lau sậy ngoài đồng. Hai tay nắm càng xe, tôi đứng yên quan sát cái nơi đang sắp được mang tới một tin quan trọng. Các căn nhà xếp thành hàng dài dọc theo con phố có một vũng sâu bao bọc; mỗi căn đều có một nhịp cầu nhỏ bằng gỗ bắc từ mặt đường tới cửa ra vào. Tất cả trông giống như những chiếc thuyền đã được hạ buồm và cột lại trong buổi chiều êm tịnh. Đó là giờ mà trong các căn bếp đã có lửa nhóm trên lò.

Khi ấy, mối lo âu và niềm tiếc hận thầm kín rằng việc tôi tới đây sẽ làm xáo trộn bao nhiêu bình lặng của anh Meaulnes khiến cho mọi can đảm trong tôi như dường mất hết. Thêm vào nhiều hơn cho sự hèn yếu bất ngờ đó, tôi chợt nhớ ra bà Moinel, một trong các bà mợ của tôi cũng có một ngôi nhà trông ra công viên nhỏ tại La Ferté-d’Angillon.

Các con của mợ đều chết cả, tôi có biết rõ người con nhỏ nhất tên Ernest hồi đó là một cậu trai đã lớn sắp sửa đi dạy học. Ông cậu Moinel là một viên lục sự già cũng chết theo con ít lâu sau đó. Bà mợ tôi một mình sống trong căn nhà nhỏ lạ kiểu, thảm dưới đất gồm toàn những mẩu vải nhiều màu ghép lại, trên các mặt bàn bày những mèo hay gà trống gà mái làm bằng giấy, còn trên tường treo đầy những văn bằng cũ, các ảnh người đã chết và những cái thuẫn nhỏ bằng tóc kết lại. Bao trùm quanh bằng những thương tiếc và tang tóc như vậy, bà mợ tôi lại là hiện thân của sự kỳ dị và vui tính.

Tìm ra nhà bà mợ nơi khu công viên nhỏ, tôi nhìn qua cánh cửa hé mở, cất tiếng gọi to. Tức thì từ sâu trong ba căn phòng nối dài có tiếng bà vang lên:

“Cái gì thế hả Trời?”

Bà đánh đổ bình café trên bếp –vào giờ đó sao lại pha café nhỉ?—rồi hiện ra… Ngã người về đàng sau, mang trên đầu một thứ vừa là mũ đội mưa vừa là áo tơi, để lộ vầng trán rộng nhăn nheo trông giống như một phụ nữ Mông Cổ hay một bà giống Hottentote, bà cười từng tiếng ngắn, nhô ra cả hàm răng rất xinh.

Trong khi tôi hôn bà, bà vội vã, vụng về nắm lấy tay tôi sau lưng. Với một vẻ bí mật hết sức vô ích vì chúng tôi chỉ có hai người, bà nhét vào tay tôi một đồng tiền nhỏ mà tôi không dám ngó, ý hẳn đồng một quan... Rồi trong khi tôi làm bộ muốn hỏi tại sao, hay cám ơn bà, bà vỗ vai tôi, cười nói:

“Thôi đi! Mợ biết rồi!”

Bao giờ bà cũng nghèo, bao giờ cũng đi vay nhưng vẫn hoang rộng. Bằng cái giọng khàn khàn, không một chút chua chát, bà nói:

“Bao giờ mợ cũng ngu quá, bao giờ cũng khổ.”

Tin chắc rằng tôi luôn luôn bận tâm vì tiền cũng như bà, bà không đợi tôi nói đã vội nhét vào tay tôi món tiền nhỏ để dành được trong ngày. Sau đó bao giờ cũng đón tiếp tôi như vậy.

Bữa tối hôm đó cũng kỳ lạ --vừa buồn vừa kỳ lạ-- như lần đón tiếp dạo trước. Bao giờ bà cũng có một cây nến ở gần tay, lúc thì cầm lên để mặc tôi trong bóng tối, lúc thì lại đặt lên mặt chiếc bàn có bày đầy những đĩa và hũ sứt hay vỡ. Bà nói:

“Cái này hồi thập niên bảy mươi bị bọn người Phổ làm gãy mất quai vì bọn chúng không lấy mang đi được.”

Khi trông thấy chiếc bình với một lịch sử bi đát như vậy, tôi mới nhớ ra rằng xưa kia, có lần được cha tôi đưa tới quận Yonne kiếm một nhà chuyên môn chữa cho tôi cái đầu gối, tới đó phải đáp một chuyến xe lửa tốc hành đi qua đây lúc gần sáng, chúng tôi đã có ngủ lại và ăn bữa tối trong căn nhà cậu mợ tôi. Tôi nhớ lại bữa ăn buồn nản cùng những chuyện mà ông lục sự già ngồi kể, hai khuỷu tay chống trên bàn trước chai rượu màu hồng. Tôi cũng nhớ lại những nỗi kinh hãi đêm ấy của tôi… Sau bữa ăn, ngồi trước lò lửa, mợ Moinel kéo cha tôi quay lại để kể một chuyện ma: “Tôi trở mình lại… Chà! Anh Louis đáng thương ơi, tôi trông thấy gì, tôi thấy một người đàn bà bé nhỏ màu xám…” Bà mợ tôi vốn được tiếng là trong đầu đầy những chuyện nhảm ghê rợn.

 

Tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, mệt mỏi vì một ngày đạp xe, khi tôi đang nằm trong căn phòng lớn, bận chiếc áo ngủ kẽ ô vuông của ông cậu Moinel để lại, bà mợ tôi tới ngồi ở đầu giường, bắt đầu kể bằng cái giọng bí mật và the thé nhất của bà:

“Francois tội nghiệp ơi, mợ cần phải kể cho cháu nghe câu chuyện mà mợ chưa hề kể ra với ai hết…”

Tôi nghĩ: “Chán cho mình quá, thế là giống như mười năm trước, lại sắp sửa bị thất kinh cả đêm.”

Tôi để ý nghe. Bà lắc đầu rồi nhìn thẳng trước mặt như tự kể câu chuyện với chính bà:

“Bữa đó mợ cùng ông Moinel đi dự một dạ hội về. Đó là đám cưới đầu tiên mà cả hai cậu mợ cùng đi từ ngày Ernest đáng thương không còn nữa. Tại đó mợ gặp chị Adèle đã bốn năm rồi chưa gặp lại. Một ông bạn già của Moinel, giàu có lớn, mời cậu mợ tới dự đám cưới cậu con trai ở ấp Les Slabonnière. Cậu mợ mướn một cỗ xe. Mướn như thế tốn tiền lắm con ạ. Vào khoảng bảy giờ sáng giữa mùa đông giá rét, cậu mợ trở về. Mặt trời đã mọc. Trên đường tuyệt nhiên không có một ai. Bỗng dưng mợ trông thấy có cái gì ở ngay trước mặt. Một chàng trai nhỏ bé, tươi đẹp như mặt trời, đứng sững tại đó mà nhìn xe của cậu mợ chạy tới. Càng lại gần, càng thấy một gương mặt rất xinh nhưng trắng bệch đến phát sợ. Nắm chặt tay ông Moinel, thân hình run như tàu lá mà tưởng đó là Đức Chúa Trời... mợ nói: ‘Mình coi kìa, có sự hiển hiện.’ Cậu Moinel cáu kỉnh đáp rất nhỏ: ‘Tôi thấy rồi, bà già lắm miệng quá... ’

“Cả hai chưa biết xử sự ra sao bỗng thấy con ngựa đứng dừng lại. Nhìn gần thì thấy đó là một khuôn mặt xanh lợt, bận cái quần dài, trán đẫm mồ hôi, đầu đội chiếc mũ nồi bẩn thỉu. Mợ nghe thấy một tiếng nói nhỏ nhẹ: ‘Tôi không phải đàn ông, tôi là một thiếu nữ. Tôi bỏ trốn đi vì chịu không nổi nữa. Hai cụ làm ơn cho tôi đi nhờ xe.

“Lập tức cậu mợ mời cô ta lên. Vừa ngồi xuống, cô ta ngất đi. Thế con có thể tưởng tượng được đó là ai không? Chính là vị hôn thê của cậu bé ở ấp Les Sablonnières, Frantz de Galais, nơi mà cậu mợ vừa mới dự tiệc cưới.”

Tôi nói:

“Nhưng làm gì có đám cưới vì cô vợ chưa cưới đã bỏ trốn mất.” Bà mợ tiu nghỉu nhìn tôi:

“Đúng là không có. Làm gì có đám cưới. Bao nhiêu tư tưởng rồ dại nhồi nhét trong cái đầu điên đã được nó kể lại hết cho mợ nghe.

Nó là con gái một người thợ dệt nghèo khổ. Tin chắc rằng bao nhiêu hạnh phúc không thể có được, cậu bé kia so với nó còn trẻ quá và bao nhiêu những sự kỳ lạ mà anh chàng mô tả cho nó nghe đều là tưởng tượng hết, cho nên khi nghe Frantz nói sẽ tới đón về cho buổi đám cưới, nó đâm hoảng sợ.

Bữa đón dâu, Frantz cùng với nó và cô chị gái đi dạo trong công viên tòa tổng giám mục ở Bourges mặc dù trời gió lạnh. Chắc chắn vì lịch sự và bởi vì yêu cô em nên cậu ta hết sức săn sóc cô chị. Thế là tưởng tượng ra bao nhiêu chuyện, con bé điên tìm cách xin về nhà lấy cái khăn quàng, rồi đi bộ bỏ trốn lên Paris, bận quần áo con trai cho khỏi có ai theo bắt lại. Vị hôn phu nhận được một bức thư trong ấy con bé tuyên bố sẽ đi kiếm chàng trai nó thật sự yêu. Điều đó không đúng... Nó nói với mợ: ‘Cháu hy sinh như thế thấy sung sướng hơn là làm vợ cậu ta.’

Còn thằng bé ngu ngốc đó thì, trong khi chờ đợi, đâu có ý định lấy cô chị, đã tự bắn một phát súng vào đầu. Người ta có thấy máu của nó vương rắc trong rừng nhưng không sao kiếm ra được xác.”

Tôi hỏi :

“Thế còn cô bé đáng tội nghiệp đó thì mợ đối xử ra sao?”

“Trước hết cậu mợ cho nó uống một hớp rượu mạnh. Rồi cho nó ăn uống. Về tới nhà thì cho nó ngủ cạnh bên lò sưởi. Những hôm trời tạnh, suốt ngày nó may cắt áo dài, sửa lại mũ, cọ rửa sàn nhà hăng hái lắm. Chính nó đã dán lại hết những tấm rèm mà con thấy ở tường kia. Từ ngày có nó tới đây, chim én phải dời ra ngoài làm tổ hết. Nhưng mỗi tối, sau khi công việc hết, bao giờ nó cũng kiếm cớ để ra sân, ra vườn, hay đứng trước cửa, kể cả những ngày trời lạnh đến đá cũng phải nứt nẻ. Người ta thấy nó cứ đứng đó mà khóc sướt mướt.”

“Thế nào, còn có chuyện gì thế?”, mợ hỏi nó.

“Thưa cụ Moinel không ạ.”, nó đáp. “Rồi nó đi vào.

Hàng xóm bảo: ‘Cụ Moinel ơi, cụ kiếm đâu được một con bé ở xinh thế?”

Mặc dù mợ đã nài nỉ mãi, tới tháng Ba nó nhất định đòi đi Paris; mợ cho nó những áo dài mới may cắt lại, Moinel lấy vé xe lửa cho nó, rồi còn cho thêm ít tiền. Nó không quên cậu mợ đâu; nó đi làm thợ may ở gần nhà thờ Đức Bà, có viết thư hỏi thăm cậu mợ về tin tức ở ấp Les Slabonnières. Có một lần để cho nó khỏi vương vấn về chuyện đó nữa, mợ có viết thư trả lời nó rằng ấp đó đã đem bán đi, nhà cửa dỡ sạch, cậu con trai thì mất tích và cô con gái đã đi lấy chồng. Mợ cho rằng những chuyện đó đều đúng cả. Từ ngày đó, con bé Valentine cũng thưa viết thư cho mợ…”

 

Đó không phải là một câu chuyện ma mà mợ Moinel vẫn quen kể rất hạp bằng cái giọng kim the thé. Nhưng tôi lại thấy thật là khó chịu bởi chúng tôi đã thề với Frantz sẽ giúp đỡ hắn như anh em ruột và nay cơ hội giúp đang đưa đến…

Dù vậy cũng đâu phải lúc để làm hư mất nỗi vui mà sáng mai tôi sẽ đem tới cho anh Meaulnes nếu đem nói lại với anh câu chuyện vừa được nghe từ bà mợ. Tội vạ gì mà đẩy anh vào một công việc ngàn lần không thực hiện nổi? Nay dẫu có sẵn địa chỉ cô gái, nhưng tìm đâu cho ra anh chàng bô-hê-miêng đang lưu lạc tứ phương?...

Tôi nghĩ cứ mặc kệ bọn điên đi với bọn điên. Delouche và Boujardon nói không sai. Anh chàng lãng mạn Frantz đã gây ra bao nhiêu tai hại cho chúng tôi rồi! Tôi nhất định không hở môi trước khi chứng kiến cuộc hôn nhân của Augustin Meaulnes và Yvonne de Galais.

Đã quyết như vậy, trong tôi chỉ còn lại cảm giác khó chịu vì một điềm gở không hay nào đó, nhưng vội xua đuổi nó đi.

Ngọn nến cháy gần lụi; một con muỗi bay vo ve nhưng bà mợ Moinel, đầu cúi xuống vẫn mang cái mũ bằng nhung không bao giờ bỏ ra khi đi ngủ, hai khuỷu tay chống vào đầu gối, tiếp tục kể lại câu chuyện… Đôi lúc bà chợt ngẩng đầu ngó tôi để hỏi ý, hoặc giả như muốn nhìn xem tôi đã ngủ chưa. Sau hết, ngã đầu trên gối, tôi giả đò nhắm mắt.

Bà nói giọng khàn khàn, thất vọng: “Ồ con ngủ rồi ư?”

Tôi thấy tội nghiệp bà nên cãi:

“Không đâu mợ ạ, con nói thật với mợ là không ngủ đâu.” Bà đáp:

“Ngủ chứ. Mợ cũng hiểu là những chuyện đó con đâu có quan tâm tới. Mợ kể cho nghe chuyện những người mà con đâu có quen biết…”

Lần này, tôi phải hèn nhát mà cố giữ không đáp lời bà.

 

 

Chương 4

Cái Tin Mong Đợi

 

Buổi sáng hôm sau đúng là một ngày hè đẹp trời hết sức yên tịnh. Bao trùm khu làng có những tiếng động quen thuộc khiến cho tôi tìm lại được trọn vẹn sự vững tâm vui vẻ của một người đem tin mừng tới.

Hai mẹ con Augustin cư trú trong một ngôi nhà xưa kia được dùng làm trường học. Cha anh về hưu đã lâu và trở nên giàu có nhờ một món của hương hỏa. Khi ông chết đi, mẹ anh mua lại ngôi trường mà ông đã từng dạy học trong hai chục năm trời và cũng là nơi anh bắt đầu tập đọc.

Vẻ bề ngoài dễ thương, ngôi nhà hình vuông hệt như một tòa thị sảnh vì thực ra hồi trước thị sảnh đặt tại đó; các cửa sổ ở tầng sát đất mở ra phía đường cái và đều rất cao, không ai có thể ngó qua được; sân phía sau không có lấy một bóng cây, thêm một sân chơi có mái cao bít kín không nhìn thấy được phía bên ngoài. Thật đúng một sân trường bỏ hoang khô khan và lạnh lẽo tôi chưa từng biết…

Nơi hành lang quanh co thông với bốn phòng, tôi gặp bà mẹ anh Meaulnes đem từ ngoài vườn đi vào với một bó lớn đồ giặt, chắc bà ta đã đem ra phơi ngay từ sớm trong buổi sáng nghỉ hè dầy đặc này. Mái tóc xám của bà bị rối một phần; có những lọn xõa xuống trán; gương mặt đều đặn bên dưới kiểu tóc chải đã xưa trông xưng húp và mệt mỏi như vừa qua một đêm mất ngủ. Bà cụ buồn bã cúi mặt xuống ra chiều suy nghĩ.

Chợt trông thấy tôi, bà nhận ra liền và mỉm cười:

“Cậu đến vừa đúng lúc. Cậu xem này, tôi lấy những quần áo phơi vào để sửa soạn cho Augustin ra đi. Cả đêm hôm qua tôi phải ngồi tính toán tiền nong và sắp đặt hành lý cho nó. Xe lửa khởi hành lúc năm giờ, nhưng mọi thứ cũng đã được thu xếp xong…”

Cứ nhìn thấy vẻ tự tin của bà, ai cũng tưởng quyết định ra đi của Meaulnes là do nơi bà. Mà thật thì có lẽ chính bà cũng chẳng biết anh Meaulnes định đi đâu nữa. Bà nói:

“Cậu lên gác đi. Augustin đang ngồi viết trong phòng tòa xã trưởng.”

Tôi vội vã leo thang, mở cánh cửa bên tay mặt hãy còn gắn tấm biển Tòa Xã Trưởng. Đó là một căn phòng rộng có bốn khung cửa sổ, hai cửa mở ra phía làng và hai cửa mở về phía đồng cỏ. Trên tường có trưng những tấm ảnh đã vàng của các thống đốc Grévy và Carno. Trên cái bục dài kê suốt bề ngang ở tận cùng căn phòng vẫn còn chiếc bàn trải thảm màu lục với dãy ghế của các hội đồng xã. Giữa bàn, ngồi trong chiếc ghế bành của ông xã trưởng, anh Meaulnes đang viết, chấm ngòi bút vào đáy lọ mực bằng sành kiểu cổ hình quả tim. Trong những dịp không đi thăm thú các vùng, kéo dài những ngày nghỉ hè, anh thường rút về đây giống như một nơi dành riêng cho một thứ phú hộ ở làng.

Nhận ra tôi, anh đứng lên ngay, nhưng không có chút gì hấp tấp như tôi tưởng. Vẻ hết sức ngạc nhiên, anh chỉ nói:

“Kìa, Seurel!”

Vẫn là anh chàng cao lớn, nét mặt xương xương, đầu tóc hớt ngắn. Bộ râu lưa thưa bắt đầu mọc bên mép. Vẫn khóe nhìn thẳng thắn đó... Nhưng so với vẻ hăng hái của những năm trước thì nay thấy phảng phất một màn sương mà chỉ thỉnh thoảng mới bị đẩy lui đi bởi mối ham thích nồng nhiệt xưa kia.

Gặp tôi, anh coi bộ rất bối rối. Tôi nhảy một bước lên tới cái bục. Nhưng, thật là một sự lạ lùng nếu nói ra, anh chẳng buồn đưa tay cho tôi bắt, mà chỉ quay mặt lại phía tôi, hai tay chắp sau lưng, hết tựa người vào thành bàn lại ngã lên lưng ghế, vẻ hết sức ngượng ngập. Anh nhìn tôi mà không hẳn là nhìn, xem ra như đang bận lo nghĩ tới câu sắp nói với tôi. Giống như hồi xưa và như luôn luôn vẫn thế, anh vốn ít nói, như những con người sống đơn độc, những tay thợ săn hay những kẻ ưa thích phiêu lưu, vì vậy có khi quyết định việc gì xong rồi mà vẫn chưa tìm ra được lời để giải thích. Thì cũng thế, lúc bấy giờ thấy tôi đang đứng trước mặt, anh mới bắt đầu nghiền ngẫm một cách khó nhọc những lời cần nói.

Trong khi đó tôi vui vẻ kể hết cho anh nghe cuộc hành trình của tôi suốt từ nhà đi; lại cũng nói rằng tôi rất ngạc nhiên khi thấy mẹ anh lo sửa soạn hành lý cho cậu con ra đi...

Anh hỏi:

“Mẹ tôi nói với cậu thế sao?”

“Ừ, nhưng chắc không phải là một chuyến đi xa chứ?” “Xa, chuyến này đi xa lắm.”

Sững sờ một lát, lại cảm thấy rằng chốc nữa chỉ một lời thôi tôi cũng sẽ dẹp hẳn được ý định đó của anh –mà tôi chưa hiểu vì sao, nên tôi không dám nói thêm lời nào và cũng không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu.

Nhưng rồi chính anh đã nói, nói như đang muốn giãi bày với tôi điều gì đó:

“Seurel ạ, chắc cậu đã biết cuộc phiêu lưu kỳ lạ ở Sainte-Agathe có tầm vóc đối với tôi như thế nào. Đó là lẽ sống và mầm hy vọng của tôi. Nay hy vọng đó tan rồi, tôi còn là gì nữa? Làm sao tôi sống được như những người khác? Bởi vậy tôi đã thử tìm cách sống ở Paris khi nhận thấy mọi sự đều hết và chẳng nên đi tìm cái trang viện xa xôi đó nữa... Nhưng với một người đã có lần nhảy vọt tới thiên đường, về sau làm sao họ có thể tập sống như mọi người khác được? Những gì mà thiên hạ cho là hạnh phúc, tôi lại thấy thật đáng tức cười. Thế rồi cho đến một ngày khi cả quyết định làm giống như mọi người thì lại chính ngay ngày đó tôi đã làm chất chồng thêm trong tim biết bao hối hận khôn nguôi... ”

Ngồi nơi chiếc ghế kê trên bục, tôi không nhìn anh mà chỉ cúi đầu nghe anh nói, cũng chẳng biết nghĩ sao về những lời giải thích tối tăm đó. Sau cùng tôi bày tỏ:

“Anh Meaulnes ạ, xin giải thích rõ hơn nữa đi. Tại sao có vụ đi xa này? Anh có lỗi gì phải cần sửa lại? Và có cần phải giữ một lời đã hứa?”

Anh đáp:

“Ừ đúng thế. Cậu còn nhớ lời tôi đã hứa với Frantz chứ?” Tôi khoan khoái đáp:

“À, nếu chỉ là thế!”

“Vụ đó. Có lẽ cũng còn một điều lầm lỗi nữa cần sửa lại. Cả hai vụ làm một...”

Giữa một quãng im lặng, tôi quyết định phải nói ra với anh... Nhưng đang sửa soạn câu sẽ nói thì nghe anh tiếp:

“Tôi chỉ tìm thấy được một lối giải thích. Quả tình tôi vẫn còn muốn gặp cô de Galais một lần, chỉ gặp mặt mà thôi. Thuở xưa khi khám phá ra lãnh địa không tên đó thì tâm hồn và con người tôi đang còn rất trong trắng; điều mà không bao giờ tôi còn có nữa. Nhưng bây giờ tôi chắc rằng, chỉ có, như tôi đã viết trong thư gửi cậu, chỉ có cái chết họa may mới tìm lại được cái đẹp của thuở trước kia... ”

Anh đổi giọng, ghé lại gần tôi, hăng hái tiếp:

“Nhưng Seurel ạ, những tình tiết mới và cuộc viễn du này, tội lỗi mà tôi đã phạm và cần sửa chữa lại đây, tất cả thật ra cũng chỉ nằm trong cuộc phiêu lưu cũ tôi từng đeo đuổi.”

Im lặng, trong khi đó anh cực nhọc cố thu thập những kỷ niệm. Tôi đã bỏ lỡ cơ hội trước. Tôi nhất định không vì lẽ gì mà bỏ lỡ cơ hội này; và lần này thì tôi nói –tôi vội nói quá, về sau cay đắng tiếc sao không để cho anh thú thật ra hết cả.

Định thốt ra câu đã sửa soạn khi nãy, nhưng tới bây giờ lại thấy không còn hợp cảnh nữa nên tôi bỏ. Thân hình bất động, đầu hơi lắc lư một chút, tôi nói:

“Nếu tôi tới báo cho biết hy vọng của anh chưa hề mất thì sao?”

Anh ngó tôi, rồi, bỗng quay nhìn chỗ khác, mặt đỏ bừng, máu kéo dồn lên hai bên thái dương… Mãi sau mới hỏi, tiếng nói không nghe rõ nữa:

“Cậu bảo gì?”

Thế là tôi kể hết một hơi những điều đã biết, những gì tôi đã làm và mọi sự nay đã thay đổi, gần như Yvonne de Galais đã bảo tôi đi tìm anh.

Lúc đó da mặt anh tái xanh một cách dễ sợ.

Trong khi tôi kể, anh chỉ lặng lẽ nghe, cái đầu rụt lại trông giống như một người phạm tội vừa bị bắt gặp mà không biết xử sự ra sao, phải nên lẫn trốn hay chạy đi. Tôi nhớ anh chỉ ngắt lời tôi có mỗi một lần. Tôi cũng báo rằng lãnh địa Les Sla -bonnières đã bị san bằng hết, trang viện thời xưa nay không còn nữa. Anh nói:

“Đấy, cậu thấy chưa? (ra tuồng như chỉ đợi lúc này để chứng minh hành vi của mình và sự thất vọng anh từng lặn ngụp trong đó). Cậu thấy chưa, còn gì nữa đâu?”

Sau hết, tin chắc bấy nhiêu thuận tiện sẽ đánh tan hết nỗi đau khổ của anh, và để kết thúc, tôi trình bày về chuyện chú Florentin có tổ chức một buổi đi chơi ngoài đồng, cô de Galais sẽ đánh xe ngựa tới dự và cả anh cũng được mời nữa. Nhưng xem ra anh hết sức luống cuống, cứ trầm ngâm im lặng.

Tôi nóng nảy:

“Phải lập tức hoãn cuộc ra đi này lại. Chúng mình xuống thông báo cho bác biết đi…” Khi cả hai cùng xuống lầu, anh hỏi tôi, điệu ngần ngại:

“Nhất định là tôi phải dự cuộc đi chơi ngoài đồng sao?” Tôi đáp:

“Ô kìa, còn phải bàn!”

Trông anh có vẻ như người đang bị kẻ nào đun vai đẩy đi.

Tới nhà dưới, Meaulnes báo với mẹ rằng tôi sẽ cùng dùng cơm bữa trưa, bữa tối ngủ ở đây và ngày hôm sau anh sẽ mướn một chiếc xe đạp để theo tôi đi Vieux-Nancay. Bà mẹ lắc đầu:

“Tốt lắm!” (như thể những tin mới đưa ra đó đã được bà dè chừng từ trước rồi.)

Tôi ngồi trong phòng ăn nhỏ, dưới những tấm lịch hình màu, những con dao găm chạm trỗ và những bầu rượu bằng da kiểu Sudan mà người chú của anh trước kia là quân nhân trong ngành thủy quân lục chiến đã đem về sau những chuyến đi xa.

Augustin để tôi tại đó một lát. Phòng bên cạnh, nơi bà mẹ đang sửa soạn hành lý cho anh, tôi nghe thấy anh nói nhỏ rằng đừng dỡ rương ra vội vì chuyến đi có lẽ chỉ chậm lại thôi.

 

Chương 5 Một Cuộc Đi Chơi

 

Trên đường đi Vieux-Nancay, tôi khó nhọc lắm mới theo nổi anh Meaulnes. Anh đạp xe như một tay đua. Tới giốc cũng không chịu xuống. Tiếp theo sự ngập ngừng khó hiểu hôm trước, nay là cả một cơn sốt, một mối nóng nảy, ham thích muốn mau mau tới nơi. Điều này khiến cho tôi không khỏi lo sợ đôi chút.

Đến nhà chú Frorentin, anh vẫn tỏ ra nóng nảy như vậy, xem ra không thể lưu tâm tới một việc gì cho mãi đến sáng hôm sau, khoảng mười giờ, chúng tôi lên xe ra bờ sông.

Khi đó đang cuối tháng Tám, mùa hè sắp dứt. Những cái vỏ ngoài vàng úa, không có hạt ở các cây dẻ đã bắt đầu rụng trên mặt đường trắng. Chuyến đi không xa, trại Les Aubiers bên bờ sông Cher, nơi chúng tôi định tới, chỉ cách ấp Les Slab- lonnières có hai cây số. Dọc đường, thỉnh thoảng chúng tôi gặp các du khách khác đi xe tới, có cả những chàng trai trẻ cưỡi ngựa mà chú Florentin đã tự tiện nhân danh ông de Galais mà mời. Cũng như ngày xưa, người ta cố ý hòa trộn người giàu với người nghèo, chủ lâu đài với nông dân. Vì vậy chúng tôi thấy Jasmin Delouche cũng có mặt qua sự trung gian của ông gác rừng Baladier trước kia có quen biết với chú tôi.

Anh Meaulnes nhìn thấy gã, nói:

“Kìa, tên đó nắm được chìa khóa của mọi chuyện trong khi chúng mình mất công đi kiếm tận Paris. Nghĩ mà đáng thất vọng!”

Mỗi lần trông thấy gã, mối hờn ghét của anh lại tăng gấp bội. Gã kia lại tưởng có quyền được hưởng sự biết ơn của bọn tôi nên bám sát theo xe chúng tôi cho đến khi tới nơi. Xem ra gã cố gắng một cách thảm hại, vô hy vọng, để lo quần áo và trang điểm, hai cái đuôi đã mòn của chiếc áo đuôi tôm đập phành phạch vào cái chắn bùn sau xe…

Mặc dầu cố gắng tỏ ra dễ thương, khuôn mặt già trước tuổi đó cũng không làm cho ai ưa thích. Còn tôi chỉ thấy là gã đáng tội nghiệp. Nhưng trong ngày đó ai mà chẳng để cho tôi thấy đáng tội nghiệp?

Bất cứ lần nào hồi tưởng lại cuộc đi chơi này, tôi đều cảm thấy trong lòng dậy lên một sự luyến tiếc thầm kín đến như muốn nghẹt thở. Từ trước tôi đã dành cho buổi hôm nay bao nhiêu là vui vẻ. Tất cả mọi sự đều như quy tụ đem theo niềm hạnh phúc. Ấy thế mà vui chẳng được kéo dài là bao!...

Tuy nhiên, bữa đó bờ sông Cher mới đẹp làm sao! Mọi người ghé lại triền đồi xuôi thoai thoải, chia thành những đồng cỏ xanh rờn và những khu trồng cây dương có hàng giậu ngăn cách y hệt như những thửa vườn nhỏ. Phía bên kia bờ sông gồm toàn những trái đồi màu xám dốc thẳng, trơ đá. Trên những ngọn đồi xa xa, giữa các lùm thông, thấp thoáng thấy các tòa lâu đài thơ mộng với những cây tháp nhọn. Xa nữa, thỉnh thoảng lại nghe tiếng bầy chó săn của lãnh địa nhà Préveranges sủa vang.

Chúng tôi tới đây qua những lối đi chằng chịt lúc thì trơ những đá sỏi trắng, lúc thì đầy những cát, gần tới mé sông lại biến thành những dòng suối do mạch nước từ dưới đất rỉ lên. Khi đi ngang đó, những cành phúc bồn tử dại vướng cả vào tay áo chúng tôi. Cũng có khi chúng tôi bước vào vùng âm u tươi mát trong những khe sâu, có lúc ngược lại, đi qua hết những hàng giậu rồi ra giữa ánh nắng chan hòa của cả vùng thung lũng. Xa xa, bên bờ đối diện, tới gần lại thấy có một người đang bấu vào vách đá, chậm rãi tung ra những sợi dây câu. Trời ơi! Phong cảnh thật đẹp làm sao!

Chúng tôi dựng trại trên một bãi cỏ, trong khoảng êm tịnh của rừng thông thưa thớt. Đó là một khu cỏ mọc thấp, nhiều chỗ để mọi người có thể tha hồ ngao du.

Xe được tháo ngựa dẫn tới trại Les Aubiers. Trong rừng mọi người bắt đầu bày các thức ăn, những chiếc bàn nhỏ gấp lại được đã do chú tôi đem theo, đặt trên bãi cỏ.

Lúc ấy cần có ai sốt sắng tự nguyện đi đến chỗ đầu đường lớn gần đó để đợi những người tới sau và chỉ cho họ lối vào đây. Tức thì tôi xin nhận; anh Meaulnes cũng cùng theo. Đứng ở cầu treo, chỗ giao nhau của nhiều con đường nhỏ từ ấp Les Sablonnières đưa tới, cùng gợi lại chuyện quá khứ, cả hai như tìm đủ cách để tự giải trí trong khi chờ đợi. Một chiếc xe từ Vieux-Nancay đi đến, trên có những nông dân không quen biết và một cô gái khoác lên mình những sợi băng lụa. Rồi chẳng còn ai nữa. À, thêm chiếc xe do lừa kéo, trên có ba chú bé con của ông làm vườn trong ấp Les Slabonnières thuở xưa.

Anh Meaulnes nói:

“Dường như tôi nhớ mặt họ. Hồi xưa, chính mấy cậu bé đó đã dắt tay tôi đưa tới chỗ dự tiệc trong buổi dạ hội đầu tiên…”

Lúc ấy con lừa không chịu bước nữa nên bọn trẻ xuống xe ra sức chọc kéo con vật. Anh Meaulnes thất vọng, bảo rằng anh đã nhìn lầm.

Tôi hỏi bọn trẻ xem dọc đường có gặp ông cụ và cô de Galais không. Một đứa trả lời không biết, đứa khác đáp:

“Thưa ông, hình như có.”

Và chẳng cho biết thêm gì nữa. Rồi bọn trẻ đi xuống chỗ bãi cỏ, đứa thì nắm dây cương kéo lừa, đứa thì đẩy phía sau xe.

Chúng tôi lại đứng đợi. Anh Meaulnes chăm chú ngó khúc quanh rẽ vào con đường về ấp Les Slabonnières, vẻ lo lắng ngóng đợi cô gái mà trước kia anh đã nhọc công tìm kiếm. Một sự bực bội kỳ cục gần như đáng tức cười bỗng xâm chiếm anh để rồi đổ lên đầu Jasmin. Chúng tôi leo lên cái gò cao để nhìn ra xa trên đường, thấy nơi bãi cỏ phía dưới có một đám du khách trong đó Jasmin Delouche đang tìm cách làm cho mình nổi bật. Anh Meaulnes nói:

“Coi hắn kìa, đang nổ miệng. Thật là một thằng tồi bại!” Tôi đáp:

“Cứ mặc kệ gã. Gã làm gì được thì làm, tội nghiệp gã quá.”

Augustin vẫn không ngừng. Nhìn thấy đàng kia có con thỏ hay con sóc vừa nhảy vào bụi rậm, anh lên tiếng mỉa mai như tuồng sự bạo gan của Delouche còn vượt cao hơn nữa:

“Ô hay quá, bây giờ hắn lại phóng chạy?”

Lần này tôi không thể không bật cười. Meaulnes cũng vậy, nhưng chỉ trong nháy mắt. Một khắc đồng hồ nữa qua đi. Anh nói:

“Hay cô ta không tới?” Tôi đáp:

“Cô đã có hẹn. Anh chịu khó chờ một chút.”

Anh lại tiếp tục ngóng trông. Nhưng lát sau, không thể nào chịu nổi, anh nói:

“Này cậu, tôi đi xuống với bọn họ đây. Không hiểu có cái gì cứ ám ảnh để tôi phải nghĩ, nếu cứ đứng đây thì chắc cô ta sẽ không tới. Không thể nào trong chốc lát mà từ chỗ đầu đường kia lại thấy cô xuất hiện cho được.”

Rồi anh đi xuống bãi cỏ, để mặc tôi đứng đợi một mình. Tôi bước quá chừng một trăm thước trên con đường nhỏ cho qua thì giờ; vừa tới khúc quanh đầu tiên, chợt trông thấy Yvonne de Galais cỡi trên lưng con ngựa trắng. Sáng hôm đó con ngựa coi bộ hăng hái lắm khiến cô gái phải kéo mạnh dây cương ngăn không cho đi nước kiệu. Ông de Galais, nhọc mệt, lẳng lặng bước cạnh. Ý hẳn hai cha con đã phải thay phiên nhau mỗi người cỡi con ngựa già một đoạn ở dọc đường.

Khi cô gái trông thấy tôi có một mình liền mỉm cười, lẹ làng nhảy xuống đất, đưa giây cương cho ông bố và tiến lại phía tôi trong khi tôi cũng chạy lại phía cô. Cô nói:

“Tôi rất sung sướng thấy anh có một mình, vì không muốn để ai thấy, ngoài anh ra, con ngựa già Bélisaire của tôi, cũng không muốn cột nó lẫn với đám những con ngựa khác. Trước hết vì nó già xấu quá; thứ nữa, chỉ e nó bị đám kia đụng què cẳng thôi. Với duy một mình nó, tôi mới dám cỡi. Chừng nào nó chết, tôi sẽ không cỡi ngựa nữa.”

Ở cô de Galais, cũng như ở anh Meaulnes, tôi nhận thấy đàng sau sự sốt sắng dễ thương, nét duyên dáng bề ngoài xem ra bình thản đó, có một vẻ bồn chồn gần như lo sợ. Cô nói mau hơn lúc thường. Dù đôi gò má ửng hồng, nhưng quanh mắt và trên vầng trán thấy có những vết xanh tỏ rõ sự bối rối.

Chúng tôi thoả thuận buộc con Bélisaire vào một gốc cây trong khu rừng nhỏ, ngay gần lộ. Ông già de Galais vẫn như bao giờ, lặng im lấy sợi giây trong túi da bên yên ngựa ra cột con vật. Nhìn cách cột của ông, tôi nghĩ có lẽ là hơi thấp, nhưng hứa rằng lát nữa sẽ bảo người mang cỏ và rơm trong trại ra cho ngựa.

Trong óc, tôi tưởng tượng, cũng như buổi nào thuở xưa, cô de Galais đi ra chỗ bãi cỏ xuống ven bờ đầm khi lần đầu anh Meaulnes được gặp.

Đưa một tay cho cha dẫn, tay còn lại kéo chiếc áo choàng rộng trùm kín cả người, cô gái bước về phía đám đông, vẻ vừa nghiêm trang vừa thơ trẻ. Hết thảy mọi du khách đang tản mác hay chơi đùa ở xa đều đứng lên và tụ lại để đón cô gái; có một khoảnh khắc im lặng trong khi mọi người chờ đợi cô đi tới.

Anh Meaulnes đứng lẫn trong đám thanh niên, ngoại trừ tầm vóc cao cao, còn thì không có gì phân biệt giữa anh với họ: trong đám có những chàng trai cũng cao không kém. Anh không tỏ điệu bộ gì để được cô de Galais chú ý, chẳng một cử chỉ, không một bước tiến lại gần. Tôi thấy anh, quần áo màu xám, đứng yên lặng giống như mọi người, đưa mắt nhìn thẳng vào cô gái đang đi tới. Tuy nhiên, một hồi, bằng cử chỉ ngượng ngùng vô thức, anh bỗng đưa tay lên đầu để trần như muốn che giấu bớt cái vẻ nông dân mộc mạc của mình giữa một đám thanh niên tóc chải mượt mà.

Đám đông bao quanh cô de Galais, giới thiệu với cô những thiếu niên và thiếu nữ chưa quen… Sắp tới lượt bạn tôi, tôi cũng cảm thấy hồi hộp không kém. Tôi định tự mình lo việc giới thiệu ấy. Nhưng trước khi tôi kịp mở lời thì cô gái đã tiến lại gần anh với một vẻ cương quyết và nghiêm trang kỳ lạ, nói:

“Tôi đã nhận ra Augustin Meaulnes rồi.” Xong đưa tay cho anh bắt.

 

 

Chương 6

Một Cuộc Đi Chơi.

 

Nhiều người mới tới khác tiến lại gần để chào cô de Galais nên hai người trẻ tuổi phải rời xa nhau. Một sự tình cờ đáng buồn khiến cho cả hai không được ngồi cùng nơi cái bàn nhỏ để ăn bữa trưa. Nhưng anh Meaulnes xem ra đã lấy lại được sự tự tin và can đảm. Nhiều lần, khi đứng một mình giữa Delou- che và ông de Galais, tôi thấy anh bạn từ xa đưa tay lên vẫy.

Mãi tới gần tối, khi những cuộc dạo chơi, bơi lội, trò chuyện theo từng nhóm hay đáp thuyền trên mặt đầm... được tổ chức hẳn hòi ở khắp nơi, anh Meaulnes mới có dịp tới trước mặt cô gái. Khi ấy chúng tôi đang trò chuyện với Delouche, mỗi người ngồi trên một chiếc ghế dùng ngoài vườn từ nhà chú tôi đem đến, thì thấy cô de Galais rời khỏi một đám đông thanh niên và tiến lại phía chúng tôi. Cô hỏi:

“Sao các anh không cùng mọi người bơi thuyền trên đầm Les Aubiers?” Tôi đáp:

“Hồi trưa chúng tôi đã đi mấy vòng rồi, nhưng chán ngay vì không thích thú mấy.” Cô lại hỏi:

“Sao các anh không bơi hẳn ra sông?”

“Dòng nước mạnh quá, sợ bị cuốn trôi đi mất.” Anh Meaulnes nói:

“Cần phải có một cái ca-nô chạy bằng dầu lửa hay một chiếc du thuyền chạy bằng hơi nước như xưa kia.”

Cô gái đáp rất nhỏ:

“Bây giờ không còn nữa, đã bán mất rồi.”

Tiếp theo là một khoảng im lặng ngượng nghịu.

Jasmin mượn dịp đó để tạ từ chạy đi trò chuyện với ông de Galais. Gã nói: “Tôi biết chỗ kiếm được cụ.”

Quả là một sự tình cờ lạ lùng! Hai con người thật khác biệt lại hợp với nhau, từ sáng nay không rời nhau nữa. Lúc chiều ông de Galais có kéo tôi riêng ra một chỗ để bảo cho biết tôi có người bạn khéo léo, khiêm nhường và nhiều đức tính lắm. Không chừng ông cụ đã đi tới chỗ nói cho gã biết sự bí mật về con Bélisaire và chỗ giấu con vật.

Riêng tôi cũng nghĩ nên rút lui, nhưng cảm thấy hai người trẻ tuổi đang ngượng ngùng, lo ngại trước mặt nhau. Vì vậy tôi thấy tốt hơn hết là tôi ở lại…

 

Bấy nhiêu kín đáo về phần Jasmin, cũng như bấy nhiêu thận trọng về phần tôi cũng không giúp ích được bao nhiêu. Hai người trò chuyện; nhưng với một vẻ ngoan cố mà chắc là không lưu ý tới, anh Meaulnes luôn luôn nhắc lại những kỷ niệm kỳ diệu hồi xưa. Mỗi lần như thế là cô gái phải miễn cưỡng trả lời rằng bao nhiêu chuyện đó đều đã tan biến hết: ngôi nhà cổ kỳ lạ nay đã được dỡ đi; đầm nước rộng lớn nay đã bị tát cạn và lấp đầy đất; những chú bé con với những quần áo dễ thương nay đã phân tán cả…

Anh Meaulnes chỉ à một tiếng thất vọng, dường như mỗi sự tan biến như vậy lại thêm một lý do cho anh thấy trái nghịch lại với cô gái và với tôi.

Sánh bước bên nhau, tôi mãi cố gắng để làm cho tiêu tan hết nỗi buồn đang nhận chìm cả ba người. Rồi anh Meaulnes lại đưa ra một câu hỏi đột ngột, hỏi thăm về những thứ mà trước kia từng gặp: những cô gái nhỏ, người đánh chiếc xe hòm cổ, bầy ngựa chạy đua.

“Cả bầy ngựa cũng bán đi rồi sao? Không còn con ngựa nào ở ấp nữa?” Cô gái trả lời rằng không còn nữa. Cô tránh không nói tới con Bélisaire. Anh Meaulnes nhắc lại những đồ vật trong căn phòng anh ngủ: những cây đèn, tấm gương lớn, cây đàn ly tao bị gẫy… hỏi thăm về tất cả những thứ đó với một vẻ say mê khác lạ như tuồng muốn tự thuyết phục chính mình rằng chẳng có gì trong cuộc phiêu lưu tuyệt diệu kia còn lưu lại; rằng cô gái không đem được cho anh chút vết tích nào có thể chứng minh rằng cả hai hồi đó hiện hữu thật sự chứ không phải là trong một giấc mơ, khác nào người thợ lặn chỉ đem từ đáy nước lên một mớ rong hay vài hòn sỏi…

Cả cô de Galais và tôi đều không thể nén nổi một cái mỉm cười rất buồn. Cô quyết định giải thích cho anh hiểu:

“Anh không bao giờ còn tìm thấy được tòa lâu đài tráng lệ mà Monsieur de Galais và tôi đã sắp đặt cho em Frantz đáng thương. Trọn đời chúng tôi chỉ lo chiều nó. Thật là một con người lạ lùng nhưng cũng đáng yêu dường ấy! Nhưng rồi tất cả đều cùng với nó tan biến hết trong đêm đám cưới bị lỡ dở. Monsieur de Galais đã bị tán gia bại sản mà chúng tôi đâu có biết. Frantz có vay nợ nhiều, tới khi hay tin nó bỏ trốn, các bạn nó đều tới đòi chúng tôi. Chúng tôi đã trở nên nghèo. Rồi Madame de Galais chết. Vậy là chỉ trong có mấy ngày mà bao nhiêu bè bạn cũ của chúng tôi đều bỏ đi hết. Nếu chưa chết, Frantz nên trở về nhà. Nó sẽ gặp lại các bạn cũ và cô vị hôn thê; đám tiệc cưới bị gián đoạn sẽ tiếp tục, biết đâu mọi sự sẽ chẳng trở lại giống như cũ. Nhưng dĩ vãng có bao giờ sống lại được không?”

Anh Meaulnes trầm ngâm: “Biết đâu đó!”

Rồi anh không hỏi gì nữa.

Trên cỏ ngắn đã bắt đầu úa vàng, chúng tôi ba người bước đi không tiếng động. Augustin đi bên tay phải cô gái mà anh đã tưởng không bao giờ gặp lại. Mỗi khi anh hỏi một câu đau đớn nào, cô gái chậm rãi quay bộ mặt lo lắng dễ thương lại phía anh để đáp lời. Có một lần khi nói với anh, cô gái nhẹ nhàng đặt bàn tay lên cánh tay anh, một cử chỉ đầy tin cậy và yếu đuối. Tôi không hiểu tại sao anh Meaulnes lại cứ tỏ ra như một nguời khách lạ; một người không tìm thấy vật muốn tìm để không còn gì khác làm cho lưu ý tới nữa? Hạnh phúc này, ba năm trước bắt gặp, có lẽ anh không thể chịu đựng nổi mà không hoảng sợ hay phát điên lên. Nguyên do từ đâu đưa đến khoảng trống rỗng, sự xa cách, vẻ hèn yếu không kham nổi sung sướng mà anh đang có lúc ấy?

Chúng tôi đi tới gần khu rừng nhỏ ban sáng ông de Galais đã cột con ngựa. Mặt trời sắp lặn, trải dài những cái bóng của chúng tôi trên mặt cỏ. Ở đầu bãi, có tiếng nói của bọn người đang chơi đùa và tiếng những cô gái nhỏ ầm ì văng vẳng giống như một bầy ong.

