Thứ Năm, 15 Tháng Năm, 2025

Nẻo vào lịch sử Thánh qua các nhân vật lớn trong Cựu ước : Ápraham

Chương I: Ápraham

Qua nhiều thế kỷ, người Do Thái, Kitô hữu và Hồi giáo đều công nhận Ápraham là tổ phụ. Một số phận đặc biệt lịch sử của ông bị mai một trong đêm tối thời gian, để trở thành người đầu tiên và tấm gương cho tất cả những ai tin vào một Thiên Chúa duy nhất, về "người hoàn toàn phó thác mình cho Thiên Chúa trong niềm tin" (ý nghĩa từ "muslim").

Nhưng tất cả những tự nhận "con cháu Ápraham", không vì thế thống nhất trong cách diễn giải về cuộc đời và vai trò ông Ápraham. Điều quan trọng đối với những Kitô hữu cần khám phá lại các bản văn Kinh Thánh không phải trước hết những tài liệu lịch sử, nhưng những truyền thống cổ xưa một dân tộc, được truyền lại để tìm thấy nơi đó cội nguồn. Các bản văn Kinh Thánh về những truyền thống làm chứng một cuộc sống và đức tin vẫn còn liên quan đến ngày nay. Cội nguồn lịch sử đã được khẳng định vững chắc về cốt lõi, nhưng nói điều gì đó khác hơn lịch sử, về đức tin của mình và đức tin "các tổ phụ".

Lịch sử Ítraen có thể tính sáu giai đoạn lớn nơi gương mẫu Ápraham đã khơi dậy những biểu hiện mới của đức tin.

1. Thời Đavít - Salomon; khi Ítraen và Giuđa là một dân tộc duy nhất và lần đầu tiên có một vị vua.

2. Hai thế kỷ sau đó, trong vương quốc phía Bắc, sau khi vương quốc Đavít -Salomon tan rã, người ta tin tưởng nhiều hơn vào lời các ngôn sứ để định hướng đức tin.

3. Sau khi vương quốc phía Bắc bị quân đội Átsua phá hủy (722); những người trung thành với Thiên Chúa trốn đến xung quanh Giêrusalem và các truyền thống phía Bắc và phía Nam được tập hợp thành một trong dòng chảy với ngôn sứ Isaia.

4. Trong thời kỳ lưu đày ở Babylon (587-542), người ta suy nghĩ lại về nguồn gốc với một chiều sâu mới.

5. Vào thế kỷ thứ 4, hơn một thế kỷ sau khi trở về đất nước, người ta thu thập tất cả các truyền thống để đi đến việc thành lập năm cuốn sách Kinh Thánh đầu tiên, mang tên Torah.

6. Trong những thế kỷ cuối cùng trước Chúa Kitô, các nhà hiền triết suy ngẫm về những vấn đề lớn con người và hình ảnh "các tổ phụ" không vắng mặt trong chiêm niệm.

Sau khi Đức Kitô đến, tất nhiên, các Kitô hữu khám phá lại Ápraham như một chứng nhân vĩ đại của Đức Kitô Giêsu.

I. Vào thời Salomon

Salomon vừa lên ngôi sau một cuộc tranh chấp kế vị đầy biến động. Các bộ lạc phía Bắc (10 trong số 12 bộ lạc vương quốc) được cai trị bởi một vị vua bộ lạc Giuđa, một bộ lạc phía Nam có thành phố trung tâm Hebron và đền thờ Mamrê.

Ngoài ra không có gì ngạc nhiên khi các truyền thống về Ápraham, được công nhận như tổ phụ ở phía Bắc và phía Nam được đề cao. Ápraham đã không thiết lập nơi cư ngụ tại cây sồi Mamrê (St 13,18), nghe thấy ở đó lời hứa mới về đất đai cho con cháu (St 15,8-12 và 17-18), tiếp đón ở đó ba vị khách bí ẩn được liên kết với Chúa theo một cách thần bí (St 18,1-4). Và cũng cần biết Ápraham được chôn cất ở Hebron, thành phố Đavít.

Việc nhắc đi nhắc lại lời hứa về đất đai cho dòng dõi Ápraham (St 12,7; 13,14-15; 15-18) hợp pháp hóa cho Salomon, hậu duệ Ápraham, trong việc đòi hỏi sở hữu toàn bộ đất đai, từ Bắc tới Nam... và lời hứa lần đầu tiên được thực hiện ở Sichem, đền thờ lớn các bộ tộc phía Bắc.

Như vậy, Ápraham được trình bày như tổ phụ đầu tiên; ông thuộc người miền Nam, như tổ tiên mười hai bộ tộc, nhưng đặc biệt tổ tiên các ông Đavít và Salomôn.

II. Trong vương quốc phía Bắc.

Khi Salomon qua đời, đế chế bị chia làm hai, Ítraen ở phía Bắc với mười bộ tộc, Giuđa ở phía Nam với hai bộ tộc. Các vị vua kế vị nhau ở vương quốc phía Bắc, thường bị các đối thủ giết. Họ không phải hậu duệ Đavít nên không thể dựa vào để tạo ra thống nhất trong đức tin. Hơn nữa, người dân sống giữa các dân tộc khác thờ phượng các lực lượng thiên nhiên được thần thánh hóa như Baan; bị cám dỗ từ bỏ Thiên Chúa hoặc ít nhất "khập khiễng bằng cả hai chân" như Êlia trách móc cách thờ phượng cả Thiên Chúa thật và Baan (xem 1V 18,16-43).

Sau đó, các ngôn sứ Êlia và Êlisa, rồi Amốt và Hôsê nổi lên để nhắc nhở về đức tin đích thực. Ngôn sứ xuất hiện như người duy trì giao ước với Thiên Chúa.

Các tín hữu sau đó cố gắng lấy và đọc lại lịch sử Ápraham theo tình huống cụ thể, hầu khám phá ra một cái nhìn mới về đức tin.

Sáng thế 20,1-14. Ápraham không có vai trò đẹp trong vấn đề này: chính ông đã đưa vua Avimeléc vào tình huống khó khăn (20,3-4). Avimeléc ngoại đạo, được mô tả như một người công chính Thiên Chúa và được Ngài nói chuyện trong giấc mơ. Ông tỏ ra sốt sắng vâng lời Thiên Chúa và sẽ tỏ ra rất hào phóng với Ápraham (câu 14).