Cả ba đang trong sự trầm lặng lạ lùng, bỗng nghe có tiếng hát của ai đó đang dẫn bầy thú đi uống nước, cất lên sau cánh rừng, theo hướng trại Les Aubiers cạnh bờ sông. Tiếng hát trong trẻo xa xôi; nhịp nhàng đều đặn, nhưng giọng hát đàn ông lại kéo dài lả lướt theo điệu một bài ballade cổ và buồn:

Đôi giày của ta màu đỏ Thôi từ biệt các bạn tình Đôi giày của ta màu đỏ

Thôi từ biệt, không ngày trở lại…

Anh Meaulnes ngước đầu lắng nghe. Đó chính là điệu mà đêm hội cuối cùng nơi trang viện không tên, những nông dân còn nán lại đã hát sau khi bao nhiêu chuyện đã đổ vỡ hết… Đó chỉ còn là một kỷ niệm rất thảm thương của quãng thời gian không trở lại bao giờ.

Anh nói nhỏ:

“Các người nghe thấy không? Ồ, tôi phải đi coi.” Rồi lập tức chạy vào cánh rừng nhỏ.

Đột nhiên giọng hát im bặt; có tiếng đàn ông thứ hai huýt sáo gọi bầy thú, âm thanh xa dần rồi mất hút…

Tôi nhìn cô gái. Vẻ buồn rầu và suy nghĩ, cô còn để mắt dõi theo ngôi rừng thưa nơi anh Meaulnes vừa khuất dạng. Về sau, biết bao lần, cô cũng băn khoăn hướng về cái nơi anh Meaulnes sẽ mãi mãi bỏ đi.

Cô gái quay lại phía tôi, giọng đau đớn: “Anh ấy không sung sướng.”

Rồi cô tiếp:

“Xem chừng tôi cũng chẳng có ích gì hơn cho anh ấy đâu.”

Tôi ngần ngại không đáp vì e rằng sau khi bay tới trại và băng qua rừng để quay trở lại, anh Meaulnes sẽ bắt gặp bọn tôi đang nói chuyện về anh. Tôi định khích lệ cô gái rằng đừng nên ngại ngùng trong việc khơi cho anh nói ra điều bí ẩn nào đó đang làm anh thất vọng mà tự anh sẽ không bao giờ nói cho ai biết—thì bỗng dưng nghe một tiếng kêu phát ra từ phía rừng bên kia; rồi tiếng con ngựa đang vùng vẫy đập chân sau và tiếng người cãi lộn… Lập tức tôi hiểu là có tai nạn gì đang xảy ra cho con ngựa già Bélisaire nên vội chạy tới chỗ phát ra tiếng ồn. Cô de Galais đi theo sau tôi từ xa. Bên khu bãi cỏ, mọi người dường như nhận ra hành động của bọn tôi vì lúc đi vào rừng tôi nhận biết nhiều người cũng đang chạy tới.

Con ngựa già bị cột thấp quá nên đã vướng một chân vào giây cương. Nó vẫn đứng yên cho tới khi ông de Galais và Delouche đi dạo tiến lại gần. Hoảng sợ và bị kích thích vì mớ lúa mạch bất ngờ đem tới cho nó nên nó vùng vẫy như điên. Monsieur de Galais và Delouche cố gắng gỡ chân nó ra nhưng hành động của họ vụng về đến nỗi càng làm nó vướng thêm mãi, lại cũng có thể bị nhận những cú đá nguy hiểm của nó. Ngay lúc đó anh Meaulnes tình cờ từ trại Les Aubiers trở về gặp bọn này. Cáu tiết vì thấy họ quá sức vụng về, anh hất hai người ra đến suýt ngã nhào vào bụi rậm. Thật thận trọng, trong nháy mắt anh gỡ được chân cho con Bélisaire. Nhưng đã quá muộn. Con ngựa có lẽ bị bong gân, luôn cả gãy xương nữa vì thấy nó đứng rũ đầu xuống một cách thảm hại, cái yên tuột ra giữa chừng ở trên lưng, một chân co lên bụng, run lẩy bẩy. Anh Meaulnes cúi xuống nắn chân nó, ngắm con vật, chẳng nói năng gì.

Khi anh ngẩng đầu lên thì hầu hết mọi người đã tụ tập tại đó, nhưng anh chẳng thèm nhìn ai, mặt đỏ lên vì cáu tiết, rồi bật la lớn:

“Không hiểu ai lại buộc con ngựa như vậy chứ? Lại để nguyên cái yên trên lưng nó suốt một ngày. Mà ai lại dám thắng yên để cỡi một con ngựa giỏi lắm chỉ kéo nổi cái xe!”

Delouche toan nói câu gì --tự nhận hết mọi tội lỗi.

“Thôi chú mày câm miệng, cũng tại chú mày nữa. Rõ ràng ta trông thấy chú mày đang ngu xuẩn kéo mãi dây cương để gỡ cho nó.”

Anh lại cúi xuống tiếp tục lấy lòng bàn tay xoa bóp chân con ngựa. Monsieur de Galais từ nãy chưa nói gì, bỗng dại dột lên tiếng. Ông cụ bập bẹ:

“Các sĩ quan hải quân vẫn có thói quen… Con ngựa của tôi…”

Anh Meaulnes đã nguôi đôi chút, giờ mặt lại đỏ gay, quay đầu về phía ông cụ nói: “À ra là ngựa của cụ?”

Tôi tưởng anh sẽ đổi giọng, cất lời xin lỗi, nhưng anh chỉ đứng thở một lát. Và tôi thấy anh như tìm ra cái thú chua chát thất vọng muốn phá đổ hẳn tất cả, làm tình thế thêm gia trọng khi thốt ra một cách xấc xược:

“Nếu vậy cụ chẳng đáng được khen đâu!” Có người bàn:

“Nên lấy nước lạnh… Đem ngâm chân nó xuống chỗ sông cạn…” Anh Meaulnes không đáp, chỉ nói:

“Phải đem ngay con ngựa già này về trong khi nó còn đi được. Không thể trì hoãn. Rồi cho nó vào chuồng và đừng bao giờ lôi nó ra nữa.”

Mấy chàng trai trẻ xin lo vụ đó, nhưng cô de Galais vội cám ơn họ. Khuôn mặt đỏ như lửa, nước mắt sắp trào ra khỏi khóe, cô cáo biệt mọi người, kể cả Meaulnes đang lúng túng không dám ngó mặt cô. Nắm sợi dây cương, trông cô như đang cầm tay một người để xích tới gần hơn là dẫn con vật đi. Buổi chiều cuối mùa hạ trên đường về Les Sablonnières, gió mang hơi nóng ẩm khiến mọi người cứ ngỡ như còn là tháng Năm. Lá trên cây ở các hàng giậu rung rung theo ngọn gió nam. Chúng tôi nhìn theo cô de Galais, cánh tay thò một chút ra khỏi áo choàng, bàn tay nhỏ bé nắm sợi dây cương lớn bằng da. Ông cụ vất vả bước đi bên cạnh…

Thật là một buổi chiều tàn rất buồn. Ai nấy thu nhặt các gói đồ dùng dao nĩa của mình; ghế được gấp lại, bàn được tháo rời ra; những chiếc xe chất đầy người và đồ đạc bắt đầu chuyển bánh, các cái mũ được giơ cao và mu-soa đưa ra phất. Anh Meaulnes và tôi cùng với chú Florentin là những người cuối cùng còn lại trên bãi cỏ và cùng đang nghiền ngẫm những nỗi hối tiếc và thất vọng ê chề như nhau.

Đến lượt chúng tôi cũng ra về trên chiếc xe êm ái, được con ngựa hồng kéo chạy phăng phăng. Tới chỗ ngoặt, bánh xe nghiến trên cát. Anh Meaulnes và tôi ngồi ở hàng ghế sau thấy chiếc xe vút qua khúc đường hẹp nối liền với con ngõ tắt mà con ngựa già Bélisaire cùng với hai người chủ vừa rẽ vào khi nãy…

Lúc đó bạn tôi –con người mà tôi biết chắc rằng khó bao giờ để rơi một giọt lệ-- bỗng đưa ra về phía tôi một bộ mặt nhăn nhúm vì không thể cưỡng lại nổi một trận nước mắt. Anh đặt tay lên vai chú Florentin nói:

“Chú làm ơn ngừng lại. Xin đừng quan tâm tới cháu. Cháu sẽ đi bộ về một mình.”

Rồi một tay chống lên cái chắn bùn, anh nhảy xuống đất. Tất cả chúng tôi đều sửng sốt khi thấy anh chạy lộn ngược trở lại cho đến con đường hẹp vừa đi qua, có con ngõ tắt dẫn về ấp Les Slablonnières. Chắc hẳn anh đang đi tới tòa lâu đài cũ bằng con đường có trồng thông mà hồi trước anh chàng lang thang ngồi núp mình trong bụi rậm lén nghe câu chuyện giữa những đứa trẻ nhỏ xinh xắn không quen biết… đã đi qua.

Tối hôm đó, cùng với những nhịp thổn thức, anh cầu hôn cô de Galais.

Chương 7 Ngày Đám Cưới

 

Đó là một ngày thứ Năm đầu tháng Hai, một buổi chiều thứ Năm lạnh giá, gió thổi mạnh. Lúc đó vào khoảng ba giờ rưỡi hay bốn giờ... Trên các hàng giậu, ở các thôn xóm, quần áo giặt được đem phơi từ trưa đang khô đi dưới những cơn gió lộng. Trong nhà, lửa lò sưởi ở phòng ăn làm loé sáng cả một bàn những đồ chơi bóng lộn ủa trẻ em. Chơi đã mệt, đứa trẻ tới ngồi gần mẹ, đòi mẹ kể cho nghe chuyện ngày đám cưới của mẹ nó...

Nếu ai không sung sướng thì chỉ cần leo lên tầng gác xép mà ngồi đó cho đến chiều tối để nghe những tiếng gió gào thét rên rỉ như những tiế khóc than cho các linh hồn thảm bại; hoặc đi ra ngoài đường cái, mặc cho gió tạt mạnh vạt khăn quàng vào miệng như một cái hôn nóng hổi khiến phải òa khóc. Nhưng nếu ai yêu hạnh phúc thì lại có bên một con đường lầy lội, căn nhà ở Les Sablonnières mà anh bạn Meaulnes của tôi đã đưa Yvonne de Galais mới thành vợ anh từ ban trưa, trở về.

Thời kỳ đính hôn kéo dài trong năm tháng nhưng rất bình lặng, hết sức bình lặng nếu so với buổi gặp gỡ náo động đầu tiên. Anh Meaulnes thường tới Les Sablonnières luôn bằng xe ngựa hoặc xe đạp. Ít nhất mỗi tuần hai lần, cô de Galais đang ngồi may hay đọc sách bên cửa sổ mở ra rừng thông, bỗng trông thấy cái bóng cao lớn vụt qua rất mau phía sau rèm, (bao giờ anh cũng tới bằng con đường tắt mà xưa kia đã tới). Đó là sự gợi nhớ duy nhất mặc nhiên anh còn giữ đối với dĩ vãng. Hạnh phúc hiện tại dường như đã dẹp yên được nỗi băn khoăn kỳ dị của anh.

Trong vòng năm tháng bình lặng đó, có những biến cố đáng ghi nhớ xảy ra. Tôi được bổ làm giáo viên tại thôn Saint-Benoist-des-Champs. Saint-Benoist không phải là một làng, mà là bao gồm những nông trại rải rác trong một vùng đồng quê; ngôi trường đứng biệt lập trên một ngọn đồi gần đường cái, nơi tôi kéo dài một cuộc đời rất đơn độc. Nhưng nếu băng tắt qua cánh đồng thì chỉ phải đi bộ mất có ba khắc đồng hồ là tới Lãnh địa Les Sablonnières.

Delouche bây giờ ở nhà ông chú làm nghề thầu khoán tại Vieux-Nancay. Sau này gã sẽ được lên đứng chủ. Gã hay tới chơi với tôi. Do sự nài nỉ của cô de Galais, giờ đây anh Meaulnes tỏ ra nhã nhặn lắm với gã.

Những biến cố đó giải thích tại sao vào lúc bốn giờ chiều, khi mọi khách dự lễ cưới đã ra vế hết, Jasmin và tôi vẫn còn lang thang ở ngoài.

Hôn lễ cử hành lúc giữa trưa một cách hết sức lặng lẽ trong ngôi nhà thờ nhỏ tại Les Sablonnières. Nơi này không bị dỡ, ẩn khuất sau những lùm thông trên ngọn đồi gần đó. Sau bữa trưa ăn vội vàng, bà mẹ anh Meaulnes, Monsieur Seurel và Millie, chú Florentin cùng mọi người đều lên xe ra về hết. Chỉ còn lại mỗi Jasmin và tôi...

Chúng tôi lang thang ở ven rừng phía sau nhà, kế bên một khu đất hoang nơi tọa lạc của tòa lâu đài ngày xưa (nay đã bị phá đổ). Tuy không nói ra và cũng chẳng hiểu tại sao, chúng tôi đều cảm thấy rất lo lắng. Cố gắng một cách vô hiệu để khuây khỏa đầu óc và đánh lạc sự lo lắng, trong cuộc dạo chơi chúng tôi cố tìm những ổ thỏ rừng hay những vệt dài trên cát mà lũ thỏ mới đào... một cái bẫy mới đặt,... hoặc vết tích của một chú thợ săn. Nhưng luôn luôn cả hai đều quay lại ven rừng thưa, nơi có thể trông thấy ngôi nhà yên tĩnh cửa đóng.

Bên dưới khung cửa sổ lớn mở ra rừng thông có một cái bao lơn bằng gỗ bị cỏ dại trùm kín và thỉnh thoảng gió lại thổi rạp những cây cỏ xuống. Trên những tấm kính thấy thấp thoáng ánh sáng một ngọn lửa đốt trong lò. Đôi khi có một bóng người đi ngang. Khắp xung quanh, (trên cánh đồng lân cận, trong vườn rau, nơi căn nhà duy nhất còn sót lại trong khu nhà phụ), chỉ là sự im lặng và cô liêu. Các tá điền đều ra ngoài ăn uống mừng ông bà chủ mới.

Thỉnh thoảng gió lại chở tới thứ sương mù tựa như mưa ướt phà vào mặt chúng tôi; hoặc đưa tới tai những âm thanh xa vắng. Về phía đó, trong ngôi nhà đóng kín cửa, có ai đang dạo dương cầm. Tôi dừng lại chốc lát để lắng nghe. Thoạt tiên như có một giọng run rẩy văng vẳng từ xa của một người đang ngại ngùng không dám cất tiếng ca ngợi nỗi vui của mình... Cũng là tiếng cười của một cô gái nhỏ, nơi phòng riêng đang thu nhặt bao nhiêu món đồ chơi cũ bày hết trước mắt bạn tình... Tôi cũng nghĩ tới sự sung sướng e dè của một thiếu phụ đã mặc vào người bộ áo mới để đem khoe nhưng không biết áo có làm vừa ý ai chăng?

Điệu nhạc mà tôi không biết đó thật chẳng khác nào một khúc nguyện cầu, một câu van nài hạnh phúc đừng quá cay nghiệt, một lời khấn nguyện, cũng như một sự quỳ mọp trước hạnh phúc...

Tôi nghĩ: “Thế là họ đã đạt hạnh phúc. Nay anh Meaulnes đã ở bên nàng...”

Biết như vậy, tin chắc như vậy, điều đã đủ khiến cho một chàng trai trẻ tốt bụng như tôi phải lấy làm hài lòng .

Đang mải suy nghĩ, mặt đẫm ướt bởi luồng gió nơi đồng bằng mà tựa như bụi nước ngoài biển, tôi cảm thấy có ai đụng vào vai tôi, Jasimin nói rất nhỏ:

“Nghe kìa!”

Tôi nhìn gã. Gã ra dấu bảo đừng động đậy và chính gã cũng cúi đầu, chau mày lắng nghe...

 

 

Chương 8 Tiếng Gọi Của Frantz

 

“Hú u!”

Lần này thì tôi nhận biết. Đó là một ám hiệu, một tiếng gọi hai giọng cao thấp mà hồi xưa tôi đã từng nghe. A, tôi nhớ ra rồi: tiếng kêu của gã kịch sĩ cao lớn khi đứng ở cổng trường gọi người đồng bạn. Đó là tiếng mà Frantz đã bắt chúng tôi phải thề rằng khi nghe thấy thì dù ở đâu, vào lúc nào, cũng phải tìm đến.

Nhưng bữa nay chàng muốn gì?

Tôi nói nhỏ:

“Tiếng kêu từ cánh rừng thông phía trái. Chắc là do một bác thợ săn nào.” Jasmin lắc đầu:

“Nhất định không phải.” Rồi thấp giọng tiếp:

“Cả hai đứa đã tới đây hồi sáng. Lúc mười một giờ tôi bắt gặp Ganache đang rình mò nơi cánh đồng gần nhà thờ. Thấy tôi, nó vội bỏ chạy. Có lẽ bọn chúng từ xa tới bằng xe đạp vì thấy Ganache bị bùn bắn lên đến nửa lưng.”

“Thế bọn chúng muốn kiếm gì chứ?”

“Sao biết được. Nhưng chắc chắn là tụi mình phải đuổi chúng đi khỏi đây. Không thể để cho chúng bén mảng quanh vùng. Nếu không thì bao nhiêu chuyện điên rồ có thể sẽ tái diễn...”

Tôi cũng nghĩ thế nhưng không nói ra. Tôi bảo Jasmin:

“Tốt hơn hết là đi kiếm bọn họ, hỏi xem họ muốn gì và ngăn cản họ... ”

Từ từ, lặng lẽ, chúng tôi cứ lén đi ngang khu rừng thưa tới cánh rừng thông, nơi mà, từng chặp đều đặn, phát ra tiếng kêu ngân dài mà tự nó không nghe buồn cho lắm nhưng cả hai chúng tôi đều có cảm tưởng đó là một điềm rất xấu.

Khu rừng này, những gốc cây trồng thẳng hàng ngó xuyên qua được nên khó lòng để bắt chộp người nào, và cũng khó tiến lên mà không bị bắt chộp. Vậy không nên tính đến chuyện liều mạng. Tôi đứng ở một góc rừng, Jasmin tới đứng ở góc đối diện để cũng như tôi, có thể từ ngoài kiểm soát được hai cạnh của khoảng đất hình chữ nhật, không cho một người nào trong bọn bô-hê-miêng ở trong thoát ra được.

Sắp đặt như vậy xong, tôi bèn đóng vai một người mở đường không có ác ý, cất tiếng gọi: “Frantz!”

“Frantz à! Đừng sợ gì hết. Tôi, Seurel đây, tôi muốn nói chuyện với anh.”

Im lặng một lát. Khi tôi toan cất tiếng gọi nữa thì từ giữa rừng, nơi mắt nhìn không thấu, có tiếng ra lệnh:

“Cứ đứng yên ở đó, Frantz sẽ tới gặp.”

Lần lần giữa những cây thông lớn trông như liền khít nhau khi nhìn từ xa, tôi nhận ra bóng dáng chàng trẻ tuổi đang đi tới. Trông chàng ăn bận lôi thôi, người lem lấm bùn lầy; hai ống quần bó sát; trên mái tóc quá dài, một chiếc mũ kết đã cũ tàng có thêu hình cái neo thuyền bị đội bẹp xuống; khuôn mặt gầy ốm rõ rệt. Dường như chàng vừa mới khóc.

Cương quyết tiến lại phía tôi, chàng ngạo nghễ hỏi: “Anh muốn gì?”

“Còn anh, Frantz, anh làm gì ở đây? Tại sao anh phá rối những người đang sung sướng? Anh cần gì, cứ nói.”

Bị hỏi thẳng như vậy, chàng hơi đỏ mặt, chỉ bập bẹ đáp: “Tôi khổ quá, tôi khổ quá!”

Rồi, gục đầu vào cánh tay, tựa mình nơi một gốc cây, chàng khóc thảm thiết. Chúng tôi bước đi vài bước giữa khu rừng hoàn toàn tịch mịch. Không nghe thấy cả tiếng gió mà những ngọn thông lớn ngoài ven đã chặn lại. Giữa những thân cây đều đặn, chỉ thấy vang lên rồi lại hạ xuống những tiếng thổn thức nghẹn ngào của Franzt de Galais.

Đợi cho cơn xúc động dịu bớt, tôi đặt tay lên vai chàng:

“Frantz, anh về với tôi đi. Tôi sẽ đưa anh đến với họ. Họ sẽ tiếp đón anh như một đứa trẻ bị lạc mới tìm lại được và mọi sự sẽ được xóa bỏ hết.”

Nhưng Frantz không chịu nghe. Với một giọng nói bị nước mắt làm lấp đi, khổ sở, ươn ngạnh pha lẫn cáu kỉnh, chàng tiếp:

“Thế ra Meaulnes không lo lắng gì cho tôi nữa sao? Tại sao hắn không đáp khi nghe tiếng tôi gọi? Sao hắn không giữ lời hứa?”

Tôi trả lời:

“Ô kìa Frantz, cái thời của những huyễn tượng và những trò trẻ con đã đi qua rồi. Anh đừng đem những thứ điên rồ tới làm xáo trộn hạnh phúc của những người anh yêu thương như chị Yvonne và anh Meaulnes nữa.”

“Nhưng anh cũng biết rõ chỉ riêng anh ta mới cứu tôi nổi. Chỉ có hắn mới có thể tìm được tung tích người mà tôi đang tìm. Đã ba năm nay Ganache và tôi sục sạo suốt cả nước Pháp mà vẫn vô hiệu. Bây giờ tôi chỉ còn hy vọng nơi người bạn anh. Thế mà hắn không đáp lại cả lời của tôi. Hắn đã kiếm được mối tình của hắn. Tại sao bây giờ hắn không nghĩ tới tôi chứ? Hắn phải lên đường. Yvonne thế nào cũng để cho hắn đi. Chị ấy có bao giờ từ chối tôi điều gì đâu.”

Chàng đưa ra trước mặt tôi một khuôn mặt lem luốc bụi đường, trên đó, nước mắt đã vạch thành những đường dài bẩn thỉu. Khuôn mặt của một thằng nhãi lớn tuổi, mệt lử, thiểu não, đôi mắt thâm quầng, đầy vết tàn nhang; cằm không cạo; mái tóc quá dài xõa xuống cái cổ cáu bẩn.

Hai tay trong túi, cả thân hình Franzt rét run.

Không còn là chàng trai trẻ bảnh bao ăn vận rách rưới hồi mấy năm trước nữa. Trong tâm chàng có lẽ vẫn còn trẻ thơ như dạo ấy: hách dịch, ngông nghênh nhưng cũng mau thất vọng.

Tuy nhiên, cái vẻ con nít đó lại đâm thành khó chịu ở con người sớm già trước tuổi hiện tại... Hồi nào ở chàng có tràn đầy kiêu hãnh của tuổi trẻ cho nên bao nhiêu ngông cuồng đều có thể chịu được. Bây giờ, trước hết chỉ thấy thương hại cho một con người không thành công trong cuộc sống; sau, lại muốn trách cứ chàng sao cứ cố giữ mãi vai trò một nhân vật lãng mạn thuở xưa.

Cuối cùng, dù không muốn, tôi cũng bắt buộc tự nghĩ rằng anh chàng Frantz với mối tình cao đẹp ngày nhỏ, nay cũng phải đi ăn trộm mà sống, như gã đồng bọn Ganache. Bao nhiêu kiêu hãnh để rốt cuộc đến như thế ư?

Tôi nói, sau khi đã suy nghĩ:

“Nếu tôi hứa với anh rằng ít ngày nữa Meaulnes sẽ đi tìm cho anh, cho riêng anh... ?” Frantz hỏi tôi mà răng đánh lập cập:

“Hắn sẽ thành công? Anh có chắc vậy không?”

“Tôi cho rằng được. Đối với Meaulnes, việc gì cũng sẽ hoàn tất.” “Nhưng làm sao tôi biết? Ai sẽ cho tôi hay tin?”

“Đúng một năm nữa, cũng giờ này, anh trở lại đây: khi ấy anh sẽ gặp ngay tại chốn này cô gái mà anh đã yêu.”

Nói như vậy, tôi không nghĩ rằng sẽ làm phiền đến cặp vợ chồng mới cưới, mà chính tôi sẽ tới hỏi bà mợ Moinel rồi tự lo vụ kiếm cô gái đó.

Chàng bô-hê-miêng nhìn thẳng mắt tôi với một ý chí tin tưởng hết sức đáng phục. Mười lăm tuổi, thật vậy, chàng chỉ mới mười lăm, vẫn cái tuổi của chúng tôi thời Sainte-Agathe bữa chiều quét lớp rồi sau đó cả ba đã thốt ra lời thề ghê gớm mà trẻ con đó!

Thất vọng lại xâm chiếm Frantz khi chàng đành phải nói: “Vậy bây giờ chúng tôi đi.”

Frantz nhìn một lượt, chắc chắn trong lòng thắt lại, những cánh rừng ở quanh đây mà chàng sắp phải từ giã lần nữa. Chàng nói:

“Trong ba ngày tiếp, bọn tôi sẽ lang thang trên các nẻo đường ở Đức, để xe lại một nơi xa. Từ ba mươi giờ nay, bọn tôi đi không ngừng. Chúng tôi tính sẽ về kịp trước đám cưới để lôi Meaulnes cùng đi tìm vị hôn thê của tôi, cũng như hắn đã đi tìm cái ấp Les Sablonnières thuở trước.”

Rồi vẫn cái thói trẻ con ghê gớm, lúc chia tay chàng nói:

“Anh gọi thằng cha Delouche của anh lại đi, nếu tôi gặp mặt nó chắc sẽ có chuyện.” Lần lần, giữa những gốc thông tôi thấy bóng dáng xám xịt của chàng biến đi.

Tôi gọi Jasmin lại rồi cả hai cùng đứng gác.

Nhưng liền khi đó, ở đằng kia, nơi nhà anh, thấy Augustin đi ra đóng cửa sổ. Cái vẻ kỳ lạ khi

đó của anh đã khiến chúng tôi thật sự băn khoăn.

 

Chương 9.

Những Con Người Sung Sướng

 

Sau đó, tôi được biết rõ chi tiết về các việc đã xảy ra.

Từ đầu buổi chiều, trong phòng khách tại Les Sablonnières, chỉ Meaulnes và vợ --mà tôi vẫn gọi là cô de Galais—hiện hữu bên nhau. Khách khứa đã ra về hết, ông cụ de Galais mở cánh cửa lớn để trong một giây cho gió thổi rít vào tận trong nhà: rồi ông đi về phía Vieux-Nanacy, hẹn tới giờ ăn tối mới trở lại để khóa hết mọi cửa và dặn dò công việc cho các tá điền. Không một tiếng động nào từ ngoài lọt tới tai đôi người trẻ tuổi. Có chăng là một cánh hoa hồng trụi lá đập nhẹ vào khung cửa kính mở về phía bãi. Y hệt hai du khách trên một chiếc thuyền được thả trôi trong gió lộng mùa đông, họ là hai kẻ tình nhân bị nhốt chung trong cùng một hạnh phúc.

“Lò lửa sắp tàn,” cô de Galais nói và toan lấy một khúc củi trong thùng. Nhưng anh Meaulnes vội đứng lên, tự mình chất thêm củi vào lò.

Rồi anh cầm tay nàng. Cả hai đứng đối diện, lặng người đi như thể có một cái tin quan trọng không thể nói ra với nhau.

Gió thổi ào ào hệt như tiếng dội vang của một con sông lớn. Thỉnh thoảng một giọt nước vạch chéo trên mặt kính như mưa đang phả vào cửa kính một toa tàu.

Lúc đó cô de Galais mở cửa hành lang rồi biến mất sau một nụ cười bí mật. Trong khoảnh khắc, Augustin đứng một mình trong vùng tranh tối tranh sáng. Tiếng tíc-tắc của chiếc đồng hồ con làm anh nhớ lại căn phòng ăn ở Sainte-Agathe… Có lẽ anh đang nghĩ: “Thế ra đây là ngôi nhà bấy lâu ta mất công tìm kiếm mãi; nơi hành lang kia, thuở xưa đã có đầy những tiếng thì thào và những bóng người kỳ lạ ra vào.”

Đúng vào lúc ấy, sát ngay hông nhà, anh nghe tiếng gọi thứ nhất của Frantz. (Về sau cô de Galais nói với tôi là cũng có nghe thấy tiếng kêu đó).

Cô vợ mới cưới mặc sức phô bày cho vị tân lang xem những món kỳ diệu của riêng mình: những đồ chơi hồi nhỏ; tập ảnh thời niên thiếu, trong đó nàng trang phục theo kiểu các cô bán quán; cùng với Frantz, cả hai ngồi trên đùi bà mẹ xưa kia rất đẹp… Lại còn những áo quần trong số những bộ rất đứng đắn nàng thường mặc: “Cả cái này em bận vào hồi anh sắp sửa quen biết em, thời kỳ anh bắt đầu tới trọ học ở trường Sainte-Agathe thì phải…”

Nhưng Meaulnes chẳng còn nghe gì hết, chẳng còn thấy gì hết.

Tuy nhiên, có một lúc dường như anh chợt ý thức lại được nỗi hạnh phúc lạ lùng, không thể tưởng tượng của mình. Anh nói thầm thì, tưởng như lời vừa ra khỏi miệng là đã thấy choáng váng:

“Em đấy ư, hãy lại gần cái bàn, đặt tay lên đó giây lát…” Hoặc:

“Mẹ anh khi còn trẻ cũng thường cúi xuống như vậy mỗi khi trò chuyện với anh. Và những khi mẹ ngồi vào trước cây dương cầm…”

Yvonne de Galais liền đề nghị chơi đàn trước khi trời đổ tối. Nhưng cái góc trong phòng khách cũng đã tối nên cần phải thắp lên một ngọn nến.

Cái chụp đèn màu hồng làm tăng thêm sắc đỏ trên gò má Yvonne và như ngầm nói lên một nỗi xao xuyến lạ trong tâm tư nàng.

Ngoài kia, chúng tôi bắt đầu nghe thấy bài ca run rẩy của gió bạt tới, và chỉ một lát sau lại bị cắt ngang do tiếng kêu thứ nhì của hai gã điên khi đó đã lại gần chúng tôi, trong cánh rừng thông.

 

Rất lâu, Meaulnes ngồi nghe đàn, yên lặng ngó ra ngoài khung cửa sổ. Nhiều lần anh quay lại nhìn khuôn mặt hiền hậu chứa đựng bao nhiêu ưu tư và yếu đuối. Rồi tiến lại gần Yvonne và hết sức dịu dàng, anh đặt một tay lên vai nàng. Nàng cảm thấy phía sau gáy có năm ngón đang nhẹ nhàng ve vuốt mà lẽ ra nàng phải biết đáp ứng lại.

Sau cùng anh nói:

“Đã tối rồi, anh đi đóng cửa. Nhưng em cứ tiếp tục đàn đi…”

Những gì xảy ra lúc bấy giờ trong trái tim u uẩn và cô tịch ấy? Nỗi ân hận thầm kín nào? Những tiếc thương không thể biểu lộ? Có phải anh sợ nguồn hạnh phúc phi thường đang nắm được trong tay chẳng bao lâu sẽ trôi luồn đi qua các kẽ? Hoặc, do bởi sức dụ dỗ ghê gớm buộc anh phải hất đổ ngay tức thì món bảo vật trân quí mà anh vừa chiếm được kia?

Đó là những câu tôi hỏi vẫn thường tự đặt nhưng chỉ được trả lời khi tất cả đã trở thành quá muộn.

Anh lặng lẽ, chậm rãi đi ra ngoài, sau khi nhìn người vợ trẻ lần nữa. Từ ven rừng, chúng tôi nhìn thấy, thoạt tiên anh do dự giơ tay đóng cửa, rồi mơ hồ ngó về phía chúng tôi, xong lại đóng một cánh cửa khác nữa, và bất chợt phóng chạy vào rừng. Anh chạy tới gần chúng tôi trước khi Jasmin và tôi kịp nghĩ đến chuyện núp kín. Nhìn thấy chúng tôi khi sắp sửa bước qua một hàng rào thấp mới trồng để ngăn ranh giới một cánh đồng cỏ, nhưng anh tảng lờ lảng tránh ra. Tôi còn nhớ rõ cái vẻ ngơ ngác như con vật bị săn đuổi của anh… Anh làm bộ như quay trở lại để vượt qua hàng rào phía dòng suối nhỏ.

Tôi cất tiếng gọi: “Meaulnes! Augustin!”

Nhưng anh chẳng quay đầu lại. Khi đó tin chắc nói ra như vậy mới kéo anh lại được, tôi la lên: “Frantz ở đây. Hãy đứng lại!”

Anh đứng lại thật. Thở hổn hễn, chẳng để tôi có thì giờ sửa soạn câu nói, anh hỏi: “Cậu ấy ở đây à? Thế cậu muốn gì?”

Tôi đáp:

“Hắn khổ lắm. Muốn nhờ anh giúp, đi kiếm cái mà hắn đã mất.” Anh cúi mặt nói:

“Chà, tôi cũng nghi vậy. Tôi cứ cố dìm chết mãi ý tưởng đó. Nhưng cậu ta ở đâu? Kể mau cho tôi nghe đi!”

Tôi đáp Frantz vừa ra đi và chắc chắn bây giờ nếu chạy theo thì cũng không còn kịp nữa. Nghe thế, anh Meaulnes trông thật chán chường và thất vọng. Lưỡng lự, anh bước hai ba bước, rồi dừng lại, vẻ thật vô cùng đắn đo và rầu rĩ. Tôi kể lại với anh nghe những điều tôi đã thay mặt anh mà hứa với chàng tuổi trẻ. Tôi nói tôi đã hẹn với hắn trong vòng một năm nữa, cũng ở nơi này.

Thường, Augustin vốn rất bình tĩnh, bấy giờ bỗng trở nên nóng nảy bồn chồn lạ lùng. Anh nói: “Chà, sao lại làm vậy chứ? Thôi, không chừng tôi có thể cứu được cậu ta. Nhưng cần phải thực

hành ngay lập tức. Tôi cần phải gặp mặt để nói chuyện với cậu ấy. Franzt phải tha thứ cho tôi và tôi phải đền bù lại hết cho cậu ấy. Nếu không, tôi sẽ không thể quay về đằng kia được nữa.”

Vừa nói, anh vừa hất đầu về phía Les Sablonnières. Tôi bày tỏ:

“Thế ra chỉ vì một lời hứa thời tuổi nhỏ mà anh tính phá tan cả hạnh phúc của mình sao?” Anh đáp:

“Trời, giá chỉ mỗi lời hứa đó mà thôi!...”

Từ câu nói trên mà tôi mới biết đã có chuyện gì ràng buộc hai người trẻ tuổi, nhưng không làm sao đoán ra được. Tôi đề nghị:

“Dù sao đi nữa bây giờ không còn là lúc để anh đuổi theo họ. Bọn họ hiện đang trên đường sang Đức.”

Anh sắp sửa đáp, bỗng khuôn mặt bơ phờ, thiểu não, ngơ ngác hiện ra giữa ba chúng tôi. Đó là Yvonne de Galais. Chắc hẳn nàng vừa mới chạy một hơi vì gương mặt thấy đẫm mồ hôi; có lẽ còn vấp ngã và bị xây xát, trên trán, nơi mắt phải thấy một vết thương, máu đọng cả nơi mái tóc.

Tại những khu phố nghèo ở Paris, tôi thường bất ngờ chứng kiến cảnh một cặp vợ chồng trước kia tưởng là hạnh phúc thuận hòa lương thiện, bước ra khỏi nhà giữa mấy người cảnh binh vừa tới can thiệp cuộc loạn đả của họ. Các vụ xô xát như vậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, lúc sắp ngồi vào bàn ăn, ngày chủ nhật trước khi ra phố, hay đúng lúc sắp mừng sinh nhật thằng con nhỏ… --bấy giờ mọi sự đều bị phủi đi hết, tan hoang hết. Hai vợ chồng giữa cảnh ồn ào chỉ còn là hai con quỷ đáng thương và lũ trẻ con khóc sướt mướt nhảy vào giữa đám ôm lấy cha mẹ mà hôn, van xin cha mẹ đừng nói nữa và đừng đánh nhau nữa.

Yvonne de Galais khi chạy tới gần Meaulnes đã khiến cho tôi nghĩ tới một trong số những đứa trẻ con khốn khổ hốt hoảng ấy. Tôi tin rằng cho dù tất cả bạn bè, làng xóm, tất cả mọi đám đông có ở đó mà nhìn nàng thì Yvonne cũng vẫn cứ chạy tới, cũng vấp ngã cho bị thương như vậy, đầu tóc tơi bời, khóc lóc lem luốt.

Nhưng khi biết anh Meaulnes vẫn còn đây, lần này ít nhất anh cũng không bỏ nàng bơ vơ trơ trọi, thế là Yvonne khoác tay anh và vừa khóc vừa cười như đứa trẻ thơ. Cả hai không nói với nhau một lời. Nhưng khi cô gái rút khăn tay ra, Meaulnes dịu dàng cầm lấy. Cẩn thận chăm chú, anh chùi những vệt lem trên mặt cô gái.

Anh nói:

“Bây giờ ta đi về thôi.”

Tôi để cho hai người ra về với nhau trong cơn gió lộng buổi chiều phả mạnh vào mặt. Anh đưa tay cho cô vịn khi gặp những quãng khó đi; nàng tươi cười vội vã. Hai người quay về căn nhà riêng bỏ vắng trong chốc lát.

 

 

 

Chương 10.

Nhà Của Frantz

 

Buổi tối, bị ám ảnh bởi một mối lo ngấm ngầm mà kết quả đáng phấn khởi của cuộc xáo trộn ngày hôm qua không dẹp tan nổi, trọn ngày hôm sau tôi phải tự giam mình trong lớp. Liền sau khi tan giờ “ôn bài” tiếp theo sau giờ học buổi chiều, tôi đi sang ấp Les Sablonnières. Khi tới chỗ rặng thông có lối đi vào nhà anh Meaulnes thì trời xẩm tối. Các cửa ngoài đều đã đóng kín. Tôi sợ giờ này tới chơi, lại vào bữa sau đám cưới, không biết có làm phiền họ không, nên cứ lưu lại đó mãi tới khuya, lảng vảng ngoài vườn và trên những khu đất ở gần, lòng thầm mong có ai trong nhà bước ra sân… Nhưng tôi hy vọng vô ích. Cả nông trại lân cận cũng chẳng thấy có ai. Nên đành phải quay về, trong lòng vương vấn bao nhiêu giả tưởng đen tối.

Hôm sau là thứ Bảy, tôi vẫn phân vân không kém. Đến chiều, vội vàng lấy áo khoác, cây gậy và một mẩu bánh mì đem theo ăn dọc đường. Khi trời xẩm tối, tôi tới Les Sablonniè -res thì thấy cũng như hôm trước, cửa ngõ đều đóng kín. Trên lầu có chút ánh đèn nhưng không một tiếng động, không một dáng người đi qua.

Tuy nhiên lần này đứng ngoài sân, tôi trông thấy khung cửa ra vào nơi khu nông trại mở, trong căn bếp rộng có đốt lửa và có tiếng người cùng tiếng bước chân như thường lệ vào giờ ăn tối. Thấy như vậy tôi vững bụng hơn nhưng không biết rõ mọi sự việc đã xảy ra. Không thể hỏi han hay nói chuyện gì với mọi người ở đây được, tôi quay trở lại ngóng đợi nữa, nhưng vô ích, những mong cửa sẽ mở và hiện ra bóng dáng cao lớn của anh Meaulnes.

Mãi tới chiều Chủ nhật tôi mới quyết định tới gọi cửa nhà vợ chồng anh. Trong khi leo lên ngọn đồi trọc, nghe văng vẳng tiếng chuông chiều ngày Chủ nhật mùa đông, lòng cảm thấy vô cùng trơ trọi và buồn nản, tôi không hiểu đã có linh tính xấu nào đang xâm chiếm lấy tôi. Tôi chỉ ngạc nhiên đôi chút sau tiếng chuông gọi thấy ông de Galais một mình hiện ra cửa và gần như thì thầm câu nói:

“Yvonne de Galais phải nằm ở giường với một cơn sốt nặng; Meaulnes có việc phải đi xa từ sáng thứ Sáu; không ai biết tới chừng nào mới trở về…”

Thấy ông cụ tỏ ra lúng túng, quá buồn rầu và không ngỏ lời mời tôi bước vào nhà, tôi liền cáo từ. Cánh cửa đã đóng rồi mà tôi còn đứng một lát trên thềm, tim thắt lại, tâm trạng vô cùng xao xuyến. Chẳng biết tại sao tôi đứng im mà ngắm một cành hoa glycine đã héo bị gió lay động rất buồn dưới một tia nắng le lói.

Thế ra mối tiếc hận thầm kín mà anh Meaulnes mang nặng từ hồi ở Paris đã thắng thế. Anh bạn cao lớn của tôi sau cùng đành phải dứt bỏ hạnh phúc bền chặt…

 

Mỗi thứ Năm và Chủ nhật, tôi đều tới thăm Yvonne de Galais. Mãi tới buổi chiều Yvonne bắt đầu lành bệnh, tôi mới được mời vào. Cô bạn ngồi bên lò sưởi, trong căn phòng khách có khung cửa sổ rộng mở ra phía rừng thông và cánh đồng. Yvonne không xanh xao như tôi tưởng, nhưng lại đang sốt, dưới mắt có những vết đỏ tươi. Dường như nàng đang ở trong trạng thái bồn chồn, run rẩy tới cực độ. Tuy trông còn yếu lắm, nhưng cách phục sức lại như sắp sửa đi đâu. Nàng ít nói, dù vậy câu chuyện nào nói ra cũng sốt sắng lạ lùng, tưởng như muốn làm cho chính mình phải tin rằng hạnh phúc chưa tan vỡ hẳn. Tôi không nhớ hết những lời trao đổi. Chỉ nhớ có lúc đã lưỡng lự hỏi xem chừng nào anh Meaulnes sẽ về. Yvonne vội đáp:

“Tôi cũng không biết bao giờ anh ấy về nữa.”

Trong mắt nàng như tỏ ý van lơn, nên tôi không dám hỏi tiếp.

Thường thường tôi hay trở lại thăm bạn và có nhiều dịp ngồi trò chuyện với Yvonne bên lò sưởi, trong căn phòng khách trần thấp, nơi mà trời tối mau hơn bất kỳ nơi khác. Không bao giờ Yvonne nói tới mình hoặc nỗi buồn kín đáo riêng, nhưng lại không chán nghe tôi kể từng chi tiết cuộc đời học sinh của chúng tôi ở Sainte-Agathe.

Nghiêm trang, dịu dàng, nàng lắng nghe, vẻ chăm chú như bà mẹ ngồi nghe thuật lại những nỗi buồn của bọn trẻ đã lớn. Không bao giờ Yvonne tỏ ra ngạc nhiên, kể cả những trò trẻ con táo bạo, nguy hiểm nhất. Sự chú ý trìu mến đó, nàng thừa hưởng từ ông de Galais; và vẫn chưa hề thấy ngán những vụ phiêu lưu đáng chê trách của cậu em mình. Điều duy nhất khiến nàng tiếc nuối chính là đã không phải là một người bạn tâm tình đáng tin cậy cho cậu, bằng chứng là vào thời điểm bị thất vọng ê chề, cậu cũng không dám thổ lộ với chị hay với một ai, mà chỉ tự coi mọi sự như là vô phương cứu vãn.

Cứ mỗi lần nghĩ tới điều vừa nói, tôi lại cho rằng đó là một trách vụ nặng nề đè lên trái tim người thiếu phụ –cái trách vụ dọ hỏi một tâm hồn đầy huyễn mộng đến độ điên rồ như của cậu em nhỏ; cái trách vụ có thể đè bẹp chính nàng khi muốn cảm thông với một tâm hồn ham thích phiêu lưu như của anh Meaulnes.

Một hôm, Yvonne de Galais đưa ra cho tôi thấy một bằng chứng đáng cảm động nhất –tôi nghĩ gần như cũng bí hiểm nhất—về sự tin tưởng mà nàng còn lưu giữ đối với những ảo vọng trẻ con của cậu em, về sự nàng chi chút bảo tồn những gì còn sót lại trong thế giới mộng mơ mà Franzt đã sống cho đến năm 20 tuổi.

Đó là một đêm tháng Tư buồn như một buổi vào cuối thu. Từ một tháng qua chúng tôi sống trong một mùa xuân đến sớm thật dịu và cô bạn vẫn thường cùng với cha đi dạo rất lâu. Hôm đó ông cụ bị mệt, còn tôi lại rảnh nên Yvonne xin tôi đưa đi dạo mặc dầu xem chừng thời tiết rất xấu. Tới chỗ cách Les Sablonnières chừng hơn nửa dặm, dọc theo dòng suối, chúng tôi bất chợt gặp bão giông và mưa đá. Dưới căn lều đang tới trú cho qua cơn mưa không dứt, gió thổi làm lạnh buốt, chúng tôi đứng cạnh nhau, tư lự trước cảnh sắc âm u. Tôi còn nhớ da mặt nàng tái xanh, vẻ thật xao xuyến trong bộ áo dịu dàng trang nhã. Yvonne nói:

“Phải về thôi. Chúng ta đi đã lâu rồi. Ở nhà sợ có chuyện gì xảy ra chăng?”

Thật ngạc nhiên xiết bao! Thay vì trở về Les Sablonnières, thiếu phụ lại tiếp tục dấn bước và xin tôi theo cùng. Sau khi đi bộ lúc lâu, cả hai tới trước một ngôi nhà tôi chưa hề biết, nằm trơ trọi bên một con đường có đá lởm chởm đưa tới Préveran- ges. Đó là loại nhà nhỏ, mái lợp đá đen, trông chẳng khác những ngôi nhà thường gặp, ngoại trừ sự biệt lập xa hẳn một nơi của nó.

Cứ nhìn thái độ Yvonne de Galais thì người ta có thể lầm tưởng ngôi nhà là của chúng tôi, lâu ngày bỏ đó mà du lịch. Yvonne cúi xuống mở một cánh cổng nhỏ và nhanh nhẩu xem xét căn nhà trơ trọi. Một cái sân rộng đầy cỏ mọc bị trận bão làm xói lở, nơi lũ trẻ con thường hay tới chơi trong những buổi chiều dài đặc cuối mùa đông. Trong vũng nước có ngâm một cái vòng. Trên mấy thửa đất nhỏ đám trẻ con trồng hoa và gieo đậu, nay chỉ còn những cái rãnh nhỏ trơ cát trắng.

Sau cùng chúng tôi khám phá thấy cả một bầy gà con bị đẫm nước mưa đang núp trên bực một khung cửa ướt. Hầu hết đều chết rét dưới đôi cánh cứng đơ và bộ lông xơ xác của gà mẹ.

Trước cảnh đáng tội nghiệp đó, người thiếu phụ bật lên một tiếng la nghẹn ngào. Nàng cúi xuống, không nề hà bùn nước, lựa những con gà còn sống ra ủ trong vạt áo; rồi đưa tôi vào căn nhà bằng chìa khóa riêng.