Tuy nhiên, chỉ riêng Ápraham đối tượng Thiên Chúa tuyển chọn là một ngôn sứ (câu 7) và cho quyền sống trong đất nước. Như vậy, các con trai Ápraham được công nhận những người hợp pháp sở hữu đất Ítraen bởi được Thiên Chúa lựa chọn, nhưng được mời gọi phải xứng đáng với lựa chọn và trước hết tôn trọng các dân tộc họ vẫn đang sống cùng.

Sáng thế 22,1-2 và 6-13. Một bản văn có ý nghĩa nhất. Ápraham bị Thiên Chúa thử thách (câu 1). Chìa khóa câu chuyện được đưa ra ở câu 12: Ápraham đã tỏ ra trung thành, ông kính sợ Thiên Chúa. Ông là "người kính sợ Thiên Chúa" xuất sắc, người có khả năng hy sinh ngay cả tương lai lời hứa và giao phó hoàn thành lời hứa cho Thiên Chúa. Một cách để nhắc nhở con cháu chỉ mình Thiên Chúa mới đảm bảo Ítraen tồn tại như một dân tộc với bản sắc độc đáo, phải luôn là một dân tộc "kính sợ Thiên Chúa".

Sáng thế 15. Ở đây có một hỗn hợp không thể tách rời các truyền thống phía Bắc và phía Nam nhưng vẫn được đọc lại ở giai đoạn tiếp theo. Chỉ các câu 3 và 4 rõ ràng thuộc về thời đại chúng ta, cho phép nhận ra một lần nữa quan tâm đến dân Ítraen tồn tại trong thuần khiết về "dòng dõi" Ápraham, khác biệt với các dân tộc trộn lẫn.

III. Sau khi Samaria bị phá hủy (722)

Giêrusalem đang dưới thời vua Khítkigia. Vương quốc phía Bắc đã bị phá hủy; những người trung thành với Chúa đã tìm kiếm nơi ẩn náu ở phía Nam gần những gì còn sót lại. Vương quốc Giuđa nơi triều đại Đa vít vẫn là biểu tượng Thiên Chúa trung thành với những lời hứa. Triều đại lấy tính chính đáng từ lời ngôn sứ Nathan (2Sm 7,1-17), cập nhật hóa cho Ítraen ý thức hệ về vương quyền phổ biến ở toàn Cận Đông. Trong triều đình, ngôn sứ Isaia cùng với các môn đệ cũng khẳng định triều đại bền vững (Is 7,4-9; 9,1-6), ít nhất chắc chắn một ngày nào đó, một con trai Đa vít, một Đa vít mới, một vị vua theo lòng Thiên Chúa sẽ thực hiện tất cả những lời hứa (Is 11,1-7). Sau đó người ta đã cập nhật hóa các truyền thống tổ phụ ở Hebron. Chính bản văn St 12,1-4 đưa ra chìa khóa cho toàn bộ cập nhật hóa.

Thiên Chúa chúc lành cho Ápraham. Ngài hứa sẽ làm cho ông có một tên (2Sm 7,9), đưa trở thành một dân tộc lớn. Một vinh dự cho Ápraham nhưng trước hết một sứ mệnh. Thiên Chúa muốn chúc lành cho tất cả các dân tộc thông qua Ápraham và dòng dõi. Chính người kế vị Đa vít phải hoàn thành những lời hứa và sứ mệnh, nếu không phải hôm nay, ít nhất trong tương lai vì Thiên Chúa đã cam kết điều đó.

Một niềm hy vọng tuyệt vời làm cho Ápraham trở thành tổ tiên Đấng Mêsia, con trai Đa vít, đấng trung gian thực sự ơn cứu độ Thiên Chúa sẽ ban cho tất cả các dân tộc một ngày nào đó.

Một số bản văn khác được cùng các nhà thần học viết, cố gắng theo dõi chủ đề xuyên suốt về phúc lành. Điều bắt đầu không tốt lắm. Chính lời nguyền rủa đến với Pharaô qua Ápraham, như vậy ông đã tỏ ra không trung thành với ơn gọi giữa các quốc gia. Một lời nhắc nhở cho vua Ítraen và cho tất cả những ai tin tưởng, những người nhận ra mình trong Ápraham: qua các ngươi, phúc lành hay lời nguyền rủa đến với những người các ngươi sống cùng?

Sáng thế 13,1-12. Ápraham xuất hiện như được Thiên Chúa chúc phúc (giàu có) và trở thành phúc lành cho người cháu Lot.

Sáng thế 12,1-3. Phân tích cấu trúc ngữ pháp Sáng Thế 12,1-3.

1. Yavê phán với Abram: Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi - Chủ ngữ: יְהוָה֙ (Đức Chúa)

 - Động từ: וַיֹּ֤אמֶר (phán)

 - Bổ ngữ gián tiếp: אֶל־אַבְרָ֔ם (với Áp-ram)

 - Bổ ngữ trực tiếp (mệnh lệnh): לֶךְ־לְךָ֛ (hãy đi)

 - Các cụm giới từ chỉ nơi chốn: מֵאַרְצְךָ֥ (từ xứ sở ngươi), וּמִמּֽוֹלַדְתְּךָ֖ (từ quê quán ngươi), וּמִבֵּ֣ית אָבִ֑יךָ (từ nhà cha ngươi)

 - Cụm giới từ chỉ đích đến: אֶל־הָאָ֖רֶץ (tới đất), אֲשֶׁ֥ר אַרְאֶֽךָּ׃ (mà Ta sẽ chỉ cho ngươi)

2. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành׃

 - Động từ: וְאֶֽעֶשְׂךָ֙ (Ta sẽ làm cho ngươi), וַאֲבָ֣רֶכְךָ֔ (Ta sẽ chúc phúc cho ngươi), וַאֲגַדְּלָ֖ה (Ta sẽ làm cho vĩ đại), וֶהְיֵ֖ה (ngươi sẽ trở nên)

 - Bổ ngữ trực tiếp: לְג֣וֹי גָּד֔וֹל (nên một dân tộc vĩ đại), שְׁמֶ֑ךָ (danh ngươi)