Bốn cửa mở ra một khúc hành lang gió lùa kêu rít. Yvonne mở cánh đầu tiên bên tay mặt, dẫn tôi vào một căn phòng tối om. Sau một lát tôi mới nhận ra một tấm gương lớn và một cái giường nhỏ trên có khăn phủ theo kiểu thôn quê, một tấm mền bằng lụa đỏ. Còn cô bạn, sau khi tìm kiếm một lát trong các phòng khác, trở lại tay xách đàn gà ốm trong cái giỏ có trải lông, thận trọng đem tới đặt bên dưới tấm mền. Tia nắng yếu ớt thứ nhất và cuối cùng trong ngày chiếu sáng làm cho gương mặt chúng tôi thêm xanh tái và buổi chiều thêm u tối. Chúng tôi đứng đó, lạnh giá và bối rối, trong căn nhà kỳ lạ!

Đôi lúc Yvonne chạy lại ngó trong cái ổ, bắt ra một con gà mới chết để khỏi chết lây sang những con khác. Mỗi lần làm vậy, chúng tôi lại tưởng như tiếng gió luồn qua những tấm kính cửa đã vỡ trên tầng gác xép đang thở dài lặng lẽ, hệt như mối buồn kỳ bí của bọn trẻ nhỏ không quen nào đó đang ở quanh đây.

Mãi sau cô bạn mới nói với tôi:

“Đây là nhà của Frantz hồi em nó còn nhỏ. Nó muốn có riêng một căn, xa hết mọi người, tại đó nó có thể sống một mình và tùy thích chơi đùa. Cha tôi thấy cái trò kỳ dị đáng tức cười quá nên cũng không từ chối. Thế là mỗi khi nó muốn, một bữa thứ Năm hay Chủ nhật, Frantz lại một mình tới sống trong căn nhà nó y như một người lớn vậy. Bon trẻ con ở các trại gần đó kéo tới chơi với nó, giúp nó thu dọn bên trong, trồng cây bên ngoài. Thật là một trò chơi kỳ lạ. Tối đến nó không sợ phải ngủ một mình. Chúng tôi thấy phục nó quá nên cũng chẳng lấy làm lo ngại.”

Cô bạn thở dài, tiếp:

“Căn nhà bây giờ bỏ không đã lâu. Ông de Galais vì cao tuổi lại gặp cảnh buồn nên chẳng kiếm cách gì để tìm hay gọi em tôi về nữa. Với lại có muốn cũng chẳng thể làm được. Tôi thường ghé đến đây luôn. Bọn trẻ nhà quê chung quanh vẫn vào chơi trong vườn như hồi trước. Tôi rất thích nghĩ rằng đó là những bạn cũ của Frantz; rằng chính em tôi vẫn còn là một đứa trẻ và sắp trở về với cô vị hôn thê nó đã chọn lựa. Bọn trẻ đó quen với tôi lắm. Tôi cũng chơi với chúng. Đàn gà con này là của chúng tôi….”

Tất cả mọi đau khổ mà trước kia cô bạn không hề nói ra, mối hận lớn vì đã mất cậu em trai thật điên rồ, thật dễ thương và cũng thật được vì nể, phải nhờ cơn mưa này mới được thổ lộ với tôi. Tôi nghe kể mà không đáp một lời, trong lòng dạt dào thổn thức…

Sau khi đã đóng các cánh cửa và cánh cổng, sau khi đã đem bầy gà vào trong căn lều gỗ dựng phía sau nhà, cô bạn buồn rầu vịn tay tôi để tôi đưa trở về.

 

Nhiều tuần lễ, nhiều tháng trường trôi đi. Thời gian qua. Hạnh phúc lỡ dở! Con người trước kia là nàng tiên, là vị công chúa và là mối tình kỳ bí của cả thời tuổi trẻ chúng tôi, nay chính tôi lại phải dẫn tay và thốt ra những lời cần thiết cho dịu bớt nỗi đau khổ, trong khi anh bạn tôi đã bôn tẩu. Bây giờ tôi còn biết nói chi nữa về thời gian đó, những câu chuyện trao đổi vào buổi tối sau giờ dạy bên đồi Saint-Benoist, về những cuộc dạo chơi mà trong đó, câu chuyện đáng nói nhất lại đúng là chuyện mà chúng tôi âm thầm quyết định không nói tới. Bây giờ tôi không còn giữ lại một kỷ niệm nào khác ngoài hình ảnh đã bị xóa mờ đôi chút của khuôn mặt xinh đẹp nhưng đã gầy đi nhiều, của đôi mắt cứ mỗi khi nhìn tôi thì hai mí lại từ từ khép nhẹ tưởng như không còn nhìn nữa thế giới bên ngoài để quay hẳn vào nội tâm riêng.

Suốt cả mùa xuân, rồi một mùa hè không bao giờ còn trở lại, tôi vẫn cứ là người bạn trung thành của Yvonne de Galais –người bạn trong một cuộc trông ngóng mà cả tôi và nàng đều không đả động tới. Nhiều buổi chiều chúng tôi quay trở lại nhà của Frantz. Yvonne mở các cửa cho thoáng khí để khỏi bị meo mốc khi cặp vợ chồng trẻ tuổi trở về. Nàng chăm lo đàn gà gần như thả hoang ở dưới sân sau. Thứ Năm hay Chủ nhật chúng tôi gọi bọn trẻ quanh vùng tới chơi, tiếng la cười của chúng giữa khung cảnh trơ trọi này càng làm cho căn nhà nhỏ bỏ hoang thêm cô tịch, trống trải hơn nữa.

 

Chương 11

Cuộc Trò Chuyện Dưới Mưa

 

Tháng Tám, tôi phải xa Les Sablonnières và người thiếu phụ trẻ để về Sainte-Agathe nghỉ hai tháng hè. Cái sân trường rộng khô ráo, chỗ sân chơi có mái, lớp học không có người... tất cả đều nhắc nhở tới anh Meaulnes, khắp nơi tràn đầy những kỷ niệm của thời tuổi nhỏ không bao giờ còn trở lại.

Trong những ngày dài vàng úa đó, như hồi xưa, trước khi anh Meaulnes xuất hiện, tôi lại chui vào phòng văn khố hay một mình ngồi trong lớp học trống trải để đọc, để viết, để hồi tưởng lại kỷ niệm cũ… Cha tôi đi câu ở xa. Millie ngồi trong phòng khách chơi dương cầm hay may vá như dạo ấy. Trong sự cô tịch tuyệt đối của lớp học --nơi mà những vòng giấy màu lục bao các sách phần thưởng đã rách, những tấm bảng đen được lau sạch, mọi thứ tỏ rõ cho thấy là năm học đã qua, phần thưởng đã phát, hết thảy đều chờ đợi mùa thu, ngày tựu trường tháng mười và những cố gắng mới –tôi lại nghĩ rằng thuở thiếu thời của chúng tôi đã hết và hạnh phúc đã dở dang. Riêng tôi cũng mong đợi ngày trở lại Les Sablonnières và ngày Augustin quay về, hoặc không chừng anh không bao giờ về nữa…

Tuy vậy vẫn có một tin mừng báo với Millie khi bà quyết tâm hỏi chuyện về cô dâu mới. (Tôi rất ngại những câu hỏi của bà, ngại cái cách vừa như vô tình vừa như ranh mãnh rồi đột nhiên làm tôi lúng túng bằng cách đụng ngay vào ý nghĩ thầm kín nhất của tôi.) Để ngăn chặn hết những điều như vậy, tôi kể cho Millie nghe cô vợ trẻ của anh Meaulnes sẽ sinh con vào tháng Mười sắp tới.

Riêng tôi thì vẫn nhớ cái ngày Yvonne de Galais cho tôi biết cái tin quan trọng đó. Một khoảng im lặng giữa hai người; về phần tôi có đôi chút lúng túng tự nhiên của một thanh niên chưa vợ. Để giấu đi điều đó, tôi đã ngu dại nói:

“Chị thật là sung sướng!” nhưng mãi lâu về sau mới nghĩ ra cả một thảm kịch vẫn ám ảnh tôi cho đến tận lúc này.

Tuy nhiên với không chút ẩn ý, hối tiếc, hay chẳng giận hờn, ân hận, Yvonne chỉ đáp cùng với một cái cười hạnh phúc:

“Vâng, vô ngần sung sướng!”

Thường, trong tuần lễ cuối kỳ nghỉ hè bao giờ cũng rất đẹp và nên thơ, tuần lễ có mưa lớn và mọi nhà bắt đầu đốt lò sưởi thì tôi vẫn có thói quen đi săn trong rừng thông ẩm ướt đen xì ở Vieux- Nancay. Lần này nghĩ rằng Firmin, thím Julie và các cô em họ ở Vieux-Nancay có thể đặt ra với tôi những câu hỏi mà tôi không muốn trả lời nên tôi đành bỏ tám ngày với cái thú đi săn để về thẳng Saint-Benoist, bốn ngày trước buổi khai giảng.

Trời gần tối khi tôi tới sân trường đã thấy phủ đầy những chiếc lá vàng úa. Người đánh xe đi khuất, tôi buồn rầu lưu lại trong căn phòng có mùi ẩm mốc, mở gói đồ ăn Millie đã gói cho mang theo… Sau một bữa ăn qua loa trong tâm trạng bồn chồn lo lắng, tôi khoác áo mưa, hối hả đi thẳng tới ấp Les Sablonnières.

 

Tình thật, tôi không muốn là kẻ mà ngay bữa đầu tiên trở về trường lại đã xuất hiện ở Les Sablonnières như vị khách không mời vẫn đến. Nhưng đã mạnh dạn hơn hồi tháng Hai, sau khi đi một vòng quanh trang trại chỉ thấy có ánh đèn nơi cửa sổ phòng người thiếu phụ, tôi bèn trèo qua rào ở phía sau, tới ngồi trên cái ghế dài bắc sát vào hàng giậu. Trong bóng tối đã bắt đầu bao trùm vạn vạt, tôi ngồi đó với tâm trạng sung sướng được ở gần những gì khiến tôi ham mê nhưng cũng khiến tôi lo ngại nhất đời.

Đêm đến. Một trận mưa nhỏ bắt đầu rơi. Đầu cúi xuống, tôi ơ thờ ngó đôi giày sũng nước lấp loáng. Bóng tối từ từ phủ xuống chung quanh cùng với làn khí lạnh thấm nhẹ vào người cũng không kéo nổi tôi ra khỏi cơn mơ đang chìm đắm. Trìu mến, buồn rầu, tôi nghĩ tới những con đường bùn lầy ở Sainte-Agathe cũng một ngày trong tháng Chín; tưởng tượng đến cái công viên mờ sương khói có chú phụ đồ tể vừa đi ra chỗ máy nước vừa huýt sáo nho nhỏ; hình dung quán café Daniel trưng đèn sáng; và nghĩ đến một chuyến xe có cái vỏ ngoài làm bằng những chiếc dù mở rộng, một ngày cuối hè chạy tới nhà chú Florentin, trên chất đầy các người đang vui vẻ chuyện trò...

Rồi tôi buồn rầu tự nhủ: “Bấy nhiêu hạnh phúc có nghĩa gì nếu anh bạn tôi và cô vợ trẻ không

được tham dự…”

 

Chính lúc đó ngẩng đầu lên, tôi trông thấy Yvonne de Galais đứng cách tôi hai bước. Tiếng giầy của nàng nhẹ nhàng trên cát khiến tôi lầm với tiếng nước nhỏ xuống ở hàng giậu. Trùm kín từ đầu xuống vai bằng một tấm khăn choàng lớn, những lọn tóc trước trán thấy lấm tấm ướt, có lẽ từ trên cửa sổ mở ra sân trông thấy tôi nên nàng xuống đón tôi. Giống như Millie ngày xưa thường lo ngại đi kiếm tôi để bảo: “Vào nhà đi” thì đàng này, đã quen với cái thú đi dạo dưới mưa trong đêm tối của tôi, cô bạn chỉ dịu dàng nói:

“Coi chừng anh bị lạnh đấy”

và cứ ngồi đó trò chuyện mãi với tôi…

Bàn tay đưa ra nóng hổi, nàng không mời tôi vào trong nhà mà tự ngồi xuống chỗ ít đẫm nước mưa nhất trên mặt ghế phủ rêu xanh mốc, trong khi tôi đứng, một đầu gối quỳ lên ghế, cúi gần bên bạn.

Yvonne thân mật trách tôi sao bỏ lỡ mấy ngày trong dịp hè như vậy. Tôi đáp: “Tôi cũng cần phải mau mau trở về đây để chuyện trò với chị.”

Thiếu phụ đáp qua một tiếng thở dài nhè nhẹ:

“Đúng thế. Tôi vẫn chỉ có một mình. Augustin chưa về.”

Nhận tiếng thở dài đó như một mối hận, một ý trách móc được đè nén, tôi chậm rãi bày tỏ: “Bao nhiêu điên rồ trong một đầu óc cao cả. Có lẽ sự ham thích phiêu lưu mạnh hơn hết…”

Nhưng thiếu phụ ngắt lời tôi. Và tại đó, tối hôm ấy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối, Yvonne nói với tôi về anh Meaulnes. Giọng nhẹ nhàng, nàng khẽ bảo:

“Anh đừng nói thế, Francois ạ. Chỉ chúng ta --chỉ mỗi riêng tôi là có tội. Anh hãy nghĩ tới những việc ta đã làm xem… Chúng ta đã bảo với anh ấy: ‘Đây là hạnh phúc, là những gì mà anh đã bỏ tất cả tuổi trẻ để tìm kiếm, là cô gái đem lại sự thành tựu cho những gì anh hằng mơ ước...’ Làm sao con người mà chúng ta xô đẩy như vậy lại không cảm thấy ngập ngừng, rồi lo ngại, hoảng sợ, và không nghe theo sự cám dỗ bỏ trốn đi?”

Tôi nói nhỏ:

“Yvonne ạ, chị cũng thừa biết chính chị là niềm hạnh phúc đó, là cô gái đó.” Cô bạn thở dài:

“Chao ơi! Làm sao mà lại có lúc tôi dám cưu mang ý nghĩ kiêu hãnh ấy chứ? Chính nó là nguyên nhân của bao nhiêu chuyện. Khi tôi nói với anh: ‘Có lẽ tôi chẳng được việc gì cho anh Meaulnes đâu’ thì trong thâm tâm, tôi lại nghĩ: ‘Nếu Meaulnes mất công tìm kiếm ta và nếu chính ta cũng yêu Meaulnes, vậy ta cần phải đem hạnh phúc lại cho Meaulnes chứ.’ Cho tớí khi gặp Meaulnes với trọn sự háo hức băn khoăn và hối hận bí mật của anh ấy, tôi mới chợt hiểu rằng tôi chỉ là một người đàn bà đáng thương như mọi người khác thôi… Sau đêm tân hôn, khi trời gần sáng, tôi cứ nghe Meaulnes nhắc mãi một câu: ‘Anh không xứng đáng với em’. Tôi cố gắng an ủi, làm cho Meaulnes vững lòng, nhưng không cách nào khiến dẹp tan được nỗi băn khoăn ấy. Khi đó tôi mới nói: ‘Nếu anh cần ra đi, nếu em đến với anh vừa đúng lúc không cách nào làm cho anh được sung sướng, nếu anh cần xa em trong một thời gian để sau trở về với em sẽ được bình tĩnh, thì chính em sẽ van xin anh nên ra đi…”

Trong bóng tối, tôi thấy cô bạn ngước mắt lên ngó tôi. Đó là một lời thú tội mà cô vừa bày tỏ, và cô lo lắng chờ xem tôi chấp thuận hay phủ nhận việc cô đã làm.

Tôi còn biết nói gì hơn? Trong thâm tâm, tôi nhận ra được một anh Meaulnes của thời xa cũ, vụng về, cô độc, thà chịu bị phạt hơn là xin lỗi hay xin phép tuy biết rằng sẽ được phép... Không chừng nếu Yvonne làm dữ, hai tay ôm lấy đầu anh mà bảo: “Thây kệ những chuyện anh đã làm, em yêu anh; tất cả mọi người đàn ông đều có tội”; không chừng nếu làm vậy, thiếu phụ đã có thể giữ được anh. Đàng này bởi quá vụng dại, vì lòng cao thượng, vì biết hy sinh cho kẻ khác, Yvonne đã đẩy anh lên con đường phiêu lưu tăm tối…

Dù vậy, làm sao tôi có thể không chấp nhận một lòng tốt và một tấm tình tràn đầy thế kia?

Im lặng một lúc lâu, trong khi đó, xúc động tới tận đáy lòng, chúng tôi lặng nghe những giọt mưa lạnh nhỏ từng giọt trên hàng giậu và dưới những lùm cây.

Yvonne kể tiếp:

“Thế là sáng hôm đó Meaulnes ra đi. Không còn có điều gì ngăn cách chúng tôi nữa. Meaulnes bình thản hôn tôi như người chồng từ biệt người vợ lúc phải vắng xa một quãng thời gian dài.”

Cô bạn đứng lên. Tôi cầm bàn tay nóng hổi của Yvonne, rồi hai cánh tay, và hai chúng tôi đi vào trong bóng đen thăm thẳm.

Tôi hỏi:

“Anh ấy không hề viết thư cho chị?” “Chẳng bao giờ.”

Thế rồi cùng nghĩ tới cuộc phiêu lưu mà anh Meaulnes đang trải qua trên những nẻo đường nước Pháp hay nước Đức, chúng tôi bắt đầu nói tới anh như chưa hề bao giờ từng nói. Những chi tiết cũ, những cảm tưởng xưa trở lại trong trí nhớ, trong khi chậm rãi nhìn căn nhà, rồi mỗi bước lại ngừng để trao đổi thêm bao kỷ niệm…

Lâu lắm –cho tới khi đi đến cái hàng rào thấp cuối vườn—trong bóng tối, tôi vẫn lắng nghe giọng nói quí báu trầm ấm của thiếu phụ; và cả chính mình, lấy lại được sự sốt sắng hồi xưa, bằng giọng thân mật sâu xa, tôi đã không ngớt nói với bạn về con người đã bỏ chúng tôi mà đi đó.

 

 

Chương 12 Gánh Nặng

 

Trường khai giảng ngày thứ Hai. Chiều thứ Bảy, khoảng năm giờ, một người đàn bà bên ấp bước vào sân chơi trong khi tôi đang bận chẻ củi để dùng cho mùa đông tới. Bà đến báo tin một cô gái mới được hạ sinh tại Les Sablonnières. Vụ sinh nở có gặp khó khăn: chín giờ đêm đi mời bà mụ ở Préveranges, nửa khuya lại phải thắng xe đi Vierzon tìm ông y sĩ. Ông ta phải dùng kẹp lôi thai nhi ra. Vì thế, cái đầu đứa nhỏ bị óp nên la gào rất dữ, dù vậy xem ra vẫn sống được. Yvonne de Galais bây giờ yếu lắm, nhưng tỏ ra can đảm dị thường để chịu đựng và cầm cự với cơn đau.

Tôi bỏ ngay công việc, khoác vào người chiếc áo dạ, đồng thời cảm thấy vui về cái tin mới nhận, đi theo người đàn bà nhà quê tới Les Sablonnières. Sợ làm kinh động hai người đau không chừng đang ngủ, tôi thận trọng trên mỗi bước lên cầu thang bằng gỗ dẫn tới tầng lầu nhất. Tại đó, ông de Galais, khuôn mặt mệt mỏi nhưng hớn hở, đưa tôi vào căn phòng tạm thời đặt chiếc nôi có rèm bao quanh.

Tôi chưa từng bao giờ bước vào một căn nhà đúng ngày mới sinh một đứa trẻ. Biến cố bữa nay đối với tôi bí mật, lạ lùng và thật êm đềm! Chiều hôm đó rất đẹp - y hệt một buổi chiều vào giữa hè - nên chi ông de Galais không ngại mở ra cánh cửa sổ hướng về phía sân. Đứng cạnh tôi, chống tay nơi khung cửa, ông cụ kể bằng cái giọng vừa muốn đứt hơi lại vừa sung sướng, về tấn bi kịch đã xảy ra đêm trước. Còn tôi đứng nghe, âm thầm cảm thấy trong căn phòng này đã có thêm một người lạ.

Bên trong tấm màn, đứa nhỏ bỗng la lên một tiếng ngân dài the thé. Ông de Galais nói nhỏ: “Nó la vì vết đau trên đầu.”

Như cái máy, ông giơ tay đu đưa cái mớ mùng màn nhỏ bé. Nhìn ông, tôi có cảm tưởng rằng từ sáng làm công việc đó nên giờ ông đã thấy quen.

Ông nói:

“Nó đã biết cười, lại biết ngậm ngón tay nữa. Thế cậu chưa trông thấy cháu sao?”

Ông già mở màn cho tôi nhìn một khuôn mặt phì phị, bé bỏng và đỏ hỏn, cái đầu bị kẹp dài ra, méo mó. Rồi ông tiếp:

“Không sao hết, bác sĩ bảo tự nhiên nó sẽ tròn lại. Cậu thử đưa ngón tay ra cháu sẽ níu lấy ngay.”

Tôi khám phá thấy cả một thế giới chưa hề biết. Nghe trong tim nao nức một niềm vui lạ lùng mà trước kia tôi chưa từng cảm nhận.

Ông de Galais nhẹ nhàng hé mở cửa phòng thiếu phụ. Cô bạn không ngủ, nói: “Anh vào chơi.”

Yvonne nằm trên giường, khuôn mặt hừng sốt giữa những lọn tóc vàng bơ phờ, đưa tay ra cho tôi, điệu mỏi mệt. Tôi ngỏ lời khen cô cháu gái. Cô bạn mỉm cười đáp bằng giọng khàn đục, khác thường cứng cỏi --sự cứng cỏi của một người vừa dự xong một cuộc đấu:

“Vâng, nhưng cũng bị người ta bóp méo mất.” Lát sau tôi vội cáo từ để khỏi làm mệt thiếu phụ.

 

Hôm sau là Chủ nhật, buổi chiều tôi vội vã hăng hái tới Les Sablonnière. Trên cửa có ghim tấm bảng nhỏ với hàng chữ “Xin đừng kéo chuông” khiến tôi kịp giữ lại cử chỉ vừa phác họa.

Không đoán ra chuyện gì, tôi đập cửa khá mạnh. Bên trong nghe tiếng chân nhẹ bước đi mau.

Một người tôi không quen –viên y sĩ ở Vierzon—ra mở cửa.

Tôi vội hỏi:

“Thưa ông, có chuyện gì vậy?” Viên y sĩ vẻ khó chịu, đáp rất nhỏ:

“Suỵt! Suỵt! Con bé đêm qua suýt chết. Bà mẹ cũng khó sống lắm.”

Hoàn toàn kinh ngạc, tôi rón rén đi sau ông ta lên gác. Con bé nằm ngủ trong nôi, da tái xanh, mặt trắng nhợt trông như đã chết. Viên y sĩ cho rằng có thể cứu sống được nó. Còn về phần người mẹ thì ông không dám cả quyết.

Ông giải thích rất lâu cho tôi nghe mọi sự, như đối với người bạn được tin cậy nhất trong gia

đình, cho biết là thiếu phụ bị sung huyết ở phổi và bị huyết tắc. Ông do dự không dám chắc…

Khi đó, ông de Galais bước vào; mới có hai ngày mà trông đã già ghê gớm, ngơ ngác, run rẩy…

Đưa tôi sang phòng bên không biết để làm gì, ông cụ nói thầm vào tai tôi:

“Cần phải giữ cho cô ấy đừng sợ; bác sĩ bảo phải cố nói cho Yvonne tin rằng mọi sự đều tốt

đẹp.”

Yvonne de Galais vẫn nằm trên giường như hôm qua, đầu ngã về phía sau, máu dồn hết lên mặt. Đôi má và vầng trán đỏ ửng, hai mắt đôi lúc đảo lộn lên như người bị nghẹt thở. Thiếu phụ cầm cự với cái chết trong cách thế can đảm và dịu dàng lạ thường.

Nàng nói không được nhưng đưa cho tôi bàn tay nóng như lửa, dáng điệu thân mật đến độ

khiến tôi muốn phát khóc.

Còn ông de Galais thì lại to tiếng, điệu vui vẻ một cách khó chịu, tưởng như điên dại: “Này này, đau mà như vậy trông tươi tỉnh lắm đấy chứ?”

Tôi chẳng biết đáp lại ra sao, chỉ đứng yên nắm chặt bàn tay nóng ghê gớm của người thiếu phụ sắp chết…

Yvonne muốn cố gắng nói với tôi một câu gì đó, yêu cầu tôi một việc gì đó. Nàng đưa mắt nhìn tôi, rồi nhìn về phía cửa sổ như ngầm bảo tôi hãy đi ra ngoài kiếm người nào đó giùm nàng… Ngay lúc ấy, một cơn uất nghẹn dâng lên; đôi mắt xanh rất đẹp mới vừa kêu gọi tôi thật lâm ly nay bỗng đảo ngược; hai má và vầng trán xám đen; nàng nhẹ nhàng cố gắng kháng cự, tìm cách ngăn giữ tới cùng sự kinh hoảng pha lẫn thất vọng của mình. Mọi người chạy bổ tới –viên y sĩ và các phụ nữ, người mang bình dưỡng khí, kẻ mang khăn tay và những lọ thuốc; trong khi đó ông cụ ghé gần Yvonne mà la lớn. Cụ la với cái giọng cứng cỏi mà run rẩy, tưởng như con gái đã đi xa lắm rồi:

“Yvonne đừng sợ! Không có gì đâu! Con không cần phải sợ!”

Rồi cơn đau dịu lại. Yvonne đã thở được đôi chút nhưng vẫn còn bị nghẹn, hai mắt toàn tròng trắng, đầu ngã ra phía sau. Tuy cố gắng kháng cự nhưng nàng vẫn không thể, dù trong giây lát, nhìn tôi và trò chuyện để vượt ra khỏi cái hố sâu mà nàng đang chìm xuống dần dần...

Thấy ở lại cũng không được việc gì, tôi đành phải từ giã.

“Lẽ ra mình nên ở lại lát nữa”, đó là ý nghĩ mà về sau cứ làm cho tôi bị bóp nghẹn mãi bởi một niềm hối tiếc ghê gớm. Nhưng tại sao vậy? Khi ấy tôi vẫn còn hy vọng mà; cố ngụy tín với chính mình rằng chưa đã tới lúc hết.

Ra đến ven rừng phía sau, nghĩ tới khoé mắt Yvonne khi ngước về cửa sổ, một cách chăm chú soi mói như một người lính canh hay một kẻ đi lùng tìm ai đó, tôi nhìn vào cánh rừng sâu mà xưa kia Augustin đã từ đây mà tới và cũng do nơi đây, mùa đông năm ngoái anh lại bỏ đi.

Khốn nạn, tôi chẳng thấy gì hết. Không có lấy một cái bóng khả nghi, không một cành cây lay động. Nhưng, lắng tai mãi, tôi nghe thấy từ xa về phía đường đi Préveranges, có tiếng chuông rung trong trẻo; liền đó, từ một khúc quanh hiện ra một đứa nhỏ đội chiếc mũ nồi đỏ và bận cái áo khoác ngoài của học trò, theo sau là một linh mục…

Tôi bước đi, nước mắt nuốt vào tim.

 

Ngày hôm sau khai trường. Bảy giờ sáng đã có ba đứa trẻ tới sân chơi. Tôi cứ do dự mãi không mốn xuất hiện… Nhưng rồi khi tra chùm chìa khóa vào ổ cửa lớp ẩm mốc được đóng kín từ hai tháng qua, cái điều mà tôi ghê sợ nhất đã xảy ra: tôi thấy đứa trẻ lớn nhất trong đám học trò tách khỏi bọn đang chơi dưới sân có mái, tiến lại gần tôi. Nó nói cho tôi biết: “Thiếu phụ ở Les Sabblonnières đã chết hôm qua lúc trời đổ tối.”

Ngay tức thì, mọi sự chung quanh như đều đảo lộn, trộn lẫn trong nỗi đau này của tôi. Tôi cảm tưởng không bao giờ có thể dạy học được nữa. Riêng mỗi việc đi ngang qua sân trường cằn cỗi cũng là một sự cực hình khiến cho tôi muốn gẫy đầu gối. Tất cả đều nặng nề, cay đắng theo cái chết của cô bạn.

Thôi, thế là hết những cuộc nhắm mắt lao mình ra đi bằng xe ngựa; hết cuộc dạ hội kỳ lạ… Còn lại chỉ là nỗi đau ghê gớm đè nặng tâm hồn.

Tôi bảo cho học trò biết là sáng nay không học. Chúng từng tốp nhỏ ra về, đem cái tin chẳng lành đi khắp mọi nơi. Về phần tôi, chụp lấy cái mũ đen và bận cái áo đuôi tôm có viền, tôi thất thểu, buồn rầu đi về phía Les Sablonnières.

 

Tới trước ngôi nhà mà ba năm trước chúng tôi đã mất bao công tìm kiếm, tôi thấy lòng ngậm ngùi thổn thức! Chính trong căn nhà đó, Yvonne de Galais, vợ của Augustin Meaulnes đã chết hôm qua. Một kẻ lạ có thể sẽ cho đây là một giáo đường vì tại cái chốn trơ vơ trơ trọi ấy, sự im lặng đã tràn ngập từ đêm trước.

Trong cái buổi sáng khác biệt này, một tia nắng rớt của mùa thu đang len lỏi qua các cành cây đã chứng kiến sự đau đớn trong tôi như vậy đó. Làm sao tôi có thể kháng cự được với nỗi phẫn nộ ghê gớm và nguồn nước mắt đang làm cho tôi muốn nghẹn thở. Chúng tôi đã tìm ra được cô gái xinh đẹp. Chúng tôi đã chinh phục được nàng. Nàng đã trở thành vợ của bạn tôi và tôi cũng yêu nàng bằng thứ tình bạn sâu xa và âm thầm kín đáo. Mỗi lúc nhìn nàng, tôi thấy vui thích như tâm trạng của một đứa trẻ. Một ngày kia nếu cưới vợ, đáng lẽ nàng phải là người đầu tiên để tôi gửi gấm cái tin bí mật và quan trọng kia.

Bên dây chuông ở góc khung cửa người ta đã tháo bỏ tấm bảng nhỏ hôm qua. Chiếc quan tài đã được đem tới tiền phòng nơi tầng dưới. Trong phòng trên lầu nhất, tôi được chị vú nuôi chào đón và kể cho nghe về cái lúc sắp chết của thiếu phụ; xong chị khẽ mở cánh cửa phòng…

Yvonne đây kìa. Không còn nóng sốt, không còn cầm cự, không còn nước da đỏ ửng, không còn mong đợi chi nữa… Nay chỉ còn lại sự im lặng trên khuôn mặt vô tri và trắng bệch có bông gòn bao quanh. Nơi vừng trán của người chết thấy lơ thơ những sợi tóc đã khô cứng.

Ông de Galais ngồì thụp trong góc nhà, quay lưng lại phía chúng tôi, chân mang bít tất không mang giày, đang hối hả lục tung những ngăn kéo rối tung. Thỉnh thoảng cụ lôi ra một tấm hình đã vàng của cô gái, kèm theo một tràng nức nở lay động hai vai như một trận cười.

Đám tang định vào buổi trưa. Viên y sĩ sợ rằng xác chết sẽ sình trương mau khi bệnh nhân bị chứng tắc huyết, vì vậy trên mặt và trong người thiếu phụ có bao quanh những miếng gòn có tẩm chất thạch tán.

Yvonne được mặc vào chiếc áo bằng nhung màu xanh đậm có những ngôi sao bạc, nhưng hai cái vai áo phồng rất đẹp nay đã lỗi thời phải bị làm bẹp và vò nát đi.

Khi đem chiếc quan tài lên, người ta mới nhận thấy là không thể khiêng vòng quanh cầu thang quá hẹp. Như vậy cần phải dùng dây thừng kéo qua cửa sổ và sau lại hạ xuống sân cũng bằng lối đó…

Ông de Galais lúc ấy vẫn cắm cúi trong đám những kỷ vật cũ để tìm kiếm không hiểu món kỷ niệm nào đã thất lạc, bấy giờ phản đối rất hăng hái, giọng nghẹn ngào với nước mắt và giận dữ:

“Đáng lẽ làm một việc đáng ghê tởm thì hãy cứ để mặc tôi bồng con tôi đưa xuống nhà…”

Và ông cụ định làm đúng như vậy bất chấp tuổi già sức yếu có thể nửa đường vấp ngã cùng xác chết của con.

Tôi bèn đứng ra làm cái việc duy nhất có thể làm: Với sự giúp sức của viên y sĩ và một phụ nữ, một tay đỡ lưng người chết, tay kia đỡ đôi chân, tôi nâng Yvonne ngang ngực và ôm chặt lấy nàng. Tựa như đang ngồi trên cánh tay tôi, vai dựa vào tay trái, đầu rũ xuống dưới cằm, Yvonne đè nặng ghê gớm trên ngực tôi. Tôi chậm rãi bước từng bậc trên cái cầu thang dốc ngược; trong khi bên dưới mọi người lo sắp đặt quan tài.

Mới mấy bước tôi đã thấy hai cánh tay mỏi rừ. Cứ thêm một bậc thang với cả một sức nặng như vậy trên ngực, tôi càng thở mạnh. Ôm chặt cái xác vô tri và nặng, tôi cúi gần đầu người chết, những sợi tóc vàng bay cả vào miệng tôi --những sợi tóc chết có mùi như mùi đất.

Cái mùi đất, mùi chết và sức nặng đè trên ngực: đó là trọn vẹn những gì còn lại cho tôi trong cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ và của Yvonne de Galais, người thiếu phụ được dò tìm mất bao công phu và cũng được yêu không biết chừng nào…

 

Chương 13

Cuốn Tập Làm Bài Hàng Tháng

Trong căn nhà đầy những kỷ niệm buồn, nơi mà hằng ngày có những phụ nữ tới lo nuôi nấng, cưng chiều đứa nhỏ bệnh hoạn, ông de Galais chẳng bao lâu cũng nằm liệt, rồi bắt đầu vụ rét, cụ qua đời êm ả. Tôi âm thầm đứng khóc bên giường ông cụ dễ thương mà những tư tưởng rộng rãi, khác đời, cộng với tính chất của cậu con trai, đã là đầu mối cho tất cả cuộc phiêu lưu của chúng tôi. May mắn thay cụ mất đi trong một sự im lặng gần như tuyệt đối mà không hay biết chút nào về những chuyện đã xảy ra. Vì đã từ lâu không có một người bà con hay bạn hữu nào của gia đình còn ở trong vùng nên cụ để lại chúc thư nhờ tôi làm kế thừa toàn thể tài sản cho cụ chờ khi anh

Meaulnes về. Một mai nếu anh có trở về thật, tôi sẽ phải tường tình mọi việc với anh.

Từ nay tôi sẽ ở luôn tại ấp Les Sablonnières. Tôi chỉ sang Saint-Benoist để dạy học, sáng ra đi từ sớm. Trưa ăn tại trường mấy món nấu sẵn từ ấp mang theo được hâm nóng trên mặt lò sưởi. Buổi chiều ngay sau khi tan lớp, tôi trở về Les Sablonniè- res. Làm như vậy, tôi có thể trông nom con bé cháu vào ban đêm; ban ngày nó được các phụ nữ ở nông trại săn sóc. Hơn nữa, làm vậy, tôi có nhiều hy vọng gặp anh Meaulnes nếu một ngày nào anh trở về Les Sablonnières.

Hơn nữa, tôi hy vọng rằng lâu dần sẽ kiếm ra trong các tủ, các rương hoặc những ô kéo tại Les Sablonnières một mảnh giấy, chứng tích gì khả dĩ giúp tôi biết được anh đã làm gì trong những năm xa cách; hay có lẽ cũng nắm được lý do nào đã khiến anh bỏ Yvonne ra đi sau ngày đám cưới; hoặc cùng lắm là dò la được tung tích của anh hiện nay…

Tôi đã mất bao nhiêu công kiểm soát những ngăn tủ, mở ra biết bao nhiêu hộp giấy đủ mọi kiểu trên căn gác xép, cái thì đầy những tấm hình cũ của gia đình de Galais, cái thì đầy những hoa giả, lông chim xác chim nhồi rơm đã lỗi thời. Từ những chiếc hộp bay ra mùi nhạt thếch, những hương thơm đã tàn bỗng dưng trong trọn một ngày khơi dậy cho tôi những kỷ niệm, những tiếc thương đến khiến phải tạm ngưng cuộc dò tìm…

Sau cùng, nhân một ngày nghỉ, tôi kiếm được trên căn gác xép một chiếc rương dài và thấp có bọc da, lớp lông ở mặt trên đã bị sờn hết một nửa. Tôi nhận ra là chiếc rương của Augustin dùng hồi đi trọ học; và tự trách sao không bắt đầu cuộc khám xét tự chỗ này. Cái khóa bị han rỉ được nậy rất dễ. Rương đầy những sách vở dùng ở Sainte-Agathe, các sách toán, sách văn, vở làm bài... Trìu mến hơn là tò mò, tôi lôi ra từng cuốn mà ngắm, đọc lại những bài chính tả còn thuộc làu vì đã phải chép đi chép lại biết bao lần! Bài “Cái Máng Nước” của Rousseau, bài “Một cuộc phiêu lưu tại Calabre” của Paul-Louis Curier, bài “Lá thư của Geoge Sand gửi con trai…”

Trong cái rương đó còn có một cuốn tập “Bài Làm Hằng Tháng”. Tôi rất ngạc nhiên theo điều khám phá ấy bởi vì những cuốn này luôn luôn được giữ lại trường, không bao giờ cho học trò đem ra ngoài. Đó là một cuốn tập màu xanh, mép ngoài đã trở nên vàng úa. Tên học trò là “Augustin Meaulnes” được viết trên cái bìa bằng bút rông rất đẹp.

Tôi mở ra. Theo ngày làm bài đề trên sách, tháng Tư 189…, tôi nhận ra rằng anh Meaulnes bắt đầu cuốn tập này vài ngày trước khi rời khỏi Sainte-Agathe. Những trang đầu được giữ gìn hết sức cẩn thận đúng với lệ đã quen đối với loại sách làm bài tập. Nhưng chỉ không quá ba trang có bài, còn những trang sau để trống. Đó là lý do tại sao anh Meaulnes lại đem cuốn sách ấy đi.

Trong khi quỳ gối dưới đất suy nghĩ tới những tục lệ, những lề thói trẻ con đã chiếm bao nhiêu chỗ trong thời tuổi nhỏ chúng tôi, tôi lấy tay lật mép từng trang trên cuốn tập bỏ dở. Vì vậy mà khám phá ra rằng sau bốn trang bỏ trắng, ở những trang kế tiếp lại có chữ viết.

Vẫn là tuồng chữ của anh Meaulnes, nhưng viết vội, lem nhem, khó đọc. Có những đoạn dài ngắn không đều, được phân biệt bằng một hàng bỏ trống. Đôi khi chỉ là một câu viết dở. Có lúc chỉ ghi mỗi cái ngày.

Ngay từ hàng đầu, tôi đã đoán ra rằng trong đó chứa đựng những chi tiết về cuộc sống đã qua của anh ở Paris, những chứng tích về hành tung mà tôi đang muốn tìm kiếm.

Tôi đi xuống phòng ăn để thảnh thơi đọc tập tài liệu kỳ lạ này dưới ánh mặt trời buổi sáng. Bữa mùa đông hôm đó, thời tiết trong trẻo và náo động. Lúc thì ánh nắng chói chang vẽ những hình thập tự vuông lên trên tấm rèm trắng nơi cửa sổ, lúc thì một cơn gió bất chợt nổi lên, ném vào làn kính lạnh những sợi mưa rào. Trước khung cửa sổ đó, cạnh bên lò sưởi, tôi ngồi đọc những dòng chữ giải thích cho tôi biết bao nhiêu chuyện kỳ lạ. Dưới đây là nguyên văn, tôi chép lại không sai một chữ…

 

 

Chương 14 Sự Bí Mật.

 

“Một lần nữa tôi đi ngang qua dưới cửa sổ nhà nàng. Khung kính vẫn bám đầy bụi và trông trắng xóa do tấm rèm được treo ở bên trong. Dù Yvonne de Galais có mở cánh cửa ra chăng nữa, tôi cũng không biết nói gì với nàng vì nàng đã lập gia đình. Làm sao bây giờ? Sống sao cho nổi?

 

Thứ bảy 13/2.

Tôi gặp trên bờ sông Seine cô gái hồi tháng Sáu đã cho tôi biết rằng, cũng như tôi, cô có tới đợi trước căn nhà đóng kín cửa. Trò chuyện, bước đi bên cạnh, tôi ngó nghiêng và nhận ra những khuyết điểm trên mặt cô ta: bên mép có một vết nhăn nhỏ, hai má hơi trễ xuống, phấn đọng nhiều nơi hai cánh mũi. Cô gái chợt quay lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, (có lẽ nghĩ rằng nhìn thẳng trông cô sẽ được đẹp hơn), nói cộc lốc:

“Anh làm cho tôi rất vui, khiến tôi nhớ lại một chàng trẻ tuổi ở Bourges trước kia vẫn hay tán tỉnh tôi và đã gần như là vị hôn phu của tôi…”

Tuy nhiên, khi trời tối hẳn, trên mặt hè vắng loang loáng nước mưa có ánh lên ánh sáng ngọn đèn hơi ở bờ đường, cô gái bỗng tiến sát lại gần, đòi tôi đưa hai chị em cô đi coi hát ngay đêm đó. Lần đầu tiên tôi nhận thấy cô bận đồ tang, tay cầm cái dù dài giống như cây gậy, đầu đội chiếc mũ kiểu đàn bà lớn tuổi nên trông già quá so với khuôn mặt còn trẻ của cô. Vì đứng gần, mỗi khi làm một cử chỉ nào, móng tay tôi lại vướng phải lần lụa mỏng trên ngực áo cô…

Khó khăn lắm tôi mới chịu nhận lời yêu cầu của cô ta. Bực mình, cô gái muốn bỏ đi ngay. Tới lượt tôi nài nỉ giữ cô lại. Khi đó một bác thợ đi ngang trong bóng tối, thấp giọng bông lơn câu nói:

“Cô bé đừng đi, hắn sẽ làm đau cô thôi.” Cả tôi và cô đều sửng sốt theo câu nói ấy.

 

Tại rạp hát.

Valentine Blondeau và cô chị choàng lên vai hai tấm khăn rất cũ. Ngồi phía trước tôi, Valentine chốc chốc quay lại, vẻ lo ngại, ý muốn hỏi xem tôi có cần việc gì không. Gần cô, tôi cảm thấy khá vui; nên mỗi khi Valentine xoay người nhìn, tôi liền đáp lại bằng một nụ cười.

Chung quanh có các bà ăn bận quá hở hang. Chúng tôi nói đùa với nhau theo điều ấy. Ban đầu cô ta cười góp, sau mới nói: “Lẽ ra em không được cười. Chính em cũng hở hang quá.” Và thu mình lại trong tấm khăn quàng. Quả vậy, bên dưới tấm đăng ten màu đen, tôi nhận thấy, vì vội vàng thay áo, cô vẫn còn bận cái áo lót lúc ban ngày.

Ở cô có cái vẻ vừa nghèo nàn vừa ngây thơ, trong khoé mắt ẩn chứa một niềm đau khổ và liều lĩnh làm tôi bị lôi cuốn. Gần cô, con người duy nhất trên đời này có thể cho tôi biết về những người ở trang viện kia, tôi không ngớt nghĩ đến cuộc phiêu lưu kỳ lạ hồi xưa…

Đang muốn dò thêm cô gái về ngôi nhà ở Paris thì cô lại hỏi tôi những câu rất khó chịu mà tôi chẳng biết trả lời sao. Tôi cảm thấy rằng từ nay cả hai chúng tôi sẽ cùng nín lặng về chuyện ấy. Tuy nhiên, cũng biết rằng sẽ gặp lại cô. Gặp để làm gì? Tại sao? Liệu từ nay tôi có bị buộc phải theo đuổi hết thảy những gì có mang đôi chút di tích rất mơ hồ xa xôi của cuộc phiêu lưu lở dở?

Nửa đêm, ngồi một mình ngoài phố vắng, tôi tự hỏi không biết câu chuyện mới lạ này sẽ ảnh hưởng tới tôi ra sao? Tôi đi ngang những căn nhà giống như những cái hộp bằng giấy bồi xếp thành hàng dài, trong đó có bao nhiêu người đang ngủ. Và đột nhiên nhớ lại một quyết định từ tháng trước: nửa đêm phải tới đó, vòng ra phía sau, mở cánh cửa vườn, lẻn vào trong nhà như một tên trộm, và kiếm xem có hình tích nào giúp tôi tìm lại được nơi trang viện bí mật cho tôi tới ngó lại, chỉ ngó lại nơi đó mà thôi… Nhưng tôi đang mệt, lại đói, trước khi tới rạp hát chỉ vội thay áo và không kịp ăn… Bồn chồn, lo lắng, tôi ngồi rất lâu bên thành giường trước khi ngủ, bị xâm chiêê1m bởi một sự hối tiếc mơ hồ. Tại sao?

 

Tôi phải ghi thêm câu này: Dù hai cô gái không muốn tôi đưa về tới nhà, hoặc nói cho biết mình ở đâu, thì tôi cũng cố sức đi theo sát tới cùng. Thấy được họ cư ngụ tại một phố rẽ về phía nhà thờ Đức Bà, nhưng chẳng biết số mấy... tôi đoán chừng hai cô làm nghề thợ may hay thợ làm mũ.

Lén giấu chị, Valentine hẹn với tôi thứ Năm, lúc bốn giờ, trước rạp hát cũ. Cô nói:

“Nếu mai em không ra đó thì thứ Sáu cũng giờ ấy, hay thứ Bảy, và cứ thế, tất cả mọi ngày.”

 

Thứ Năm 18/2

Tôi đến điểm hẹn trong cơn gió lộng, lòng thầm nhủ: Trời sắp mưa rồi… Bước đi giữa bóng tối hoàng hôn, tôi cảm thấy trong lòng như có một vật gì đè nặng. Một giọt mưa rơi. Tôi sợ trận mưa lớn sẽ khiến cô ta không thể tới. Gió tiếp tục thổi nhưng vẫn chưa đổ mưa. Buổi chiều --lúc xám lúc trong--, trên bầu trời thấy có một đám mây lớn bị gió thổi làm cho tan đi. Còn tôi thì ngồi đây thu mình trong sự ngóng trông thảm hại…

 

Trước rạp hát.

Một khắc đồng hồ sau, tôi tin chắc rằng cô ta không có mặt. Đứng trên bờ sông, nhìn được từ xa những đám người qua lại trên cây cầu mà khi tới đây, cô sẽ phải bước. Tôi đưa mắt dõi theo hết thảy những phụ nữ bận đồ tang sắp đi tới và gần như biết ơn những bà những cô hao hao giống cô ta xuất hiện từ quãng xa hay rất gần, khiến cho tôi thêm hy vọng…

Một giờ mong đợi. Tôi thấy chán nản quá. Khi trời tối, một ông cảnh binh lôi về quận gần đó một thằng nhãi ranh đang xối xả tuôn vào mặt ông những câu chửi, những lời tục tằn bằng một giọng bị bóp nghẹt. Ông cảnh binh cáu tiết, mặt tái xanh, nhưng nín lặng… Vừa tới hành lang quận là ông ta bắt đầu đập, rồi đóng cửa lại để mặc sức đập thằng bé khốn khổ…. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ ghê gớm rằng tôi đã từ bỏ thiên đường và đang đứng trước cửa địa ngục.

Chán ngán, tôi quay lưng đi trên con đường thấp và hẹp nằm giữa sông Seine và nhà thờ Đức Bà, nơi xem chừng có thể biết được nhà cô Valentine ở vào khoảng nào. Chỉ mỗi mình tôi bách bộ, thỉnh thoảng mới thấy một chị ở hay một bà nội trợ đi ra ngoài mua sắm vài món cần dùng trước khi trời tối… Ở đây chẳng có gì hết nên tôi lại bỏ đi… Trong cơn mưa lất phất khi trời còn sáng, tôi quay trở lại điểm hẹn cũ lúc bấy giờ đông người qua lại hơn khi nãy --một đám đông đen nghịt.

 

Ảo tưởng, thất vọng pha lẫn nhọc mệt, tôi níu lấy ý nghĩ: Đợi đến mai. Đến mai, cũng giờ này, vẫn nơi đây, tôi sẽ quay lại đợi. Và tôi nao nức muốn ngày mai chóng tới. Buồn nản, tôi tưởng tượng tối hôm nay, rồi buổi sáng ngày mai sẽ chẳng có công việc gì làm. Nhưng buổi hôm nay cũng đã gần tàn rồi. Trở về nhà, bên lò sưởi, tôi nghe tiếng trẻ con rao bán báo buổi chiều. Có lẽ, ở một căn nhà tại nơi nào đó trong thành phố, gần ngôi Đại giáo đường, cô ta cũng nghe tiếng rao đó.

 

Cô… tôi muốn nói: “Valentine.”

Cái buổi tối mà tôi muốn lẩn tránh này lại cứ đè nặng trong tim một cách lạ lùng. Một ngày sắp tàn và chính tôi cũng muốn cho mau tàn đi thì lại có những người gửi vào đó trọn vẹn những hy vọng, tâm tình và tất cả năng lực cuối cùng của họ. Có những người đang sắp chết, có những người chờ tới lượt hấp hối của mình, có những người muốn rằng ngày mai không bao giờ tới. Lại có những người mà đối với họ ngày mai sẽ ló ra như một niềm tiếc hận. Nhiều người khác nhọc mệt, đêm nay thấy không đủ dài như ý mong được nghỉ ngơi. Còn tôi, tôi đã bỏ lỡ mất ngày hôm nay thì có quyền gì để kêu gọi ngày mai?

 

Chiều thứ Sáu.

Tôi toan viết tiếp: “Tôi vẫn chưa gặp lại cô ta.” Và mọi sự thế là hết.

Nhưng lúc bốn giờ chiều, khi tới góc rạp hát, bỗng nhìn thấy cô. Mảnh khảnh và trang nghiêm, mình bận bộ áo đen, chút phấn thoa trên mặt và chiếc cổ áo làm cho cô trông giống như một chàng hề tội lỗi. Một kẻ vừa đau đớn vừa hóm hỉnh.

Cô tới cho biết rằng muốn đi ngay và sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa.

….. ….. ….. ….. ….. ……

Tuy nhiên, khi trời đổ tối, chúng tôi vẫn còn chậm bước dạo bên nhau trên lớp sỏi trong vườn Tuileries. Cô kể chuyện riêng cho tôi nghe bằng cái cách kín đáo bí ẩn khiến tôi rất khó hiểu. Cô nói “người yêu của tôi” khi nhắc tới vị hôn phu mà cô không nhận. Tôi cho rằng cô cố tình nói vậy để tôi phải bực và đừng lưu tâm tới cô nữa.

Có những lời mà tôi rất khó chịu phải ghi lại đây:

Cô nói: “Anh đừng đặt lòng tin nơi em, luôn luôn em có những hành động điên rồ.” “Em một mình đi phiêu lưu.”

“Em đã làm cho vị hôn phu phải thất vọng. Em đã bỏ anh ta vì anh ta ngưỡng mộ em quá. Anh ấy chỉ nhìn em bằng tưởng tượng chứ không bằng thực tế, trong khi em là đứa con gái đầy những tật xấu. Nếu lấy nhau, chúng em chắc sẽ khổ sở lắm.”

Luôn luôn bắt gặp cô đang muốn tỏ ra tồi tệ hơn sự thật. Tôi cho rằng cô muốn tự nhủ với chính mình rằng hồi xưa cô có lý khi quyết định làm việc ngu dại vừa kể; rằng cô không có điều gì đáng than tiếc và không xứng đáng với mối hạnh phúc đã gặp.

Một lần khác:

Cô ngó tôi rất lâu rồi nói: “Không hiểu tại sao, nhưng điều mà em thích ở anh thì rất đúng với những kỷ niệm mà em đã gặp.”

Một lần nữa, lại nói:

“Em vẫn yêu người ấy, yêu hơn là anh tưởng.”

Rồi đột nhiên đổi giọng buồn rầu, tàn nhẫn:

“Tóm lại, anh muốn gì? Có phải rằng anh cũng yêu em chứ? Anh có sắp hỏi em làm vợ không?...”

Tôi trả lời ấp úng. Thật tình tôi chưa biết đáp sao. Có lẽ tôi sẽ nói “có”.

Tập gọi là nhật ký đó ngưng tại đây. Tiếp theo là những bản nháp các lá thư đọc không được, dị hình, xóa gạch lung tung. Thật là một sự đính hôn quá lỏng lẻo! Theo lời yêu cầu của Meaulnes, cô gái đã bỏ nghề. Anh lo thu xếp vụ đám cưới với cô. Tuy nhiên đầu óc cứ mãi bị ám ảnh bởi ý muốn dò tìm thêm nữa, dõi theo hơn nữa những dấu tích của mối tình cô độc, nên nhiều lần anh biến đi, để lại cho Valentine những lá thư với lời lẽ biện bạch và lúng túng đến khổ sở.

 

 

 

Chương 15

Sự Bí Mật (Tiếp Theo)

 

Rồi tập nhật ký được tiếp tục, ghi lại những kỷ niệm một dịp cả hai cùng đi về vùng quê, tôi không rõ ở đâu. Nhưng lạ lùng thay, kể từ thời kỳ này, có lẽ vì bị một mối hỗ thẹn âm thầm xâm chiếm tâm tư mà những câu viết không được mạch lạc suông sẻ và luôn bị ngắt đoạn; những lời ghi rất vụn vặt, lem nhem vội vã đến khó đọc. Vì vậy tôi phải tự ý viết lại, sắp xếp hẳn phần này của câu chuyện.

 

  1. tháng 6.

Buổi sáng tại nhà trọ, khi anh thức dậy thì mặt trời đã soi tỏ những hình vẽ màu đỏ trên tấm rèm đen. Các công nhân ở phòng dưới đang uống café, oang oang trò chuyện. Bằng những lời lẽ thô kệch mà từ tốn, họ phàn nàn về ông chủ của họ. Chắc hẳn trong khi còn ngủ, anh Meaulnes đã nghe được những tiếng động trầm tĩnh mà lúc thoạt đầu anh không lưu ý. Tấm rèm có điểm những chùm nho biến thành màu đỏ rực dưới những tia nắng; tiếng chuyện trò buổi sớm vọng tới tận căn phòng lặng lẽ; tất cả đều hòa nhập trong cảm tưởng duy nhất về một lần thức dậy ở thôn quê, thời gian bắt đầu những ngày hè thích thú vui tươi.

Anh trở dậy, gõ nhẹ cánh cửa phòng bên nhưng không thấy tiếng đáp, nên khẽ mở nó ra. Trông thấy Valentine, anh mới chợt hiểu mối hạnh phúc êm đềm đã từ đâu tới. Cô đang ngủ, hoàn toàn bất động, không nghe cả tiếng thở, y như một con chim đang ngủ. Anh đứng ngắm rất lâu khuôn mặt trẻ thơ đang nhắm mắt kia, vẻ bình lặng đến khiến kẻ khác không nỡ đánh thức hay xáo trộn giấc ngủ cô.

Muốn tỏ ra rằng đã tỉnh dậy, Valentine chỉ làm cái việc đơn giản là mở mắt và nhìn anh.

 

Khi cô trang phục vừa xong, Meaulnes đã trở lại. Cô gái nói: “Mình dậy trễ quá.”

Xong, lập tức bắt tay vào những công việc của một người nội trợ. Trước hết, cô xếp dọn trong hai phòng, rồi chải những quần áo Meaulnes bận hôm qua. Khi chải tới cái quần đầy bùn dính chặt dưới gấu, cô tỏ ra bực mình lắm, vẻ do dự, cẩn thận, kỹ lưỡng; trước khi chải lại lấy con dao cạo bớt lớp bùn đi.

Anh Meaulnes nói:

“Trẻ con ở Sainte-Agathe sau mỗi khi nhảy vào vũng bùn cũng làm như vậy.” Valentine đáp:

“Còn em thì được mẹ dạy.”

Đó là người con gái mà trước thời kỳ xảy ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ, gã-thợ-săn-và-chú-nông-dân Meaulnes phải ao ước được lấy làm vợ.

 

15tháng Sáu.

Có người quen giới thiệu họ là một cặp vợ chồng nên Meaulnes và Valentine được mời tới dự tiệc ở một nông trại mà cả hai đều cảm thấy rất chán ngán. Valentine tỏ ra e thẹn đúng như một cô dâu mới.

Nến được thắp trên hai cái chân đèn đặt ở hai đầu bàn có trải khăn màu trắng, y hệt một tiệc cưới ở thôn quê. Dưới luồng sáng yếu ớt, các khuôn mặt mỗi khi cúi xuống thì lại chìm trong bóng tối.

Cùng Valentine ngồi bên tay phải Patrice (con trai ông chủ trại), anh Meaulnes chẳng nói một lời suốt từ đầu đến cuối bữa tiệc, tuy rằng mọi người luôn luôn gợi chuyện với riêng anh. Từ ngày đến ngụ tại thôn xóm hẻo lánh này, anh quyết định tỏ cho cư dân nơi đó biết rằng Valentine là vợ để tránh sự đàm tiếu. Cũng vì như vậy mà luôn luôn anh bị khổ sở vì hối hận, luyến tiếc.

Trong khi Patrice ra vẻ một điền chủ ở thôn quê đang điều khiển bữa tiệc, thì anh Meaulnes ngẫm nghĩ:

“Đáng lẽ tối nay, trong một căn phòng trần thấp như căn này --mà ta vẫn chưa quên--, chính ta phải là người chỉ huy tiệc cưới của riêng mình.”

Ngồi bên cạnh, Valentine e thẹn từ chối hết mọi món thức ăn người ta đưa đến, trông đúng là một cô gái quê. Cứ mỗi khi được mời, cô lại ngó người bạn mình và như muốn nép vào bên anh vậy. Từ nãy thấy Patrice cố nài cô uống cạn ly rượu, anh Meaulnes bỗng ghé lại gần cô, dịu dàng nói:

“Valentine, em uống đi.”

Thế là cô vâng lời. Patrice cả cười, khen anh có người vợ ngoan. Nhưng cả Valentine lẫn anh Meaulnes đều ngồi yên ra vẻ suy nghĩ. Trước hết, họ mệt quá, hai chân bị ướt vì đạp mãi trong bùn khi đi dạo ngoài đồng, nay bước trên nền gạch nhà bếp đã cọ rửa sạch thì họ càng thêm lạnh giá. Với lại thỉnh thoảng anh bắt buộc phải nói: “Vợ tôi, Valentine, vợ tôi…” trước những nông dân không quen biết, và mỗi lần như thế, trong căn phòng tối, anh có cảm tưởng như đã phạm lỗi...

 

17 tháng Sáu.

Buổi chiều cuối cùng đó khởi sự không được êm đẹp.

Hai vợ chồng Patrice đi dạo cùng với hai người. Lát sau, trên sườn đồi lởm chởm mọc đầy hoa thạch thảo, hai cặp lạc nhau. Meaulnes và Valentine ngồi giữa những cây tùng trong một khu rừng thưa. Những giọt mưa được gió mang tới nhưng bầu trời mây giăng thấp. Dường như trong buổi chiều có nhuốm vẻ gì chua chát, thứ hương vị chán ngán mà ngay tới tình yêu cũng không thể xua tan.

Hai người ngồi đó rất lâu, núp dưới những tàng lá, im lặng. Bầu trời trở nên quang đãng. Và họ tin rằng mọi sự sẽ tốt đẹp hơn.

Câu chuyện yêu đương được đưa ra... Valentine mói mãi, nói mãi. Nàng nói:

“Đây là những hứa hẹn của vị hôn phu em, anh ta trẻ con lắm: ‘Chúng em sẽ có liền một ngôi nhà, như một túp lều tranh ẩn kín giữa đồng quê. Anh ấy bảo nhà đã có sẵn. Chiều hôm cưới, khoảng giờ này, trước khi trời đổ tối, chúng em sẽ về đó như sau một cuộc viễn du... Dọc đường, trong sân, núp trong các lùm cây, sẽ có bọn trẻ con lạ chào mừng và la lên: ‘Cô dâu muôn năm!’ Anh thấy, thật đúng là điên có phải?”

Meaulnes ngồi nghe, vẻ sững sờ, lo lắng. Qua câu chuyện kể, anh nghe thấy tiếng vang của một giọng nói quen thuộc. Đồng thời, cũng cảm nhận sự luyến tiếc vương vương trong các lời lẽ của cô.

Về phần Valentine thì lại sợ đã làm phật lòng anh, nên vội quay lại, nhẹ nhàng nói:

“Với anh, em muốn cho hết những gì em có: cả cái món này đối với em rất quý giá… anh hãy

đem đốt đi.”

Thế rồi, nhìn thẳng vào mắt anh, điệu bồn chồn, cô lôi từ trong bọc một xấp thư đưa cho anh.

Đó là thư của vị hôn phu thuở trước.

Lập tức, Meaulnes nhận ngay ra nét chữ nhỏ nhắn thanh nhã (tại sao anh không nghĩ sớm hơn nhỉ?) của Frantz, anh chàng bô-hê-miêng; tuồng chữ mà anh đã nhìn thấy trên tờ thư tuyệt vọng trong căn phòng nơi trang viện cổ ngày xưa.

Bước chầm chậm cạnh nhau trên một lối nhỏ, giữa những cụm hoa pâquerettes và những cọng rơm có ánh mặt trời buổi chiều chiếu rọi, anh sững sờ đến độ chưa ý thức được hết sự thể mà Valentine đang đưa anh tới một cảnh huống thất bại như thế nào. Anh đọc thư vì cô gái cứ đòi anh phải đọc. Những lời lẽ trẻ con, lâm ly, lãng mạn… Chẳng hạn như câu này trong bức thư cuối:

“… Chao ơi! Em đã đánh mất trái tim nhỏ rồi, em Valentine không thể tha thứ được kia ơi!

Bây giờ chúng ta sẽ ra sao? Thật tình anh không đến nỗi mê tín quá…”

 

Vừa đọc, vừa gần như quáng cả mắt vì tiếc hận và giận dữ, khuôn mặt Meaulnes phẳng lặng nhưng xanh mét, đôi mi chớp chớp. Valentine đâm lo ngại vì thái độ anh, tự hỏi tại sao anh lại nổi giận như vậy.

Cô lên tiếng giải thích:

“Đó là một món nữ trang anh ấy cho em và bắt em phải giữ kín mãi. Cũng là một trong những sáng kiến điên rồ của anh ta.”

Những lời này càng làm cho Meaulnes thêm cáu tiết. Anh bỏ mấy bức thư vào túi và nói:

“Điên rồ! Tại sao cô cứ nhắc mãi chữ đó? Tại sao cô không biết tin lời nói anh ta? Tôi có biết anh ta. Thật là một chàng trai lạ lùng nhất đời tôi chưa từng gặp.”

Vô cùng sửng sốt, Valentine hỏi:

“Anh biết anh ấy ư, anh quen Frantz de Galais sao?”

“Đó là người bạn thân nhất, người anh em trong mọi cuộc chơii, thế mà tôi lại cướp đi của hắn người vợ chưa cưới.”

Giọng thịnh nộ, anh tiếp:

“Ối chà! Cô đã làm hại chúng tôi biết bao nhiêu! Cô chẳng tin tưởng gì hết. Cô là đầu mối cho mọi chuyện. Chính cô đã làm cho mọi sự mất hết, tan biến hết.”

Valentine muốn nói, muốn cầm lấy tay anh, nhưng anh tàn nhẫn đẩy cô ra. “Cô cút đi! Để mặc tôi!”

Mặt đỏ bừng, vẻ như sắp khóc, cô ấp úng đáp:

“Nếu sự tình như vậy thì em cần phải đi. Em sẽ trở về nhà ở Bourges với chị em. Anh ạ, nếu anh không trở lại đón em, cha em nghèo quá không nuôi nổi em, em sẽ đi Paris, sẽ lang thang ngoài phố như hồi nào, và sẽ trở thành một cô gái giang hồ vì em không có nghề gì khác nữa.”

Rồi cô về nhà trọ lấy hành lý ra Ga. Meaulnes chẳng thèm ngó lại, cứ tiếp tục những bước lang thang.

Tập nhật ký ngưng lần nữa.

Tiếp theo lại có các mẩu nháp những bức thư được viết bởi một người đang trong tâm trạng lạc lõng, không định kiến.

Trở về La Ferté-d’ Angillon, anh Meaulnes viết thư cho Valentine, lời lẽ tuy phô bày sự quyết chí không muốn gặp lại bằng những lý do được nêu ra rõ rệt, nhưng sự thật là có ý muốn để cho cô hồi âm.

Trong một thư, anh còn hỏi cả cái điều mà trong lúc lúng túng, anh chưa hề nghĩ đến để hỏi:

Cô có biết nơi trang viện anh nhọc công tìm kiếm là ở vùng nào chăng?

Ở thư khác, anh van nài cô nên nối kết lại với Frantz de Galais và chính anh tự nguyện sẽ nhận lãnh việc đi tìm chàng...

Hầu hết những thư mà tôi tìm thấy bản nháp dường như đều không được gửi. Nhưng chắc hẳn anh đã có viết cho cô hai ba lần, nhưng không được hồi âm.

Đó là thời kỳ tranh đấu thảm hại ghê gớm, trong khi anh chỉ một mình trơ trọi. Hy vọng gặp lại Yvonne de Galais đã hoàn toàn tan biến, anh tất phải nhận ra sự quyết tâm của mình ngày một sút kém đi.

Và theo như những trang kế tiếp --những trang cuối cùng trong tập nhật ký—tôi đoán rằng anh phải có một buổi sáng đầu mùa hè mướn xe đạp đi thăm nhà thờ ở Bourges. Ra đi từ sớm bằng con lộ thẳng giữa rừng, dọc đường anh lo bày ra cả ngàn lý do biện minh cho hành động tìm tới trước mặt cô gái mà trước kia anh đã đuổi đi khỏi, cho dù không phải để hòa thuận lại.

Bốn trang sau rốt được tôi thu thập, kể về chuyến đi và lỗi lầm cuối cùng này của anh…

 

 

 

Chương 16 Sự Bí Mật. (Hết)

 

15 tháng Tám.

Đầu bên kia thành phố Bourges, nơi tận cùng khu ngoại ô, sau khi mất công rất lâu, anh mới tìm ra nhà Valentine Blondeau. Một người đàn bà --mẹ Valentine-- đứng ở bực cửa, vẻ như đang chờ đợi. Bà ta có khuôn mặt đầy đặn của một người nội trợ, nặng nề, nhăn nhúm, nhưng vẫn còn đẹp. Tò mò đứng nhìn anh đi tới và khi anh hỏi “cô Blondeau có nhà không?” bà nhẹ nhàng vẻ thân thiện cho anh hay rằng từ bữa 15 tháng Tám, hai chị em cô đã trở lại Paris.

Bà ta nói thêm: “Chúng nó dặn tôi không cho bất cứ ai biết hai chị em nó ở đâu, nhưng hãy cứ viết thư tới địa chỉ cũ, ở đó người ta sẽ gửi tiếp thư giúp cho chúng.”

Khi quay ra, tay dắt xe, chân bước trên mảnh vườn nhỏ trước nhà, anh nghĩ:

“Cô ấy đi rồi… Mọi sự thế là hết đúng như ý mình muốn… Chính ta đã buộc cô như vậy. Cô có nói: ‘Em chắc sẽ thành một cô gái giang hồ.’ Thì ra chính ta đẩy cô đi tới chỗ đó. Chính ta đã làm hỏng của Franzt người vợ chưa cưới.’

Anh như điên lên, nói một mình: “Càng tốt! Càng tốt!” tuy tự tin chắc là chỉ muốn nói lời trái nghịch: “Thật tiếc!”.

Và khi ra khỏi vườn, ngay trước mắt người đàn bà, anh gần như sắp ngã quỵ xuống đất.

Chẳng buồn nghĩ tới bữa ăn trưa, anh ghé vào một quán café để viết một thư rất dài cho Valentine, viết như để la lớn, như để giải thoát những nỗi ê chề thất vọng đang làm cho anh tức nghẹn. Trong thư anh nhắc đi nhắc lại: “Liệu cô có thể… Liệu cô có thể… Liệu cô có thể cam chịu vậy sao? Liệu cô có thể tự làm hỏng cuộc đời mình như thế sao?”

Ngồi gần anh có một đám lính đang uống rượu. Một người trong bọn đang to tiếng kể lại một chuyện về đàn bà mà Meaulnes chỉ nghe được từng đoạn: “… Tôi đả bảo nó… cô chắc chắn phải

 

 

biết rõ tôi… Tối nào tôi chẳng đánh bài với chồng cô!” Những người khác cả cười, quay mặt đi, nhổ nước bọt ra phía sau ghế.

Bộ dáng tiều tụy, bụi bám đầy người, vẻ như một gã ăn mày, Meaulnes ngồi nhìn họ, tưởng tượng bọn họ đang bồng Valentine trên tay.

Một hồi lâu, cỡi xe, anh chạy mãi quanh nhà thờ, thầm nghĩ: “Tóm lại ta tới đây chỉ vì ngôi nhà thờ này!” Từ khắp các phố, trên công viên vắng người, đều thấy ngôi giáo đường vươn cao, thản nhiên, đồ sộ. Những con phố hẹp và bẩn như những ngõ nhỏ bao quanh các nhà thờ ở thôn quê. Đó đây lại thấy nơi một ngôi nhà có treo ngọn đèn màu đỏ, biểu tượng cho một ổ điếm…

Meaulnes cảm thấy nỗi đau của mình thêm nặng trong khu phố bẩn thỉu, tội lỗi, hẻo lánh, như thưở xa xưa người ta cảm thấy điều ấy bên dưới những cây cột ngoài cửa các giáo đường. Anh nhận ra niềm lo sợ pha lẫn ghê tởm mang tính chất đặc biệt nông dân trong anh đối với ngôi nhà thờ được xây cất giữa một khu vực loại này, nơi mà bao nhiêu điều mờ ám xấu xa đều có lén ghi dấu tích; và những đau khổ thuần khiết nhất của tình yêu đã không thể được cứu gỡ.

Có hai cô điếm ôm lưng nhau đi qua mặt anh, đưa cặp mắt lơ láo ngó anh. Vì ghê tởm hay muốn thử thách, hoặc để trả thù mối tình của mình, hay để cho nó càng đắm chìm thêm nữa, Meaulnes chậm chạp đạp xe theo. Một cô có mấy sợi tóc vàng lơ thơ kéo ra phía sau búi lại thành một cục tóc giả trông thật tội nghiệp, hẹn anh sáu giờ chiều tới vườn tòa Tổng Giám Mục, địa điểm mà Frantz, trong một bức thư, đã hẹn với cô nàng Valentine đáng thương.

Anh chẳng đáp “không” vì biết chắc rằng giờ đó anh đã rời khỏi thành phố này từ trước.

Đứng trong khung cửa sổ thấp, tại con đường dốc, cô gái còn lơ đãng ra dấu cho anh.

Anh vội vàng ra về.

Trước khi rời khỏi nơi đó, không thể cưỡng được với ý muốn đi ngang qua trước nhà Valentine lần nữa, anh mở to mắt để nhìn và thâu nhận bao nhiêu buồn thảm vào trong tim. Đó là một trong những ngôi nhà cuối cùng ở ngoại ô, từ sau khu này đường phố trở thành con đường lộ… Phía trước là một bãi hoang biến thành một công viên nhỏ. Không có ai đứng ở các cửa sổ, trong sân, hay bất kỳ chỗ nào khác. Dọc theo một mảnh tường, có độc nhất một người đàn bà mặt dồi đầy phấn đang lôi hai đứa trẻ rách rưới theo sau.

Thời tuổi nhỏ của Valentine kéo dài nơi đây. Chính ở đó cô bắt đầu nhìn đời bằng đôi mắt tin cậy và ngoan ngoãn. Cô đã phải làm việc, may vá đàng sau những cánh cửa sổ. Và Frantz đã tới khu phố vùng ngoại ô này để gặp cô, mỉm cười với cô.

Nhưng bây giờ không còn chi nữa .…

Buổi chiều buồn kéo dài, trong đầu Meaulnes chỉ có mỗi ý nghĩ rằng ở xa đâu đó, cũng buổi chiều này, Valentine đang trầm ngâm nhìn thấy kỷ niệm của nơi công viên buồn nản mà không bao giờ cô còn trở lại, sẽ trôi qua đi trong ký ức riêng.

Phương thuốc độc nhất chống đỡ nỗi đau chính là đoạn đường anh phải bước đi trong lượt quay lại, là một quên lãng tạm thời trước khi hoàn toàn ngập chìm trong nỗi đau ấy.

Anh ra về. Trong thung lũng sát đường, giữa lùm cây bên cạnh bờ sông có những ngôi nhà nông trại rất dễ thương, phô ra những đầu hồi nhọn với giàn dây nho màu lục. Nơi xa, trên bãi cỏ xanh, vài cô gái đang ngồi nói chuyện yêu đương. Có lẽ họ là những kẻ có tâm hồn, những tâm hồn tươi đẹp…

Nhưng với Meaulnes lúc bấy giờ chỉ hiện hữu một tình yêu duy nhất trong tim; một tình yêu không toại ý vừa mới bị anh xúc phạm một cách độc ác. Và cô gái trên hết trong số những cô cần đến sự che chở bảo vệ của anh thì lại bị anh đuổi đi xa mất rồi.

Mấy hàng vội vã trong tập nhật ký cho biết rằng anh vẫn nuôi ý định thế nào cũng sẽ đi kiếm Valentine trước khi quá muộn. Một ngày đề nơi góc trang, có lẽ là ngày mà bà mẹ Meaulnes đang sửa soạn hành trang cho anh đi một chuyến xa thì tôi tìm tới La Ferté-d’Angillon làm xáo trộn hết mọi chuyện.

Trong căn phòng trước kia được dùng làm tòa thị sảnh, một sáng đẹp trời cuối tháng Tám, Meaulnes đang ngồi nơi bàn viết... thì tôi bỗng đẩy cửa bước vào đem cho anh cái tin mừng mà anh không còn chờ đợi nữa.

Anh đang bị bó tay vì cuộc phiêu lưu trước kia đang xâm chiếm con người anh trở lại, nhưng không dám làm gì hay thú nhận sự bó tay của mình. Từ đó trong anh bắt đầu nổi lên những mối hận, những luyến tiếc đớn đau, lúc lại bùng lên, lúc bị nén xuống... cho mãi tới buổi sau hôm cưới, tiếng gọi của anh chàng bô-hê-miêng từ rừng thông đã long trọng nhắc cho anh nhớ lại lời thề đầu tiên của thời niên thiếu xa xưa.

 

Cũng trên cuốn tập “Bài Làm Hằng Tháng”, anh còn ghi vội vài ba câu nữa, vào buổi sáng trước khi từ biệt Yvonne de Galais, người vợ mới cưới ngày hôm trước, dù được phép của nàng nhưng cuộc ra đi không hẹn ngày trở lại,:

“Tôi ra đi. Tôi cần phải tìm lại hành tung hai người bô-hê -miêng bữa qua đã tìm tới rừng thông và đã bỏ đi về hướng Đông bằng xe đạp. Tôi sẽ chỉ quay về với Yvonne khi nào tôi đưa được về rồi đem Frantz và Valentine tới ở tại ‘nhà của Frantz’ sau khi họ đã làm lễ cưới.

Tập thủ bút này, tôi bắt đầu như một tập nhật ký riêng, nay đã trở thành những lời thú tội của tôi. Nếu tôi không trở về, nó sẽ thành vật sở hữu của bạn tôi, Francois Seurel.”

Chắc chắn là anh đã vội vàng giấu nó xuống dưới những sách vở khác, khóa kỹ chiếc rương nhỏ thời học trò và biến mất.

 

PHẦN III

Chương 1 Cuộc Bơi Lội

 

Hút thuốc lá, vuốt nước đường lên đầu cho quăn tóc, hôn những cô gái lớp Dự Bị bắt gặp ở dọc đường và núp sau hàng giậu la to: “Kìa cái sừng!” để hù dọa các bà phước... là những trò vui của bọn trẻ mất dạy trong làng. Tuy nhiên, tới hai mươi tuổi, những trẻ thuộc loại này cũng rất có thể tu tỉnh và trở nên những thanh niên giàu tình cảm. Đáng ngại chỉ là khi đứa trẻ đó có khuôn mặt sớm già héo, ưa quan tâm tới những chuyện mờ ám về phụ nữ quanh vùng, hoặc kể ra cả ngàn câu chuyện bậy bạ về cô Gilberte Poquelin để mọi người cười phá lên. Dù vậy, như thế cũng chưa đáng gọi là thất vọng hẳn…

Jasmin Delouche nằm trong trường hợp đó. Không hiểu sao gã vẫn tiếp tục theo học lớp Cao đẳng mà chắc chắn là không thích thú gì việc thi cử, trong khi tất cả mọi người đều muốn gã bỏ đi; đồng thời gã cũng theo ông cậu Dumas học nghề thợ hồ. Dạo sau này chỉ còn Jasmin Delouche, Boujardon và Denis tính tình dễ dãi, con trai ông phó xã trưởng, là những học trò lớn mà tôi thích giao du, vì họ là “những người của thời anh Meaulnes”.

Vả lại chính Delouche cũng rất thành thật muốn làm bạn với tôi. Thật tình mà nói, trước kia thù nghịch anh Meaulnes bao nhiêu thì nay gã lại muốn trở thành “một anh Meaulnes” của cả trường bấy nhiêu: ít ra gã cũng hối tiếc đã không phải là kẻ đồng hành tương đắc của anh. Thân hình không nặng nề như Boujardon, tôi nghĩ có lẽ gã cũng cảm thấy anh Meaulnes là người từng đã đem lại trong cuộc đời chúng tôi một dấu ấn khác thường, kỳ lạ. Thỉnh thoảng tôi nghe gã nhắc:

“Chính anh Meaulnes có nói…”,

hoặc “Chà, anh Meaulnes đã bảo rằng…”

Ngoại trừ tính cách già trước tuổi khác hẳn chúng tôi, gã còn có cả một kho tàng những trò chơi chứng tỏ gã hơn chúng tôi một bực: con chó lai giống màu trắng lông dài có cái tên Bécali khó nghe biết tha về những cục đá người ta liệng ra xa trước mặt nó, nhưng chỉ thế, ngoài ra nó chẳng biết làm trò gì khác; chiếc xe đạp cũ, đôi khi Jasmin cho chúng tôi cởi ké những chiều tan học dù gã vẫn thích dùng nó để tập cho đám con gái trong làng hơn; đặc biệt là con la trắng mù mắt có thể thắng cương vào với bất cứ loại xe nào.

Con la đó là của ông cậu Dumas nhưng mỗi mùa hè khi chúng tôi tổ chức đi tắm tại sông Cher, Dumas lại cho Jasmin mượn. Vào những dịp như vậy, mẹ gã thường bọc theo cho gã một chai nước chanh, đặt dưới chỗ ngồi lẫn trong mớ quần tắm còn khô. Thế rồi dưới sự chỉ đạo của Monsieur Seurel, một bọn tám hay mười người học trò lớn cùng khởi hành. Kẻ cuốc bộ, người trèo lên xe có con la kéo. Khi tới đoạn đường đưa đến sông Cher bị lồi lõm quá, chiếc xe sẽ được gửi lại ở trại Grand’ Fons.

Tôi cần phải kể lại đây với đầy đủ mọi chi tiết nhỏ về cuộc đi chơi năm ấy như vậy. Chiếc xe của Jasmin chở Monsieur Seurel cùng với những quần tắm, đồ đạc, chai nước chanh; còn tất cả đều đi bộ theo sau. Dịp đó vào khoảng tháng Tám. Vừa thi xong, mọi lo lắng được rũ bỏ hết, nên suốt cả mùa hè với tất cả hạnh phúc đều nằm trong tay chúng tôi. Khởi đầu một chiều thứ Năm tươi đẹp, cả đám vừa đi vừa vu vơ ca hát bất kể là bài gì.

Duy chỉ một vết đen điểm vào trong cảnh tượng trong sáng ấy: trên đường, bất thần chúng tôi trông thấy Gilberte Poquelin đi đàng trước. Cô gái có thân hình tròn lẵn, bận cái váy dài ngang gối, chân mang giày cao gót, vẻ hiền lành nhưng trông trâng tráo của một cô gái nhỏ đang trở thành thiếu nữ. Cô rời bỏ đường cái rẽ vào con ngõ tắt, có lẽ để mua sữa. Thằng nhãi Coffin lập tức bảo Jasmin đi theo. Gã kia huênh hoang đáp:

“Không phải lần đầu tiên tôi chạy theo hôn con bé đâu nhé.”

Trong khi tất cả đám chúng tôi vì hứng thú, cũng rẽ vào con ngõ tắt, để mặc ông Seurel cứ tiếp tục tiến lên ở đường cái trên chiếc xe có con la kéo, thì Jasmin bắt đầu kể rất nhiều chuyện thô tục về Gilberte và các cô gái khác trong làng. Tại đây, chúng tôi bắt đầu chia ra thành nhiều tốp. Có mặt chúng tôi, xem ra Delouche cũng không thích tấn công cô gái đang bước đi rất nhanh phía trước, nên không tiến lại gần cô mà chỉ để một khoảng cách chừng năm chục thước. Có vài tiếng tục tục như gà trống hay tác tác như gà mái cùng với đôi ba tiếng còi khiêu khích vang lên. Rồi chúng tôi bỏ cuộc, quay trở lên đường cái, bộ ngượng nghịu. Khi ấy trời đang nắng gắt nên phải chạy cho kịp. Không ai cất tiếng hát nữa.

Trong đám lau sậy mọc bên bờ sông Cher, chúng tôi cứ thay ra rồi lại mặc quần áo vào. Lau sậy che cho khỏi bị nhòm ngó, nhưng không che được ánh mặt trời nóng bức. Chân dậm trên cát hay trên lớp bùn khô, ai cũng nghĩ đến chai nước chanh của bà góa phụ Delouche đang ngâm cho lạnh ở vũng nước được đào ngay bên bờ sông Cher, trong trại Grand’ Fonds. Dưới đáy vũng bao giờ cũng có những cây cỏ màu lục nhạt và những con bọ đất; nhưng nước lại rất trong, trong vắt, khiến cho các người đi câu lúc nào cũng sẵn sàng quỳ xuống, vục đầu vào vũng, hai tay chống trên bờ.

Ôi, bữa đó cũng y như mọi bữa khác…

Khi quần áo đã chỉnh tề, ngồi xếp bằng thành một vòng tròn, chúng tôi chia nhau chút nước chanh đã được ngâm lạnh. Sau khi đã mời Monsieur Seurel uống phần của ông, thì phần của từng đứa chỉ còn một chút bọt đâm khiến cổ họng càng thêm ngứa và càng tăng cao nỗi khát. Thế là ai nấy đều chê không uống nữa, thay vào đó, vục mặt xuống vũng nước trong.

Dù vậy, không phải ai trong bọn cũng đều quen cái với lối uống kiểu nông dân đó. Nhiều anh, chẳng hạn như tôi, không làm sao cho hết khát được do bởi không thích uống nước, hoặc bởi sợ lỡ uống nhằm con bọ đất; có người lại bị lầm vì không tính được đúng chỗ trên mặt nước phẳng lì nên cứ vục cả nửa mặt xuống uống đến nỗi sặc, mũi cay sè; kẻ khác thì lại bởi tất cả những lý do vừa nói cộng lại. Dù sao chăng nữa, chúng tôi có cảm tưởng bao nhiêu sự mát mẻ trên thế gian này đều chỉ thu gọn nơi đó. Mãi tới bây giờ, ở bất kỳ đâu, hễ cứ nghe nói tới vũng nước là tôi nghĩ ngay tới cái vũng của mùa hè năm xưa…

Lượt trở về bao giờ cũng vào lúc hoàng hôn mà thoạt đầu ai nấy đều vô tâm như lượt ra đi. Mùa đông, con đường lên trại Grand’ Fonds và đưa tới đường cái là một dòng suối; còn ở mùa hè, nơi đây biến thành cái khe có những hố và những rễ cây lớn chắn ngang nên xe cộ không qua lại được. Một phần trong bọn tinh nghịch leo lên theo con đường giốc có hai hàng cổ thụ như hai hàng rào lớn. Còn tôi, Jasmin và nhiều đứa khác cùng với Monsieur Seurel đi trên một lối cát mịn thoai thoải, men theo thửa đất kế cận, song song với con đường kia. Chúng tôi nghe tiếng bọn họ cười nói rất gần, ngay dưới chân chúng tôi, nhưng vì trời tối nên không nhìn thấy họ. Trong khi đó, Delouche ba hoa kể những chuyện “người lớn” của gã… Qua các kẽ lá của những cây cao, giống côn trùng buổi tối đang cất tiếng hát vang. Thỉnh thoảng một con bổ xuống, kêu vù vù nghe rõ mồn một.

Thật là một buổi chiều hè êm tịnh và đẹp đẽ! Cuộc trở về, không có gì hy vọng mà cũng không còn thèm thuồng gì sau một cuộc đi chơi mộc mạc ngoài đồng… Nhưng lại chính Jasmine đã làm náo động cảm nghĩ yên bình đó dù rằng gã chẳng định tâm…

Khi tới đầu giốc, nơi còn lại hai phiến đá lớn đã xưa mà người ta cho là tàn tích của một tòa lâu đài cổ, gã nói tới chuyện những lãnh địa gã đã từng có tới, nhất là cái Lãnh địa Sablonnières hầu như bỏ hoang ở gần Vieux-Nancay. Với giọng nói vùng Allier có cái lối huênh hoang uốn lưỡi kéo dài vài chữ hoặc cắt cụt vài chữ khác một cách rất tởm, gã kể lại, mấy năm trước đã trông thấy trong ngôi giáo đường bỏ hoang tại trang viện cổ xưa đó một tấm bia trên có khắc những hàng chữ:

“Nơi đây yên nghỉ chàng Hiệp sĩ Galois

Trung thành với Chúa, Nhà Vua, và với Người Đẹp.”

Monsieur Seurel nhún vai ậm ừ mấy tiếng như có vẻ khó chịu, nhưng cũng để mặc bọn tôi bô bô câu chuyện như những người đàn ông thực thụ.

Thế là Jasmin lại tiếp tục mô tả tòa lâu đài ra tuồng như gã đã từng trải qua ở đó cả đời.

Nhiều lần từ Vieux-Nancay trở về, cậu Dumas và gã đều lưu ý đến cái tháp cổ màu xám ló ra trên những ngọn thông. Ngay giữa rừng, có cả một dãy nhà đổ nát ai cũng có thể tự do tìm tới trong lúc vắng mặt chủ. Một lần, người trông coi trang viện còn tháp tùng theo xe hai chú cháu, đưa họ vào thăm tòa lâu đài kỳ dị. Nhưng về sau, theo lời người ta nói, tất cả dãy nhà giữa rừng đều bị giở đi hết; chỉ còn lại khu nông trại và một ngôi nhà nhỏ có mái hiên nhô ra. Những người ở lại vẫn là gia đình chủ cũ, một viên sĩ quan hồi hưu đã già, gần phá sản, và cô con gái.

Gã nói… nói mãi…

Tôi đang chú ý nghe, vô tình cảm thấy rằng đó là câu chuyện mà tôi rất quen thuộc... Bỗng dưng, giống như những chuyện bất ngờ thường xảy ra, Jasmin quay lại, thúc vào cánh tay tôi, vẻ như đang bị choáng váng vì một ý nghĩ chưa bao giờ gã có:

“Này, tôi cho rằng đó là nơi mà anh Meaulnes –anh Meaulnes ấy... đã đi tới.” Khi thấy tôi không nói gì, gã tiếp:

“À, phải rồi, người trông coi ở đó cho tôi biết cậu con trai nhà ấy là một tên kỳ dị, có những tư tưởng khác thường.”

Tôi không nghe gã nữa, ngay từ đầu đã tin chắc rằng gã đoán trúng. Thế rồi, trước mắt tôi, khi không còn anh Meaul- nes với chẳng chút hy vọng nào, một cách thật dễ dàng và quang đãng như mọi con đường ta vẫn đi, bỗng như thấy mở ra lối đưa tới trang viện có cái lâu đài cổ không tên.

 

 

Chương 2

Tại Nhà Florentin.

 

Trước kia là đứa trẻ khổ sở, mơ mộng và lầm lỳ bao nhiêu, thì nay tôi trở nên vững vàng, “cả quyết” (như lối nói của người làng) bấy nhiêu khi cảm thấy tự tôi sẽ định đoạt được phần kết cục của cuộc phiêu lưu nghiêm trọng.

Kể từ buổi chiều đó, tôi tin chắc, hai đầu gối tôi đã hoàn toàn hết đau.

Vieux-Nancay, thôn xã gồm cả khu trang viện Les Sablon- nières, là trú quán của cả gia đình Monsieur Seurel và nhất là của ông chú Florentin, một nhà buôn; nơi đôi khi chúng tôi có tới ở vào dịp cuối tháng Chín. Khỏi phải thi cử nữa, tôi không muốn đợi lâu hơn nên xin phép đến chơi ngay nhà ông chú. Tôi cũng định không nói cho anh Meaulnes hay điều gì trước khi tin chắc có thể báo cho anh một tin mừng. Tốt hơn hết là chẳng nên lôi anh ra khỏi nỗi thất vọng để rồi lại dìm anh vào một nỗi thất vọng khác.

Trong một thời gian rất lâu, trên trái đất này, Vieux-Nancay, cái xứ của những dịp gần tựu trường, là nơi chốn được tôi ưa thích nhất. Dù vậy, cũng ít khi chúng tôi đến đó, trừ những lần kiếm thuê được một cỗ xe riêng. Có lẽ thuở trước gia đình tôi với chi họ ở vùng này từng xảy ra một chuyện xích mích nào đó nên mỗi khi có dịp, mẹ tôi thường để cho nài nỉ mãi mới chịu ngồi lên xe. Riêng tôi thì chẳng hề quan tâm tới những vụ bất hòa như vậy… Mỗi lần ngay sau khi đến đó là tôi đã lẫn nhanh vào đám những anh chị em họ để tận hưởng những ngày nghỉ hè tràn đầy các trò chơi rất mê say.

Chúng tôi ngụ lại nhà chú Florentin và thím Julie, hai người có với nhau một cậu con trai tên Firmin bằng tuổi tôi và 8 cô con gái, hai cô lớn nhất, Marie-Louise 17 tuổi, và Charlotte 15 tuổi. Gia đình chú tôi mở một cửa hàng bách hóa lớn ngay đầu làng thuộc xứ Sologne, đàng trước nhà thờ chính. Nơi đây, tất cả các thợ săn hoặc chủ nhân các lâu đài sống trơ vơ giữa vùng hoang vu, cách nhà ga hằng ba chục cây số. thường tới mua sắm.

Khu bày bán hương liệu và vải vóc là gian có nhiều cửa sổ quay ra đường cái; về hướng công viên nhà thờ là một cửa lớn ra vào có lắp khung kính. Một điều lạ (tuy rằng rất thường đối với vùng dân nghèo này) là sàn nhà trong cửa hàng chỉ được nện bằng đất chứ không lát ván.

Phía sau là sáu phòng, mỗi phòng chất đầy một loại hàng: phòng bày mũ nón, phòng bày các đồ làm vườn, phòng bày các loại đèn… kể ra không hết. Hồi còn nhỏ, mỗi khi đi ngang nơi mê cung chứa đầy những thứ hàng kỳ lạ đó, tôi cứ có cảm tưởng sẽ không bao giờ ngắm chúng cho hết được. Mãi tới bây giờ, tôi cũng vẫn còn cho rằng chỉ ở đó mới thật là nơi xứng đáng cho một cuộc nghỉ hè.

Gia đình chú tôi sống trong một căn nhà bếp rộng có cửa thông sang bên cửa hàng. Trong căn bếp vào dịp cuối tháng Chín có đốt một lò sưởi lớn đó, từ tảng sáng các thợ săn thường đem tới bán các con thú đã săn bắn được, xong cùng nhau ngồi uống rượu; trong khi các cô em họ tôi cũng đã thức dậy, chạy đi chạy lại bôi dầu thơm lên mái tóc chải mượt cho nhau. Trên tường có treo những bức hình đã cũ, chụp các toán học sinh, trong đó có cha tôi đứng giữa nhóm học sinh mặc đồng phục của trường Sư Phạm mà tôi đã phải mất công lắm mới nhận ra được ông.

Những buổi sáng của chúng tôi đều qua tại căn bếp đó; có khi ở ngoài sân, nơi chú Florentin trồng hoa thược dược và nuôi gà sao. Tại đây, người ta ngồi rang café trên những thùng đựng sà phòng đã rỗng; còn đám trẻ con thì giở từ trong hòm ra đủ các thứ được gói bọc kỹ lưỡng, có những món không biết cả tên.

Suốt ngày cửa hàng đông nghẹt những nông dân và những chú đánh xe ở các lâu đài quanh vùng. Bên ngoài cửa ra vào, trong lớp sương mù tháng Chín, các xe ngựa chở đồ từ các làng mạc xa tới đậu ở đó. Và trong nhà bếp, chúng tôi tò mò ngồi nghe các bà nhà quê kể đủ thứ chuyện…

Nhưng buổi tối, sau tám giờ, khi người nhà xách đèn mang rơm xuống cho bầy ngựa đang bốc hơi nghi ngút dưới chuồng thì tất cả cửa hàng đều là của chúng tôi!