 - Bổ ngữ: בְּרָכָֽה (một nguồn phước lành)

3. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành ngươi, ai nói động đến, Ta sẽ chúc dữ. Mọi thị tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau

 - Động từ: וַאֲבָֽרֲכָה֙ (Ta sẽ chúc phúc), אָאֹ֑ר (Ta sẽ nguyền rủa), וְנִבְרְכ֣וּ (sẽ được chúc phúc)

 - Chủ ngữ: מְבָ֣רְכֶ֔יךָ (người chúc phúc ngươi), מְקַלֶּלְךָ֖ (người nguyền rủa ngươi), כֹּ֖ל מִשְׁפְּחֹ֥ת הָאֲדָמָֽה (mọi gia tộc trên đất)

 - Trạng từ: בְךָ֔ (nơi ngươi/nhờ ngươi)

Tóm lại, đoạn văn chứa nhiều động từ chỉ Thiên Chúa hành động (phán, làm, chúc phúc, nguyền rủa), trong đó Ápraham và dân tộc tương lai là đối tượng (bổ ngữ trực tiếp và gián tiếp). Ngoài ra còn có các cụm giới từ chỉ địa điểm và trạng từ diễn tả cách thức hành động. Cấu trúc văn phạm lặp đi lặp lại càng nhấn mạnh ý nghĩa Giao ước Thiên Chúa lập với Ápram, với các lời hứa về xứ sở, con cháu và phúc lành.

Trong Sáng Thế 12,1-3, có thể nhận thấy ba đối tượng chính lời hứa Thiên Chúa dành cho Ápram. Đất đai: "Hãy đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi" (câu 1). Thiên Chúa hứa ban cho Ápram một vùng đất mới. Dân tộc: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại" (câu 2). Ápram sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc đông đảo. Phúc lành: "Ta sẽ chúc phúc cho ngươi... Ngươi sẽ là một nguồn phước lành" (câu 2). "Mọi gia tộc trên đất sẽ được chúc phúc nơi ngươi" (câu 3). Ápram và dòng dõi sẽ là nguồn phúc lành cho muôn dân.

Khi so sánh với Sáng Thế 12,7, có tương đồng và bổ sung: "Đức Chúa hiện ra với ông Ápram và phán: 'Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.'"

Điểm giống nhau ở lời hứa về đất đai được nhắc lại. Tuy nhiên, có một vài điểm mới. Thiên Chúa hiện ra (theo nghĩa thị kiến) với Ápram, chứ không chỉ phán như trong 12,1. Lời hứa về đất đai được xác định cụ thể hơn: "đất này", chỉ vùng đất Canaan nơi Ápram đang cư ngụ, chứ không còn mơ hồ như "đất Ta sẽ chỉ cho ngươi". Đối tượng thừa hưởng đất đai được nhắc rõ "dòng dõi ngươi", gợi nhớ lại lời hứa về một dân tộc trong 12,2.

Như vậy, có thể kết luận Sáng Thế 12,7 không đưa ra một lời hứa hoàn toàn mới, nhưng một tái khẳng định và bổ sung chi tiết cho lời hứa ban đầu trong Sáng Thế 12,1-3. Thiên Chúa tiếp tục xác nhận và làm rõ Giao Ước với Ápram về đất đai, dân tộc và phúc lành. Điều nhấn mạnh tính liên tục và nhất quán trong các lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Ápram.

Khi đặt Sáng Thế 12,2 bên cạnh Sáng Thế 11,4 và 2Samuen 7,9, có thể thấy một số điểm tương đồng và tương phản:

Sáng Thế 12,2, Thiên Chúa phán với Ápram: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ làm cho danh ngươi vĩ đại, và ngươi sẽ là một nguồn phước lành."

Sáng Thế 11,4, Người ta nói với nhau: "Nào chúng ta hãy xây cho mình một thành phố, một cái tháp với đỉnh chạm tới trời. Chúng ta hãy làm cho mình một cái tên, kẻo chúng ta bị tản lạc trên khắp mặt đất."

2 Samuen 7,9, Thiên Chúa phán với Đavít qua ngôn sứ Nathan: "Ta sẽ làm cho danh ngươi nên vĩ đại, như danh của những bậc vĩ nhân trên mặt đất."

Những điểm tương đồng. Cả ba trích đoạn đều nói về sự vĩ đại và danh tiếng. Sáng Thế 12,2 và 2 Samuen 7,9 đều nói về việc Thiên Chúa sẽ làm cho tên tuổi một cá nhân (Ápram và Đavít) trở nên vĩ đại.

Những điểm tương phản. Trong Sáng Thế 11,4, con người cố gắng tự làm nên vĩ đại bằng sức riêng, trong khi ở Sáng Thế 12,2 và 2 Samuen 7,9, vĩ đại đến từ hành động của Thiên Chúa. Mục đích vĩ đại trong Sáng Thế 11,4 để con người không bị phân tán, trong khi ở Sáng Thế 12,2, vĩ đại Ápram gắn liền với ơn phúc ông sẽ mang lại cho muôn dân.

Việc đặt ba bản văn gần nhau có thể nhằm mục đích nhấn mạnh khác biệt giữa vĩ đại đích thực đến từ Thiên Chúa và vĩ đại hư ảo do con người tự tạo ra. Tính liên tục trong lịch sử cứu độ từ Ápram đến Đavít, Thiên Chúa liên tục hành động để nâng cao những kẻ Ngài tuyển chọn, đồng thời qua họ, mang phúc lành đến cho nhân loại. Và gợi nhớ về các giao ước Thiên Chúa: Giao Ước với Ápram (Sáng Thế 12) và Giao Ước với Đavít (2 Samuen 7), cả hai đều hứa hẹn một tương lai vĩ đại và một dòng dõi trường tồn.

Như vậy, việc đọc các bản văn song song giúp làm nổi bật thông điệp về ý định và Thiên Chúa hành động trong lịch sử nhân loại, đặc biệt qua các giao ước và các nhân vật Ngài tuyển chọn.