Marie Louise, chị cả, nhưng vóc người lại bé nhỏ nhất, đang thu dọn gần xong những tấm nỉ ngoài cửa hàng, cất tiếng rủ cả bọn cùng ra đó chơi cho vui. Thế là Firmin, tôi và đám con gái nhỏ ùa ra bên ngoài có những cây đèn lạ kiểu vẫn được dùng thắp sáng ở các quán ăn. Chúng tôi quay những cối xay café, nhảy qua các quầy hàng; đôi khi Firmin lại leo lên tầng gác xép kiếm đem xuống cái đèn đầy những vết mốc xanh. Nền nhà bằng đất nện lại khiến tất cả bỗng muốn khiêu vũ…

Bây giờ tôi còn thấy đỏ mặt khi nghĩ rằng những năm trước, cô de Galais có thể xuất hiện ở

cửa hàng vào giờ đó và bắt gặp chúng tôi đang nô giỡn các trò trẻ con kia…

Năm ấy, vào một chiều tháng Tám, lúc trời đã chạng vạng tối, trong khi đang bình thản trò chuyện với Marie-Louise và Firmin thì lần đầu tiên tôi được gặp cô Yvonne de Galas.

Ngay buổi tối tới Vieux-Nancay, tôi đã hỏi chú Florentin về Lãnh địa Les Sablonnière rồi. Chú

đáp:

“Bây giờ nơi đó không còn là lãnh địa nữa. Đã bán hết cả; các chủ mới đều là thợ săn nên cho phá hết các ngôi nhà cổ để rộng đất săn bắn; sân chính bây giờ chỉ là một bãi lớn đầy những hoa thạch thảo và kim tước. Chủ cũ giữ lại một căn nhà nhỏ có gác và khu nông trại. Rồi đây cháu sẽ có nhiều dịp gặp cô de Galais; cô vẫn tới mua hàng, khi cỡi ngựa, lúc đánh xe nhưng bao giờ cũng vẫn một con ngựa già tên Bélisaire… Còn cái xe lại trông thật kỳ dị!”

Tôi thấy bối rối đến không biết hỏi thêm điều gì để rõ hơn mọi chuyện. “Có phải trước kia gia đình đó rất giàu?”

“Đúng. Ông cụ de Galais vẫn mở hội để làm vui cho cậu con trai. Cậu bé tính nết kỳ cục lắm, trong đầu luôn mang nhiều tư tưởng khác lạ. Muốn làm vui cho con, ông cụ bày ra đủ thứ trò khác biệt. Có khi còn mời các thanh niên nam nữ ở Paris và các nơi khác về chơi nữa… Trang viện Les Slabon- nières hoàn toàn đổ nát khi bà de Galais sắp chết và được mọi người trong nhà chiều theo tất cả những ý thích khác thường của bà, cố tìm hết mọi cách làm cho bà vui. Mùa đông năm ngoái, không, năm trước nữa, ở đó có tổ chức một dạ hội trá hình lớn lắm. Họ mời khách, một nửa từ Paris và một nửa ở các vùng quê đến. Họ mua và mướn rất nhiều quần áo đẹp sang trọng, bày ra các trò đua ngựa và đáp du thuyền. Tất cả chỉ để mua vui cho Frantz de Galais. Người ta bảo Frantz sắp lấy vợ và buổi hội đó là để mừng lễ đính hôn của cậu ta. Nhưng Frantz còn nhỏ quá. Mọi sự bỗng tan vỡ, cậu ta bỏ đi mất, chẳng ai còn gặp lại… Sau đó bà chủ Lãnh địa chết, cô de Galais bỗng dưng còn lại một mình với ông bố già trước kia là đại tá hải quân.”

Mãi lâu tôi mới hỏi được: “Thế cô ta đã có chồng chưa?” Chú tôi đáp:

“Chưa. Chú không hề nghe nói chuyện đó. Hay cháu muốn làm rể nhà ấy?”

Hết sức bối rối, tôi chỉ kể rất gọn và kín đáo rằng anh bạn Augustin Meaulnes thân nhất của tôi có lẽ muốn lấy cô ta làm vợ. Chú Florentin mỉm cười:

“À, nếu cậu ta không quan tâm tới vụ hồi môn thì đó thật là một đám tốt. Có cần để chú nói với ông de Galais cho không? Thỉnh thoảng ông cụ vẫn tới đây mua ít đạn chì. Lần nào chú cũng mời ông cụ nếm thứ rượu mạnh cất bằng bã nho đã lâu năm.”

Nhưng tôi vội vàng dặn chú hãy đợi mà đừng nói chi hết. Luôn chính tôi cũng không muốn vội vàng cho anh Meaulnes biết. Bao nhiêu may mắn đồng lúc đưa đến làm cho tôi e ngại. Vì e ngại như vậy nên tôi thấy ít nhất cần phải gặp cô de Galais trước khi báo điều gì với anh.

 

Tôi đợi không lâu. Ngày hôm sau, trước bữa cơm chiều một chút, trời bắt đầu xẩm tối trong một màn sương như thể đang ở vào tháng Chín hơn là tháng Tám. Firmin với tôi cho rằng cửa hàng sắp vãn khách nên cùng nhau ra chơi với Charlotte và Marie-Louise. Hai cô em họ đã được tôi kể cho nghe câu chuyện thúc đẩy tôi tìm tới Vieux-Nancay sớm hơn dự tính. Đang tỳ tay vào quầy hàng hay chống trên mặt quầy gỗ đánh xi để cùng nói cho nhau nghe những gì mình biết về cô gái bí mật đó –những điều thật ra cũng rất hạn chế— thì bỗng nghe có tiếng bánh xe lăn trên đường cái, nên cả bốn người cùng quay đầu nhìn ra. Một người nói nhỏ:

“Cô de Galais đấy!”

Chỉ độ mấy giây, trước khung kính, một chiếc xe lạ kiểu đậu lại. Đó là thứ xe cổ xưa dùng ở nông trại; cạnh xe được gọt cho tròn trịa với những đường viền chạm nổi –điều không thấy có nơi các cỗ xe khác trong vùng. Một con ngựa trắng già vừa đi vừa cúi đầu sát đất như thể lúc nào cũng gặm cỏ bên đường. Và --tôi nói điều này với tất cả bản chất đơn giản nhưng hiểu rõ mỗi lời mình nói- trên ghế ngồi, đúng thật là một cô gái đẹp nhất trên đời có thể có được.

Chưa hề bao giờ tôi được nhìn thấy bao nhiêu duyên dáng hòa hợp cùng với nét đoan trang dường đó trên một cô gái. Bộ y phục bó sát mình làm cho cô có vẻ yếu ớt quá. Chiếc áo choàng rộng màu hạt dẻ được khoác hờ trên vai khi cô bước vào nhà. Đó là cô gái nghiêm nghị nhất và mỏng mảnh nhất tôi từng gặp. Mái tóc dầy rủ xuống vầng trán và khuôn mặt có những đường nét thanh tao như tranh vẽ, điểm đôi chấm tàn nhang trên làn da mơn mởn… Nơi cái sắc đẹp tuyệt vời này, tôi chỉ thấy có một chút khuyết điểm: những lúc thoáng buồn, chán nản hay mải suy nghĩ, khuôn mặt thanh tú xiết bao nổi lên những lằn gân máu thấp thoáng, giống như ở những người bị bệnh nặng mà không biết. Khi ấy bao nhiêu ngưỡng mộ của người ngắm đều nhường chỗ cho một sự thương cảm thật xót xa bất ngờ trỗi dậy trong tim.

Đó là tất cả những gì tôi khám phá ra, trong khi cô gái từ từ bước xuống xe và sau khi Marie- Louise, một cách rất tự nhiên, giới thiệu tôi với cô gái và bảo tôi tiếp chuyện cô.

Chiếc ghế có đánh xi được đưa ra mời cô ngồi, lưng ghế tựa vào quầy hàng, còn bọn chúng tôi thì đứng chung quanh. Xem ra cô gái quen thuộc và yêu thích cửa hàng này lắm. Thật nhanh, thím Julie nghe báo, cũng chạy ra chào cô. Thím thân mật tiếp chuyện; hai tay chắp trước bụng, cái đầu nửa thôn quê nửa nhà buôn có đội chiếc mũ trắng nhỏ lúc lắc, gật gù. Thành ra thời gian tôi được trò chuyện với cô de Galais phải bị chậm lại. Trong khi chờ đợi, tôi thấy trong lòng có đôi chút run run.

Câu chuyện rất nhẹ nhàng. Cô de Galais hỏi: “Thế ra anh sắp đi dạy học?”

Thím tôi thắp lên ngọn đèn bằng sứ treo phía trên đầu chúng tôi, làm tỏa ra khắp cửa hàng một làn ánh sáng nhòa nhạt. Tôi ngắm khuôn mặt dịu hiền, ngây thơ của cô gái, đôi mắt xanh trông thật chất phác, và tôi cảm thấy ngạc nhiên theo giọng nói đoan trang và khúc chiết của cô. Khi ngừng nói, đôi mắt cô nhìn ra xa, bất động, đôi môi hơi cắn lại một chút.

“Nếu ông de Galais cho phép”, cô nói, “tôi cũng thích đi dạy học. Tôi sẽ dạy những em bé nhất, như bà thân sinh của anh…”

Rồi cô mỉm cười, để lộ điều rằng các cô em họ của tôi cũng đã từng có nói chuyện về tôi cho cô nghe. Cô gái lại tiếp:

“Ấy bởi vì dân trong vùng bao giờ cũng lễ phép, tử tế và ân cần với tôi. Tôi quí họ, nhưng tự thấy mình không xứng đáng với lòng yêu quí đó… Trái lại… À này, có phải đối với một cô giáo họ sẽ hay kiếm chuyện, hoặc tỏ ra keo kiệt không? Luôn luôn sẽ có những chuyện mất bút, chuyện sách vở đắt đỏ, hoặc học trò không chăm học… nhưng không sao, tôi sẽ trao đổi với họ, và họ vẫn sẽ quí mến tôi. Như vậy khó khăn cho tôi nhiều hơn...”

Rồi, không mỉm cười nữa, cô gái ngồi yên suy nghĩ, vẻ ngây thơ, đôi mắt xanh không lay động. Cả ba chúng tôi đều lúng túng trước sự thoải mái chuyện trò của cô khi đề cập những chuyện tế  nhị, các điều thầm kín chỉ có thể nói rõ ra được ở trong sách. Im lặng trong giây lát rồi cuộc thảo

luận lại được tiếp tục…

Cô nói, nhưng bây giờ trong giọng điệu cho thấy có vẻ gì như tiếc nuối và ác cảm đối với một nỗi bí mật nào đó trong đời mình:

“Với lại, tôi sẽ dạy cho lũ trẻ biết ngoan ngoãn, sự ngoan ngoãn mà tôi quá hiểu. Tôi sẽ không gây trong lòng chúng nỗi ham thích phiêu lưu, điều chắc hẳn anh sẽ có, anh Seurel ạ, khi đã trở thành phụ giáo. Tôi sẽ dạy cho chúng tìm thấy hạnh phúc ở ngay gần chúng, thứ hạnh phúc mà bề ngoài tưởng rằng không phải…”

Marie-Louise và Firmin cũng bị sững sờ như tôi nên cả ba cùng lặng người không biết đáp sao. Cô gái nhận thấy sự ngượng ngập đó nên ngừng nói, cắn môi và cúi đầu xuống, rồi mỉm cười như muốn chế giễu:

“Thành ra có lẽ hiện đang có một chàng trai trẻ điên khùng nào đó đi tận đâu đâu để kiếm tôi, trong khi tôi ở đây, trong cửa hàng bà Florentin, dưới ngọn đèn kia, và con ngựa già của tôi thì đang đứng chờ ngoài cửa? Giá trông thấy tôi nơi này, chắc hẳn cậu ta sẽ không tin là thật nhỉ?”

Thấy cô mỉm cười, tôi đâm ra bạo dạn và nghĩ đã đến lúc nên nói. Nên cười cười, tôi lên tiếng: “Và chắc là tôi có quen biết rõ với chàng trai điên khùng ấy, thưa cô.”

Cô gái chăm chú nhìn tôi.

Vừa lúc đó chuông cửa rung lên, có hai bà đứng tuổi xách giỏ bước vào cửa hàng.

“Cô vào chơi trong ‘phòng ăn’ này này, yên tĩnh hơn”, thím tôi vừa đẩy cánh cửa căn bếp vừa

nói.

Thấy cô de Galais từ chối muốn ra về ngay, thím tôi nói tiếp:

“Cụ de Galais cũng đang chuyện trò với Florentin bên lò sưởi nơi đây.”

Bao giờ cũng vậy, kể cả tháng Tám, trong căn bếp rộng có một cây củi thông lớn luôn luôn

cháy nổ lép bép. Tại đây cũng có thắp một ngọn đèn bằng sứ. Một ông già nét mặt hiền từ, nhiều vết nhăn, lúc nào trông cũng lặng lẽ như một người bị tuổi tác và kỷ niệm cũ đè nặng, đang ngồi gần chú Florentin với ly rượu mạnh trước mặt.

Chú Florentin đứng lên chào. “Francois à --chú tôi cất giọng ồ ồ của người chuyên rao bán ở

các phiên chợ như thể giữa chú và chúng tôi bị ngăn cách bằng cả một con sông hay nhiều mẫu đất-

- chú vừa nẩy ra ý định sẽ tổ chức một buổi chiều đi chơi trên sông Cher vào thứ Năm tuần tới. Ai muốn săn bắn, câu cá, hay khiêu vũ cũng đều được cả. Thưa cô de Galais, mời cô cùng đến nhé, tôi đã xin phép cụ ông rồi. Mọi việc đã thu xếp xong.”

Và chú tôi tiếp, như vừa nghĩ ra:

“Còn Francois, cháu có thể cùng đưa anh bạn cháu tới. Có phải anh ta tên Meaulnes không nhỉ?”

Cô de Galas đứng dậy, khuôn mặt bỗng trở nên tái mét. Đúng ngay giây lát đó, tôi mới chợt nhớ ra rằng, trước kia, nơi vùng lãnh địa lạ lùng, cạnh bờ hồ, anh Meaulnes có xưng tên mình với cô…

Khi cô đưa tay cho tôi bắt để chào tạm biệt, giữa chúng tôi đã có một sự thông cảm còn rõ rệt hơn là đã trao đổi rất nhiều chuyện với nhau– sự thông cảm thầm kín mà chỉ có cái chết mới làm tan vỡ được—và một tình bạn còn thắm thiết hơn cả một tình yêu nồng nàn.

Bốn giờ sáng hôm sau, Firmin gõ cửa căn phòng nhỏ của tôi, trông ra sân nuôi gà. Trời còn tối, tôi mất công lắm mới thu thập được mọi vật dụng riêng trên chiếc bàn bày đầy những cây đèn bằng đồng và tượng chư thánh nhỏ còn mới nguyên được lựa từ cửa hàng trước cái hôm tôi tới. Ngoài sân có tiếng Firmin đang bơm xe đạp cho tôi và tiếng thổi lửa của thím Julie trong nhà bếp. Khi tôi giã từ thì trời vừa rạng sáng.

Chỉ trong một ngày, tôi sẽ phải đi rất nhiều. Khởi đầu là phải về Sainte-Agathe ăn trưa với cha mẹ để giải thích về sự vắng mặt lâu của tôi, sau đó, trước khi trời tối, phải đi tiếp tới nhà anh Meaulnes ở La Ferté-d’Angillon.

 

Chương 3 Một Sự Linh Hiển

 

Chưa bao giờ tôi đi đâu xa bằng xe đạp. Chuyến này là chuyến đầu tiên. Nhưng từ lâu, mặc dù hai gối bị đau, Jasmin vẫn lén dạy tôi tập đi. Nếu xe đạp đối với một thanh niên bình thường là một vật dụng đáng thích thú thì nó còn thích thú biết bao với một đứa con trai đáng tội nghiệp như tôi, vừa ngày nào còn khổ sở lê đôi chân, mới đi bộ tới cây số thứ tư đã mướt mồ hôi nhễ nhãi…

Từ đầu dốc đổ xuống, tôi như len sâu vào trong cảnh vật bên dưới và bay tới những khúc đường trông thấy từ xa nhưng khi tới gần lại càng mở rộng tưng bừng hoa lá; xong vượt qua một làng mạc chỉ trong nháy mắt mà tưởng như có cảm giác bao trùm cả làng… Trước kia, chỉ trong giấc mơ tôi mới được biết những cuộc đi chơi nhẹ nhõm và tốt đẹp như vậy. Bây giờ, ngay cả khi leo dốc cũng thấy hăng hái nữa. Lẽ duy nhất phải nói đó chính là con đường đưa tới nhà anh Meaulnes mới tạo cho tôi cảm nghĩ hăng say ngấu nghiến như hiện tại.

Trước đây khi mô tả làng anh, anh Meaulnes có nói với tôi: “Một quãng trước khi tới đầu làng sẽ thấy một cái vòng lớn có cánh, gió thổi quay tròn…” Anh cũng không biết cái vòng đó dùng làm gì, hay tảng lờ không biết để cho tôi thêm tò mò muốn biết.

Mãi tới cái ngày gần tàn vào cuối tháng Tám năm ấy trông thấy chiếc vòng lớn đang quay trước gió giữa cánh đồng rộng, tôi mới hiểu rằng đó là cái vật dùng để kéo nước lên cho gia đình một tá điền ở gần. Những ngôi nhà đầu tiên của vùng ngoại ô đã xuất hiện đàng sau những cây dương. Khi tôi vòng quanh một khúc dài trên con đường lộ chạy dọc dài theo một dòng suối thì phong cảnh như mở rộng và bừng nở. Tới chân cầu lại trông thấy con đường chính trong làng.

Những con bò ăn cỏ thấp thoáng sau đám lau sậy ngoài đồng. Hai tay nắm càng xe, tôi đứng yên quan sát cái nơi đang sắp được mang tới một tin quan trọng. Các căn nhà xếp thành hàng dài dọc theo con phố có một vũng sâu bao bọc; mỗi căn đều có một nhịp cầu nhỏ bằng gỗ bắc từ mặt đường tới cửa ra vào. Tất cả trông giống như những chiếc thuyền đã được hạ buồm và cột lại trong buổi chiều êm tịnh. Đó là giờ mà trong các căn bếp đã có lửa nhóm trên lò.

Khi ấy, mối lo âu và niềm tiếc hận thầm kín rằng việc tôi tới đây sẽ làm xáo trộn bao nhiêu bình lặng của anh Meaulnes khiến cho mọi can đảm trong tôi như dường mất hết. Thêm vào nhiều hơn cho sự hèn yếu bất ngờ đó, tôi chợt nhớ ra bà Moinel, một trong các bà mợ của tôi cũng có một ngôi nhà trông ra công viên nhỏ tại La Ferté-d’Angillon.

Các con của mợ đều chết cả, tôi có biết rõ người con nhỏ nhất tên Ernest hồi đó là một cậu trai đã lớn sắp sửa đi dạy học. Ông cậu Moinel là một viên lục sự già cũng chết theo con ít lâu sau đó. Bà mợ tôi một mình sống trong căn nhà nhỏ lạ kiểu, thảm dưới đất gồm toàn những mẩu vải nhiều màu ghép lại, trên các mặt bàn bày những mèo hay gà trống gà mái làm bằng giấy, còn trên tường treo đầy những văn bằng cũ, các ảnh người đã chết và những cái thuẫn nhỏ bằng tóc kết lại. Bao trùm quanh bằng những thương tiếc và tang tóc như vậy, bà mợ tôi lại là hiện thân của sự kỳ dị và vui tính.

Tìm ra nhà bà mợ nơi khu công viên nhỏ, tôi nhìn qua cánh cửa hé mở, cất tiếng gọi to. Tức thì từ sâu trong ba căn phòng nối dài có tiếng bà vang lên:

“Cái gì thế hả Trời?”

Bà đánh đổ bình café trên bếp –vào giờ đó sao lại pha café nhỉ?—rồi hiện ra… Ngã người về đàng sau, mang trên đầu một thứ vừa là mũ đội mưa vừa là áo tơi, để lộ vầng trán rộng nhăn nheo trông giống như một phụ nữ Mông Cổ hay một bà giống Hottentote, bà cười từng tiếng ngắn, nhô ra cả hàm răng rất xinh.

Trong khi tôi hôn bà, bà vội vã, vụng về nắm lấy tay tôi sau lưng. Với một vẻ bí mật hết sức vô ích vì chúng tôi chỉ có hai người, bà nhét vào tay tôi một đồng tiền nhỏ mà tôi không dám ngó, ý hẳn đồng một quan... Rồi trong khi tôi làm bộ muốn hỏi tại sao, hay cám ơn bà, bà vỗ vai tôi, cười nói:

“Thôi đi! Mợ biết rồi!”

Bao giờ bà cũng nghèo, bao giờ cũng đi vay nhưng vẫn hoang rộng. Bằng cái giọng khàn khàn, không một chút chua chát, bà nói:

“Bao giờ mợ cũng ngu quá, bao giờ cũng khổ.”

Tin chắc rằng tôi luôn luôn bận tâm vì tiền cũng như bà, bà không đợi tôi nói đã vội nhét vào tay tôi món tiền nhỏ để dành được trong ngày. Sau đó bao giờ cũng đón tiếp tôi như vậy.

Bữa tối hôm đó cũng kỳ lạ --vừa buồn vừa kỳ lạ-- như lần đón tiếp dạo trước. Bao giờ bà cũng có một cây nến ở gần tay, lúc thì cầm lên để mặc tôi trong bóng tối, lúc thì lại đặt lên mặt chiếc bàn có bày đầy những đĩa và hũ sứt hay vỡ. Bà nói:

“Cái này hồi thập niên bảy mươi bị bọn người Phổ làm gãy mất quai vì bọn chúng không lấy mang đi được.”

Khi trông thấy chiếc bình với một lịch sử bi đát như vậy, tôi mới nhớ ra rằng xưa kia, có lần được cha tôi đưa tới quận Yonne kiếm một nhà chuyên môn chữa cho tôi cái đầu gối, tới đó phải đáp một chuyến xe lửa tốc hành đi qua đây lúc gần sáng, chúng tôi đã có ngủ lại và ăn bữa tối trong căn nhà cậu mợ tôi. Tôi nhớ lại bữa ăn buồn nản cùng những chuyện mà ông lục sự già ngồi kể, hai khuỷu tay chống trên bàn trước chai rượu màu hồng. Tôi cũng nhớ lại những nỗi kinh hãi đêm ấy của tôi… Sau bữa ăn, ngồi trước lò lửa, mợ Moinel kéo cha tôi quay lại để kể một chuyện ma: “Tôi trở mình lại… Chà! Anh Louis đáng thương ơi, tôi trông thấy gì, tôi thấy một người đàn bà bé nhỏ màu xám…” Bà mợ tôi vốn được tiếng là trong đầu đầy những chuyện nhảm ghê rợn.

 

Tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, mệt mỏi vì một ngày đạp xe, khi tôi đang nằm trong căn phòng lớn, bận chiếc áo ngủ kẽ ô vuông của ông cậu Moinel để lại, bà mợ tôi tới ngồi ở đầu giường, bắt đầu kể bằng cái giọng bí mật và the thé nhất của bà:

“Francois tội nghiệp ơi, mợ cần phải kể cho cháu nghe câu chuyện mà mợ chưa hề kể ra với ai hết…”

Tôi nghĩ: “Chán cho mình quá, thế là giống như mười năm trước, lại sắp sửa bị thất kinh cả đêm.”

Tôi để ý nghe. Bà lắc đầu rồi nhìn thẳng trước mặt như tự kể câu chuyện với chính bà:

“Bữa đó mợ cùng ông Moinel đi dự một dạ hội về. Đó là đám cưới đầu tiên mà cả hai cậu mợ cùng đi từ ngày Ernest đáng thương không còn nữa. Tại đó mợ gặp chị Adèle đã bốn năm rồi chưa gặp lại. Một ông bạn già của Moinel, giàu có lớn, mời cậu mợ tới dự đám cưới cậu con trai ở ấp Les Slabonnière. Cậu mợ mướn một cỗ xe. Mướn như thế tốn tiền lắm con ạ. Vào khoảng bảy giờ sáng giữa mùa đông giá rét, cậu mợ trở về. Mặt trời đã mọc. Trên đường tuyệt nhiên không có một ai. Bỗng dưng mợ trông thấy có cái gì ở ngay trước mặt. Một chàng trai nhỏ bé, tươi đẹp như mặt trời, đứng sững tại đó mà nhìn xe của cậu mợ chạy tới. Càng lại gần, càng thấy một gương mặt rất xinh nhưng trắng bệch đến phát sợ. Nắm chặt tay ông Moinel, thân hình run như tàu lá mà tưởng đó là Đức Chúa Trời... mợ nói: ‘Mình coi kìa, có sự hiển hiện.’ Cậu Moinel cáu kỉnh đáp rất nhỏ: ‘Tôi thấy rồi, bà già lắm miệng quá... ’

“Cả hai chưa biết xử sự ra sao bỗng thấy con ngựa đứng dừng lại. Nhìn gần thì thấy đó là một khuôn mặt xanh lợt, bận cái quần dài, trán đẫm mồ hôi, đầu đội chiếc mũ nồi bẩn thỉu. Mợ nghe thấy một tiếng nói nhỏ nhẹ: ‘Tôi không phải đàn ông, tôi là một thiếu nữ. Tôi bỏ trốn đi vì chịu không nổi nữa. Hai cụ làm ơn cho tôi đi nhờ xe.

“Lập tức cậu mợ mời cô ta lên. Vừa ngồi xuống, cô ta ngất đi. Thế con có thể tưởng tượng được đó là ai không? Chính là vị hôn thê của cậu bé ở ấp Les Sablonnières, Frantz de Galais, nơi mà cậu mợ vừa mới dự tiệc cưới.”

Tôi nói:

“Nhưng làm gì có đám cưới vì cô vợ chưa cưới đã bỏ trốn mất.” Bà mợ tiu nghỉu nhìn tôi:

“Đúng là không có. Làm gì có đám cưới. Bao nhiêu tư tưởng rồ dại nhồi nhét trong cái đầu điên đã được nó kể lại hết cho mợ nghe.

Nó là con gái một người thợ dệt nghèo khổ. Tin chắc rằng bao nhiêu hạnh phúc không thể có được, cậu bé kia so với nó còn trẻ quá và bao nhiêu những sự kỳ lạ mà anh chàng mô tả cho nó nghe đều là tưởng tượng hết, cho nên khi nghe Frantz nói sẽ tới đón về cho buổi đám cưới, nó đâm hoảng sợ.

Bữa đón dâu, Frantz cùng với nó và cô chị gái đi dạo trong công viên tòa tổng giám mục ở Bourges mặc dù trời gió lạnh. Chắc chắn vì lịch sự và bởi vì yêu cô em nên cậu ta hết sức săn sóc cô chị. Thế là tưởng tượng ra bao nhiêu chuyện, con bé điên tìm cách xin về nhà lấy cái khăn quàng, rồi đi bộ bỏ trốn lên Paris, bận quần áo con trai cho khỏi có ai theo bắt lại. Vị hôn phu nhận được một bức thư trong ấy con bé tuyên bố sẽ đi kiếm chàng trai nó thật sự yêu. Điều đó không đúng... Nó nói với mợ: ‘Cháu hy sinh như thế thấy sung sướng hơn là làm vợ cậu ta.’

Còn thằng bé ngu ngốc đó thì, trong khi chờ đợi, đâu có ý định lấy cô chị, đã tự bắn một phát súng vào đầu. Người ta có thấy máu của nó vương rắc trong rừng nhưng không sao kiếm ra được xác.”

Tôi hỏi :

“Thế còn cô bé đáng tội nghiệp đó thì mợ đối xử ra sao?”

“Trước hết cậu mợ cho nó uống một hớp rượu mạnh. Rồi cho nó ăn uống. Về tới nhà thì cho nó ngủ cạnh bên lò sưởi. Những hôm trời tạnh, suốt ngày nó may cắt áo dài, sửa lại mũ, cọ rửa sàn nhà hăng hái lắm. Chính nó đã dán lại hết những tấm rèm mà con thấy ở tường kia. Từ ngày có nó tới đây, chim én phải dời ra ngoài làm tổ hết. Nhưng mỗi tối, sau khi công việc hết, bao giờ nó cũng kiếm cớ để ra sân, ra vườn, hay đứng trước cửa, kể cả những ngày trời lạnh đến đá cũng phải nứt nẻ. Người ta thấy nó cứ đứng đó mà khóc sướt mướt.”

“Thế nào, còn có chuyện gì thế?”, mợ hỏi nó.

“Thưa cụ Moinel không ạ.”, nó đáp. “Rồi nó đi vào.

Hàng xóm bảo: ‘Cụ Moinel ơi, cụ kiếm đâu được một con bé ở xinh thế?”

Mặc dù mợ đã nài nỉ mãi, tới tháng Ba nó nhất định đòi đi Paris; mợ cho nó những áo dài mới may cắt lại, Moinel lấy vé xe lửa cho nó, rồi còn cho thêm ít tiền. Nó không quên cậu mợ đâu; nó đi làm thợ may ở gần nhà thờ Đức Bà, có viết thư hỏi thăm cậu mợ về tin tức ở ấp Les Slabonnières. Có một lần để cho nó khỏi vương vấn về chuyện đó nữa, mợ có viết thư trả lời nó rằng ấp đó đã đem bán đi, nhà cửa dỡ sạch, cậu con trai thì mất tích và cô con gái đã đi lấy chồng. Mợ cho rằng những chuyện đó đều đúng cả. Từ ngày đó, con bé Valentine cũng thưa viết thư cho mợ…”

 

Đó không phải là một câu chuyện ma mà mợ Moinel vẫn quen kể rất hạp bằng cái giọng kim the thé. Nhưng tôi lại thấy thật là khó chịu bởi chúng tôi đã thề với Frantz sẽ giúp đỡ hắn như anh em ruột và nay cơ hội giúp đang đưa đến…

Dù vậy cũng đâu phải lúc để làm hư mất nỗi vui mà sáng mai tôi sẽ đem tới cho anh Meaulnes nếu đem nói lại với anh câu chuyện vừa được nghe từ bà mợ. Tội vạ gì mà đẩy anh vào một công việc ngàn lần không thực hiện nổi? Nay dẫu có sẵn địa chỉ cô gái, nhưng tìm đâu cho ra anh chàng bô-hê-miêng đang lưu lạc tứ phương?...

Tôi nghĩ cứ mặc kệ bọn điên đi với bọn điên. Delouche và Boujardon nói không sai. Anh chàng lãng mạn Frantz đã gây ra bao nhiêu tai hại cho chúng tôi rồi! Tôi nhất định không hở môi trước khi chứng kiến cuộc hôn nhân của Augustin Meaulnes và Yvonne de Galais.

Đã quyết như vậy, trong tôi chỉ còn lại cảm giác khó chịu vì một điềm gở không hay nào đó, nhưng vội xua đuổi nó đi.

Ngọn nến cháy gần lụi; một con muỗi bay vo ve nhưng bà mợ Moinel, đầu cúi xuống vẫn mang cái mũ bằng nhung không bao giờ bỏ ra khi đi ngủ, hai khuỷu tay chống vào đầu gối, tiếp tục kể lại câu chuyện… Đôi lúc bà chợt ngẩng đầu ngó tôi để hỏi ý, hoặc giả như muốn nhìn xem tôi đã ngủ chưa. Sau hết, ngã đầu trên gối, tôi giả đò nhắm mắt.

Bà nói giọng khàn khàn, thất vọng: “Ồ con ngủ rồi ư?”

Tôi thấy tội nghiệp bà nên cãi:

“Không đâu mợ ạ, con nói thật với mợ là không ngủ đâu.” Bà đáp:

“Ngủ chứ. Mợ cũng hiểu là những chuyện đó con đâu có quan tâm tới. Mợ kể cho nghe chuyện những người mà con đâu có quen biết…”

Lần này, tôi phải hèn nhát mà cố giữ không đáp lời bà.

 

 

Chương 4

Cái Tin Mong Đợi

 

Buổi sáng hôm sau đúng là một ngày hè đẹp trời hết sức yên tịnh. Bao trùm khu làng có những tiếng động quen thuộc khiến cho tôi tìm lại được trọn vẹn sự vững tâm vui vẻ của một người đem tin mừng tới.

Hai mẹ con Augustin cư trú trong một ngôi nhà xưa kia được dùng làm trường học. Cha anh về hưu đã lâu và trở nên giàu có nhờ một món của hương hỏa. Khi ông chết đi, mẹ anh mua lại ngôi trường mà ông đã từng dạy học trong hai chục năm trời và cũng là nơi anh bắt đầu tập đọc.

Vẻ bề ngoài dễ thương, ngôi nhà hình vuông hệt như một tòa thị sảnh vì thực ra hồi trước thị sảnh đặt tại đó; các cửa sổ ở tầng sát đất mở ra phía đường cái và đều rất cao, không ai có thể ngó qua được; sân phía sau không có lấy một bóng cây, thêm một sân chơi có mái cao bít kín không nhìn thấy được phía bên ngoài. Thật đúng một sân trường bỏ hoang khô khan và lạnh lẽo tôi chưa từng biết…

Nơi hành lang quanh co thông với bốn phòng, tôi gặp bà mẹ anh Meaulnes đem từ ngoài vườn đi vào với một bó lớn đồ giặt, chắc bà ta đã đem ra phơi ngay từ sớm trong buổi sáng nghỉ hè dầy đặc này. Mái tóc xám của bà bị rối một phần; có những lọn xõa xuống trán; gương mặt đều đặn bên dưới kiểu tóc chải đã xưa trông xưng húp và mệt mỏi như vừa qua một đêm mất ngủ. Bà cụ buồn bã cúi mặt xuống ra chiều suy nghĩ.

Chợt trông thấy tôi, bà nhận ra liền và mỉm cười:

“Cậu đến vừa đúng lúc. Cậu xem này, tôi lấy những quần áo phơi vào để sửa soạn cho Augustin ra đi. Cả đêm hôm qua tôi phải ngồi tính toán tiền nong và sắp đặt hành lý cho nó. Xe lửa khởi hành lúc năm giờ, nhưng mọi thứ cũng đã được thu xếp xong…”

Cứ nhìn thấy vẻ tự tin của bà, ai cũng tưởng quyết định ra đi của Meaulnes là do nơi bà. Mà thật thì có lẽ chính bà cũng chẳng biết anh Meaulnes định đi đâu nữa. Bà nói:

“Cậu lên gác đi. Augustin đang ngồi viết trong phòng tòa xã trưởng.”

Tôi vội vã leo thang, mở cánh cửa bên tay mặt hãy còn gắn tấm biển Tòa Xã Trưởng. Đó là một căn phòng rộng có bốn khung cửa sổ, hai cửa mở ra phía làng và hai cửa mở về phía đồng cỏ. Trên tường có trưng những tấm ảnh đã vàng của các thống đốc Grévy và Carno. Trên cái bục dài kê suốt bề ngang ở tận cùng căn phòng vẫn còn chiếc bàn trải thảm màu lục với dãy ghế của các hội đồng xã. Giữa bàn, ngồi trong chiếc ghế bành của ông xã trưởng, anh Meaulnes đang viết, chấm ngòi bút vào đáy lọ mực bằng sành kiểu cổ hình quả tim. Trong những dịp không đi thăm thú các vùng, kéo dài những ngày nghỉ hè, anh thường rút về đây giống như một nơi dành riêng cho một thứ phú hộ ở làng.

Nhận ra tôi, anh đứng lên ngay, nhưng không có chút gì hấp tấp như tôi tưởng. Vẻ hết sức ngạc nhiên, anh chỉ nói:

“Kìa, Seurel!”

Vẫn là anh chàng cao lớn, nét mặt xương xương, đầu tóc hớt ngắn. Bộ râu lưa thưa bắt đầu mọc bên mép. Vẫn khóe nhìn thẳng thắn đó... Nhưng so với vẻ hăng hái của những năm trước thì nay thấy phảng phất một màn sương mà chỉ thỉnh thoảng mới bị đẩy lui đi bởi mối ham thích nồng nhiệt xưa kia.

Gặp tôi, anh coi bộ rất bối rối. Tôi nhảy một bước lên tới cái bục. Nhưng, thật là một sự lạ lùng nếu nói ra, anh chẳng buồn đưa tay cho tôi bắt, mà chỉ quay mặt lại phía tôi, hai tay chắp sau lưng, hết tựa người vào thành bàn lại ngã lên lưng ghế, vẻ hết sức ngượng ngập. Anh nhìn tôi mà không hẳn là nhìn, xem ra như đang bận lo nghĩ tới câu sắp nói với tôi. Giống như hồi xưa và như luôn luôn vẫn thế, anh vốn ít nói, như những con người sống đơn độc, những tay thợ săn hay những kẻ ưa thích phiêu lưu, vì vậy có khi quyết định việc gì xong rồi mà vẫn chưa tìm ra được lời để giải thích. Thì cũng thế, lúc bấy giờ thấy tôi đang đứng trước mặt, anh mới bắt đầu nghiền ngẫm một cách khó nhọc những lời cần nói.

Trong khi đó tôi vui vẻ kể hết cho anh nghe cuộc hành trình của tôi suốt từ nhà đi; lại cũng nói rằng tôi rất ngạc nhiên khi thấy mẹ anh lo sửa soạn hành lý cho cậu con ra đi...

Anh hỏi:

“Mẹ tôi nói với cậu thế sao?”

“Ừ, nhưng chắc không phải là một chuyến đi xa chứ?” “Xa, chuyến này đi xa lắm.”

Sững sờ một lát, lại cảm thấy rằng chốc nữa chỉ một lời thôi tôi cũng sẽ dẹp hẳn được ý định đó của anh –mà tôi chưa hiểu vì sao, nên tôi không dám nói thêm lời nào và cũng không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu.

Nhưng rồi chính anh đã nói, nói như đang muốn giãi bày với tôi điều gì đó:

“Seurel ạ, chắc cậu đã biết cuộc phiêu lưu kỳ lạ ở Sainte-Agathe có tầm vóc đối với tôi như thế nào. Đó là lẽ sống và mầm hy vọng của tôi. Nay hy vọng đó tan rồi, tôi còn là gì nữa? Làm sao tôi sống được như những người khác? Bởi vậy tôi đã thử tìm cách sống ở Paris khi nhận thấy mọi sự đều hết và chẳng nên đi tìm cái trang viện xa xôi đó nữa... Nhưng với một người đã có lần nhảy vọt tới thiên đường, về sau làm sao họ có thể tập sống như mọi người khác được? Những gì mà thiên hạ cho là hạnh phúc, tôi lại thấy thật đáng tức cười. Thế rồi cho đến một ngày khi cả quyết định làm giống như mọi người thì lại chính ngay ngày đó tôi đã làm chất chồng thêm trong tim biết bao hối hận khôn nguôi... ”

Ngồi nơi chiếc ghế kê trên bục, tôi không nhìn anh mà chỉ cúi đầu nghe anh nói, cũng chẳng biết nghĩ sao về những lời giải thích tối tăm đó. Sau cùng tôi bày tỏ:

“Anh Meaulnes ạ, xin giải thích rõ hơn nữa đi. Tại sao có vụ đi xa này? Anh có lỗi gì phải cần sửa lại? Và có cần phải giữ một lời đã hứa?”

Anh đáp:

“Ừ đúng thế. Cậu còn nhớ lời tôi đã hứa với Frantz chứ?” Tôi khoan khoái đáp:

“À, nếu chỉ là thế!”

“Vụ đó. Có lẽ cũng còn một điều lầm lỗi nữa cần sửa lại. Cả hai vụ làm một...”

Giữa một quãng im lặng, tôi quyết định phải nói ra với anh... Nhưng đang sửa soạn câu sẽ nói thì nghe anh tiếp:

“Tôi chỉ tìm thấy được một lối giải thích. Quả tình tôi vẫn còn muốn gặp cô de Galais một lần, chỉ gặp mặt mà thôi. Thuở xưa khi khám phá ra lãnh địa không tên đó thì tâm hồn và con người tôi đang còn rất trong trắng; điều mà không bao giờ tôi còn có nữa. Nhưng bây giờ tôi chắc rằng, chỉ có, như tôi đã viết trong thư gửi cậu, chỉ có cái chết họa may mới tìm lại được cái đẹp của thuở trước kia... ”

Anh đổi giọng, ghé lại gần tôi, hăng hái tiếp:

“Nhưng Seurel ạ, những tình tiết mới và cuộc viễn du này, tội lỗi mà tôi đã phạm và cần sửa chữa lại đây, tất cả thật ra cũng chỉ nằm trong cuộc phiêu lưu cũ tôi từng đeo đuổi.”

Im lặng, trong khi đó anh cực nhọc cố thu thập những kỷ niệm. Tôi đã bỏ lỡ cơ hội trước. Tôi nhất định không vì lẽ gì mà bỏ lỡ cơ hội này; và lần này thì tôi nói –tôi vội nói quá, về sau cay đắng tiếc sao không để cho anh thú thật ra hết cả.

Định thốt ra câu đã sửa soạn khi nãy, nhưng tới bây giờ lại thấy không còn hợp cảnh nữa nên tôi bỏ. Thân hình bất động, đầu hơi lắc lư một chút, tôi nói:

“Nếu tôi tới báo cho biết hy vọng của anh chưa hề mất thì sao?”

Anh ngó tôi, rồi, bỗng quay nhìn chỗ khác, mặt đỏ bừng, máu kéo dồn lên hai bên thái dương… Mãi sau mới hỏi, tiếng nói không nghe rõ nữa:

“Cậu bảo gì?”

Thế là tôi kể hết một hơi những điều đã biết, những gì tôi đã làm và mọi sự nay đã thay đổi, gần như Yvonne de Galais đã bảo tôi đi tìm anh.

Lúc đó da mặt anh tái xanh một cách dễ sợ.

Trong khi tôi kể, anh chỉ lặng lẽ nghe, cái đầu rụt lại trông giống như một người phạm tội vừa bị bắt gặp mà không biết xử sự ra sao, phải nên lẫn trốn hay chạy đi. Tôi nhớ anh chỉ ngắt lời tôi có mỗi một lần. Tôi cũng báo rằng lãnh địa Les Sla -bonnières đã bị san bằng hết, trang viện thời xưa nay không còn nữa. Anh nói:

“Đấy, cậu thấy chưa? (ra tuồng như chỉ đợi lúc này để chứng minh hành vi của mình và sự thất vọng anh từng lặn ngụp trong đó). Cậu thấy chưa, còn gì nữa đâu?”

Sau hết, tin chắc bấy nhiêu thuận tiện sẽ đánh tan hết nỗi đau khổ của anh, và để kết thúc, tôi trình bày về chuyện chú Florentin có tổ chức một buổi đi chơi ngoài đồng, cô de Galais sẽ đánh xe ngựa tới dự và cả anh cũng được mời nữa. Nhưng xem ra anh hết sức luống cuống, cứ trầm ngâm im lặng.

Tôi nóng nảy:

“Phải lập tức hoãn cuộc ra đi này lại. Chúng mình xuống thông báo cho bác biết đi…” Khi cả hai cùng xuống lầu, anh hỏi tôi, điệu ngần ngại:

“Nhất định là tôi phải dự cuộc đi chơi ngoài đồng sao?” Tôi đáp:

“Ô kìa, còn phải bàn!”

Trông anh có vẻ như người đang bị kẻ nào đun vai đẩy đi.

Tới nhà dưới, Meaulnes báo với mẹ rằng tôi sẽ cùng dùng cơm bữa trưa, bữa tối ngủ ở đây và ngày hôm sau anh sẽ mướn một chiếc xe đạp để theo tôi đi Vieux-Nancay. Bà mẹ lắc đầu:

“Tốt lắm!” (như thể những tin mới đưa ra đó đã được bà dè chừng từ trước rồi.)

Tôi ngồi trong phòng ăn nhỏ, dưới những tấm lịch hình màu, những con dao găm chạm trỗ và những bầu rượu bằng da kiểu Sudan mà người chú của anh trước kia là quân nhân trong ngành thủy quân lục chiến đã đem về sau những chuyến đi xa.

Augustin để tôi tại đó một lát. Phòng bên cạnh, nơi bà mẹ đang sửa soạn hành lý cho anh, tôi nghe thấy anh nói nhỏ rằng đừng dỡ rương ra vội vì chuyến đi có lẽ chỉ chậm lại thôi.

 

Chương 5 Một Cuộc Đi Chơi

 

Trên đường đi Vieux-Nancay, tôi khó nhọc lắm mới theo nổi anh Meaulnes. Anh đạp xe như một tay đua. Tới giốc cũng không chịu xuống. Tiếp theo sự ngập ngừng khó hiểu hôm trước, nay là cả một cơn sốt, một mối nóng nảy, ham thích muốn mau mau tới nơi. Điều này khiến cho tôi không khỏi lo sợ đôi chút.

Đến nhà chú Frorentin, anh vẫn tỏ ra nóng nảy như vậy, xem ra không thể lưu tâm tới một việc gì cho mãi đến sáng hôm sau, khoảng mười giờ, chúng tôi lên xe ra bờ sông.

Khi đó đang cuối tháng Tám, mùa hè sắp dứt. Những cái vỏ ngoài vàng úa, không có hạt ở các cây dẻ đã bắt đầu rụng trên mặt đường trắng. Chuyến đi không xa, trại Les Aubiers bên bờ sông Cher, nơi chúng tôi định tới, chỉ cách ấp Les Slab- lonnières có hai cây số. Dọc đường, thỉnh thoảng chúng tôi gặp các du khách khác đi xe tới, có cả những chàng trai trẻ cưỡi ngựa mà chú Florentin đã tự tiện nhân danh ông de Galais mà mời. Cũng như ngày xưa, người ta cố ý hòa trộn người giàu với người nghèo, chủ lâu đài với nông dân. Vì vậy chúng tôi thấy Jasmin Delouche cũng có mặt qua sự trung gian của ông gác rừng Baladier trước kia có quen biết với chú tôi.

Anh Meaulnes nhìn thấy gã, nói:

“Kìa, tên đó nắm được chìa khóa của mọi chuyện trong khi chúng mình mất công đi kiếm tận Paris. Nghĩ mà đáng thất vọng!”

Mỗi lần trông thấy gã, mối hờn ghét của anh lại tăng gấp bội. Gã kia lại tưởng có quyền được hưởng sự biết ơn của bọn tôi nên bám sát theo xe chúng tôi cho đến khi tới nơi. Xem ra gã cố gắng một cách thảm hại, vô hy vọng, để lo quần áo và trang điểm, hai cái đuôi đã mòn của chiếc áo đuôi tôm đập phành phạch vào cái chắn bùn sau xe…

Mặc dầu cố gắng tỏ ra dễ thương, khuôn mặt già trước tuổi đó cũng không làm cho ai ưa thích. Còn tôi chỉ thấy là gã đáng tội nghiệp. Nhưng trong ngày đó ai mà chẳng để cho tôi thấy đáng tội nghiệp?

Bất cứ lần nào hồi tưởng lại cuộc đi chơi này, tôi đều cảm thấy trong lòng dậy lên một sự luyến tiếc thầm kín đến như muốn nghẹt thở. Từ trước tôi đã dành cho buổi hôm nay bao nhiêu là vui vẻ. Tất cả mọi sự đều như quy tụ đem theo niềm hạnh phúc. Ấy thế mà vui chẳng được kéo dài là bao!...

Tuy nhiên, bữa đó bờ sông Cher mới đẹp làm sao! Mọi người ghé lại triền đồi xuôi thoai thoải, chia thành những đồng cỏ xanh rờn và những khu trồng cây dương có hàng giậu ngăn cách y hệt như những thửa vườn nhỏ. Phía bên kia bờ sông gồm toàn những trái đồi màu xám dốc thẳng, trơ đá. Trên những ngọn đồi xa xa, giữa các lùm thông, thấp thoáng thấy các tòa lâu đài thơ mộng với những cây tháp nhọn. Xa nữa, thỉnh thoảng lại nghe tiếng bầy chó săn của lãnh địa nhà Préveranges sủa vang.

Chúng tôi tới đây qua những lối đi chằng chịt lúc thì trơ những đá sỏi trắng, lúc thì đầy những cát, gần tới mé sông lại biến thành những dòng suối do mạch nước từ dưới đất rỉ lên. Khi đi ngang đó, những cành phúc bồn tử dại vướng cả vào tay áo chúng tôi. Cũng có khi chúng tôi bước vào vùng âm u tươi mát trong những khe sâu, có lúc ngược lại, đi qua hết những hàng giậu rồi ra giữa ánh nắng chan hòa của cả vùng thung lũng. Xa xa, bên bờ đối diện, tới gần lại thấy có một người đang bấu vào vách đá, chậm rãi tung ra những sợi dây câu. Trời ơi! Phong cảnh thật đẹp làm sao!

Chúng tôi dựng trại trên một bãi cỏ, trong khoảng êm tịnh của rừng thông thưa thớt. Đó là một khu cỏ mọc thấp, nhiều chỗ để mọi người có thể tha hồ ngao du.

Xe được tháo ngựa dẫn tới trại Les Aubiers. Trong rừng mọi người bắt đầu bày các thức ăn, những chiếc bàn nhỏ gấp lại được đã do chú tôi đem theo, đặt trên bãi cỏ.

Lúc ấy cần có ai sốt sắng tự nguyện đi đến chỗ đầu đường lớn gần đó để đợi những người tới sau và chỉ cho họ lối vào đây. Tức thì tôi xin nhận; anh Meaulnes cũng cùng theo. Đứng ở cầu treo, chỗ giao nhau của nhiều con đường nhỏ từ ấp Les Sablonnières đưa tới, cùng gợi lại chuyện quá khứ, cả hai như tìm đủ cách để tự giải trí trong khi chờ đợi. Một chiếc xe từ Vieux-Nancay đi đến, trên có những nông dân không quen biết và một cô gái khoác lên mình những sợi băng lụa. Rồi chẳng còn ai nữa. À, thêm chiếc xe do lừa kéo, trên có ba chú bé con của ông làm vườn trong ấp Les Slabonnières thuở xưa.

Anh Meaulnes nói:

“Dường như tôi nhớ mặt họ. Hồi xưa, chính mấy cậu bé đó đã dắt tay tôi đưa tới chỗ dự tiệc trong buổi dạ hội đầu tiên…”

Lúc ấy con lừa không chịu bước nữa nên bọn trẻ xuống xe ra sức chọc kéo con vật. Anh Meaulnes thất vọng, bảo rằng anh đã nhìn lầm.

Tôi hỏi bọn trẻ xem dọc đường có gặp ông cụ và cô de Galais không. Một đứa trả lời không biết, đứa khác đáp:

“Thưa ông, hình như có.”

Và chẳng cho biết thêm gì nữa. Rồi bọn trẻ đi xuống chỗ bãi cỏ, đứa thì nắm dây cương kéo lừa, đứa thì đẩy phía sau xe.

Chúng tôi lại đứng đợi. Anh Meaulnes chăm chú ngó khúc quanh rẽ vào con đường về ấp Les Slabonnières, vẻ lo lắng ngóng đợi cô gái mà trước kia anh đã nhọc công tìm kiếm. Một sự bực bội kỳ cục gần như đáng tức cười bỗng xâm chiếm anh để rồi đổ lên đầu Jasmin. Chúng tôi leo lên cái gò cao để nhìn ra xa trên đường, thấy nơi bãi cỏ phía dưới có một đám du khách trong đó Jasmin Delouche đang tìm cách làm cho mình nổi bật. Anh Meaulnes nói:

“Coi hắn kìa, đang nổ miệng. Thật là một thằng tồi bại!” Tôi đáp:

“Cứ mặc kệ gã. Gã làm gì được thì làm, tội nghiệp gã quá.”

Augustin vẫn không ngừng. Nhìn thấy đàng kia có con thỏ hay con sóc vừa nhảy vào bụi rậm, anh lên tiếng mỉa mai như tuồng sự bạo gan của Delouche còn vượt cao hơn nữa:

“Ô hay quá, bây giờ hắn lại phóng chạy?”

Lần này tôi không thể không bật cười. Meaulnes cũng vậy, nhưng chỉ trong nháy mắt. Một khắc đồng hồ nữa qua đi. Anh nói:

“Hay cô ta không tới?” Tôi đáp:

“Cô đã có hẹn. Anh chịu khó chờ một chút.”

Anh lại tiếp tục ngóng trông. Nhưng lát sau, không thể nào chịu nổi, anh nói:

“Này cậu, tôi đi xuống với bọn họ đây. Không hiểu có cái gì cứ ám ảnh để tôi phải nghĩ, nếu cứ đứng đây thì chắc cô ta sẽ không tới. Không thể nào trong chốc lát mà từ chỗ đầu đường kia lại thấy cô xuất hiện cho được.”

Rồi anh đi xuống bãi cỏ, để mặc tôi đứng đợi một mình. Tôi bước quá chừng một trăm thước trên con đường nhỏ cho qua thì giờ; vừa tới khúc quanh đầu tiên, chợt trông thấy Yvonne de Galais cỡi trên lưng con ngựa trắng. Sáng hôm đó con ngựa coi bộ hăng hái lắm khiến cô gái phải kéo mạnh dây cương ngăn không cho đi nước kiệu. Ông de Galais, nhọc mệt, lẳng lặng bước cạnh. Ý hẳn hai cha con đã phải thay phiên nhau mỗi người cỡi con ngựa già một đoạn ở dọc đường.

Khi cô gái trông thấy tôi có một mình liền mỉm cười, lẹ làng nhảy xuống đất, đưa giây cương cho ông bố và tiến lại phía tôi trong khi tôi cũng chạy lại phía cô. Cô nói:

“Tôi rất sung sướng thấy anh có một mình, vì không muốn để ai thấy, ngoài anh ra, con ngựa già Bélisaire của tôi, cũng không muốn cột nó lẫn với đám những con ngựa khác. Trước hết vì nó già xấu quá; thứ nữa, chỉ e nó bị đám kia đụng què cẳng thôi. Với duy một mình nó, tôi mới dám cỡi. Chừng nào nó chết, tôi sẽ không cỡi ngựa nữa.”

Ở cô de Galais, cũng như ở anh Meaulnes, tôi nhận thấy đàng sau sự sốt sắng dễ thương, nét duyên dáng bề ngoài xem ra bình thản đó, có một vẻ bồn chồn gần như lo sợ. Cô nói mau hơn lúc thường. Dù đôi gò má ửng hồng, nhưng quanh mắt và trên vầng trán thấy có những vết xanh tỏ rõ sự bối rối.

Chúng tôi thoả thuận buộc con Bélisaire vào một gốc cây trong khu rừng nhỏ, ngay gần lộ. Ông già de Galais vẫn như bao giờ, lặng im lấy sợi giây trong túi da bên yên ngựa ra cột con vật. Nhìn cách cột của ông, tôi nghĩ có lẽ là hơi thấp, nhưng hứa rằng lát nữa sẽ bảo người mang cỏ và rơm trong trại ra cho ngựa.

Trong óc, tôi tưởng tượng, cũng như buổi nào thuở xưa, cô de Galais đi ra chỗ bãi cỏ xuống ven bờ đầm khi lần đầu anh Meaulnes được gặp.

Đưa một tay cho cha dẫn, tay còn lại kéo chiếc áo choàng rộng trùm kín cả người, cô gái bước về phía đám đông, vẻ vừa nghiêm trang vừa thơ trẻ. Hết thảy mọi du khách đang tản mác hay chơi đùa ở xa đều đứng lên và tụ lại để đón cô gái; có một khoảnh khắc im lặng trong khi mọi người chờ đợi cô đi tới.

Anh Meaulnes đứng lẫn trong đám thanh niên, ngoại trừ tầm vóc cao cao, còn thì không có gì phân biệt giữa anh với họ: trong đám có những chàng trai cũng cao không kém. Anh không tỏ điệu bộ gì để được cô de Galais chú ý, chẳng một cử chỉ, không một bước tiến lại gần. Tôi thấy anh, quần áo màu xám, đứng yên lặng giống như mọi người, đưa mắt nhìn thẳng vào cô gái đang đi tới. Tuy nhiên, một hồi, bằng cử chỉ ngượng ngùng vô thức, anh bỗng đưa tay lên đầu để trần như muốn che giấu bớt cái vẻ nông dân mộc mạc của mình giữa một đám thanh niên tóc chải mượt mà.

Đám đông bao quanh cô de Galais, giới thiệu với cô những thiếu niên và thiếu nữ chưa quen… Sắp tới lượt bạn tôi, tôi cũng cảm thấy hồi hộp không kém. Tôi định tự mình lo việc giới thiệu ấy. Nhưng trước khi tôi kịp mở lời thì cô gái đã tiến lại gần anh với một vẻ cương quyết và nghiêm trang kỳ lạ, nói:

“Tôi đã nhận ra Augustin Meaulnes rồi.” Xong đưa tay cho anh bắt.

 

 

Chương 6

Một Cuộc Đi Chơi.

 

Nhiều người mới tới khác tiến lại gần để chào cô de Galais nên hai người trẻ tuổi phải rời xa nhau. Một sự tình cờ đáng buồn khiến cho cả hai không được ngồi cùng nơi cái bàn nhỏ để ăn bữa trưa. Nhưng anh Meaulnes xem ra đã lấy lại được sự tự tin và can đảm. Nhiều lần, khi đứng một mình giữa Delou- che và ông de Galais, tôi thấy anh bạn từ xa đưa tay lên vẫy.

Mãi tới gần tối, khi những cuộc dạo chơi, bơi lội, trò chuyện theo từng nhóm hay đáp thuyền trên mặt đầm... được tổ chức hẳn hòi ở khắp nơi, anh Meaulnes mới có dịp tới trước mặt cô gái. Khi ấy chúng tôi đang trò chuyện với Delouche, mỗi người ngồi trên một chiếc ghế dùng ngoài vườn từ nhà chú tôi đem đến, thì thấy cô de Galais rời khỏi một đám đông thanh niên và tiến lại phía chúng tôi. Cô hỏi:

“Sao các anh không cùng mọi người bơi thuyền trên đầm Les Aubiers?” Tôi đáp:

“Hồi trưa chúng tôi đã đi mấy vòng rồi, nhưng chán ngay vì không thích thú mấy.” Cô lại hỏi:

“Sao các anh không bơi hẳn ra sông?”

“Dòng nước mạnh quá, sợ bị cuốn trôi đi mất.” Anh Meaulnes nói:

“Cần phải có một cái ca-nô chạy bằng dầu lửa hay một chiếc du thuyền chạy bằng hơi nước như xưa kia.”

Cô gái đáp rất nhỏ:

“Bây giờ không còn nữa, đã bán mất rồi.”

Tiếp theo là một khoảng im lặng ngượng nghịu.

Jasmin mượn dịp đó để tạ từ chạy đi trò chuyện với ông de Galais. Gã nói: “Tôi biết chỗ kiếm được cụ.”

Quả là một sự tình cờ lạ lùng! Hai con người thật khác biệt lại hợp với nhau, từ sáng nay không rời nhau nữa. Lúc chiều ông de Galais có kéo tôi riêng ra một chỗ để bảo cho biết tôi có người bạn khéo léo, khiêm nhường và nhiều đức tính lắm. Không chừng ông cụ đã đi tới chỗ nói cho gã biết sự bí mật về con Bélisaire và chỗ giấu con vật.

Riêng tôi cũng nghĩ nên rút lui, nhưng cảm thấy hai người trẻ tuổi đang ngượng ngùng, lo ngại trước mặt nhau. Vì vậy tôi thấy tốt hơn hết là tôi ở lại…

 

Bấy nhiêu kín đáo về phần Jasmin, cũng như bấy nhiêu thận trọng về phần tôi cũng không giúp ích được bao nhiêu. Hai người trò chuyện; nhưng với một vẻ ngoan cố mà chắc là không lưu ý tới, anh Meaulnes luôn luôn nhắc lại những kỷ niệm kỳ diệu hồi xưa. Mỗi lần như thế là cô gái phải miễn cưỡng trả lời rằng bao nhiêu chuyện đó đều đã tan biến hết: ngôi nhà cổ kỳ lạ nay đã được dỡ đi; đầm nước rộng lớn nay đã bị tát cạn và lấp đầy đất; những chú bé con với những quần áo dễ thương nay đã phân tán cả…

Anh Meaulnes chỉ à một tiếng thất vọng, dường như mỗi sự tan biến như vậy lại thêm một lý do cho anh thấy trái nghịch lại với cô gái và với tôi.

Sánh bước bên nhau, tôi mãi cố gắng để làm cho tiêu tan hết nỗi buồn đang nhận chìm cả ba người. Rồi anh Meaulnes lại đưa ra một câu hỏi đột ngột, hỏi thăm về những thứ mà trước kia từng gặp: những cô gái nhỏ, người đánh chiếc xe hòm cổ, bầy ngựa chạy đua.

“Cả bầy ngựa cũng bán đi rồi sao? Không còn con ngựa nào ở ấp nữa?” Cô gái trả lời rằng không còn nữa. Cô tránh không nói tới con Bélisaire. Anh Meaulnes nhắc lại những đồ vật trong căn phòng anh ngủ: những cây đèn, tấm gương lớn, cây đàn ly tao bị gẫy… hỏi thăm về tất cả những thứ đó với một vẻ say mê khác lạ như tuồng muốn tự thuyết phục chính mình rằng chẳng có gì trong cuộc phiêu lưu tuyệt diệu kia còn lưu lại; rằng cô gái không đem được cho anh chút vết tích nào có thể chứng minh rằng cả hai hồi đó hiện hữu thật sự chứ không phải là trong một giấc mơ, khác nào người thợ lặn chỉ đem từ đáy nước lên một mớ rong hay vài hòn sỏi…

Cả cô de Galais và tôi đều không thể nén nổi một cái mỉm cười rất buồn. Cô quyết định giải thích cho anh hiểu:

“Anh không bao giờ còn tìm thấy được tòa lâu đài tráng lệ mà Monsieur de Galais và tôi đã sắp đặt cho em Frantz đáng thương. Trọn đời chúng tôi chỉ lo chiều nó. Thật là một con người lạ lùng nhưng cũng đáng yêu dường ấy! Nhưng rồi tất cả đều cùng với nó tan biến hết trong đêm đám cưới bị lỡ dở. Monsieur de Galais đã bị tán gia bại sản mà chúng tôi đâu có biết. Frantz có vay nợ nhiều, tới khi hay tin nó bỏ trốn, các bạn nó đều tới đòi chúng tôi. Chúng tôi đã trở nên nghèo. Rồi Madame de Galais chết. Vậy là chỉ trong có mấy ngày mà bao nhiêu bè bạn cũ của chúng tôi đều bỏ đi hết. Nếu chưa chết, Frantz nên trở về nhà. Nó sẽ gặp lại các bạn cũ và cô vị hôn thê; đám tiệc cưới bị gián đoạn sẽ tiếp tục, biết đâu mọi sự sẽ chẳng trở lại giống như cũ. Nhưng dĩ vãng có bao giờ sống lại được không?”

Anh Meaulnes trầm ngâm: “Biết đâu đó!”

Rồi anh không hỏi gì nữa.

Trên cỏ ngắn đã bắt đầu úa vàng, chúng tôi ba người bước đi không tiếng động. Augustin đi bên tay phải cô gái mà anh đã tưởng không bao giờ gặp lại. Mỗi khi anh hỏi một câu đau đớn nào, cô gái chậm rãi quay bộ mặt lo lắng dễ thương lại phía anh để đáp lời. Có một lần khi nói với anh, cô gái nhẹ nhàng đặt bàn tay lên cánh tay anh, một cử chỉ đầy tin cậy và yếu đuối. Tôi không hiểu tại sao anh Meaulnes lại cứ tỏ ra như một nguời khách lạ; một người không tìm thấy vật muốn tìm để không còn gì khác làm cho lưu ý tới nữa? Hạnh phúc này, ba năm trước bắt gặp, có lẽ anh không thể chịu đựng nổi mà không hoảng sợ hay phát điên lên. Nguyên do từ đâu đưa đến khoảng trống rỗng, sự xa cách, vẻ hèn yếu không kham nổi sung sướng mà anh đang có lúc ấy?

Chúng tôi đi tới gần khu rừng nhỏ ban sáng ông de Galais đã cột con ngựa. Mặt trời sắp lặn, trải dài những cái bóng của chúng tôi trên mặt cỏ. Ở đầu bãi, có tiếng nói của bọn người đang chơi đùa và tiếng những cô gái nhỏ ầm ì văng vẳng giống như một bầy ong.

Cả ba đang trong sự trầm lặng lạ lùng, bỗng nghe có tiếng hát của ai đó đang dẫn bầy thú đi uống nước, cất lên sau cánh rừng, theo hướng trại Les Aubiers cạnh bờ sông. Tiếng hát trong trẻo xa xôi; nhịp nhàng đều đặn, nhưng giọng hát đàn ông lại kéo dài lả lướt theo điệu một bài ballade cổ và buồn:

Đôi giày của ta màu đỏ Thôi từ biệt các bạn tình Đôi giày của ta màu đỏ

Thôi từ biệt, không ngày trở lại…

Anh Meaulnes ngước đầu lắng nghe. Đó chính là điệu mà đêm hội cuối cùng nơi trang viện không tên, những nông dân còn nán lại đã hát sau khi bao nhiêu chuyện đã đổ vỡ hết… Đó chỉ còn là một kỷ niệm rất thảm thương của quãng thời gian không trở lại bao giờ.

Anh nói nhỏ:

“Các người nghe thấy không? Ồ, tôi phải đi coi.” Rồi lập tức chạy vào cánh rừng nhỏ.

Đột nhiên giọng hát im bặt; có tiếng đàn ông thứ hai huýt sáo gọi bầy thú, âm thanh xa dần rồi mất hút…

Tôi nhìn cô gái. Vẻ buồn rầu và suy nghĩ, cô còn để mắt dõi theo ngôi rừng thưa nơi anh Meaulnes vừa khuất dạng. Về sau, biết bao lần, cô cũng băn khoăn hướng về cái nơi anh Meaulnes sẽ mãi mãi bỏ đi.

Cô gái quay lại phía tôi, giọng đau đớn: “Anh ấy không sung sướng.”

Rồi cô tiếp:

“Xem chừng tôi cũng chẳng có ích gì hơn cho anh ấy đâu.”

Tôi ngần ngại không đáp vì e rằng sau khi bay tới trại và băng qua rừng để quay trở lại, anh Meaulnes sẽ bắt gặp bọn tôi đang nói chuyện về anh. Tôi định khích lệ cô gái rằng đừng nên ngại ngùng trong việc khơi cho anh nói ra điều bí ẩn nào đó đang làm anh thất vọng mà tự anh sẽ không bao giờ nói cho ai biết—thì bỗng dưng nghe một tiếng kêu phát ra từ phía rừng bên kia; rồi tiếng con ngựa đang vùng vẫy đập chân sau và tiếng người cãi lộn… Lập tức tôi hiểu là có tai nạn gì đang xảy ra cho con ngựa già Bélisaire nên vội chạy tới chỗ phát ra tiếng ồn. Cô de Galais đi theo sau tôi từ xa. Bên khu bãi cỏ, mọi người dường như nhận ra hành động của bọn tôi vì lúc đi vào rừng tôi nhận biết nhiều người cũng đang chạy tới.

Con ngựa già bị cột thấp quá nên đã vướng một chân vào giây cương. Nó vẫn đứng yên cho tới khi ông de Galais và Delouche đi dạo tiến lại gần. Hoảng sợ và bị kích thích vì mớ lúa mạch bất ngờ đem tới cho nó nên nó vùng vẫy như điên. Monsieur de Galais và Delouche cố gắng gỡ chân nó ra nhưng hành động của họ vụng về đến nỗi càng làm nó vướng thêm mãi, lại cũng có thể bị nhận những cú đá nguy hiểm của nó. Ngay lúc đó anh Meaulnes tình cờ từ trại Les Aubiers trở về gặp bọn này. Cáu tiết vì thấy họ quá sức vụng về, anh hất hai người ra đến suýt ngã nhào vào bụi rậm. Thật thận trọng, trong nháy mắt anh gỡ được chân cho con Bélisaire. Nhưng đã quá muộn. Con ngựa có lẽ bị bong gân, luôn cả gãy xương nữa vì thấy nó đứng rũ đầu xuống một cách thảm hại, cái yên tuột ra giữa chừng ở trên lưng, một chân co lên bụng, run lẩy bẩy. Anh Meaulnes cúi xuống nắn chân nó, ngắm con vật, chẳng nói năng gì.

Khi anh ngẩng đầu lên thì hầu hết mọi người đã tụ tập tại đó, nhưng anh chẳng thèm nhìn ai, mặt đỏ lên vì cáu tiết, rồi bật la lớn:

“Không hiểu ai lại buộc con ngựa như vậy chứ? Lại để nguyên cái yên trên lưng nó suốt một ngày. Mà ai lại dám thắng yên để cỡi một con ngựa giỏi lắm chỉ kéo nổi cái xe!”

Delouche toan nói câu gì --tự nhận hết mọi tội lỗi.

“Thôi chú mày câm miệng, cũng tại chú mày nữa. Rõ ràng ta trông thấy chú mày đang ngu xuẩn kéo mãi dây cương để gỡ cho nó.”

Anh lại cúi xuống tiếp tục lấy lòng bàn tay xoa bóp chân con ngựa. Monsieur de Galais từ nãy chưa nói gì, bỗng dại dột lên tiếng. Ông cụ bập bẹ:

“Các sĩ quan hải quân vẫn có thói quen… Con ngựa của tôi…”

Anh Meaulnes đã nguôi đôi chút, giờ mặt lại đỏ gay, quay đầu về phía ông cụ nói: “À ra là ngựa của cụ?”

Tôi tưởng anh sẽ đổi giọng, cất lời xin lỗi, nhưng anh chỉ đứng thở một lát. Và tôi thấy anh như tìm ra cái thú chua chát thất vọng muốn phá đổ hẳn tất cả, làm tình thế thêm gia trọng khi thốt ra một cách xấc xược:

“Nếu vậy cụ chẳng đáng được khen đâu!” Có người bàn:

“Nên lấy nước lạnh… Đem ngâm chân nó xuống chỗ sông cạn…” Anh Meaulnes không đáp, chỉ nói:

“Phải đem ngay con ngựa già này về trong khi nó còn đi được. Không thể trì hoãn. Rồi cho nó vào chuồng và đừng bao giờ lôi nó ra nữa.”

Mấy chàng trai trẻ xin lo vụ đó, nhưng cô de Galais vội cám ơn họ. Khuôn mặt đỏ như lửa, nước mắt sắp trào ra khỏi khóe, cô cáo biệt mọi người, kể cả Meaulnes đang lúng túng không dám ngó mặt cô. Nắm sợi dây cương, trông cô như đang cầm tay một người để xích tới gần hơn là dẫn con vật đi. Buổi chiều cuối mùa hạ trên đường về Les Sablonnières, gió mang hơi nóng ẩm khiến mọi người cứ ngỡ như còn là tháng Năm. Lá trên cây ở các hàng giậu rung rung theo ngọn gió nam. Chúng tôi nhìn theo cô de Galais, cánh tay thò một chút ra khỏi áo choàng, bàn tay nhỏ bé nắm sợi dây cương lớn bằng da. Ông cụ vất vả bước đi bên cạnh…

Thật là một buổi chiều tàn rất buồn. Ai nấy thu nhặt các gói đồ dùng dao nĩa của mình; ghế được gấp lại, bàn được tháo rời ra; những chiếc xe chất đầy người và đồ đạc bắt đầu chuyển bánh, các cái mũ được giơ cao và mu-soa đưa ra phất. Anh Meaulnes và tôi cùng với chú Florentin là những người cuối cùng còn lại trên bãi cỏ và cùng đang nghiền ngẫm những nỗi hối tiếc và thất vọng ê chề như nhau.

Đến lượt chúng tôi cũng ra về trên chiếc xe êm ái, được con ngựa hồng kéo chạy phăng phăng. Tới chỗ ngoặt, bánh xe nghiến trên cát. Anh Meaulnes và tôi ngồi ở hàng ghế sau thấy chiếc xe vút qua khúc đường hẹp nối liền với con ngõ tắt mà con ngựa già Bélisaire cùng với hai người chủ vừa rẽ vào khi nãy…

Lúc đó bạn tôi –con người mà tôi biết chắc rằng khó bao giờ để rơi một giọt lệ-- bỗng đưa ra về phía tôi một bộ mặt nhăn nhúm vì không thể cưỡng lại nổi một trận nước mắt. Anh đặt tay lên vai chú Florentin nói:

“Chú làm ơn ngừng lại. Xin đừng quan tâm tới cháu. Cháu sẽ đi bộ về một mình.”

Rồi một tay chống lên cái chắn bùn, anh nhảy xuống đất. Tất cả chúng tôi đều sửng sốt khi thấy anh chạy lộn ngược trở lại cho đến con đường hẹp vừa đi qua, có con ngõ tắt dẫn về ấp Les Slablonnières. Chắc hẳn anh đang đi tới tòa lâu đài cũ bằng con đường có trồng thông mà hồi trước anh chàng lang thang ngồi núp mình trong bụi rậm lén nghe câu chuyện giữa những đứa trẻ nhỏ xinh xắn không quen biết… đã đi qua.

Tối hôm đó, cùng với những nhịp thổn thức, anh cầu hôn cô de Galais.

Chương 7 Ngày Đám Cưới

 

Đó là một ngày thứ Năm đầu tháng Hai, một buổi chiều thứ Năm lạnh giá, gió thổi mạnh. Lúc đó vào khoảng ba giờ rưỡi hay bốn giờ... Trên các hàng giậu, ở các thôn xóm, quần áo giặt được đem phơi từ trưa đang khô đi dưới những cơn gió lộng. Trong nhà, lửa lò sưởi ở phòng ăn làm loé sáng cả một bàn những đồ chơi bóng lộn ủa trẻ em. Chơi đã mệt, đứa trẻ tới ngồi gần mẹ, đòi mẹ kể cho nghe chuyện ngày đám cưới của mẹ nó...

Nếu ai không sung sướng thì chỉ cần leo lên tầng gác xép mà ngồi đó cho đến chiều tối để nghe những tiếng gió gào thét rên rỉ như những tiế khóc than cho các linh hồn thảm bại; hoặc đi ra ngoài đường cái, mặc cho gió tạt mạnh vạt khăn quàng vào miệng như một cái hôn nóng hổi khiến phải òa khóc. Nhưng nếu ai yêu hạnh phúc thì lại có bên một con đường lầy lội, căn nhà ở Les Sablonnières mà anh bạn Meaulnes của tôi đã đưa Yvonne de Galais mới thành vợ anh từ ban trưa, trở về.

Thời kỳ đính hôn kéo dài trong năm tháng nhưng rất bình lặng, hết sức bình lặng nếu so với buổi gặp gỡ náo động đầu tiên. Anh Meaulnes thường tới Les Sablonnières luôn bằng xe ngựa hoặc xe đạp. Ít nhất mỗi tuần hai lần, cô de Galais đang ngồi may hay đọc sách bên cửa sổ mở ra rừng thông, bỗng trông thấy cái bóng cao lớn vụt qua rất mau phía sau rèm, (bao giờ anh cũng tới bằng con đường tắt mà xưa kia đã tới). Đó là sự gợi nhớ duy nhất mặc nhiên anh còn giữ đối với dĩ vãng. Hạnh phúc hiện tại dường như đã dẹp yên được nỗi băn khoăn kỳ dị của anh.

Trong vòng năm tháng bình lặng đó, có những biến cố đáng ghi nhớ xảy ra. Tôi được bổ làm giáo viên tại thôn Saint-Benoist-des-Champs. Saint-Benoist không phải là một làng, mà là bao gồm những nông trại rải rác trong một vùng đồng quê; ngôi trường đứng biệt lập trên một ngọn đồi gần đường cái, nơi tôi kéo dài một cuộc đời rất đơn độc. Nhưng nếu băng tắt qua cánh đồng thì chỉ phải đi bộ mất có ba khắc đồng hồ là tới Lãnh địa Les Sablonnières.

Delouche bây giờ ở nhà ông chú làm nghề thầu khoán tại Vieux-Nancay. Sau này gã sẽ được lên đứng chủ. Gã hay tới chơi với tôi. Do sự nài nỉ của cô de Galais, giờ đây anh Meaulnes tỏ ra nhã nhặn lắm với gã.

Những biến cố đó giải thích tại sao vào lúc bốn giờ chiều, khi mọi khách dự lễ cưới đã ra vế hết, Jasmin và tôi vẫn còn lang thang ở ngoài.

Hôn lễ cử hành lúc giữa trưa một cách hết sức lặng lẽ trong ngôi nhà thờ nhỏ tại Les Sablonnières. Nơi này không bị dỡ, ẩn khuất sau những lùm thông trên ngọn đồi gần đó. Sau bữa trưa ăn vội vàng, bà mẹ anh Meaulnes, Monsieur Seurel và Millie, chú Florentin cùng mọi người đều lên xe ra về hết. Chỉ còn lại mỗi Jasmin và tôi...

Chúng tôi lang thang ở ven rừng phía sau nhà, kế bên một khu đất hoang nơi tọa lạc của tòa lâu đài ngày xưa (nay đã bị phá đổ). Tuy không nói ra và cũng chẳng hiểu tại sao, chúng tôi đều cảm thấy rất lo lắng. Cố gắng một cách vô hiệu để khuây khỏa đầu óc và đánh lạc sự lo lắng, trong cuộc dạo chơi chúng tôi cố tìm những ổ thỏ rừng hay những vệt dài trên cát mà lũ thỏ mới đào... một cái bẫy mới đặt,... hoặc vết tích của một chú thợ săn. Nhưng luôn luôn cả hai đều quay lại ven rừng thưa, nơi có thể trông thấy ngôi nhà yên tĩnh cửa đóng.

Bên dưới khung cửa sổ lớn mở ra rừng thông có một cái bao lơn bằng gỗ bị cỏ dại trùm kín và thỉnh thoảng gió lại thổi rạp những cây cỏ xuống. Trên những tấm kính thấy thấp thoáng ánh sáng một ngọn lửa đốt trong lò. Đôi khi có một bóng người đi ngang. Khắp xung quanh, (trên cánh đồng lân cận, trong vườn rau, nơi căn nhà duy nhất còn sót lại trong khu nhà phụ), chỉ là sự im lặng và cô liêu. Các tá điền đều ra ngoài ăn uống mừng ông bà chủ mới.

Thỉnh thoảng gió lại chở tới thứ sương mù tựa như mưa ướt phà vào mặt chúng tôi; hoặc đưa tới tai những âm thanh xa vắng. Về phía đó, trong ngôi nhà đóng kín cửa, có ai đang dạo dương cầm. Tôi dừng lại chốc lát để lắng nghe. Thoạt tiên như có một giọng run rẩy văng vẳng từ xa của một người đang ngại ngùng không dám cất tiếng ca ngợi nỗi vui của mình... Cũng là tiếng cười của một cô gái nhỏ, nơi phòng riêng đang thu nhặt bao nhiêu món đồ chơi cũ bày hết trước mắt bạn tình... Tôi cũng nghĩ tới sự sung sướng e dè của một thiếu phụ đã mặc vào người bộ áo mới để đem khoe nhưng không biết áo có làm vừa ý ai chăng?

Điệu nhạc mà tôi không biết đó thật chẳng khác nào một khúc nguyện cầu, một câu van nài hạnh phúc đừng quá cay nghiệt, một lời khấn nguyện, cũng như một sự quỳ mọp trước hạnh phúc...

Tôi nghĩ: “Thế là họ đã đạt hạnh phúc. Nay anh Meaulnes đã ở bên nàng...”

Biết như vậy, tin chắc như vậy, điều đã đủ khiến cho một chàng trai trẻ tốt bụng như tôi phải lấy làm hài lòng .

Đang mải suy nghĩ, mặt đẫm ướt bởi luồng gió nơi đồng bằng mà tựa như bụi nước ngoài biển, tôi cảm thấy có ai đụng vào vai tôi, Jasimin nói rất nhỏ:

“Nghe kìa!”

Tôi nhìn gã. Gã ra dấu bảo đừng động đậy và chính gã cũng cúi đầu, chau mày lắng nghe...

 

 

Chương 8 Tiếng Gọi Của Frantz

 

“Hú u!”

Lần này thì tôi nhận biết. Đó là một ám hiệu, một tiếng gọi hai giọng cao thấp mà hồi xưa tôi đã từng nghe. A, tôi nhớ ra rồi: tiếng kêu của gã kịch sĩ cao lớn khi đứng ở cổng trường gọi người đồng bạn. Đó là tiếng mà Frantz đã bắt chúng tôi phải thề rằng khi nghe thấy thì dù ở đâu, vào lúc nào, cũng phải tìm đến.

Nhưng bữa nay chàng muốn gì?

Tôi nói nhỏ:

“Tiếng kêu từ cánh rừng thông phía trái. Chắc là do một bác thợ săn nào.” Jasmin lắc đầu:

“Nhất định không phải.” Rồi thấp giọng tiếp:

“Cả hai đứa đã tới đây hồi sáng. Lúc mười một giờ tôi bắt gặp Ganache đang rình mò nơi cánh đồng gần nhà thờ. Thấy tôi, nó vội bỏ chạy. Có lẽ bọn chúng từ xa tới bằng xe đạp vì thấy Ganache bị bùn bắn lên đến nửa lưng.”

“Thế bọn chúng muốn kiếm gì chứ?”

“Sao biết được. Nhưng chắc chắn là tụi mình phải đuổi chúng đi khỏi đây. Không thể để cho chúng bén mảng quanh vùng. Nếu không thì bao nhiêu chuyện điên rồ có thể sẽ tái diễn...”

Tôi cũng nghĩ thế nhưng không nói ra. Tôi bảo Jasmin:

“Tốt hơn hết là đi kiếm bọn họ, hỏi xem họ muốn gì và ngăn cản họ... ”

Từ từ, lặng lẽ, chúng tôi cứ lén đi ngang khu rừng thưa tới cánh rừng thông, nơi mà, từng chặp đều đặn, phát ra tiếng kêu ngân dài mà tự nó không nghe buồn cho lắm nhưng cả hai chúng tôi đều có cảm tưởng đó là một điềm rất xấu.

Khu rừng này, những gốc cây trồng thẳng hàng ngó xuyên qua được nên khó lòng để bắt chộp người nào, và cũng khó tiến lên mà không bị bắt chộp. Vậy không nên tính đến chuyện liều mạng. Tôi đứng ở một góc rừng, Jasmin tới đứng ở góc đối diện để cũng như tôi, có thể từ ngoài kiểm soát được hai cạnh của khoảng đất hình chữ nhật, không cho một người nào trong bọn bô-hê-miêng ở trong thoát ra được.

Sắp đặt như vậy xong, tôi bèn đóng vai một người mở đường không có ác ý, cất tiếng gọi: “Frantz!”

“Frantz à! Đừng sợ gì hết. Tôi, Seurel đây, tôi muốn nói chuyện với anh.”

Im lặng một lát. Khi tôi toan cất tiếng gọi nữa thì từ giữa rừng, nơi mắt nhìn không thấu, có tiếng ra lệnh:

“Cứ đứng yên ở đó, Frantz sẽ tới gặp.”

Lần lần giữa những cây thông lớn trông như liền khít nhau khi nhìn từ xa, tôi nhận ra bóng dáng chàng trẻ tuổi đang đi tới. Trông chàng ăn bận lôi thôi, người lem lấm bùn lầy; hai ống quần bó sát; trên mái tóc quá dài, một chiếc mũ kết đã cũ tàng có thêu hình cái neo thuyền bị đội bẹp xuống; khuôn mặt gầy ốm rõ rệt. Dường như chàng vừa mới khóc.

Cương quyết tiến lại phía tôi, chàng ngạo nghễ hỏi: “Anh muốn gì?”

“Còn anh, Frantz, anh làm gì ở đây? Tại sao anh phá rối những người đang sung sướng? Anh cần gì, cứ nói.”

Bị hỏi thẳng như vậy, chàng hơi đỏ mặt, chỉ bập bẹ đáp: “Tôi khổ quá, tôi khổ quá!”

Rồi, gục đầu vào cánh tay, tựa mình nơi một gốc cây, chàng khóc thảm thiết. Chúng tôi bước đi vài bước giữa khu rừng hoàn toàn tịch mịch. Không nghe thấy cả tiếng gió mà những ngọn thông lớn ngoài ven đã chặn lại. Giữa những thân cây đều đặn, chỉ thấy vang lên rồi lại hạ xuống những tiếng thổn thức nghẹn ngào của Franzt de Galais.

Đợi cho cơn xúc động dịu bớt, tôi đặt tay lên vai chàng:

“Frantz, anh về với tôi đi. Tôi sẽ đưa anh đến với họ. Họ sẽ tiếp đón anh như một đứa trẻ bị lạc mới tìm lại được và mọi sự sẽ được xóa bỏ hết.”

Nhưng Frantz không chịu nghe. Với một giọng nói bị nước mắt làm lấp đi, khổ sở, ươn ngạnh pha lẫn cáu kỉnh, chàng tiếp:

“Thế ra Meaulnes không lo lắng gì cho tôi nữa sao? Tại sao hắn không đáp khi nghe tiếng tôi gọi? Sao hắn không giữ lời hứa?”

Tôi trả lời:

“Ô kìa Frantz, cái thời của những huyễn tượng và những trò trẻ con đã đi qua rồi. Anh đừng đem những thứ điên rồ tới làm xáo trộn hạnh phúc của những người anh yêu thương như chị Yvonne và anh Meaulnes nữa.”

“Nhưng anh cũng biết rõ chỉ riêng anh ta mới cứu tôi nổi. Chỉ có hắn mới có thể tìm được tung tích người mà tôi đang tìm. Đã ba năm nay Ganache và tôi sục sạo suốt cả nước Pháp mà vẫn vô hiệu. Bây giờ tôi chỉ còn hy vọng nơi người bạn anh. Thế mà hắn không đáp lại cả lời của tôi. Hắn đã kiếm được mối tình của hắn. Tại sao bây giờ hắn không nghĩ tới tôi chứ? Hắn phải lên đường. Yvonne thế nào cũng để cho hắn đi. Chị ấy có bao giờ từ chối tôi điều gì đâu.”

Chàng đưa ra trước mặt tôi một khuôn mặt lem luốc bụi đường, trên đó, nước mắt đã vạch thành những đường dài bẩn thỉu. Khuôn mặt của một thằng nhãi lớn tuổi, mệt lử, thiểu não, đôi mắt thâm quầng, đầy vết tàn nhang; cằm không cạo; mái tóc quá dài xõa xuống cái cổ cáu bẩn.

Hai tay trong túi, cả thân hình Franzt rét run.

Không còn là chàng trai trẻ bảnh bao ăn vận rách rưới hồi mấy năm trước nữa. Trong tâm chàng có lẽ vẫn còn trẻ thơ như dạo ấy: hách dịch, ngông nghênh nhưng cũng mau thất vọng.

Tuy nhiên, cái vẻ con nít đó lại đâm thành khó chịu ở con người sớm già trước tuổi hiện tại... Hồi nào ở chàng có tràn đầy kiêu hãnh của tuổi trẻ cho nên bao nhiêu ngông cuồng đều có thể chịu được. Bây giờ, trước hết chỉ thấy thương hại cho một con người không thành công trong cuộc sống; sau, lại muốn trách cứ chàng sao cứ cố giữ mãi vai trò một nhân vật lãng mạn thuở xưa.

Cuối cùng, dù không muốn, tôi cũng bắt buộc tự nghĩ rằng anh chàng Frantz với mối tình cao đẹp ngày nhỏ, nay cũng phải đi ăn trộm mà sống, như gã đồng bọn Ganache. Bao nhiêu kiêu hãnh để rốt cuộc đến như thế ư?

Tôi nói, sau khi đã suy nghĩ:

“Nếu tôi hứa với anh rằng ít ngày nữa Meaulnes sẽ đi tìm cho anh, cho riêng anh... ?” Frantz hỏi tôi mà răng đánh lập cập:

“Hắn sẽ thành công? Anh có chắc vậy không?”

“Tôi cho rằng được. Đối với Meaulnes, việc gì cũng sẽ hoàn tất.” “Nhưng làm sao tôi biết? Ai sẽ cho tôi hay tin?”

“Đúng một năm nữa, cũng giờ này, anh trở lại đây: khi ấy anh sẽ gặp ngay tại chốn này cô gái mà anh đã yêu.”

Nói như vậy, tôi không nghĩ rằng sẽ làm phiền đến cặp vợ chồng mới cưới, mà chính tôi sẽ tới hỏi bà mợ Moinel rồi tự lo vụ kiếm cô gái đó.

Chàng bô-hê-miêng nhìn thẳng mắt tôi với một ý chí tin tưởng hết sức đáng phục. Mười lăm tuổi, thật vậy, chàng chỉ mới mười lăm, vẫn cái tuổi của chúng tôi thời Sainte-Agathe bữa chiều quét lớp rồi sau đó cả ba đã thốt ra lời thề ghê gớm mà trẻ con đó!

Thất vọng lại xâm chiếm Frantz khi chàng đành phải nói: “Vậy bây giờ chúng tôi đi.”

Frantz nhìn một lượt, chắc chắn trong lòng thắt lại, những cánh rừng ở quanh đây mà chàng sắp phải từ giã lần nữa. Chàng nói:

“Trong ba ngày tiếp, bọn tôi sẽ lang thang trên các nẻo đường ở Đức, để xe lại một nơi xa. Từ ba mươi giờ nay, bọn tôi đi không ngừng. Chúng tôi tính sẽ về kịp trước đám cưới để lôi Meaulnes cùng đi tìm vị hôn thê của tôi, cũng như hắn đã đi tìm cái ấp Les Sablonnières thuở trước.”

Rồi vẫn cái thói trẻ con ghê gớm, lúc chia tay chàng nói:

“Anh gọi thằng cha Delouche của anh lại đi, nếu tôi gặp mặt nó chắc sẽ có chuyện.” Lần lần, giữa những gốc thông tôi thấy bóng dáng xám xịt của chàng biến đi.

Tôi gọi Jasmin lại rồi cả hai cùng đứng gác.

Nhưng liền khi đó, ở đằng kia, nơi nhà anh, thấy Augustin đi ra đóng cửa sổ. Cái vẻ kỳ lạ khi

đó của anh đã khiến chúng tôi thật sự băn khoăn.

 

Chương 9.

Những Con Người Sung Sướng

 

Sau đó, tôi được biết rõ chi tiết về các việc đã xảy ra.

Từ đầu buổi chiều, trong phòng khách tại Les Sablonnières, chỉ Meaulnes và vợ --mà tôi vẫn gọi là cô de Galais—hiện hữu bên nhau. Khách khứa đã ra về hết, ông cụ de Galais mở cánh cửa lớn để trong một giây cho gió thổi rít vào tận trong nhà: rồi ông đi về phía Vieux-Nanacy, hẹn tới giờ ăn tối mới trở lại để khóa hết mọi cửa và dặn dò công việc cho các tá điền. Không một tiếng động nào từ ngoài lọt tới tai đôi người trẻ tuổi. Có chăng là một cánh hoa hồng trụi lá đập nhẹ vào khung cửa kính mở về phía bãi. Y hệt hai du khách trên một chiếc thuyền được thả trôi trong gió lộng mùa đông, họ là hai kẻ tình nhân bị nhốt chung trong cùng một hạnh phúc.

“Lò lửa sắp tàn,” cô de Galais nói và toan lấy một khúc củi trong thùng. Nhưng anh Meaulnes vội đứng lên, tự mình chất thêm củi vào lò.

Rồi anh cầm tay nàng. Cả hai đứng đối diện, lặng người đi như thể có một cái tin quan trọng không thể nói ra với nhau.

Gió thổi ào ào hệt như tiếng dội vang của một con sông lớn. Thỉnh thoảng một giọt nước vạch chéo trên mặt kính như mưa đang phả vào cửa kính một toa tàu.

Lúc đó cô de Galais mở cửa hành lang rồi biến mất sau một nụ cười bí mật. Trong khoảnh khắc, Augustin đứng một mình trong vùng tranh tối tranh sáng. Tiếng tíc-tắc của chiếc đồng hồ con làm anh nhớ lại căn phòng ăn ở Sainte-Agathe… Có lẽ anh đang nghĩ: “Thế ra đây là ngôi nhà bấy lâu ta mất công tìm kiếm mãi; nơi hành lang kia, thuở xưa đã có đầy những tiếng thì thào và những bóng người kỳ lạ ra vào.”

Đúng vào lúc ấy, sát ngay hông nhà, anh nghe tiếng gọi thứ nhất của Frantz. (Về sau cô de Galais nói với tôi là cũng có nghe thấy tiếng kêu đó).

Cô vợ mới cưới mặc sức phô bày cho vị tân lang xem những món kỳ diệu của riêng mình: những đồ chơi hồi nhỏ; tập ảnh thời niên thiếu, trong đó nàng trang phục theo kiểu các cô bán quán; cùng với Frantz, cả hai ngồi trên đùi bà mẹ xưa kia rất đẹp… Lại còn những áo quần trong số những bộ rất đứng đắn nàng thường mặc: “Cả cái này em bận vào hồi anh sắp sửa quen biết em, thời kỳ anh bắt đầu tới trọ học ở trường Sainte-Agathe thì phải…”

Nhưng Meaulnes chẳng còn nghe gì hết, chẳng còn thấy gì hết.