Sáng thế 15. Ápram một lần nữa nhận được lời hứa về phúc lành và đón nhận trong đức tin, nhưng hơn nữa, ông được Thiên Chúa mời gọi bước vào giao ước (câu 18). Thiên Chúa cam kết một cách long trọng trong một giao ước ràng buộc Ngài với Ápram và dòng dõi, như một người chồng ràng buộc với vợ mình (một chủ đề các môn đệ các ngôn sứ đã phát triển).

Sáng thế 18. Thiên Chúa quá cao siêu nhưng lại quá gần gũi. Trong Sáng thết 18, Ápram tiếp đón với một thần bí nào đó ba người lữ hành. Phúc lành Thiên Chúa được tái khẳng định ông sẽ có một đứa con trai (Isaác).

Sau đó, Chúa rời khỏi Mamrê đến Xơđôm. Ngài quyết định liên kết Ápraham vì chính qua ông phúc lành phải đến (câu18; St 12,1-3).

Trong một cuộc mặc cả tuyệt vời theo kiểu Phương Đông, Ápraham chuyển cầu cho Xơđôm. Một ví dụ tuyệt vời về cách phúc lành có thể đến thông qua trung gian tổ phụ. Nhưng chỉ đến cho Lot và hai con gái, tổ tiên người Moáp và người Ammon, những dân tộc Đa vít đã liên minh.

Sáng thế 22. Toàn bộ câu chuyện về sự hy sinh được kể lại nhưng từ nay trở đi, phúc lành và vai trò Ápraham đối với các dân tộc được nhấn mạnh (câu 15-18). Việc đòi hỏi hy sinh Isaác mang bản chất phản cảm và vô lý theo lời Thiên Chúa yêu cầu. Nhưng trong Sáng thế 22, đức tin Ápraham được thể hiện rõ nét qua thái độ và lời nói khi ông đối diện với thử thách Thiên Chúa đặt ra.

1. Vâng lời tuyệt đối (câu 1-3). Khi Thiên Chúa ra lệnh cho Ápraham dâng Isaác làm lễ toàn thiêu, ông không hề do dự hay phản kháng. Ápraham dậy sớm, chuẩn bị mọi thứ cần thiết và lên đường ngay lập tức, cho thấy ông sẵn sàng và vâng phục trọn vẹn trước mệnh lệnh Thiên Chúa.

2. Niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa (câu 5). Khi nói với các đầy tớ "chúng tôi sẽ trở lại với các anh", Ápraham bày tỏ niềm tin ông và Isaác đều sẽ trở về an toàn. Mặc dù không hiểu được kế hoạch Thiên Chúa, Ápraham vẫn tin tưởng vào quyền năng và Thiên Chúa quan phòng.

3. Kiên định trong đức tin (câu 7-8). Khi Isaác hỏi về con vật dùng làm lễ vật, Ápraham trả lời: "Thiên Chúa sẽ tự lo con vật dùng làm lễ toàn thiêu". Câu trả lời không chỉ thể hiện Ápraham khéo léo trong việc giữ bình tĩnh trước con, cho thấy niềm tin sâu sắc Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự theo cách của Ngài.

4. Sẵn sàng hy sinh (câu 9-10). Ápraham không hề nao núng khi trói Isaác lại và đặt lên bàn thờ. Ông sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh Thiên Chúa đến cùng, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc phải hy sinh đứa con yêu dấu, niềm hy vọng duy nhất cho lời hứa về một dòng dõi vĩ đại.

5. Nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa (câu 14). Sau khi được Thiên Chúa can thiệp và chúc phúc, Ápraham đặt tên cho nơi ấy "Thiên Chúa sẽ lo liệu" (YHWHh-Yireh). Hành động thể hiện nhận biết và tôn vinh quyền năng và Thiên Chúa quan phòng, đồng thời một lần nữa khẳng định niềm tin.

Sáng Thế 22 đưa ra một tấm gương sáng về đức tin trọn vẹn và tuyệt đối nơi Ápraham. Ông sẵn sàng vâng lời, tin tưởng, kiên định và hy sinh tất cả vì Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin Ápraham được Thiên Chúa chúc phúc và trở thành tổ phụ một dân tộc vĩ đại. Đoạn Kinh Thánh mời gọi suy ngẫm và noi gương đức tin Ápraham trong cuộc sống đạo.

Đức tin Ápraham thể hiện qua vâng phục tuyệt đối trong việc sẵn sàng hiến tế Isaác, mở đường cho Thiên Chúa đưa ông trở thành Cha các tín hữu. Điều khẳng định rõ ràng trong lời Thiên Chúa chúc phúc sau khi Ápraham vượt qua thử thách (St 22,15-18).

1. Lời chúc phúc được ban "vì Ápraham đã vâng lời Chúa" (câu 18). Vâng phục đầy đức tin là điều kiện tiên quyết để Ápraham nhận được ân huệ từ Thiên Chúa.

2. Thiên Chúa hứa sẽ "ban phúc dồi dào" và làm cho dòng dõi Ápraham "đông đúc như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển" (câu 17). Lời hứa về dòng dõi vĩ đại, vốn đã được đề cập trong các giao ước trước (St 12,2; 15,5), giờ đây được tái khẳng định và gắn liền với đức tin Ápraham.

3. Không chỉ Ápraham và dòng dõi được chúc phúc, "mọi dân tộc trên địa cầu sẽ được chúc phúc nơi dòng dõi của ngươi" (câu 18). Điều hé mở tầm nhìn phổ quát về ơn cứu độ, nhờ đức tin Ápraham ân huệ Thiên Chúa sẽ lan tỏa đến muôn dân.

4. Lời chúc phúc gắn liền Ápraham với "dòng dõi" (chữ Hípri "zera"). Từ này mang ý nghĩa tập thể (muôn dân được chúc phúc) và cá nhân (Đấng Mêsia xuất thân từ dòng dõi Ápraham). Như vậy, nhờ đức tin mình, Ápraham trở thành khởi điểm cho một dòng chảy ân phúc. Và đỉnh cao là Đức Kitô, Đấng mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại.

Chính đức tin anh hùng thể hiện qua hành động dâng hiến Isaác đã biến Ápraham thành "Cha các tín hữu". Đức tin không chỉ đem lại ơn lành cho bản thân ông và dòng dõi, còn mở ra một tầm nhìn phổ quát về ơn cứu độ cho muôn dân. Nói cách khác, nhờ đức tin mẫu mực của Ápraham nên Giao ước Thiên Chúa lập với ông vượt ra khỏi giới hạn cá nhân và trở thành nguồn mạch ân phúc cho toàn thể nhân loại.