Tuy nhiên, có một lúc dường như anh chợt ý thức lại được nỗi hạnh phúc lạ lùng, không thể tưởng tượng của mình. Anh nói thầm thì, tưởng như lời vừa ra khỏi miệng là đã thấy choáng váng:

“Em đấy ư, hãy lại gần cái bàn, đặt tay lên đó giây lát…” Hoặc:

“Mẹ anh khi còn trẻ cũng thường cúi xuống như vậy mỗi khi trò chuyện với anh. Và những khi mẹ ngồi vào trước cây dương cầm…”

Yvonne de Galais liền đề nghị chơi đàn trước khi trời đổ tối. Nhưng cái góc trong phòng khách cũng đã tối nên cần phải thắp lên một ngọn nến.

Cái chụp đèn màu hồng làm tăng thêm sắc đỏ trên gò má Yvonne và như ngầm nói lên một nỗi xao xuyến lạ trong tâm tư nàng.

Ngoài kia, chúng tôi bắt đầu nghe thấy bài ca run rẩy của gió bạt tới, và chỉ một lát sau lại bị cắt ngang do tiếng kêu thứ nhì của hai gã điên khi đó đã lại gần chúng tôi, trong cánh rừng thông.

 

Rất lâu, Meaulnes ngồi nghe đàn, yên lặng ngó ra ngoài khung cửa sổ. Nhiều lần anh quay lại nhìn khuôn mặt hiền hậu chứa đựng bao nhiêu ưu tư và yếu đuối. Rồi tiến lại gần Yvonne và hết sức dịu dàng, anh đặt một tay lên vai nàng. Nàng cảm thấy phía sau gáy có năm ngón đang nhẹ nhàng ve vuốt mà lẽ ra nàng phải biết đáp ứng lại.

Sau cùng anh nói:

“Đã tối rồi, anh đi đóng cửa. Nhưng em cứ tiếp tục đàn đi…”

Những gì xảy ra lúc bấy giờ trong trái tim u uẩn và cô tịch ấy? Nỗi ân hận thầm kín nào? Những tiếc thương không thể biểu lộ? Có phải anh sợ nguồn hạnh phúc phi thường đang nắm được trong tay chẳng bao lâu sẽ trôi luồn đi qua các kẽ? Hoặc, do bởi sức dụ dỗ ghê gớm buộc anh phải hất đổ ngay tức thì món bảo vật trân quí mà anh vừa chiếm được kia?

Đó là những câu tôi hỏi vẫn thường tự đặt nhưng chỉ được trả lời khi tất cả đã trở thành quá muộn.

Anh lặng lẽ, chậm rãi đi ra ngoài, sau khi nhìn người vợ trẻ lần nữa. Từ ven rừng, chúng tôi nhìn thấy, thoạt tiên anh do dự giơ tay đóng cửa, rồi mơ hồ ngó về phía chúng tôi, xong lại đóng một cánh cửa khác nữa, và bất chợt phóng chạy vào rừng. Anh chạy tới gần chúng tôi trước khi Jasmin và tôi kịp nghĩ đến chuyện núp kín. Nhìn thấy chúng tôi khi sắp sửa bước qua một hàng rào thấp mới trồng để ngăn ranh giới một cánh đồng cỏ, nhưng anh tảng lờ lảng tránh ra. Tôi còn nhớ rõ cái vẻ ngơ ngác như con vật bị săn đuổi của anh… Anh làm bộ như quay trở lại để vượt qua hàng rào phía dòng suối nhỏ.

Tôi cất tiếng gọi: “Meaulnes! Augustin!”

Nhưng anh chẳng quay đầu lại. Khi đó tin chắc nói ra như vậy mới kéo anh lại được, tôi la lên: “Frantz ở đây. Hãy đứng lại!”

Anh đứng lại thật. Thở hổn hễn, chẳng để tôi có thì giờ sửa soạn câu nói, anh hỏi: “Cậu ấy ở đây à? Thế cậu muốn gì?”

Tôi đáp:

“Hắn khổ lắm. Muốn nhờ anh giúp, đi kiếm cái mà hắn đã mất.” Anh cúi mặt nói:

“Chà, tôi cũng nghi vậy. Tôi cứ cố dìm chết mãi ý tưởng đó. Nhưng cậu ta ở đâu? Kể mau cho tôi nghe đi!”

Tôi đáp Frantz vừa ra đi và chắc chắn bây giờ nếu chạy theo thì cũng không còn kịp nữa. Nghe thế, anh Meaulnes trông thật chán chường và thất vọng. Lưỡng lự, anh bước hai ba bước, rồi dừng lại, vẻ thật vô cùng đắn đo và rầu rĩ. Tôi kể lại với anh nghe những điều tôi đã thay mặt anh mà hứa với chàng tuổi trẻ. Tôi nói tôi đã hẹn với hắn trong vòng một năm nữa, cũng ở nơi này.

Thường, Augustin vốn rất bình tĩnh, bấy giờ bỗng trở nên nóng nảy bồn chồn lạ lùng. Anh nói: “Chà, sao lại làm vậy chứ? Thôi, không chừng tôi có thể cứu được cậu ta. Nhưng cần phải thực

hành ngay lập tức. Tôi cần phải gặp mặt để nói chuyện với cậu ấy. Franzt phải tha thứ cho tôi và tôi phải đền bù lại hết cho cậu ấy. Nếu không, tôi sẽ không thể quay về đằng kia được nữa.”

Vừa nói, anh vừa hất đầu về phía Les Sablonnières. Tôi bày tỏ:

“Thế ra chỉ vì một lời hứa thời tuổi nhỏ mà anh tính phá tan cả hạnh phúc của mình sao?” Anh đáp:

“Trời, giá chỉ mỗi lời hứa đó mà thôi!...”

Từ câu nói trên mà tôi mới biết đã có chuyện gì ràng buộc hai người trẻ tuổi, nhưng không làm sao đoán ra được. Tôi đề nghị:

“Dù sao đi nữa bây giờ không còn là lúc để anh đuổi theo họ. Bọn họ hiện đang trên đường sang Đức.”

Anh sắp sửa đáp, bỗng khuôn mặt bơ phờ, thiểu não, ngơ ngác hiện ra giữa ba chúng tôi. Đó là Yvonne de Galais. Chắc hẳn nàng vừa mới chạy một hơi vì gương mặt thấy đẫm mồ hôi; có lẽ còn vấp ngã và bị xây xát, trên trán, nơi mắt phải thấy một vết thương, máu đọng cả nơi mái tóc.

Tại những khu phố nghèo ở Paris, tôi thường bất ngờ chứng kiến cảnh một cặp vợ chồng trước kia tưởng là hạnh phúc thuận hòa lương thiện, bước ra khỏi nhà giữa mấy người cảnh binh vừa tới can thiệp cuộc loạn đả của họ. Các vụ xô xát như vậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, lúc sắp ngồi vào bàn ăn, ngày chủ nhật trước khi ra phố, hay đúng lúc sắp mừng sinh nhật thằng con nhỏ… --bấy giờ mọi sự đều bị phủi đi hết, tan hoang hết. Hai vợ chồng giữa cảnh ồn ào chỉ còn là hai con quỷ đáng thương và lũ trẻ con khóc sướt mướt nhảy vào giữa đám ôm lấy cha mẹ mà hôn, van xin cha mẹ đừng nói nữa và đừng đánh nhau nữa.

Yvonne de Galais khi chạy tới gần Meaulnes đã khiến cho tôi nghĩ tới một trong số những đứa trẻ con khốn khổ hốt hoảng ấy. Tôi tin rằng cho dù tất cả bạn bè, làng xóm, tất cả mọi đám đông có ở đó mà nhìn nàng thì Yvonne cũng vẫn cứ chạy tới, cũng vấp ngã cho bị thương như vậy, đầu tóc tơi bời, khóc lóc lem luốt.

Nhưng khi biết anh Meaulnes vẫn còn đây, lần này ít nhất anh cũng không bỏ nàng bơ vơ trơ trọi, thế là Yvonne khoác tay anh và vừa khóc vừa cười như đứa trẻ thơ. Cả hai không nói với nhau một lời. Nhưng khi cô gái rút khăn tay ra, Meaulnes dịu dàng cầm lấy. Cẩn thận chăm chú, anh chùi những vệt lem trên mặt cô gái.

Anh nói:

“Bây giờ ta đi về thôi.”

Tôi để cho hai người ra về với nhau trong cơn gió lộng buổi chiều phả mạnh vào mặt. Anh đưa tay cho cô vịn khi gặp những quãng khó đi; nàng tươi cười vội vã. Hai người quay về căn nhà riêng bỏ vắng trong chốc lát.

 

 

 

Chương 10.

Nhà Của Frantz

 

Buổi tối, bị ám ảnh bởi một mối lo ngấm ngầm mà kết quả đáng phấn khởi của cuộc xáo trộn ngày hôm qua không dẹp tan nổi, trọn ngày hôm sau tôi phải tự giam mình trong lớp. Liền sau khi tan giờ “ôn bài” tiếp theo sau giờ học buổi chiều, tôi đi sang ấp Les Sablonnières. Khi tới chỗ rặng thông có lối đi vào nhà anh Meaulnes thì trời xẩm tối. Các cửa ngoài đều đã đóng kín. Tôi sợ giờ này tới chơi, lại vào bữa sau đám cưới, không biết có làm phiền họ không, nên cứ lưu lại đó mãi tới khuya, lảng vảng ngoài vườn và trên những khu đất ở gần, lòng thầm mong có ai trong nhà bước ra sân… Nhưng tôi hy vọng vô ích. Cả nông trại lân cận cũng chẳng thấy có ai. Nên đành phải quay về, trong lòng vương vấn bao nhiêu giả tưởng đen tối.

Hôm sau là thứ Bảy, tôi vẫn phân vân không kém. Đến chiều, vội vàng lấy áo khoác, cây gậy và một mẩu bánh mì đem theo ăn dọc đường. Khi trời xẩm tối, tôi tới Les Sablonniè -res thì thấy cũng như hôm trước, cửa ngõ đều đóng kín. Trên lầu có chút ánh đèn nhưng không một tiếng động, không một dáng người đi qua.

Tuy nhiên lần này đứng ngoài sân, tôi trông thấy khung cửa ra vào nơi khu nông trại mở, trong căn bếp rộng có đốt lửa và có tiếng người cùng tiếng bước chân như thường lệ vào giờ ăn tối. Thấy như vậy tôi vững bụng hơn nhưng không biết rõ mọi sự việc đã xảy ra. Không thể hỏi han hay nói chuyện gì với mọi người ở đây được, tôi quay trở lại ngóng đợi nữa, nhưng vô ích, những mong cửa sẽ mở và hiện ra bóng dáng cao lớn của anh Meaulnes.

Mãi tới chiều Chủ nhật tôi mới quyết định tới gọi cửa nhà vợ chồng anh. Trong khi leo lên ngọn đồi trọc, nghe văng vẳng tiếng chuông chiều ngày Chủ nhật mùa đông, lòng cảm thấy vô cùng trơ trọi và buồn nản, tôi không hiểu đã có linh tính xấu nào đang xâm chiếm lấy tôi. Tôi chỉ ngạc nhiên đôi chút sau tiếng chuông gọi thấy ông de Galais một mình hiện ra cửa và gần như thì thầm câu nói:

“Yvonne de Galais phải nằm ở giường với một cơn sốt nặng; Meaulnes có việc phải đi xa từ sáng thứ Sáu; không ai biết tới chừng nào mới trở về…”

Thấy ông cụ tỏ ra lúng túng, quá buồn rầu và không ngỏ lời mời tôi bước vào nhà, tôi liền cáo từ. Cánh cửa đã đóng rồi mà tôi còn đứng một lát trên thềm, tim thắt lại, tâm trạng vô cùng xao xuyến. Chẳng biết tại sao tôi đứng im mà ngắm một cành hoa glycine đã héo bị gió lay động rất buồn dưới một tia nắng le lói.

Thế ra mối tiếc hận thầm kín mà anh Meaulnes mang nặng từ hồi ở Paris đã thắng thế. Anh bạn cao lớn của tôi sau cùng đành phải dứt bỏ hạnh phúc bền chặt…

 

Mỗi thứ Năm và Chủ nhật, tôi đều tới thăm Yvonne de Galais. Mãi tới buổi chiều Yvonne bắt đầu lành bệnh, tôi mới được mời vào. Cô bạn ngồi bên lò sưởi, trong căn phòng khách có khung cửa sổ rộng mở ra phía rừng thông và cánh đồng. Yvonne không xanh xao như tôi tưởng, nhưng lại đang sốt, dưới mắt có những vết đỏ tươi. Dường như nàng đang ở trong trạng thái bồn chồn, run rẩy tới cực độ. Tuy trông còn yếu lắm, nhưng cách phục sức lại như sắp sửa đi đâu. Nàng ít nói, dù vậy câu chuyện nào nói ra cũng sốt sắng lạ lùng, tưởng như muốn làm cho chính mình phải tin rằng hạnh phúc chưa tan vỡ hẳn. Tôi không nhớ hết những lời trao đổi. Chỉ nhớ có lúc đã lưỡng lự hỏi xem chừng nào anh Meaulnes sẽ về. Yvonne vội đáp:

“Tôi cũng không biết bao giờ anh ấy về nữa.”

Trong mắt nàng như tỏ ý van lơn, nên tôi không dám hỏi tiếp.

Thường thường tôi hay trở lại thăm bạn và có nhiều dịp ngồi trò chuyện với Yvonne bên lò sưởi, trong căn phòng khách trần thấp, nơi mà trời tối mau hơn bất kỳ nơi khác. Không bao giờ Yvonne nói tới mình hoặc nỗi buồn kín đáo riêng, nhưng lại không chán nghe tôi kể từng chi tiết cuộc đời học sinh của chúng tôi ở Sainte-Agathe.

Nghiêm trang, dịu dàng, nàng lắng nghe, vẻ chăm chú như bà mẹ ngồi nghe thuật lại những nỗi buồn của bọn trẻ đã lớn. Không bao giờ Yvonne tỏ ra ngạc nhiên, kể cả những trò trẻ con táo bạo, nguy hiểm nhất. Sự chú ý trìu mến đó, nàng thừa hưởng từ ông de Galais; và vẫn chưa hề thấy ngán những vụ phiêu lưu đáng chê trách của cậu em mình. Điều duy nhất khiến nàng tiếc nuối chính là đã không phải là một người bạn tâm tình đáng tin cậy cho cậu, bằng chứng là vào thời điểm bị thất vọng ê chề, cậu cũng không dám thổ lộ với chị hay với một ai, mà chỉ tự coi mọi sự như là vô phương cứu vãn.

Cứ mỗi lần nghĩ tới điều vừa nói, tôi lại cho rằng đó là một trách vụ nặng nề đè lên trái tim người thiếu phụ –cái trách vụ dọ hỏi một tâm hồn đầy huyễn mộng đến độ điên rồ như của cậu em nhỏ; cái trách vụ có thể đè bẹp chính nàng khi muốn cảm thông với một tâm hồn ham thích phiêu lưu như của anh Meaulnes.

Một hôm, Yvonne de Galais đưa ra cho tôi thấy một bằng chứng đáng cảm động nhất –tôi nghĩ gần như cũng bí hiểm nhất—về sự tin tưởng mà nàng còn lưu giữ đối với những ảo vọng trẻ con của cậu em, về sự nàng chi chút bảo tồn những gì còn sót lại trong thế giới mộng mơ mà Franzt đã sống cho đến năm 20 tuổi.

Đó là một đêm tháng Tư buồn như một buổi vào cuối thu. Từ một tháng qua chúng tôi sống trong một mùa xuân đến sớm thật dịu và cô bạn vẫn thường cùng với cha đi dạo rất lâu. Hôm đó ông cụ bị mệt, còn tôi lại rảnh nên Yvonne xin tôi đưa đi dạo mặc dầu xem chừng thời tiết rất xấu. Tới chỗ cách Les Sablonnières chừng hơn nửa dặm, dọc theo dòng suối, chúng tôi bất chợt gặp bão giông và mưa đá. Dưới căn lều đang tới trú cho qua cơn mưa không dứt, gió thổi làm lạnh buốt, chúng tôi đứng cạnh nhau, tư lự trước cảnh sắc âm u. Tôi còn nhớ da mặt nàng tái xanh, vẻ thật xao xuyến trong bộ áo dịu dàng trang nhã. Yvonne nói:

“Phải về thôi. Chúng ta đi đã lâu rồi. Ở nhà sợ có chuyện gì xảy ra chăng?”

Thật ngạc nhiên xiết bao! Thay vì trở về Les Sablonnières, thiếu phụ lại tiếp tục dấn bước và xin tôi theo cùng. Sau khi đi bộ lúc lâu, cả hai tới trước một ngôi nhà tôi chưa hề biết, nằm trơ trọi bên một con đường có đá lởm chởm đưa tới Préveran- ges. Đó là loại nhà nhỏ, mái lợp đá đen, trông chẳng khác những ngôi nhà thường gặp, ngoại trừ sự biệt lập xa hẳn một nơi của nó.

Cứ nhìn thái độ Yvonne de Galais thì người ta có thể lầm tưởng ngôi nhà là của chúng tôi, lâu ngày bỏ đó mà du lịch. Yvonne cúi xuống mở một cánh cổng nhỏ và nhanh nhẩu xem xét căn nhà trơ trọi. Một cái sân rộng đầy cỏ mọc bị trận bão làm xói lở, nơi lũ trẻ con thường hay tới chơi trong những buổi chiều dài đặc cuối mùa đông. Trong vũng nước có ngâm một cái vòng. Trên mấy thửa đất nhỏ đám trẻ con trồng hoa và gieo đậu, nay chỉ còn những cái rãnh nhỏ trơ cát trắng.

Sau cùng chúng tôi khám phá thấy cả một bầy gà con bị đẫm nước mưa đang núp trên bực một khung cửa ướt. Hầu hết đều chết rét dưới đôi cánh cứng đơ và bộ lông xơ xác của gà mẹ.

Trước cảnh đáng tội nghiệp đó, người thiếu phụ bật lên một tiếng la nghẹn ngào. Nàng cúi xuống, không nề hà bùn nước, lựa những con gà còn sống ra ủ trong vạt áo; rồi đưa tôi vào căn nhà bằng chìa khóa riêng.

Bốn cửa mở ra một khúc hành lang gió lùa kêu rít. Yvonne mở cánh đầu tiên bên tay mặt, dẫn tôi vào một căn phòng tối om. Sau một lát tôi mới nhận ra một tấm gương lớn và một cái giường nhỏ trên có khăn phủ theo kiểu thôn quê, một tấm mền bằng lụa đỏ. Còn cô bạn, sau khi tìm kiếm một lát trong các phòng khác, trở lại tay xách đàn gà ốm trong cái giỏ có trải lông, thận trọng đem tới đặt bên dưới tấm mền. Tia nắng yếu ớt thứ nhất và cuối cùng trong ngày chiếu sáng làm cho gương mặt chúng tôi thêm xanh tái và buổi chiều thêm u tối. Chúng tôi đứng đó, lạnh giá và bối rối, trong căn nhà kỳ lạ!

Đôi lúc Yvonne chạy lại ngó trong cái ổ, bắt ra một con gà mới chết để khỏi chết lây sang những con khác. Mỗi lần làm vậy, chúng tôi lại tưởng như tiếng gió luồn qua những tấm kính cửa đã vỡ trên tầng gác xép đang thở dài lặng lẽ, hệt như mối buồn kỳ bí của bọn trẻ nhỏ không quen nào đó đang ở quanh đây.

Mãi sau cô bạn mới nói với tôi:

“Đây là nhà của Frantz hồi em nó còn nhỏ. Nó muốn có riêng một căn, xa hết mọi người, tại đó nó có thể sống một mình và tùy thích chơi đùa. Cha tôi thấy cái trò kỳ dị đáng tức cười quá nên cũng không từ chối. Thế là mỗi khi nó muốn, một bữa thứ Năm hay Chủ nhật, Frantz lại một mình tới sống trong căn nhà nó y như một người lớn vậy. Bon trẻ con ở các trại gần đó kéo tới chơi với nó, giúp nó thu dọn bên trong, trồng cây bên ngoài. Thật là một trò chơi kỳ lạ. Tối đến nó không sợ phải ngủ một mình. Chúng tôi thấy phục nó quá nên cũng chẳng lấy làm lo ngại.”

Cô bạn thở dài, tiếp:

“Căn nhà bây giờ bỏ không đã lâu. Ông de Galais vì cao tuổi lại gặp cảnh buồn nên chẳng kiếm cách gì để tìm hay gọi em tôi về nữa. Với lại có muốn cũng chẳng thể làm được. Tôi thường ghé đến đây luôn. Bọn trẻ nhà quê chung quanh vẫn vào chơi trong vườn như hồi trước. Tôi rất thích nghĩ rằng đó là những bạn cũ của Frantz; rằng chính em tôi vẫn còn là một đứa trẻ và sắp trở về với cô vị hôn thê nó đã chọn lựa. Bọn trẻ đó quen với tôi lắm. Tôi cũng chơi với chúng. Đàn gà con này là của chúng tôi….”

Tất cả mọi đau khổ mà trước kia cô bạn không hề nói ra, mối hận lớn vì đã mất cậu em trai thật điên rồ, thật dễ thương và cũng thật được vì nể, phải nhờ cơn mưa này mới được thổ lộ với tôi. Tôi nghe kể mà không đáp một lời, trong lòng dạt dào thổn thức…

Sau khi đã đóng các cánh cửa và cánh cổng, sau khi đã đem bầy gà vào trong căn lều gỗ dựng phía sau nhà, cô bạn buồn rầu vịn tay tôi để tôi đưa trở về.

 

Nhiều tuần lễ, nhiều tháng trường trôi đi. Thời gian qua. Hạnh phúc lỡ dở! Con người trước kia là nàng tiên, là vị công chúa và là mối tình kỳ bí của cả thời tuổi trẻ chúng tôi, nay chính tôi lại phải dẫn tay và thốt ra những lời cần thiết cho dịu bớt nỗi đau khổ, trong khi anh bạn tôi đã bôn tẩu. Bây giờ tôi còn biết nói chi nữa về thời gian đó, những câu chuyện trao đổi vào buổi tối sau giờ dạy bên đồi Saint-Benoist, về những cuộc dạo chơi mà trong đó, câu chuyện đáng nói nhất lại đúng là chuyện mà chúng tôi âm thầm quyết định không nói tới. Bây giờ tôi không còn giữ lại một kỷ niệm nào khác ngoài hình ảnh đã bị xóa mờ đôi chút của khuôn mặt xinh đẹp nhưng đã gầy đi nhiều, của đôi mắt cứ mỗi khi nhìn tôi thì hai mí lại từ từ khép nhẹ tưởng như không còn nhìn nữa thế giới bên ngoài để quay hẳn vào nội tâm riêng.

Suốt cả mùa xuân, rồi một mùa hè không bao giờ còn trở lại, tôi vẫn cứ là người bạn trung thành của Yvonne de Galais –người bạn trong một cuộc trông ngóng mà cả tôi và nàng đều không đả động tới. Nhiều buổi chiều chúng tôi quay trở lại nhà của Frantz. Yvonne mở các cửa cho thoáng khí để khỏi bị meo mốc khi cặp vợ chồng trẻ tuổi trở về. Nàng chăm lo đàn gà gần như thả hoang ở dưới sân sau. Thứ Năm hay Chủ nhật chúng tôi gọi bọn trẻ quanh vùng tới chơi, tiếng la cười của chúng giữa khung cảnh trơ trọi này càng làm cho căn nhà nhỏ bỏ hoang thêm cô tịch, trống trải hơn nữa.

 

Chương 11

Cuộc Trò Chuyện Dưới Mưa

 

Tháng Tám, tôi phải xa Les Sablonnières và người thiếu phụ trẻ để về Sainte-Agathe nghỉ hai tháng hè. Cái sân trường rộng khô ráo, chỗ sân chơi có mái, lớp học không có người... tất cả đều nhắc nhở tới anh Meaulnes, khắp nơi tràn đầy những kỷ niệm của thời tuổi nhỏ không bao giờ còn trở lại.

Trong những ngày dài vàng úa đó, như hồi xưa, trước khi anh Meaulnes xuất hiện, tôi lại chui vào phòng văn khố hay một mình ngồi trong lớp học trống trải để đọc, để viết, để hồi tưởng lại kỷ niệm cũ… Cha tôi đi câu ở xa. Millie ngồi trong phòng khách chơi dương cầm hay may vá như dạo ấy. Trong sự cô tịch tuyệt đối của lớp học --nơi mà những vòng giấy màu lục bao các sách phần thưởng đã rách, những tấm bảng đen được lau sạch, mọi thứ tỏ rõ cho thấy là năm học đã qua, phần thưởng đã phát, hết thảy đều chờ đợi mùa thu, ngày tựu trường tháng mười và những cố gắng mới –tôi lại nghĩ rằng thuở thiếu thời của chúng tôi đã hết và hạnh phúc đã dở dang. Riêng tôi cũng mong đợi ngày trở lại Les Sablonnières và ngày Augustin quay về, hoặc không chừng anh không bao giờ về nữa…

Tuy vậy vẫn có một tin mừng báo với Millie khi bà quyết tâm hỏi chuyện về cô dâu mới. (Tôi rất ngại những câu hỏi của bà, ngại cái cách vừa như vô tình vừa như ranh mãnh rồi đột nhiên làm tôi lúng túng bằng cách đụng ngay vào ý nghĩ thầm kín nhất của tôi.) Để ngăn chặn hết những điều như vậy, tôi kể cho Millie nghe cô vợ trẻ của anh Meaulnes sẽ sinh con vào tháng Mười sắp tới.

Riêng tôi thì vẫn nhớ cái ngày Yvonne de Galais cho tôi biết cái tin quan trọng đó. Một khoảng im lặng giữa hai người; về phần tôi có đôi chút lúng túng tự nhiên của một thanh niên chưa vợ. Để giấu đi điều đó, tôi đã ngu dại nói:

“Chị thật là sung sướng!” nhưng mãi lâu về sau mới nghĩ ra cả một thảm kịch vẫn ám ảnh tôi cho đến tận lúc này.

Tuy nhiên với không chút ẩn ý, hối tiếc, hay chẳng giận hờn, ân hận, Yvonne chỉ đáp cùng với một cái cười hạnh phúc:

“Vâng, vô ngần sung sướng!”

Thường, trong tuần lễ cuối kỳ nghỉ hè bao giờ cũng rất đẹp và nên thơ, tuần lễ có mưa lớn và mọi nhà bắt đầu đốt lò sưởi thì tôi vẫn có thói quen đi săn trong rừng thông ẩm ướt đen xì ở Vieux- Nancay. Lần này nghĩ rằng Firmin, thím Julie và các cô em họ ở Vieux-Nancay có thể đặt ra với tôi những câu hỏi mà tôi không muốn trả lời nên tôi đành bỏ tám ngày với cái thú đi săn để về thẳng Saint-Benoist, bốn ngày trước buổi khai giảng.

Trời gần tối khi tôi tới sân trường đã thấy phủ đầy những chiếc lá vàng úa. Người đánh xe đi khuất, tôi buồn rầu lưu lại trong căn phòng có mùi ẩm mốc, mở gói đồ ăn Millie đã gói cho mang theo… Sau một bữa ăn qua loa trong tâm trạng bồn chồn lo lắng, tôi khoác áo mưa, hối hả đi thẳng tới ấp Les Sablonnières.

 

Tình thật, tôi không muốn là kẻ mà ngay bữa đầu tiên trở về trường lại đã xuất hiện ở Les Sablonnières như vị khách không mời vẫn đến. Nhưng đã mạnh dạn hơn hồi tháng Hai, sau khi đi một vòng quanh trang trại chỉ thấy có ánh đèn nơi cửa sổ phòng người thiếu phụ, tôi bèn trèo qua rào ở phía sau, tới ngồi trên cái ghế dài bắc sát vào hàng giậu. Trong bóng tối đã bắt đầu bao trùm vạn vạt, tôi ngồi đó với tâm trạng sung sướng được ở gần những gì khiến tôi ham mê nhưng cũng khiến tôi lo ngại nhất đời.

Đêm đến. Một trận mưa nhỏ bắt đầu rơi. Đầu cúi xuống, tôi ơ thờ ngó đôi giày sũng nước lấp loáng. Bóng tối từ từ phủ xuống chung quanh cùng với làn khí lạnh thấm nhẹ vào người cũng không kéo nổi tôi ra khỏi cơn mơ đang chìm đắm. Trìu mến, buồn rầu, tôi nghĩ tới những con đường bùn lầy ở Sainte-Agathe cũng một ngày trong tháng Chín; tưởng tượng đến cái công viên mờ sương khói có chú phụ đồ tể vừa đi ra chỗ máy nước vừa huýt sáo nho nhỏ; hình dung quán café Daniel trưng đèn sáng; và nghĩ đến một chuyến xe có cái vỏ ngoài làm bằng những chiếc dù mở rộng, một ngày cuối hè chạy tới nhà chú Florentin, trên chất đầy các người đang vui vẻ chuyện trò...

Rồi tôi buồn rầu tự nhủ: “Bấy nhiêu hạnh phúc có nghĩa gì nếu anh bạn tôi và cô vợ trẻ không

được tham dự…”

 

Chính lúc đó ngẩng đầu lên, tôi trông thấy Yvonne de Galais đứng cách tôi hai bước. Tiếng giầy của nàng nhẹ nhàng trên cát khiến tôi lầm với tiếng nước nhỏ xuống ở hàng giậu. Trùm kín từ đầu xuống vai bằng một tấm khăn choàng lớn, những lọn tóc trước trán thấy lấm tấm ướt, có lẽ từ trên cửa sổ mở ra sân trông thấy tôi nên nàng xuống đón tôi. Giống như Millie ngày xưa thường lo ngại đi kiếm tôi để bảo: “Vào nhà đi” thì đàng này, đã quen với cái thú đi dạo dưới mưa trong đêm tối của tôi, cô bạn chỉ dịu dàng nói:

“Coi chừng anh bị lạnh đấy”

và cứ ngồi đó trò chuyện mãi với tôi…

Bàn tay đưa ra nóng hổi, nàng không mời tôi vào trong nhà mà tự ngồi xuống chỗ ít đẫm nước mưa nhất trên mặt ghế phủ rêu xanh mốc, trong khi tôi đứng, một đầu gối quỳ lên ghế, cúi gần bên bạn.

Yvonne thân mật trách tôi sao bỏ lỡ mấy ngày trong dịp hè như vậy. Tôi đáp: “Tôi cũng cần phải mau mau trở về đây để chuyện trò với chị.”

Thiếu phụ đáp qua một tiếng thở dài nhè nhẹ:

“Đúng thế. Tôi vẫn chỉ có một mình. Augustin chưa về.”

Nhận tiếng thở dài đó như một mối hận, một ý trách móc được đè nén, tôi chậm rãi bày tỏ: “Bao nhiêu điên rồ trong một đầu óc cao cả. Có lẽ sự ham thích phiêu lưu mạnh hơn hết…”

Nhưng thiếu phụ ngắt lời tôi. Và tại đó, tối hôm ấy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối, Yvonne nói với tôi về anh Meaulnes. Giọng nhẹ nhàng, nàng khẽ bảo:

“Anh đừng nói thế, Francois ạ. Chỉ chúng ta --chỉ mỗi riêng tôi là có tội. Anh hãy nghĩ tới những việc ta đã làm xem… Chúng ta đã bảo với anh ấy: ‘Đây là hạnh phúc, là những gì mà anh đã bỏ tất cả tuổi trẻ để tìm kiếm, là cô gái đem lại sự thành tựu cho những gì anh hằng mơ ước...’ Làm sao con người mà chúng ta xô đẩy như vậy lại không cảm thấy ngập ngừng, rồi lo ngại, hoảng sợ, và không nghe theo sự cám dỗ bỏ trốn đi?”

Tôi nói nhỏ:

“Yvonne ạ, chị cũng thừa biết chính chị là niềm hạnh phúc đó, là cô gái đó.” Cô bạn thở dài:

“Chao ơi! Làm sao mà lại có lúc tôi dám cưu mang ý nghĩ kiêu hãnh ấy chứ? Chính nó là nguyên nhân của bao nhiêu chuyện. Khi tôi nói với anh: ‘Có lẽ tôi chẳng được việc gì cho anh Meaulnes đâu’ thì trong thâm tâm, tôi lại nghĩ: ‘Nếu Meaulnes mất công tìm kiếm ta và nếu chính ta cũng yêu Meaulnes, vậy ta cần phải đem hạnh phúc lại cho Meaulnes chứ.’ Cho tớí khi gặp Meaulnes với trọn sự háo hức băn khoăn và hối hận bí mật của anh ấy, tôi mới chợt hiểu rằng tôi chỉ là một người đàn bà đáng thương như mọi người khác thôi… Sau đêm tân hôn, khi trời gần sáng, tôi cứ nghe Meaulnes nhắc mãi một câu: ‘Anh không xứng đáng với em’. Tôi cố gắng an ủi, làm cho Meaulnes vững lòng, nhưng không cách nào khiến dẹp tan được nỗi băn khoăn ấy. Khi đó tôi mới nói: ‘Nếu anh cần ra đi, nếu em đến với anh vừa đúng lúc không cách nào làm cho anh được sung sướng, nếu anh cần xa em trong một thời gian để sau trở về với em sẽ được bình tĩnh, thì chính em sẽ van xin anh nên ra đi…”

Trong bóng tối, tôi thấy cô bạn ngước mắt lên ngó tôi. Đó là một lời thú tội mà cô vừa bày tỏ, và cô lo lắng chờ xem tôi chấp thuận hay phủ nhận việc cô đã làm.

Tôi còn biết nói gì hơn? Trong thâm tâm, tôi nhận ra được một anh Meaulnes của thời xa cũ, vụng về, cô độc, thà chịu bị phạt hơn là xin lỗi hay xin phép tuy biết rằng sẽ được phép... Không chừng nếu Yvonne làm dữ, hai tay ôm lấy đầu anh mà bảo: “Thây kệ những chuyện anh đã làm, em yêu anh; tất cả mọi người đàn ông đều có tội”; không chừng nếu làm vậy, thiếu phụ đã có thể giữ được anh. Đàng này bởi quá vụng dại, vì lòng cao thượng, vì biết hy sinh cho kẻ khác, Yvonne đã đẩy anh lên con đường phiêu lưu tăm tối…

Dù vậy, làm sao tôi có thể không chấp nhận một lòng tốt và một tấm tình tràn đầy thế kia?

Im lặng một lúc lâu, trong khi đó, xúc động tới tận đáy lòng, chúng tôi lặng nghe những giọt mưa lạnh nhỏ từng giọt trên hàng giậu và dưới những lùm cây.

Yvonne kể tiếp:

“Thế là sáng hôm đó Meaulnes ra đi. Không còn có điều gì ngăn cách chúng tôi nữa. Meaulnes bình thản hôn tôi như người chồng từ biệt người vợ lúc phải vắng xa một quãng thời gian dài.”

Cô bạn đứng lên. Tôi cầm bàn tay nóng hổi của Yvonne, rồi hai cánh tay, và hai chúng tôi đi vào trong bóng đen thăm thẳm.

Tôi hỏi:

“Anh ấy không hề viết thư cho chị?” “Chẳng bao giờ.”

Thế rồi cùng nghĩ tới cuộc phiêu lưu mà anh Meaulnes đang trải qua trên những nẻo đường nước Pháp hay nước Đức, chúng tôi bắt đầu nói tới anh như chưa hề bao giờ từng nói. Những chi tiết cũ, những cảm tưởng xưa trở lại trong trí nhớ, trong khi chậm rãi nhìn căn nhà, rồi mỗi bước lại ngừng để trao đổi thêm bao kỷ niệm…

Lâu lắm –cho tới khi đi đến cái hàng rào thấp cuối vườn—trong bóng tối, tôi vẫn lắng nghe giọng nói quí báu trầm ấm của thiếu phụ; và cả chính mình, lấy lại được sự sốt sắng hồi xưa, bằng giọng thân mật sâu xa, tôi đã không ngớt nói với bạn về con người đã bỏ chúng tôi mà đi đó.

 

 

Chương 12 Gánh Nặng

 

Trường khai giảng ngày thứ Hai. Chiều thứ Bảy, khoảng năm giờ, một người đàn bà bên ấp bước vào sân chơi trong khi tôi đang bận chẻ củi để dùng cho mùa đông tới. Bà đến báo tin một cô gái mới được hạ sinh tại Les Sablonnières. Vụ sinh nở có gặp khó khăn: chín giờ đêm đi mời bà mụ ở Préveranges, nửa khuya lại phải thắng xe đi Vierzon tìm ông y sĩ. Ông ta phải dùng kẹp lôi thai nhi ra. Vì thế, cái đầu đứa nhỏ bị óp nên la gào rất dữ, dù vậy xem ra vẫn sống được. Yvonne de Galais bây giờ yếu lắm, nhưng tỏ ra can đảm dị thường để chịu đựng và cầm cự với cơn đau.

Tôi bỏ ngay công việc, khoác vào người chiếc áo dạ, đồng thời cảm thấy vui về cái tin mới nhận, đi theo người đàn bà nhà quê tới Les Sablonnières. Sợ làm kinh động hai người đau không chừng đang ngủ, tôi thận trọng trên mỗi bước lên cầu thang bằng gỗ dẫn tới tầng lầu nhất. Tại đó, ông de Galais, khuôn mặt mệt mỏi nhưng hớn hở, đưa tôi vào căn phòng tạm thời đặt chiếc nôi có rèm bao quanh.

Tôi chưa từng bao giờ bước vào một căn nhà đúng ngày mới sinh một đứa trẻ. Biến cố bữa nay đối với tôi bí mật, lạ lùng và thật êm đềm! Chiều hôm đó rất đẹp - y hệt một buổi chiều vào giữa hè - nên chi ông de Galais không ngại mở ra cánh cửa sổ hướng về phía sân. Đứng cạnh tôi, chống tay nơi khung cửa, ông cụ kể bằng cái giọng vừa muốn đứt hơi lại vừa sung sướng, về tấn bi kịch đã xảy ra đêm trước. Còn tôi đứng nghe, âm thầm cảm thấy trong căn phòng này đã có thêm một người lạ.

Bên trong tấm màn, đứa nhỏ bỗng la lên một tiếng ngân dài the thé. Ông de Galais nói nhỏ: “Nó la vì vết đau trên đầu.”

Như cái máy, ông giơ tay đu đưa cái mớ mùng màn nhỏ bé. Nhìn ông, tôi có cảm tưởng rằng từ sáng làm công việc đó nên giờ ông đã thấy quen.

Ông nói:

“Nó đã biết cười, lại biết ngậm ngón tay nữa. Thế cậu chưa trông thấy cháu sao?”

Ông già mở màn cho tôi nhìn một khuôn mặt phì phị, bé bỏng và đỏ hỏn, cái đầu bị kẹp dài ra, méo mó. Rồi ông tiếp:

“Không sao hết, bác sĩ bảo tự nhiên nó sẽ tròn lại. Cậu thử đưa ngón tay ra cháu sẽ níu lấy ngay.”

Tôi khám phá thấy cả một thế giới chưa hề biết. Nghe trong tim nao nức một niềm vui lạ lùng mà trước kia tôi chưa từng cảm nhận.

Ông de Galais nhẹ nhàng hé mở cửa phòng thiếu phụ. Cô bạn không ngủ, nói: “Anh vào chơi.”

Yvonne nằm trên giường, khuôn mặt hừng sốt giữa những lọn tóc vàng bơ phờ, đưa tay ra cho tôi, điệu mỏi mệt. Tôi ngỏ lời khen cô cháu gái. Cô bạn mỉm cười đáp bằng giọng khàn đục, khác thường cứng cỏi --sự cứng cỏi của một người vừa dự xong một cuộc đấu:

“Vâng, nhưng cũng bị người ta bóp méo mất.” Lát sau tôi vội cáo từ để khỏi làm mệt thiếu phụ.

 

Hôm sau là Chủ nhật, buổi chiều tôi vội vã hăng hái tới Les Sablonnière. Trên cửa có ghim tấm bảng nhỏ với hàng chữ “Xin đừng kéo chuông” khiến tôi kịp giữ lại cử chỉ vừa phác họa.

Không đoán ra chuyện gì, tôi đập cửa khá mạnh. Bên trong nghe tiếng chân nhẹ bước đi mau.

Một người tôi không quen –viên y sĩ ở Vierzon—ra mở cửa.

Tôi vội hỏi:

“Thưa ông, có chuyện gì vậy?” Viên y sĩ vẻ khó chịu, đáp rất nhỏ:

“Suỵt! Suỵt! Con bé đêm qua suýt chết. Bà mẹ cũng khó sống lắm.”

Hoàn toàn kinh ngạc, tôi rón rén đi sau ông ta lên gác. Con bé nằm ngủ trong nôi, da tái xanh, mặt trắng nhợt trông như đã chết. Viên y sĩ cho rằng có thể cứu sống được nó. Còn về phần người mẹ thì ông không dám cả quyết.

Ông giải thích rất lâu cho tôi nghe mọi sự, như đối với người bạn được tin cậy nhất trong gia

đình, cho biết là thiếu phụ bị sung huyết ở phổi và bị huyết tắc. Ông do dự không dám chắc…

Khi đó, ông de Galais bước vào; mới có hai ngày mà trông đã già ghê gớm, ngơ ngác, run rẩy…

Đưa tôi sang phòng bên không biết để làm gì, ông cụ nói thầm vào tai tôi:

“Cần phải giữ cho cô ấy đừng sợ; bác sĩ bảo phải cố nói cho Yvonne tin rằng mọi sự đều tốt

đẹp.”

Yvonne de Galais vẫn nằm trên giường như hôm qua, đầu ngã về phía sau, máu dồn hết lên mặt. Đôi má và vầng trán đỏ ửng, hai mắt đôi lúc đảo lộn lên như người bị nghẹt thở. Thiếu phụ cầm cự với cái chết trong cách thế can đảm và dịu dàng lạ thường.

Nàng nói không được nhưng đưa cho tôi bàn tay nóng như lửa, dáng điệu thân mật đến độ

khiến tôi muốn phát khóc.

Còn ông de Galais thì lại to tiếng, điệu vui vẻ một cách khó chịu, tưởng như điên dại: “Này này, đau mà như vậy trông tươi tỉnh lắm đấy chứ?”

Tôi chẳng biết đáp lại ra sao, chỉ đứng yên nắm chặt bàn tay nóng ghê gớm của người thiếu phụ sắp chết…

Yvonne muốn cố gắng nói với tôi một câu gì đó, yêu cầu tôi một việc gì đó. Nàng đưa mắt nhìn tôi, rồi nhìn về phía cửa sổ như ngầm bảo tôi hãy đi ra ngoài kiếm người nào đó giùm nàng… Ngay lúc ấy, một cơn uất nghẹn dâng lên; đôi mắt xanh rất đẹp mới vừa kêu gọi tôi thật lâm ly nay bỗng đảo ngược; hai má và vầng trán xám đen; nàng nhẹ nhàng cố gắng kháng cự, tìm cách ngăn giữ tới cùng sự kinh hoảng pha lẫn thất vọng của mình. Mọi người chạy bổ tới –viên y sĩ và các phụ nữ, người mang bình dưỡng khí, kẻ mang khăn tay và những lọ thuốc; trong khi đó ông cụ ghé gần Yvonne mà la lớn. Cụ la với cái giọng cứng cỏi mà run rẩy, tưởng như con gái đã đi xa lắm rồi:

“Yvonne đừng sợ! Không có gì đâu! Con không cần phải sợ!”

Rồi cơn đau dịu lại. Yvonne đã thở được đôi chút nhưng vẫn còn bị nghẹn, hai mắt toàn tròng trắng, đầu ngã ra phía sau. Tuy cố gắng kháng cự nhưng nàng vẫn không thể, dù trong giây lát, nhìn tôi và trò chuyện để vượt ra khỏi cái hố sâu mà nàng đang chìm xuống dần dần...

Thấy ở lại cũng không được việc gì, tôi đành phải từ giã.

“Lẽ ra mình nên ở lại lát nữa”, đó là ý nghĩ mà về sau cứ làm cho tôi bị bóp nghẹn mãi bởi một niềm hối tiếc ghê gớm. Nhưng tại sao vậy? Khi ấy tôi vẫn còn hy vọng mà; cố ngụy tín với chính mình rằng chưa đã tới lúc hết.

Ra đến ven rừng phía sau, nghĩ tới khoé mắt Yvonne khi ngước về cửa sổ, một cách chăm chú soi mói như một người lính canh hay một kẻ đi lùng tìm ai đó, tôi nhìn vào cánh rừng sâu mà xưa kia Augustin đã từ đây mà tới và cũng do nơi đây, mùa đông năm ngoái anh lại bỏ đi.

Khốn nạn, tôi chẳng thấy gì hết. Không có lấy một cái bóng khả nghi, không một cành cây lay động. Nhưng, lắng tai mãi, tôi nghe thấy từ xa về phía đường đi Préveranges, có tiếng chuông rung trong trẻo; liền đó, từ một khúc quanh hiện ra một đứa nhỏ đội chiếc mũ nồi đỏ và bận cái áo khoác ngoài của học trò, theo sau là một linh mục…

Tôi bước đi, nước mắt nuốt vào tim.

 

Ngày hôm sau khai trường. Bảy giờ sáng đã có ba đứa trẻ tới sân chơi. Tôi cứ do dự mãi không mốn xuất hiện… Nhưng rồi khi tra chùm chìa khóa vào ổ cửa lớp ẩm mốc được đóng kín từ hai tháng qua, cái điều mà tôi ghê sợ nhất đã xảy ra: tôi thấy đứa trẻ lớn nhất trong đám học trò tách khỏi bọn đang chơi dưới sân có mái, tiến lại gần tôi. Nó nói cho tôi biết: “Thiếu phụ ở Les Sabblonnières đã chết hôm qua lúc trời đổ tối.”

Ngay tức thì, mọi sự chung quanh như đều đảo lộn, trộn lẫn trong nỗi đau này của tôi. Tôi cảm tưởng không bao giờ có thể dạy học được nữa. Riêng mỗi việc đi ngang qua sân trường cằn cỗi cũng là một sự cực hình khiến cho tôi muốn gẫy đầu gối. Tất cả đều nặng nề, cay đắng theo cái chết của cô bạn.

Thôi, thế là hết những cuộc nhắm mắt lao mình ra đi bằng xe ngựa; hết cuộc dạ hội kỳ lạ… Còn lại chỉ là nỗi đau ghê gớm đè nặng tâm hồn.

Tôi bảo cho học trò biết là sáng nay không học. Chúng từng tốp nhỏ ra về, đem cái tin chẳng lành đi khắp mọi nơi. Về phần tôi, chụp lấy cái mũ đen và bận cái áo đuôi tôm có viền, tôi thất thểu, buồn rầu đi về phía Les Sablonnières.

 

Tới trước ngôi nhà mà ba năm trước chúng tôi đã mất bao công tìm kiếm, tôi thấy lòng ngậm ngùi thổn thức! Chính trong căn nhà đó, Yvonne de Galais, vợ của Augustin Meaulnes đã chết hôm qua. Một kẻ lạ có thể sẽ cho đây là một giáo đường vì tại cái chốn trơ vơ trơ trọi ấy, sự im lặng đã tràn ngập từ đêm trước.