Vì vậy, trong Tân Ước, như trong các thư thánh Phaolô, Ápraham thường được nhắc đến như một kiểu mẫu về đức tin và công chính hóa bằng đức tin (Rm 4,1-25; Gl 3,6-9). Tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều được mời gọi bước đi trong đức tin Ápraham và nhờ đó trở nên con cái ông về mặt thiêng liêng (Gl 3,7.29).

IV. Khi trở về từ Lưu Đày.

Khi trở về từ lưu đày, Ítraen tập hợp tất cả các truyền thống : cần phải trao lại một lịch sử chung cho dân tộc, một dân tộc bị tan vỡ bởi những thử thách cuộc lưu đày và những khó khăn việc trở về đất Ítraen. Bức tranh lịch sử được viết dưới sự kiểm soát của các thầy tư tế, những người thực sự đã trở thành trung tâm trong dân tộc Do Thái.

Sáng thế 17. Bản văn quan trọng nhất được viết vào thời điểm một giao ước mới (đã có câu chuyện về giao ước trong St 15). Điều mới ở đây nơi giao ước xuất hiện gắn liền với các giao ước khác.

Trước hết, Thiên Chúa đã lập giao ước với Noê (St 9,9tt), một giao ước chung cho toàn nhân loại. Giao ước với Ápraham (St 17) khai mở giai đoạn lịch sử cuối cùng, trở thành cấu trúc cơ bản lịch sử Ítraen: một tương lai trong vùng đất thánh nếu tuân giữ ngày Sabát và phép cắt bì, vẫn là nền tảng duy nhất Ítraen có thể xây dựng hiện hữu trên đó, và thể hiện hồng ân Thiên Chúa nhưng không, nơi niềm hy vọng có thể bén rễ.

Giao ước Sinai, được thực hiện qua trung gian ông Môsê, trở nên thứ yếu. Thiên Chúa khi đó đã cam kết với dân Ngài một cách có điều kiện. Ngài sẽ ban hạnh phúc nếu họ trung thành. Vì họ đã không trung thành, nên không thể dựa nhiều vào giao ước này. Trong khi đó, người ta luôn có thể dựa vào giao ước với Ápraham, bởi vì đó là một lời hứa từ phía Thiên Chúa.

Thánh vịnh 105 (104),1-15 nhắc lại, theo cùng một hướng, suy tư và đặt nền tảng chắc chắn về một giao ước mãi mãi. Thánh vịnh 105 (104), 1-15 là một bài ca tạ ơn và tường thuật lại các kỳ công Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ dân Người, đặc biệt tập trung vào giai đoạn các tổ phụ.

Lời mời gọi ca ngợi và tìm kiếm Chúa (câu 1-6). Tác giả kêu gọi cộng đoàn ca ngợi, cảm tạ, rao giảng và tìm kiếm Thiên Chúa. Lời mời gọi được củng cố bằng việc nhắc lại Giao Ước và Thiên Chúa lựa chọn dành cho dòng dõi Ápraham.

Tường thuật các kỳ công Chúa thời các tổ phụ (c.7-15). Thiên Chúa lập giao ước muôn đời với Ápraham và con cháu (câu 8-10). Giao ước bao gồm lời hứa về đất đai Canaan (câu 11). Mặc dù tổ phụ chỉ là một nhóm nhỏ, Thiên Chúa đã bảo vệ trước các vua chúa (câu 12-14). Thiên Chúa cấm không cho ai làm hại các "người được xức dầu" và các ngôn sứ của Ngài (câu15). Các tổ phụ được coi như những người Thiên Chúa tuyển chọn và bảo vệ.

Qua đoạn thánh vịnh, có thể rút ra một số ý chính. Lời mời gọi ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa luôn được đặt trong bối cảnh các kỳ công Ngài đã thực hiện trong lịch sử. Giao ước Thiên Chúa với Ápraham là nền tảng cho mối quan hệ giữa Ngài và dân Người. Lời hứa về đất đai một phần không thể tách rời Giao ước. Thiên Chúa quan tâm và bảo vệ dân Ngài ngay cả khi họ chỉ là một nhóm nhỏ yếu thế. Điều củng cố đức tin vào Thiên Chúa quan phòng. Các tổ phụ, đặc biệt Ápraham đóng vai trò then chốt trong chương trình cứu độ. Họ được coi những người được Thiên Chúa xức dầu và bảo vệ.

Đoạn Thánh vịnh có thể được đọc trong bối cảnh phụng vụ như lời tuyên xưng đức tin vào tình yêu và lòng trung tín Thiên Chúa qua lịch sử cứu độ. Và cùng lúc nhắc về tầm quan trọng việc ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa, cũng như tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng ngay cả khi gặp khó khăn.

V. Ápraham trong luật Ítraen.

Vào thế kỷ thứ 4, hơn một thế kỷ sau khi trở về đất nước, việc phục hồi vương quyền đã thất bại và Ítraen vẫn dưới thống trị ngoại bang.

Kinh sư Étra (398) với sứ mệnh đưa cộng đồng tìm lại một thống nhất nhất định, tổ chức xung quanh Torah, bộ sưu tập lớn các truyền thống quá khứ, tương ứng với năm cuốn sách Kinh Thánh đầu tiên.

Torah kết thúc vào cái chết ông Môsê đánh dấu dứt khoát việc hoàn thành các lời hứa trong quá khứ là thứ yếu so với chính các lời hứa. Vì vậy, các câu chuyện về tổ phụ có một tầm quan trọng mới. Các truyền thống về Ápraham (St 12-25) xuất hiện như một giai đoạn nền tảng lịch sử lời hứa.

Ápraham xuất hiện như một nhân vật được xác định vững chắc trong lịch sử, được đặt trong các mối quan hệ quốc tế với những người vĩ đại trong thế giới như Pharaô (St 12) và các vị vua Lưỡng hà địa (St 14). Nhưng trước hết, ông là người của những lời hứa nhận được từ Thiên Chúa cho Ítraen và cho tất cả các dân tộc. Thiên Chúa ban cho ông đầy những phúc lành. Ápraham tỏa sáng bởi đức tin, kính sợ Thiên Chúa, ý thức thờ phượng, trung thành với các điều răn Thiên Chúa, và bước đi trước Thiên Chúa hiện diện (St 17,1).

 

Tân Ước

Ápraham, sau Môsê, là nhân vật giao ước cũ được trích dẫn nhiều nhất (72 lần so với 80). Nhưng điều đáng chú ý hơn, tất cả các hướng suy tư được khởi xướng trong Cựu Ước đều được tiếp nối và đưa đến hoàn thiện.

Giacôbê 2,21-23 các nhà hiền triết tiếp tục suy tư. Thử thách Ápraham đem lại cho ông lời hứa về một dòng dõi vô số; cũng nhờ vậy ông là một phúc lành cho tất cả các dân tộc (St 22,15 và Kn 10,5). Ông là "bạn hữu của Thiên Chúa" vì đã trung thành trong thử thách (Hc 44,20).

Thư Do Thái 11, 8-19 nhấn mạnh đức tin Ápraham. Tác giả chú giải từng bước các câu chuyện trong Sáng Thế, nhấn mạnh các giai đoạn đức tin gương mẫu.

Các chủ đề ngôn sứ lớn cũng được nhắc lại trong Tân Ước.

Ítraen được giải thoát gắn liền với lời hứa dành cho Ápraham (Lc 1,55 và 72-73).

Trong Tin Mừng, Ápraham không bao giờ là nguồn gốc ơn cứu độ, nhưng được liên kết với ông có nghĩa có phần trong hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giêsu nhìn nhận nơi Giakêu một "con trai của Ápraham" (Lc 19,9). Chúa Giêsu cho phép mình chữa lành một phụ nữ bệnh trong ngày Sabát vì bà là "con gái của Ápraham" (Lc 13,16).

Chúa Giêsu đề cập đến bữa tiệc Nước Trời với Ápraham, Isaác và Giacóp, và hứa điều đó cho tất cả những ai thể hiện một đức tin như đức tin viên đại đội trưởng (Mt 8,11-12). (Xem thêm dụ ngôn về Ladarô nghèo khó (Lc 16).

Ở khắp mọi nơi, Ápraham lui vào hậu trường trước Chúa Giêsu, nhưng ông vẫn hiện diện trong ơn cứu độ được ban cho qua đức tin.

Tuy nhiên, như Êdêkien 33 nhắc nhở, việc con trai Ápraham không đủ để đạt được ơn cứu độ; cần phải có thống hối và đức tin. Đó là ý nghĩa lời Gioan Tẩy Giả (Mt 3,7-12 và Lc 3,7-9). Gioan không phủ nhận tầm quan trọng của tổ phụ ; vào giờ Nước Trời gần kề, cần phải được nhìn nhận thuộc dòng dõi ông để được cứu rỗi, nhưng câu hỏi quyết định xem biết người ta nhận ra một đứa con thật Ápraham theo tiêu chí nào.

Chúa Giêsu hoàn toàn trong cùng một đường hướng (Ga 8,33-59). Ngài thừa nhận người Do Thái xuất thân từ Ápraham, nhưng không phải con cái ông, nếu không họ sẽ làm những việc Ápraham trong khi họ loại bỏ Đấng là đối tượng thực sự niềm vui Ápraham (câu 56), vì Chúa Giêsu tuyên bố: "Trước khi có Ápraham, Ta đã có!" (câu 58), như vậy, tổ phụ xuất hiện ở vị trí đích thực đối với Chúa Giêsu.

Chính với Phaolô hình ảnh Ápraham sẽ có tầm vóc thần học đầy đủ trong Tân Ước. Ông tiếp tục các chủ đề chính sách Sáng Thế. Lời kêu gọi và lời hứa Thiên Chúa, đức tin Ápraham đã đáp lại và nhờ đó ông đã được công chính hóa (Gl 3-4 và Rm 4 .

Đối với Phaolô, điểm khởi đầu lịch sử cứu độ chính là lời hứa dành cho Ápraham, được hoàn thành nơi Đức Kitô. Đối tượng lời hứa là phúc lành (Gl 3,8; Rm 4,7; xem St 12,2-3). Ápraham đã tin vào đó (Gl 3,6 và Rm 4,3) và đức tin đã được kể là công chính cho ông (Gl 3,6; Rm 4,9; xem St 15,6).

Chính nhờ công chính đức tin được chấp nhận như một ân sủng, nên Ápraham trở thành "Cha của tất cả chúng ta" (Rm 4,13-18; x. St 17,4), vì lời hứa và phúc lành được dành cho tất cả những ai tin.

Lời hứa dành cho Ápraham và đức tin đã đến trước giao ước Sinai và phép cắt bì (Rm 4,10-12) và việc ban hành luật (Gl 3,10-24; Rm 4,13-15).

Giá trị vẫn còn cho ngày nay. Những người thừa kế lời hứa và phúc lành Thiên Chúa gồm tất cả những người Do Thái hay Hy Lạp có đức tin như Ápraham (Gl 3,9-22; Rm 4,11-16). Tất cả những ai thuộc về Đức Kitô đều thuộc con cháu Ápraham, những người thừa kế theo lời hứa phúc lành Thiên Chúa; và đức tin cho họ tham dự vào việc hoàn thành lời hứa nơi Đức Kitô (Gl 3,29 và 4,31).

Như vậy, Ápraham được xác định một cách chung cuộc và mang tính lịch sử theo nghĩa lịch sử cứu độ là cha mọi tín hữu. Phaolô không quan niệm việc tham dự vào ơn cứu độ đã đạt được bởi Đức Kitô theo cách nào khác ngoài việc được đưa vào dân tộc Ápraham, bằng đức tin. Dân tộc Ápraham là Ítraen trung thành, Ítraen của Thiên Chúa (Gl 6,16). Như vậy, Ápraham xuất hiện, trong hình ảnh cuối cùng như Cha các tín hữu.