Trong cái buổi sáng khác biệt này, một tia nắng rớt của mùa thu đang len lỏi qua các cành cây đã chứng kiến sự đau đớn trong tôi như vậy đó. Làm sao tôi có thể kháng cự được với nỗi phẫn nộ ghê gớm và nguồn nước mắt đang làm cho tôi muốn nghẹn thở. Chúng tôi đã tìm ra được cô gái xinh đẹp. Chúng tôi đã chinh phục được nàng. Nàng đã trở thành vợ của bạn tôi và tôi cũng yêu nàng bằng thứ tình bạn sâu xa và âm thầm kín đáo. Mỗi lúc nhìn nàng, tôi thấy vui thích như tâm trạng của một đứa trẻ. Một ngày kia nếu cưới vợ, đáng lẽ nàng phải là người đầu tiên để tôi gửi gấm cái tin bí mật và quan trọng kia.

Bên dây chuông ở góc khung cửa người ta đã tháo bỏ tấm bảng nhỏ hôm qua. Chiếc quan tài đã được đem tới tiền phòng nơi tầng dưới. Trong phòng trên lầu nhất, tôi được chị vú nuôi chào đón và kể cho nghe về cái lúc sắp chết của thiếu phụ; xong chị khẽ mở cánh cửa phòng…

Yvonne đây kìa. Không còn nóng sốt, không còn cầm cự, không còn nước da đỏ ửng, không còn mong đợi chi nữa… Nay chỉ còn lại sự im lặng trên khuôn mặt vô tri và trắng bệch có bông gòn bao quanh. Nơi vừng trán của người chết thấy lơ thơ những sợi tóc đã khô cứng.

Ông de Galais ngồì thụp trong góc nhà, quay lưng lại phía chúng tôi, chân mang bít tất không mang giày, đang hối hả lục tung những ngăn kéo rối tung. Thỉnh thoảng cụ lôi ra một tấm hình đã vàng của cô gái, kèm theo một tràng nức nở lay động hai vai như một trận cười.

Đám tang định vào buổi trưa. Viên y sĩ sợ rằng xác chết sẽ sình trương mau khi bệnh nhân bị chứng tắc huyết, vì vậy trên mặt và trong người thiếu phụ có bao quanh những miếng gòn có tẩm chất thạch tán.

Yvonne được mặc vào chiếc áo bằng nhung màu xanh đậm có những ngôi sao bạc, nhưng hai cái vai áo phồng rất đẹp nay đã lỗi thời phải bị làm bẹp và vò nát đi.

Khi đem chiếc quan tài lên, người ta mới nhận thấy là không thể khiêng vòng quanh cầu thang quá hẹp. Như vậy cần phải dùng dây thừng kéo qua cửa sổ và sau lại hạ xuống sân cũng bằng lối đó…

Ông de Galais lúc ấy vẫn cắm cúi trong đám những kỷ vật cũ để tìm kiếm không hiểu món kỷ niệm nào đã thất lạc, bấy giờ phản đối rất hăng hái, giọng nghẹn ngào với nước mắt và giận dữ:

“Đáng lẽ làm một việc đáng ghê tởm thì hãy cứ để mặc tôi bồng con tôi đưa xuống nhà…”

Và ông cụ định làm đúng như vậy bất chấp tuổi già sức yếu có thể nửa đường vấp ngã cùng xác chết của con.

Tôi bèn đứng ra làm cái việc duy nhất có thể làm: Với sự giúp sức của viên y sĩ và một phụ nữ, một tay đỡ lưng người chết, tay kia đỡ đôi chân, tôi nâng Yvonne ngang ngực và ôm chặt lấy nàng. Tựa như đang ngồi trên cánh tay tôi, vai dựa vào tay trái, đầu rũ xuống dưới cằm, Yvonne đè nặng ghê gớm trên ngực tôi. Tôi chậm rãi bước từng bậc trên cái cầu thang dốc ngược; trong khi bên dưới mọi người lo sắp đặt quan tài.

Mới mấy bước tôi đã thấy hai cánh tay mỏi rừ. Cứ thêm một bậc thang với cả một sức nặng như vậy trên ngực, tôi càng thở mạnh. Ôm chặt cái xác vô tri và nặng, tôi cúi gần đầu người chết, những sợi tóc vàng bay cả vào miệng tôi --những sợi tóc chết có mùi như mùi đất.

Cái mùi đất, mùi chết và sức nặng đè trên ngực: đó là trọn vẹn những gì còn lại cho tôi trong cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ và của Yvonne de Galais, người thiếu phụ được dò tìm mất bao công phu và cũng được yêu không biết chừng nào…

 

Chương 13

Cuốn Tập Làm Bài Hàng Tháng

Trong căn nhà đầy những kỷ niệm buồn, nơi mà hằng ngày có những phụ nữ tới lo nuôi nấng, cưng chiều đứa nhỏ bệnh hoạn, ông de Galais chẳng bao lâu cũng nằm liệt, rồi bắt đầu vụ rét, cụ qua đời êm ả. Tôi âm thầm đứng khóc bên giường ông cụ dễ thương mà những tư tưởng rộng rãi, khác đời, cộng với tính chất của cậu con trai, đã là đầu mối cho tất cả cuộc phiêu lưu của chúng tôi. May mắn thay cụ mất đi trong một sự im lặng gần như tuyệt đối mà không hay biết chút nào về những chuyện đã xảy ra. Vì đã từ lâu không có một người bà con hay bạn hữu nào của gia đình còn ở trong vùng nên cụ để lại chúc thư nhờ tôi làm kế thừa toàn thể tài sản cho cụ chờ khi anh

Meaulnes về. Một mai nếu anh có trở về thật, tôi sẽ phải tường tình mọi việc với anh.

Từ nay tôi sẽ ở luôn tại ấp Les Sablonnières. Tôi chỉ sang Saint-Benoist để dạy học, sáng ra đi từ sớm. Trưa ăn tại trường mấy món nấu sẵn từ ấp mang theo được hâm nóng trên mặt lò sưởi. Buổi chiều ngay sau khi tan lớp, tôi trở về Les Sablonniè- res. Làm như vậy, tôi có thể trông nom con bé cháu vào ban đêm; ban ngày nó được các phụ nữ ở nông trại săn sóc. Hơn nữa, làm vậy, tôi có nhiều hy vọng gặp anh Meaulnes nếu một ngày nào anh trở về Les Sablonnières.

Hơn nữa, tôi hy vọng rằng lâu dần sẽ kiếm ra trong các tủ, các rương hoặc những ô kéo tại Les Sablonnières một mảnh giấy, chứng tích gì khả dĩ giúp tôi biết được anh đã làm gì trong những năm xa cách; hay có lẽ cũng nắm được lý do nào đã khiến anh bỏ Yvonne ra đi sau ngày đám cưới; hoặc cùng lắm là dò la được tung tích của anh hiện nay…

Tôi đã mất bao nhiêu công kiểm soát những ngăn tủ, mở ra biết bao nhiêu hộp giấy đủ mọi kiểu trên căn gác xép, cái thì đầy những tấm hình cũ của gia đình de Galais, cái thì đầy những hoa giả, lông chim xác chim nhồi rơm đã lỗi thời. Từ những chiếc hộp bay ra mùi nhạt thếch, những hương thơm đã tàn bỗng dưng trong trọn một ngày khơi dậy cho tôi những kỷ niệm, những tiếc thương đến khiến phải tạm ngưng cuộc dò tìm…

Sau cùng, nhân một ngày nghỉ, tôi kiếm được trên căn gác xép một chiếc rương dài và thấp có bọc da, lớp lông ở mặt trên đã bị sờn hết một nửa. Tôi nhận ra là chiếc rương của Augustin dùng hồi đi trọ học; và tự trách sao không bắt đầu cuộc khám xét tự chỗ này. Cái khóa bị han rỉ được nậy rất dễ. Rương đầy những sách vở dùng ở Sainte-Agathe, các sách toán, sách văn, vở làm bài... Trìu mến hơn là tò mò, tôi lôi ra từng cuốn mà ngắm, đọc lại những bài chính tả còn thuộc làu vì đã phải chép đi chép lại biết bao lần! Bài “Cái Máng Nước” của Rousseau, bài “Một cuộc phiêu lưu tại Calabre” của Paul-Louis Curier, bài “Lá thư của Geoge Sand gửi con trai…”

Trong cái rương đó còn có một cuốn tập “Bài Làm Hằng Tháng”. Tôi rất ngạc nhiên theo điều khám phá ấy bởi vì những cuốn này luôn luôn được giữ lại trường, không bao giờ cho học trò đem ra ngoài. Đó là một cuốn tập màu xanh, mép ngoài đã trở nên vàng úa. Tên học trò là “Augustin Meaulnes” được viết trên cái bìa bằng bút rông rất đẹp.

Tôi mở ra. Theo ngày làm bài đề trên sách, tháng Tư 189…, tôi nhận ra rằng anh Meaulnes bắt đầu cuốn tập này vài ngày trước khi rời khỏi Sainte-Agathe. Những trang đầu được giữ gìn hết sức cẩn thận đúng với lệ đã quen đối với loại sách làm bài tập. Nhưng chỉ không quá ba trang có bài, còn những trang sau để trống. Đó là lý do tại sao anh Meaulnes lại đem cuốn sách ấy đi.

Trong khi quỳ gối dưới đất suy nghĩ tới những tục lệ, những lề thói trẻ con đã chiếm bao nhiêu chỗ trong thời tuổi nhỏ chúng tôi, tôi lấy tay lật mép từng trang trên cuốn tập bỏ dở. Vì vậy mà khám phá ra rằng sau bốn trang bỏ trắng, ở những trang kế tiếp lại có chữ viết.

Vẫn là tuồng chữ của anh Meaulnes, nhưng viết vội, lem nhem, khó đọc. Có những đoạn dài ngắn không đều, được phân biệt bằng một hàng bỏ trống. Đôi khi chỉ là một câu viết dở. Có lúc chỉ ghi mỗi cái ngày.

Ngay từ hàng đầu, tôi đã đoán ra rằng trong đó chứa đựng những chi tiết về cuộc sống đã qua của anh ở Paris, những chứng tích về hành tung mà tôi đang muốn tìm kiếm.

Tôi đi xuống phòng ăn để thảnh thơi đọc tập tài liệu kỳ lạ này dưới ánh mặt trời buổi sáng. Bữa mùa đông hôm đó, thời tiết trong trẻo và náo động. Lúc thì ánh nắng chói chang vẽ những hình thập tự vuông lên trên tấm rèm trắng nơi cửa sổ, lúc thì một cơn gió bất chợt nổi lên, ném vào làn kính lạnh những sợi mưa rào. Trước khung cửa sổ đó, cạnh bên lò sưởi, tôi ngồi đọc những dòng chữ giải thích cho tôi biết bao nhiêu chuyện kỳ lạ. Dưới đây là nguyên văn, tôi chép lại không sai một chữ…

 

 

Chương 14 Sự Bí Mật.

 

“Một lần nữa tôi đi ngang qua dưới cửa sổ nhà nàng. Khung kính vẫn bám đầy bụi và trông trắng xóa do tấm rèm được treo ở bên trong. Dù Yvonne de Galais có mở cánh cửa ra chăng nữa, tôi cũng không biết nói gì với nàng vì nàng đã lập gia đình. Làm sao bây giờ? Sống sao cho nổi?

 

Thứ bảy 13/2.

Tôi gặp trên bờ sông Seine cô gái hồi tháng Sáu đã cho tôi biết rằng, cũng như tôi, cô có tới đợi trước căn nhà đóng kín cửa. Trò chuyện, bước đi bên cạnh, tôi ngó nghiêng và nhận ra những khuyết điểm trên mặt cô ta: bên mép có một vết nhăn nhỏ, hai má hơi trễ xuống, phấn đọng nhiều nơi hai cánh mũi. Cô gái chợt quay lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, (có lẽ nghĩ rằng nhìn thẳng trông cô sẽ được đẹp hơn), nói cộc lốc:

“Anh làm cho tôi rất vui, khiến tôi nhớ lại một chàng trẻ tuổi ở Bourges trước kia vẫn hay tán tỉnh tôi và đã gần như là vị hôn phu của tôi…”

Tuy nhiên, khi trời tối hẳn, trên mặt hè vắng loang loáng nước mưa có ánh lên ánh sáng ngọn đèn hơi ở bờ đường, cô gái bỗng tiến sát lại gần, đòi tôi đưa hai chị em cô đi coi hát ngay đêm đó. Lần đầu tiên tôi nhận thấy cô bận đồ tang, tay cầm cái dù dài giống như cây gậy, đầu đội chiếc mũ kiểu đàn bà lớn tuổi nên trông già quá so với khuôn mặt còn trẻ của cô. Vì đứng gần, mỗi khi làm một cử chỉ nào, móng tay tôi lại vướng phải lần lụa mỏng trên ngực áo cô…

Khó khăn lắm tôi mới chịu nhận lời yêu cầu của cô ta. Bực mình, cô gái muốn bỏ đi ngay. Tới lượt tôi nài nỉ giữ cô lại. Khi đó một bác thợ đi ngang trong bóng tối, thấp giọng bông lơn câu nói:

“Cô bé đừng đi, hắn sẽ làm đau cô thôi.” Cả tôi và cô đều sửng sốt theo câu nói ấy.

 

Tại rạp hát.

Valentine Blondeau và cô chị choàng lên vai hai tấm khăn rất cũ. Ngồi phía trước tôi, Valentine chốc chốc quay lại, vẻ lo ngại, ý muốn hỏi xem tôi có cần việc gì không. Gần cô, tôi cảm thấy khá vui; nên mỗi khi Valentine xoay người nhìn, tôi liền đáp lại bằng một nụ cười.

Chung quanh có các bà ăn bận quá hở hang. Chúng tôi nói đùa với nhau theo điều ấy. Ban đầu cô ta cười góp, sau mới nói: “Lẽ ra em không được cười. Chính em cũng hở hang quá.” Và thu mình lại trong tấm khăn quàng. Quả vậy, bên dưới tấm đăng ten màu đen, tôi nhận thấy, vì vội vàng thay áo, cô vẫn còn bận cái áo lót lúc ban ngày.

Ở cô có cái vẻ vừa nghèo nàn vừa ngây thơ, trong khoé mắt ẩn chứa một niềm đau khổ và liều lĩnh làm tôi bị lôi cuốn. Gần cô, con người duy nhất trên đời này có thể cho tôi biết về những người ở trang viện kia, tôi không ngớt nghĩ đến cuộc phiêu lưu kỳ lạ hồi xưa…

Đang muốn dò thêm cô gái về ngôi nhà ở Paris thì cô lại hỏi tôi những câu rất khó chịu mà tôi chẳng biết trả lời sao. Tôi cảm thấy rằng từ nay cả hai chúng tôi sẽ cùng nín lặng về chuyện ấy. Tuy nhiên, cũng biết rằng sẽ gặp lại cô. Gặp để làm gì? Tại sao? Liệu từ nay tôi có bị buộc phải theo đuổi hết thảy những gì có mang đôi chút di tích rất mơ hồ xa xôi của cuộc phiêu lưu lở dở?

Nửa đêm, ngồi một mình ngoài phố vắng, tôi tự hỏi không biết câu chuyện mới lạ này sẽ ảnh hưởng tới tôi ra sao? Tôi đi ngang những căn nhà giống như những cái hộp bằng giấy bồi xếp thành hàng dài, trong đó có bao nhiêu người đang ngủ. Và đột nhiên nhớ lại một quyết định từ tháng trước: nửa đêm phải tới đó, vòng ra phía sau, mở cánh cửa vườn, lẻn vào trong nhà như một tên trộm, và kiếm xem có hình tích nào giúp tôi tìm lại được nơi trang viện bí mật cho tôi tới ngó lại, chỉ ngó lại nơi đó mà thôi… Nhưng tôi đang mệt, lại đói, trước khi tới rạp hát chỉ vội thay áo và không kịp ăn… Bồn chồn, lo lắng, tôi ngồi rất lâu bên thành giường trước khi ngủ, bị xâm chiêê1m bởi một sự hối tiếc mơ hồ. Tại sao?

 

Tôi phải ghi thêm câu này: Dù hai cô gái không muốn tôi đưa về tới nhà, hoặc nói cho biết mình ở đâu, thì tôi cũng cố sức đi theo sát tới cùng. Thấy được họ cư ngụ tại một phố rẽ về phía nhà thờ Đức Bà, nhưng chẳng biết số mấy... tôi đoán chừng hai cô làm nghề thợ may hay thợ làm mũ.

Lén giấu chị, Valentine hẹn với tôi thứ Năm, lúc bốn giờ, trước rạp hát cũ. Cô nói:

“Nếu mai em không ra đó thì thứ Sáu cũng giờ ấy, hay thứ Bảy, và cứ thế, tất cả mọi ngày.”

 

Thứ Năm 18/2

Tôi đến điểm hẹn trong cơn gió lộng, lòng thầm nhủ: Trời sắp mưa rồi… Bước đi giữa bóng tối hoàng hôn, tôi cảm thấy trong lòng như có một vật gì đè nặng. Một giọt mưa rơi. Tôi sợ trận mưa lớn sẽ khiến cô ta không thể tới. Gió tiếp tục thổi nhưng vẫn chưa đổ mưa. Buổi chiều --lúc xám lúc trong--, trên bầu trời thấy có một đám mây lớn bị gió thổi làm cho tan đi. Còn tôi thì ngồi đây thu mình trong sự ngóng trông thảm hại…

 

Trước rạp hát.

Một khắc đồng hồ sau, tôi tin chắc rằng cô ta không có mặt. Đứng trên bờ sông, nhìn được từ xa những đám người qua lại trên cây cầu mà khi tới đây, cô sẽ phải bước. Tôi đưa mắt dõi theo hết thảy những phụ nữ bận đồ tang sắp đi tới và gần như biết ơn những bà những cô hao hao giống cô ta xuất hiện từ quãng xa hay rất gần, khiến cho tôi thêm hy vọng…

Một giờ mong đợi. Tôi thấy chán nản quá. Khi trời tối, một ông cảnh binh lôi về quận gần đó một thằng nhãi ranh đang xối xả tuôn vào mặt ông những câu chửi, những lời tục tằn bằng một giọng bị bóp nghẹt. Ông cảnh binh cáu tiết, mặt tái xanh, nhưng nín lặng… Vừa tới hành lang quận là ông ta bắt đầu đập, rồi đóng cửa lại để mặc sức đập thằng bé khốn khổ…. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ ghê gớm rằng tôi đã từ bỏ thiên đường và đang đứng trước cửa địa ngục.

Chán ngán, tôi quay lưng đi trên con đường thấp và hẹp nằm giữa sông Seine và nhà thờ Đức Bà, nơi xem chừng có thể biết được nhà cô Valentine ở vào khoảng nào. Chỉ mỗi mình tôi bách bộ, thỉnh thoảng mới thấy một chị ở hay một bà nội trợ đi ra ngoài mua sắm vài món cần dùng trước khi trời tối… Ở đây chẳng có gì hết nên tôi lại bỏ đi… Trong cơn mưa lất phất khi trời còn sáng, tôi quay trở lại điểm hẹn cũ lúc bấy giờ đông người qua lại hơn khi nãy --một đám đông đen nghịt.

 

Ảo tưởng, thất vọng pha lẫn nhọc mệt, tôi níu lấy ý nghĩ: Đợi đến mai. Đến mai, cũng giờ này, vẫn nơi đây, tôi sẽ quay lại đợi. Và tôi nao nức muốn ngày mai chóng tới. Buồn nản, tôi tưởng tượng tối hôm nay, rồi buổi sáng ngày mai sẽ chẳng có công việc gì làm. Nhưng buổi hôm nay cũng đã gần tàn rồi. Trở về nhà, bên lò sưởi, tôi nghe tiếng trẻ con rao bán báo buổi chiều. Có lẽ, ở một căn nhà tại nơi nào đó trong thành phố, gần ngôi Đại giáo đường, cô ta cũng nghe tiếng rao đó.

 

Cô… tôi muốn nói: “Valentine.”

Cái buổi tối mà tôi muốn lẩn tránh này lại cứ đè nặng trong tim một cách lạ lùng. Một ngày sắp tàn và chính tôi cũng muốn cho mau tàn đi thì lại có những người gửi vào đó trọn vẹn những hy vọng, tâm tình và tất cả năng lực cuối cùng của họ. Có những người đang sắp chết, có những người chờ tới lượt hấp hối của mình, có những người muốn rằng ngày mai không bao giờ tới. Lại có những người mà đối với họ ngày mai sẽ ló ra như một niềm tiếc hận. Nhiều người khác nhọc mệt, đêm nay thấy không đủ dài như ý mong được nghỉ ngơi. Còn tôi, tôi đã bỏ lỡ mất ngày hôm nay thì có quyền gì để kêu gọi ngày mai?

 

Chiều thứ Sáu.

Tôi toan viết tiếp: “Tôi vẫn chưa gặp lại cô ta.” Và mọi sự thế là hết.

Nhưng lúc bốn giờ chiều, khi tới góc rạp hát, bỗng nhìn thấy cô. Mảnh khảnh và trang nghiêm, mình bận bộ áo đen, chút phấn thoa trên mặt và chiếc cổ áo làm cho cô trông giống như một chàng hề tội lỗi. Một kẻ vừa đau đớn vừa hóm hỉnh.

Cô tới cho biết rằng muốn đi ngay và sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa.

….. ….. ….. ….. ….. ……

Tuy nhiên, khi trời đổ tối, chúng tôi vẫn còn chậm bước dạo bên nhau trên lớp sỏi trong vườn Tuileries. Cô kể chuyện riêng cho tôi nghe bằng cái cách kín đáo bí ẩn khiến tôi rất khó hiểu. Cô nói “người yêu của tôi” khi nhắc tới vị hôn phu mà cô không nhận. Tôi cho rằng cô cố tình nói vậy để tôi phải bực và đừng lưu tâm tới cô nữa.

Có những lời mà tôi rất khó chịu phải ghi lại đây:

Cô nói: “Anh đừng đặt lòng tin nơi em, luôn luôn em có những hành động điên rồ.” “Em một mình đi phiêu lưu.”

“Em đã làm cho vị hôn phu phải thất vọng. Em đã bỏ anh ta vì anh ta ngưỡng mộ em quá. Anh ấy chỉ nhìn em bằng tưởng tượng chứ không bằng thực tế, trong khi em là đứa con gái đầy những tật xấu. Nếu lấy nhau, chúng em chắc sẽ khổ sở lắm.”

Luôn luôn bắt gặp cô đang muốn tỏ ra tồi tệ hơn sự thật. Tôi cho rằng cô muốn tự nhủ với chính mình rằng hồi xưa cô có lý khi quyết định làm việc ngu dại vừa kể; rằng cô không có điều gì đáng than tiếc và không xứng đáng với mối hạnh phúc đã gặp.

Một lần khác:

Cô ngó tôi rất lâu rồi nói: “Không hiểu tại sao, nhưng điều mà em thích ở anh thì rất đúng với những kỷ niệm mà em đã gặp.”

Một lần nữa, lại nói:

“Em vẫn yêu người ấy, yêu hơn là anh tưởng.”

Rồi đột nhiên đổi giọng buồn rầu, tàn nhẫn:

“Tóm lại, anh muốn gì? Có phải rằng anh cũng yêu em chứ? Anh có sắp hỏi em làm vợ không?...”

Tôi trả lời ấp úng. Thật tình tôi chưa biết đáp sao. Có lẽ tôi sẽ nói “có”.

Tập gọi là nhật ký đó ngưng tại đây. Tiếp theo là những bản nháp các lá thư đọc không được, dị hình, xóa gạch lung tung. Thật là một sự đính hôn quá lỏng lẻo! Theo lời yêu cầu của Meaulnes, cô gái đã bỏ nghề. Anh lo thu xếp vụ đám cưới với cô. Tuy nhiên đầu óc cứ mãi bị ám ảnh bởi ý muốn dò tìm thêm nữa, dõi theo hơn nữa những dấu tích của mối tình cô độc, nên nhiều lần anh biến đi, để lại cho Valentine những lá thư với lời lẽ biện bạch và lúng túng đến khổ sở.

 

 

 

Chương 15

Sự Bí Mật (Tiếp Theo)

 

Rồi tập nhật ký được tiếp tục, ghi lại những kỷ niệm một dịp cả hai cùng đi về vùng quê, tôi không rõ ở đâu. Nhưng lạ lùng thay, kể từ thời kỳ này, có lẽ vì bị một mối hỗ thẹn âm thầm xâm chiếm tâm tư mà những câu viết không được mạch lạc suông sẻ và luôn bị ngắt đoạn; những lời ghi rất vụn vặt, lem nhem vội vã đến khó đọc. Vì vậy tôi phải tự ý viết lại, sắp xếp hẳn phần này của câu chuyện.

 

  1. tháng 6.

Buổi sáng tại nhà trọ, khi anh thức dậy thì mặt trời đã soi tỏ những hình vẽ màu đỏ trên tấm rèm đen. Các công nhân ở phòng dưới đang uống café, oang oang trò chuyện. Bằng những lời lẽ thô kệch mà từ tốn, họ phàn nàn về ông chủ của họ. Chắc hẳn trong khi còn ngủ, anh Meaulnes đã nghe được những tiếng động trầm tĩnh mà lúc thoạt đầu anh không lưu ý. Tấm rèm có điểm những chùm nho biến thành màu đỏ rực dưới những tia nắng; tiếng chuyện trò buổi sớm vọng tới tận căn phòng lặng lẽ; tất cả đều hòa nhập trong cảm tưởng duy nhất về một lần thức dậy ở thôn quê, thời gian bắt đầu những ngày hè thích thú vui tươi.

Anh trở dậy, gõ nhẹ cánh cửa phòng bên nhưng không thấy tiếng đáp, nên khẽ mở nó ra. Trông thấy Valentine, anh mới chợt hiểu mối hạnh phúc êm đềm đã từ đâu tới. Cô đang ngủ, hoàn toàn bất động, không nghe cả tiếng thở, y như một con chim đang ngủ. Anh đứng ngắm rất lâu khuôn mặt trẻ thơ đang nhắm mắt kia, vẻ bình lặng đến khiến kẻ khác không nỡ đánh thức hay xáo trộn giấc ngủ cô.

Muốn tỏ ra rằng đã tỉnh dậy, Valentine chỉ làm cái việc đơn giản là mở mắt và nhìn anh.

 

Khi cô trang phục vừa xong, Meaulnes đã trở lại. Cô gái nói: “Mình dậy trễ quá.”

Xong, lập tức bắt tay vào những công việc của một người nội trợ. Trước hết, cô xếp dọn trong hai phòng, rồi chải những quần áo Meaulnes bận hôm qua. Khi chải tới cái quần đầy bùn dính chặt dưới gấu, cô tỏ ra bực mình lắm, vẻ do dự, cẩn thận, kỹ lưỡng; trước khi chải lại lấy con dao cạo bớt lớp bùn đi.

Anh Meaulnes nói:

“Trẻ con ở Sainte-Agathe sau mỗi khi nhảy vào vũng bùn cũng làm như vậy.” Valentine đáp:

“Còn em thì được mẹ dạy.”

Đó là người con gái mà trước thời kỳ xảy ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ, gã-thợ-săn-và-chú-nông-dân Meaulnes phải ao ước được lấy làm vợ.

 

15tháng Sáu.

Có người quen giới thiệu họ là một cặp vợ chồng nên Meaulnes và Valentine được mời tới dự tiệc ở một nông trại mà cả hai đều cảm thấy rất chán ngán. Valentine tỏ ra e thẹn đúng như một cô dâu mới.

Nến được thắp trên hai cái chân đèn đặt ở hai đầu bàn có trải khăn màu trắng, y hệt một tiệc cưới ở thôn quê. Dưới luồng sáng yếu ớt, các khuôn mặt mỗi khi cúi xuống thì lại chìm trong bóng tối.

Cùng Valentine ngồi bên tay phải Patrice (con trai ông chủ trại), anh Meaulnes chẳng nói một lời suốt từ đầu đến cuối bữa tiệc, tuy rằng mọi người luôn luôn gợi chuyện với riêng anh. Từ ngày đến ngụ tại thôn xóm hẻo lánh này, anh quyết định tỏ cho cư dân nơi đó biết rằng Valentine là vợ để tránh sự đàm tiếu. Cũng vì như vậy mà luôn luôn anh bị khổ sở vì hối hận, luyến tiếc.

Trong khi Patrice ra vẻ một điền chủ ở thôn quê đang điều khiển bữa tiệc, thì anh Meaulnes ngẫm nghĩ:

“Đáng lẽ tối nay, trong một căn phòng trần thấp như căn này --mà ta vẫn chưa quên--, chính ta phải là người chỉ huy tiệc cưới của riêng mình.”

Ngồi bên cạnh, Valentine e thẹn từ chối hết mọi món thức ăn người ta đưa đến, trông đúng là một cô gái quê. Cứ mỗi khi được mời, cô lại ngó người bạn mình và như muốn nép vào bên anh vậy. Từ nãy thấy Patrice cố nài cô uống cạn ly rượu, anh Meaulnes bỗng ghé lại gần cô, dịu dàng nói:

“Valentine, em uống đi.”

Thế là cô vâng lời. Patrice cả cười, khen anh có người vợ ngoan. Nhưng cả Valentine lẫn anh Meaulnes đều ngồi yên ra vẻ suy nghĩ. Trước hết, họ mệt quá, hai chân bị ướt vì đạp mãi trong bùn khi đi dạo ngoài đồng, nay bước trên nền gạch nhà bếp đã cọ rửa sạch thì họ càng thêm lạnh giá. Với lại thỉnh thoảng anh bắt buộc phải nói: “Vợ tôi, Valentine, vợ tôi…” trước những nông dân không quen biết, và mỗi lần như thế, trong căn phòng tối, anh có cảm tưởng như đã phạm lỗi...

 

17 tháng Sáu.

Buổi chiều cuối cùng đó khởi sự không được êm đẹp.

Hai vợ chồng Patrice đi dạo cùng với hai người. Lát sau, trên sườn đồi lởm chởm mọc đầy hoa thạch thảo, hai cặp lạc nhau. Meaulnes và Valentine ngồi giữa những cây tùng trong một khu rừng thưa. Những giọt mưa được gió mang tới nhưng bầu trời mây giăng thấp. Dường như trong buổi chiều có nhuốm vẻ gì chua chát, thứ hương vị chán ngán mà ngay tới tình yêu cũng không thể xua tan.

Hai người ngồi đó rất lâu, núp dưới những tàng lá, im lặng. Bầu trời trở nên quang đãng. Và họ tin rằng mọi sự sẽ tốt đẹp hơn.

Câu chuyện yêu đương được đưa ra... Valentine mói mãi, nói mãi. Nàng nói:

“Đây là những hứa hẹn của vị hôn phu em, anh ta trẻ con lắm: ‘Chúng em sẽ có liền một ngôi nhà, như một túp lều tranh ẩn kín giữa đồng quê. Anh ấy bảo nhà đã có sẵn. Chiều hôm cưới, khoảng giờ này, trước khi trời đổ tối, chúng em sẽ về đó như sau một cuộc viễn du... Dọc đường, trong sân, núp trong các lùm cây, sẽ có bọn trẻ con lạ chào mừng và la lên: ‘Cô dâu muôn năm!’ Anh thấy, thật đúng là điên có phải?”

Meaulnes ngồi nghe, vẻ sững sờ, lo lắng. Qua câu chuyện kể, anh nghe thấy tiếng vang của một giọng nói quen thuộc. Đồng thời, cũng cảm nhận sự luyến tiếc vương vương trong các lời lẽ của cô.

Về phần Valentine thì lại sợ đã làm phật lòng anh, nên vội quay lại, nhẹ nhàng nói:

“Với anh, em muốn cho hết những gì em có: cả cái món này đối với em rất quý giá… anh hãy

đem đốt đi.”

Thế rồi, nhìn thẳng vào mắt anh, điệu bồn chồn, cô lôi từ trong bọc một xấp thư đưa cho anh.

Đó là thư của vị hôn phu thuở trước.

Lập tức, Meaulnes nhận ngay ra nét chữ nhỏ nhắn thanh nhã (tại sao anh không nghĩ sớm hơn nhỉ?) của Frantz, anh chàng bô-hê-miêng; tuồng chữ mà anh đã nhìn thấy trên tờ thư tuyệt vọng trong căn phòng nơi trang viện cổ ngày xưa.

Bước chầm chậm cạnh nhau trên một lối nhỏ, giữa những cụm hoa pâquerettes và những cọng rơm có ánh mặt trời buổi chiều chiếu rọi, anh sững sờ đến độ chưa ý thức được hết sự thể mà Valentine đang đưa anh tới một cảnh huống thất bại như thế nào. Anh đọc thư vì cô gái cứ đòi anh phải đọc. Những lời lẽ trẻ con, lâm ly, lãng mạn… Chẳng hạn như câu này trong bức thư cuối:

“… Chao ơi! Em đã đánh mất trái tim nhỏ rồi, em Valentine không thể tha thứ được kia ơi!

Bây giờ chúng ta sẽ ra sao? Thật tình anh không đến nỗi mê tín quá…”

 

Vừa đọc, vừa gần như quáng cả mắt vì tiếc hận và giận dữ, khuôn mặt Meaulnes phẳng lặng nhưng xanh mét, đôi mi chớp chớp. Valentine đâm lo ngại vì thái độ anh, tự hỏi tại sao anh lại nổi giận như vậy.

Cô lên tiếng giải thích:

“Đó là một món nữ trang anh ấy cho em và bắt em phải giữ kín mãi. Cũng là một trong những sáng kiến điên rồ của anh ta.”

Những lời này càng làm cho Meaulnes thêm cáu tiết. Anh bỏ mấy bức thư vào túi và nói:

“Điên rồ! Tại sao cô cứ nhắc mãi chữ đó? Tại sao cô không biết tin lời nói anh ta? Tôi có biết anh ta. Thật là một chàng trai lạ lùng nhất đời tôi chưa từng gặp.”

Vô cùng sửng sốt, Valentine hỏi:

“Anh biết anh ấy ư, anh quen Frantz de Galais sao?”

“Đó là người bạn thân nhất, người anh em trong mọi cuộc chơii, thế mà tôi lại cướp đi của hắn người vợ chưa cưới.”

Giọng thịnh nộ, anh tiếp:

“Ối chà! Cô đã làm hại chúng tôi biết bao nhiêu! Cô chẳng tin tưởng gì hết. Cô là đầu mối cho mọi chuyện. Chính cô đã làm cho mọi sự mất hết, tan biến hết.”

Valentine muốn nói, muốn cầm lấy tay anh, nhưng anh tàn nhẫn đẩy cô ra. “Cô cút đi! Để mặc tôi!”

Mặt đỏ bừng, vẻ như sắp khóc, cô ấp úng đáp:

“Nếu sự tình như vậy thì em cần phải đi. Em sẽ trở về nhà ở Bourges với chị em. Anh ạ, nếu anh không trở lại đón em, cha em nghèo quá không nuôi nổi em, em sẽ đi Paris, sẽ lang thang ngoài phố như hồi nào, và sẽ trở thành một cô gái giang hồ vì em không có nghề gì khác nữa.”

Rồi cô về nhà trọ lấy hành lý ra Ga. Meaulnes chẳng thèm ngó lại, cứ tiếp tục những bước lang thang.

Tập nhật ký ngưng lần nữa.

Tiếp theo lại có các mẩu nháp những bức thư được viết bởi một người đang trong tâm trạng lạc lõng, không định kiến.

Trở về La Ferté-d’ Angillon, anh Meaulnes viết thư cho Valentine, lời lẽ tuy phô bày sự quyết chí không muốn gặp lại bằng những lý do được nêu ra rõ rệt, nhưng sự thật là có ý muốn để cho cô hồi âm.

Trong một thư, anh còn hỏi cả cái điều mà trong lúc lúng túng, anh chưa hề nghĩ đến để hỏi:

Cô có biết nơi trang viện anh nhọc công tìm kiếm là ở vùng nào chăng?

Ở thư khác, anh van nài cô nên nối kết lại với Frantz de Galais và chính anh tự nguyện sẽ nhận lãnh việc đi tìm chàng...

Hầu hết những thư mà tôi tìm thấy bản nháp dường như đều không được gửi. Nhưng chắc hẳn anh đã có viết cho cô hai ba lần, nhưng không được hồi âm.

Đó là thời kỳ tranh đấu thảm hại ghê gớm, trong khi anh chỉ một mình trơ trọi. Hy vọng gặp lại Yvonne de Galais đã hoàn toàn tan biến, anh tất phải nhận ra sự quyết tâm của mình ngày một sút kém đi.

Và theo như những trang kế tiếp --những trang cuối cùng trong tập nhật ký—tôi đoán rằng anh phải có một buổi sáng đầu mùa hè mướn xe đạp đi thăm nhà thờ ở Bourges. Ra đi từ sớm bằng con lộ thẳng giữa rừng, dọc đường anh lo bày ra cả ngàn lý do biện minh cho hành động tìm tới trước mặt cô gái mà trước kia anh đã đuổi đi khỏi, cho dù không phải để hòa thuận lại.

Bốn trang sau rốt được tôi thu thập, kể về chuyến đi và lỗi lầm cuối cùng này của anh…

 

 

 

Chương 16 Sự Bí Mật. (Hết)

 

15 tháng Tám.

Đầu bên kia thành phố Bourges, nơi tận cùng khu ngoại ô, sau khi mất công rất lâu, anh mới tìm ra nhà Valentine Blondeau. Một người đàn bà --mẹ Valentine-- đứng ở bực cửa, vẻ như đang chờ đợi. Bà ta có khuôn mặt đầy đặn của một người nội trợ, nặng nề, nhăn nhúm, nhưng vẫn còn đẹp. Tò mò đứng nhìn anh đi tới và khi anh hỏi “cô Blondeau có nhà không?” bà nhẹ nhàng vẻ thân thiện cho anh hay rằng từ bữa 15 tháng Tám, hai chị em cô đã trở lại Paris.

Bà ta nói thêm: “Chúng nó dặn tôi không cho bất cứ ai biết hai chị em nó ở đâu, nhưng hãy cứ viết thư tới địa chỉ cũ, ở đó người ta sẽ gửi tiếp thư giúp cho chúng.”

Khi quay ra, tay dắt xe, chân bước trên mảnh vườn nhỏ trước nhà, anh nghĩ:

“Cô ấy đi rồi… Mọi sự thế là hết đúng như ý mình muốn… Chính ta đã buộc cô như vậy. Cô có nói: ‘Em chắc sẽ thành một cô gái giang hồ.’ Thì ra chính ta đẩy cô đi tới chỗ đó. Chính ta đã làm hỏng của Franzt người vợ chưa cưới.’

Anh như điên lên, nói một mình: “Càng tốt! Càng tốt!” tuy tự tin chắc là chỉ muốn nói lời trái nghịch: “Thật tiếc!”.

Và khi ra khỏi vườn, ngay trước mắt người đàn bà, anh gần như sắp ngã quỵ xuống đất.

Chẳng buồn nghĩ tới bữa ăn trưa, anh ghé vào một quán café để viết một thư rất dài cho Valentine, viết như để la lớn, như để giải thoát những nỗi ê chề thất vọng đang làm cho anh tức nghẹn. Trong thư anh nhắc đi nhắc lại: “Liệu cô có thể… Liệu cô có thể… Liệu cô có thể cam chịu vậy sao? Liệu cô có thể tự làm hỏng cuộc đời mình như thế sao?”

Ngồi gần anh có một đám lính đang uống rượu. Một người trong bọn đang to tiếng kể lại một chuyện về đàn bà mà Meaulnes chỉ nghe được từng đoạn: “… Tôi đả bảo nó… cô chắc chắn phải

 

 

biết rõ tôi… Tối nào tôi chẳng đánh bài với chồng cô!” Những người khác cả cười, quay mặt đi, nhổ nước bọt ra phía sau ghế.

Bộ dáng tiều tụy, bụi bám đầy người, vẻ như một gã ăn mày, Meaulnes ngồi nhìn họ, tưởng tượng bọn họ đang bồng Valentine trên tay.

Một hồi lâu, cỡi xe, anh chạy mãi quanh nhà thờ, thầm nghĩ: “Tóm lại ta tới đây chỉ vì ngôi nhà thờ này!” Từ khắp các phố, trên công viên vắng người, đều thấy ngôi giáo đường vươn cao, thản nhiên, đồ sộ. Những con phố hẹp và bẩn như những ngõ nhỏ bao quanh các nhà thờ ở thôn quê. Đó đây lại thấy nơi một ngôi nhà có treo ngọn đèn màu đỏ, biểu tượng cho một ổ điếm…

Meaulnes cảm thấy nỗi đau của mình thêm nặng trong khu phố bẩn thỉu, tội lỗi, hẻo lánh, như thưở xa xưa người ta cảm thấy điều ấy bên dưới những cây cột ngoài cửa các giáo đường. Anh nhận ra niềm lo sợ pha lẫn ghê tởm mang tính chất đặc biệt nông dân trong anh đối với ngôi nhà thờ được xây cất giữa một khu vực loại này, nơi mà bao nhiêu điều mờ ám xấu xa đều có lén ghi dấu tích; và những đau khổ thuần khiết nhất của tình yêu đã không thể được cứu gỡ.

Có hai cô điếm ôm lưng nhau đi qua mặt anh, đưa cặp mắt lơ láo ngó anh. Vì ghê tởm hay muốn thử thách, hoặc để trả thù mối tình của mình, hay để cho nó càng đắm chìm thêm nữa, Meaulnes chậm chạp đạp xe theo. Một cô có mấy sợi tóc vàng lơ thơ kéo ra phía sau búi lại thành một cục tóc giả trông thật tội nghiệp, hẹn anh sáu giờ chiều tới vườn tòa Tổng Giám Mục, địa điểm mà Frantz, trong một bức thư, đã hẹn với cô nàng Valentine đáng thương.

Anh chẳng đáp “không” vì biết chắc rằng giờ đó anh đã rời khỏi thành phố này từ trước.

Đứng trong khung cửa sổ thấp, tại con đường dốc, cô gái còn lơ đãng ra dấu cho anh.

Anh vội vàng ra về.

Trước khi rời khỏi nơi đó, không thể cưỡng được với ý muốn đi ngang qua trước nhà Valentine lần nữa, anh mở to mắt để nhìn và thâu nhận bao nhiêu buồn thảm vào trong tim. Đó là một trong những ngôi nhà cuối cùng ở ngoại ô, từ sau khu này đường phố trở thành con đường lộ… Phía trước là một bãi hoang biến thành một công viên nhỏ. Không có ai đứng ở các cửa sổ, trong sân, hay bất kỳ chỗ nào khác. Dọc theo một mảnh tường, có độc nhất một người đàn bà mặt dồi đầy phấn đang lôi hai đứa trẻ rách rưới theo sau.

Thời tuổi nhỏ của Valentine kéo dài nơi đây. Chính ở đó cô bắt đầu nhìn đời bằng đôi mắt tin cậy và ngoan ngoãn. Cô đã phải làm việc, may vá đàng sau những cánh cửa sổ. Và Frantz đã tới khu phố vùng ngoại ô này để gặp cô, mỉm cười với cô.

Nhưng bây giờ không còn chi nữa .…

Buổi chiều buồn kéo dài, trong đầu Meaulnes chỉ có mỗi ý nghĩ rằng ở xa đâu đó, cũng buổi chiều này, Valentine đang trầm ngâm nhìn thấy kỷ niệm của nơi công viên buồn nản mà không bao giờ cô còn trở lại, sẽ trôi qua đi trong ký ức riêng.

Phương thuốc độc nhất chống đỡ nỗi đau chính là đoạn đường anh phải bước đi trong lượt quay lại, là một quên lãng tạm thời trước khi hoàn toàn ngập chìm trong nỗi đau ấy.

Anh ra về. Trong thung lũng sát đường, giữa lùm cây bên cạnh bờ sông có những ngôi nhà nông trại rất dễ thương, phô ra những đầu hồi nhọn với giàn dây nho màu lục. Nơi xa, trên bãi cỏ xanh, vài cô gái đang ngồi nói chuyện yêu đương. Có lẽ họ là những kẻ có tâm hồn, những tâm hồn tươi đẹp…

Nhưng với Meaulnes lúc bấy giờ chỉ hiện hữu một tình yêu duy nhất trong tim; một tình yêu không toại ý vừa mới bị anh xúc phạm một cách độc ác. Và cô gái trên hết trong số những cô cần đến sự che chở bảo vệ của anh thì lại bị anh đuổi đi xa mất rồi.

Mấy hàng vội vã trong tập nhật ký cho biết rằng anh vẫn nuôi ý định thế nào cũng sẽ đi kiếm Valentine trước khi quá muộn. Một ngày đề nơi góc trang, có lẽ là ngày mà bà mẹ Meaulnes đang sửa soạn hành trang cho anh đi một chuyến xa thì tôi tìm tới La Ferté-d’Angillon làm xáo trộn hết mọi chuyện.

Trong căn phòng trước kia được dùng làm tòa thị sảnh, một sáng đẹp trời cuối tháng Tám, Meaulnes đang ngồi nơi bàn viết... thì tôi bỗng đẩy cửa bước vào đem cho anh cái tin mừng mà anh không còn chờ đợi nữa.

Anh đang bị bó tay vì cuộc phiêu lưu trước kia đang xâm chiếm con người anh trở lại, nhưng không dám làm gì hay thú nhận sự bó tay của mình. Từ đó trong anh bắt đầu nổi lên những mối hận, những luyến tiếc đớn đau, lúc lại bùng lên, lúc bị nén xuống... cho mãi tới buổi sau hôm cưới, tiếng gọi của anh chàng bô-hê-miêng từ rừng thông đã long trọng nhắc cho anh nhớ lại lời thề đầu tiên của thời niên thiếu xa xưa.

 

Cũng trên cuốn tập “Bài Làm Hằng Tháng”, anh còn ghi vội vài ba câu nữa, vào buổi sáng trước khi từ biệt Yvonne de Galais, người vợ mới cưới ngày hôm trước, dù được phép của nàng nhưng cuộc ra đi không hẹn ngày trở lại,:

“Tôi ra đi. Tôi cần phải tìm lại hành tung hai người bô-hê -miêng bữa qua đã tìm tới rừng thông và đã bỏ đi về hướng Đông bằng xe đạp. Tôi sẽ chỉ quay về với Yvonne khi nào tôi đưa được về rồi đem Frantz và Valentine tới ở tại ‘nhà của Frantz’ sau khi họ đã làm lễ cưới.

Tập thủ bút này, tôi bắt đầu như một tập nhật ký riêng, nay đã trở thành những lời thú tội của tôi. Nếu tôi không trở về, nó sẽ thành vật sở hữu của bạn tôi, Francois Seurel.”

Chắc chắn là anh đã vội vàng giấu nó xuống dưới những sách vở khác, khóa kỹ chiếc rương nhỏ thời học trò và biến mất.

 

 

 

Truyện khác