 

Hai người con trai của Abraham

Theo Kinh Thánh, người con trai duy nhất theo lời hứa Giao Ước là Isaac, tuy nhiên Ismael, sinh ra từ người nữ tỳ Agar cũng được hứa hẹn có dòng dõi. Người Do Thái coi mình là con cái một người phụ nữ tự do, không phải một nữ tỳ; và người Hồi giáo tự nhận là con cháu Ismael. Ismael, tổ phụ người Hồi giáo. Hồi giáo sẽ sử dụng hình tượng Ismael để cũng có một tổ phụ danh tiếng đến từ một người con trai của Abraham. Người Hồi giáo như vậy khẳng định tham gia vào lời Chúa hứa. Đối với người Hồi giáo, câu chuyện Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac được kể trong sách Sáng Thế - nơi Isaac được Chúa gọi là "con trai duy nhất" - thực ra là chuyện về Ismael mà Abraham dâng làm lễ vật cho Chúa. Người Hồi giáo nhấn mạnh quyền trưởng nam thuộc về Ismael, coi ông thụ hưởng duy nhất lời hứa Giao Ước, và Isaac đã vô tình chiếm đoạt.

Mặc dù Chúa đã hứa với Abraham ông sẽ có dòng dõi đông đảo hơn các vì sao trên trời, nhưng đứa con đầu tiên rhuộc dòng dõi theo lời hứa vẫn chưa ra đời!  Và Abraham cùng vợ ông ngày càng già đi. Sara đã thúc giục chồng mình đến với người nữ tỳ Agar. Và Agar đã sinh cho Abraham một con trai mang tên Ismael, có nghĩa "Chúa đã nghe thấy". Mặc dù chính Sara đã sắp đặt việc này, việc Ismael ra đời đã gây ra nơi bà một ghen tuông dai dẳng, đe dọa cuộc sống người nữ tỳ và đứa con trai. Ismael buộc phải chạy trốn cùng với mẹ vào sa mạc. Nhưng thiên sứ Chúa đã ra lệnh cho Agar và con trai bà trở về với Abraham. Ít lâu sau, Sara và Abraham có một đứa con mang tên Isaac, có nghĩa "Chúa đã cười".

Sara muốn đưa Isaac thành người thừa kế Abraham duy nhất, nên đã đuổi Ismael và bà mẹ vào sa mạc cách dứt khoát.

Theo Kinh Thánh, người con trai duy nhất hợp pháp theo lời hứa Giao Ước là Isaac. Tuy nhiên, Ismael cũng được hứa hẹn có dòng dõi, nhưng khác với Isaac, lời hứa thiêng liêng này chỉ được đưa ra sau khi đứa trẻ ra đời (St 16, 10-11).

Người Do Thái coi Isaac là tổ phụ và là người truyền lại lời hứa Giao Ước. Kinh Thánh khẳng định mặc dù Sara đã tỏ có thái độ nhưng Chúa đã không bỏ rơi Ismael, và còn mặc khải cho cậu một giếng nước để sống. Isaac nổi tiếng nhờ nguồn gốc là con trai Abraham và tất cả dòng dõi Giao Ước đều qua ông. Isaac qua đời ở tuổi một trăm tám mươi.

 

 

Bài đọc thêm

Các nhà Hiền triết suy niệm về Ápraham

Các nhà hiền triết suy ngẫm về những câu hỏi lớn con người đặt ra và hình ảnh "các tổ phụ" không vắng mặt trong suy niệm.

Huấn ca 44,18-21.

"Không ai được tạo ra trên mặt đất giống như ông Nôê, vì ông hoàn hảo và công chính." (câu 18). Nôê được mô tả công chính và hoàn hảo trong Sáng thế 6,9. Thiên Chúa lập giao ước với Nôê sau đại hồng thủy (St 9,8-17). "Vì thế, có lời thề sẽ không tiêu diệt mọi xác phàm bằng nước lụt nữa." (câu 19). Lời hứa xuất hiện trong giao ước Thiên Chúa với Nôê (St 9,11). Cầu vồng là dấu chỉ giao ước, nhắc nhở lời hứa (St 9,12-17). "Giao ước muôn đời được lập với Ápraham, lời thề nguyền với Isaác được đứng vững như luật Môsê" (câu 20). Giao ước với Ápraham được lập trong Sáng thế 15,18 và 17,1-14. Lời thề với Isaác được nhắc đến trong Sáng thế 26,3-5. Luật Môsê ám chỉ Giao ước Xinai (Xh 19-24), được coi tiếp nối các giao ước với tổ phụ. "Giao ước cũng được ban cho Giacóp, trở thành quyền lợi cho Ítraen, để thành giao ước muôn đời" (câu21). Giao ước được tái lập với Giacóp trong Sáng thế 28,13-15 và 35,9-12. Tên "Ítraen" được đặt cho Giacóp sau khi ông vật lộn với Thiên Chúa (St 32,29). "Giao ước muôn đời" gợi nhớ đến tính vĩnh cửu Giao ước với các tổ phụ (St 17,7.13.19). "Người phán cùng Ápraham rằng: 'Ta sẽ ban cho con cháu ngươi đất Canaan, phần đất của ngươi, làm gia sản'" (câu 21). Lời hứa ban đất Canaan cho dòng dõi Ápraham xuất hiện nhiều lần (St 12,7; 13,14-17; 15,18-21; 17,8). Lời hứa được lặp lại với Isaác (St 26,3-4) và Giacóp (St 28,13; 35,12).

Như vậy, Huấn ca 44,18-21 tóm lược rất súc tích các truyền thống chính yếu trong Sáng thế 12-25, bao gồm hình ảnh các tổ phụ công chính (Nôê, Ápraham), các giao ước Thiên Chúa (với Nôê, Ápraham, Isaác, Giacóp/Ítraen), lời hứa về đất đai, và tính liên tục giữa các giao ước. Đoạn văn cho thấy tầm quan trọng các truyền thống tổ phụ như nền tảng cho đức tin và lịch sử ơn cứu độ Ítraen.

Những gì Huấn ca bỏ qua hoặc không nhấn mạnh. Các chi tiết cụ thể về cuộc đời và hành trình từng tổ phụ (ví d: hành trình Ápraham từ Ur, cuộc chiến Ápraham với các vua, cuộc đời Isaác và Giacóp...). Những lúc các tổ phụ thể hiện yếu đuối, thiếu tin và phạm tội (ví dụ Ápraham nói dối về Sara, Giacóp lừa Êsau và Isaác...). Các xung đột và mâu thuẫn trong gia đình các tổ phụ (ví dụ Sarai và Hagar, Êsau và Giacóp...). Các nghi thức và dấu chỉ cụ thể giao ước (ví dụ phép cắt bì, sự thay đổi tên...). Các lời Thiên Chúa hứa khác ngoài lời hứa về đất đai (ví dụ lời hứa về một dòng dõi đông đảo, về chúc lành cho muôn dân...).

Có thể thấy Huấn ca đã tóm lược các truyền thống tổ phụ theo một cách có chọn lọc, với mục đích nêu bật những chủ đề chính yếu: sự công chính của tổ phụ, giao ước và lời Thiên Chúa hứa, tính liên tục của giao ước, và đất hứa Canaan. Những chủ đề được coi là nền tảng cho đức tin và bản sắc Ítraen.

Trong khi đó, Huấn ca lược bỏ hoặc không nhấn mạnh những chi tiết lịch sử cụ thể, những khía cạnh "nhân tính" các tổ phụ, cũng như một số nội dung khác của giao ước. Điều cho thấy mục đích tác giả không phải thuật lại toàn bộ các truyền thống tổ phụ, nhưng trình bày một cách cô đọng tinh thần và ý nghĩa thần học cốt lõi các truyền thống.

Cách tóm lược phù hợp với thể loại văn chương khôn ngoan sách Huấn ca, vốn nhấn mạnh những bài học luân lý và tôn giáo rút ra từ lịch sử và truyền thống. Và cũng cho thấy phát triển nền thần học Ítraen, với việc các truyền thống tổ phụ được đúc kết, hệ thống hóa và truyền lại dưới một dạng súc tích, dễ nhớ và mang tính giáo huấn cao.

Trong Tân ước có văn bản thư Do Thái 11,8-12 và 17-19 có chút khác biệt với Huấn ca. Khi so sánh Huấn ca 44,18-21 với thư Do Thái 11,8-12 và 17-19, có thể thấy một số điểm tương đồng và khác biệt trong cách nhấn mạnh:

Điểm tương đồng: Cả hai bản văn đều nêu bật vai trò Ápraham như tấm gương về đức tin, và đều đề cập đến lời Thiên Chúa hứa về một dòng dõi đông đảo và đất hứa.

Điểm khác biệt về nhấn mạnh. Trọng tâm đức tin: Huấn ca nhấn mạnh các tổ phụ công chính và hoàn hảo (đặc biệt là Nôê và Ápraham) cũng như các giao ước và lời Thiên Chúa hứa. Thư Do Thái tập trung vào đức tin như vâng phục, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, ngay cả khi không thấy được ứng nghiệm (Dt 11,8) và sẵn sàng từ bỏ điều quý giá nhất (Dt 11,17). Nội dung đức tin: Huấn ca nêu bật lời hứa về đất Canaan như nội dung chính yếu giao ước. Thư Do Thái nói về lời hứa trong một viễn cảnh rộng hơn: một "thành trì có nền móng" (Dt 11,10), một "quê trời" (Dt 11,16), một phần thưởng (Dt 11,19). Đất hứa trở thành biểu tượng cho ơn cứu độ. Đối tượng đức tin: Huấn ca nhìn đức tin các tổ phụ trong mối liên hệ với giao ước và lịch sử cứu độ Ítraen. Thư Do Thái nhìn đức tin Ápraham trong ánh sáng mầu nhiệm Đức Kitô và ơn cứu độ cho mọi dân tộc. Ápraham trở thành mẫu mực cho đức tin Kitô giáo. Thử thách đức tin: Huấn ca không nêu bật các thử thách hay khó khăn trong cuộc đời các tổ phụ. Thư Do Thái nêu rõ thử thách lớn nhất đối với đức tin Ápraham: việc hiến tế Isaác (Dt 11,17-19). Chính trong thử thách đức tin ông đạt đến đỉnh cao.

Như vậy, Huấn ca đọc các truyền thống về Ápraham từ góc nhìn lịch sử cứu độ Ítraen, trong khi thư Do Thái đọc từ góc nhìn Kitô học và cánh chung học. Cả hai bản văn với những nhấn mạnh khác nhau, đều làm nổi bật vai trò Ápraham như tấm gương đức tin cho mọi tín hữu.

Khôn ngoan 10,5 với lời cảm động: "chính Đức Khôn Ngoan đã giữ gìn Ápraham không vết nhơ và cho phép ông mạnh mẽ hơn tình yêu thương của mình dành cho con trai."

Khôn Ngoan 10,5 nằm trong một tác phẩm được viết vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nhắm đến cộng đồng Do Thái ở Alexandria, Ai Cập. Đoạn văn thuộc chương 10, nơi tác giả minh họa khôn ngoan Thiên Chúa đã hướng dẫn và bảo vệ các nhân vật quan trọng trong lịch sử Do Thái. Mặc dù không nêu tên cụ thể, câu văn được hiểu nói về Ápraham, tổ phụ đức tin, nhấn mạnh khôn ngoan thiêng liêng đã bảo vệ Abraham khỏi tham lam và bất công của những người khác, giúp ông duy trì công chính. Đoạn văn còn gợi ý ngay cả những người công chính cũng phải đối mặt với thử thách, nhưng với Thiên Chúa hướng dẫn có thể vượt qua. Và cũng là một phần câu chuyện lớn hơn về cách Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử để hướng dẫn và cứu chuộc dân Ngài. Đối với những người có thể đang phải đối mặt với các thách thức về văn hóa và tôn giáo, đoạn văn có thể đã được hiểu như một lời khuyến khích giữ vững đức tin và công chính. Trong bối cảnh rộng lớn hơn sách Khôn Ngoan qua đoạn này nhấn mạnh tầm quan trọng việc tìm kiếm và sống theo khôn ngoan Thiên Chúa, đặc biệt trong những thời điểm khó khăn và thử thách.

Điều sẽ mở ra cho các Kitô hữu một hướng suy tư rất phong phú. Trong Đức Khôn Ngoan, một ngày nào đó họ sẽ nhận ra chính Chúa Giêsu.

 

Bài viết khác