Ngày Sabbat - ngày Chúa Nhật
Nhóm chúng con vẫn thường học hỏi Kinh Thánh, lâu nay có một thắc mắc muốn hỏi Cha về ngày Sabat và ngày Chủ Nhật. Hai ngày này có khác biệt nhau không. Nếu như ngày Chủ nhật đúng là ngày Sabat của người Do Thái thì việc giữ ngày thứ bảy có vẻ phù hợp hơn?
Nhóm học hỏi Thánh Kinh (Strasbourg)
Nhà học giả S.Bacchiocchi thành viên của Giáo Hội Cơ đốc Phục Lâm viết cả một cuốn sách nghiên cứu về ngày Sabbat và ngày Chúa nhật và ông kết luận giữ ngày Sabbat (xem, From Sabbath to Sunday. A historical investigation of the Rise of Sunday Observance in early Christianity, Roma, 1977). Thế nhưng những luận đề của Bacchiocchi cũng không được mọi người chấp nhận. Vấn đề vẫn còn nhiều khó khăn.
Trước khi nói về ý nghĩa ngày Chúa nhật, tôi tóm lược vài ý chính về ngày Sabbat Do Thái giáo.
A: Ngày Sabbat.
Theo nguyên từ tiếng Hy Bá có nghĩa là nghỉ ngơi (Sáng Thế 2,2-3). Từ cổ xưa, đối với người Do Thái ngày thứ bảy trong tuần là một ngày đặc biệt được dành để hoàn thành những lề luật theo nghi lễ. Tới thời kỳ nước Do Thái thành một vương quốc (1000-931), có vài đoạn Kinh Thánh Cựu Ước ghi ngày Sabbat được thực hành như sau: - ngày Sabbat không được buôn bán (Amos 8,5) - đi viếng thăm “người của Thiên Chúa” (2Vua 4,23) Bướcsang thời kỳ lưu đày (587-538), Sách Thứ Luật ghi ngày Sabbat gợi lại sự giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Dân chúng vui mừng tìm lại tự do do bàn tay Thiên Chúa.
Từ đây ngày Sabbat là một trong những dấu chỉ đặc thù đức tin của người Do Thái. Ngày Sabbat biến chuyển thành một ngày được thánh hoá (Xuất Hành 20,8-11; 31,13-17) và cần phải tránh làm mọi việc (Xuất Hành 23,12: 34,12). Ngay cả Giavê Thiên Chúa cũng tuân giữ ngày Sabbat như trong đoạn văn Sáng Thế về sự Sáng Tạo (ST 2,1-3); trong ngày Sabbat Thiên Chúa cũng không phân phát Manna cho dân Do Thái trên đường về Đất hứa (Xuất Hành 16,23-30). Sự nghỉ ngơi của Đấng Tạo Hoá được coi như lý do căn bản của luật ngày Sabbat (Xuất Hành 20,8-10). Ngôn sứ Isaia chỉ trích lối tuân giữ ngày Sabbat cho có lệ, trong thị kiến ông đã hạch tội những người đạo đức giả: “thôi đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương. Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày Sabbat, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác, rồi cứ lễ lạt linh đình” (Is 1,13).
Sau thời lưu đày, khi có một số người Do Thái giữ ngày Sabbat gắt gao hơn nữa thì cũng có một số khác không ngại cho những ngoại lệ (1Maccabê 2,31-41; 2Maccabê 15,2-4); nhưng dần dà Do Thái giáo càng tuân giữ nghiêm ngặt ngày Sabbat và ngày này được đánh dấu bằng những buổi họp cầu nguyện (Lêvi 23,1-3)
Đến thời Chúa Giêsu, chính vì những sự chính xác tỉ mẫn của những lề luật trên đã gây những lý do tranh cải chống đối giữa Chúa Giêsu và nhóm Pharisêu. Chúa Giêsu tuân giữ ngày Sabbat và tham dự những buổi họp ở hội đường (Mt 6,2; Lc 4,16-31), nhưng Ngài chỉ trích người Pharisêu đặt quan trọng quá đáng vào ngày Sabbat. Họ cấm ngay cả những việc làm bác ái trong ngày Sabbat như việc lên án Chúa Giêsu chửa bệnh. Ngài đã phải lên tiếng: “ngày Sabbat được lập ra vì loài người chứ không phải loài người được dựng nên vì ngày Sabbat. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbat” (Mc 2, 27-28).
Giáo Hội tiên khởi cũng dần dần vượt khỏi cách giữ ngày Sabbat của người Do Thái. Thánh Phaolô, trong thư gưi tín hữu Côlôsê đã khuyên cáo: “Vậy đừng ai xét đoán anh em về chuyện đồ ăn, thức uống, hay về mục ngày lễ, ngày đầu tháng, ngày Sabbat: tất cả những cái đó chỉ là hình bóng những điều sắp tới, nhưng thực tại là thân thể Đức Kitô” (Col. 2,16-17). Đối với tín hữu Galát muốn quay về những lề thói yếu hèn và không giá trị, Thánh Phaolô viết: “nay anh em đã biết Thiên Chúa, hay đúng hơn được Thiên Chúa biết đến, làm sao anh em còn trở lại những yếu tố bất lực và nghèo nàn ấy, còn muốn làm nô lệ chúng một lần nữa? Anh em cẩn thận giữ ngày, giữ tháng, giữ mùa, giữ năm! Anh em làm tôi sợ rằng tôi đã vất vả uổng công vì anh em (Galát 4,9-11).
Tóm lại, các môn đệ cũng như Giáo đoàn tiên khởi đã nhìn thấy ngày hôm sau của ngày Sabbat là ngày của một sáng tạo mới và họ gọi ngày đó là ngày của Chúa (Khải Huyền 1,10).
B. Ngày Chúa Nhật.
Các sách Tin Mừng đều gọi ngày Chúa nhật là ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh: “Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ” (Mc 16,2). “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Magđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỉ” (Mc 16,9). “Sau ngày Sabbat, khi mới lên đèn, bước sang ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Maria Magđala và mộ bà khác cũng tên là đi viếng mồ” (Mt 28, 1-7) “Ngày thứ nhất trong tuần, trời vừa tảng sáng, nhóm phụ nữ đi ra mồ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (Lc 24,1) Tin Mừng theo thánh Gioan khẳng định những lần Chúa Giêsu hiện ra đúng vào ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20,19.26) “Vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi ở của các môn đệ đều đóng cửa chặt chẽ vì các ông sợ người Do-Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa họ và nói: Chúc anh em được bình an!...”Thánh Luca còn ghi thêm Chúa Giêsu hiện ra trò chuyện cùng hai môn đệ trên đường Emmau ngay ngày Người Phục Sinh (Lc 24,13). Ngoài ra những đoạn Tin Mừng về sự hiện ra cũng thường ghi sự kiện Chúa Giêsu chia sẻ bữa ăn với các môn đệ. Với hai môn đệ trên đường Emmau, Ngài cần lấy bánh, đọc lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ (Lc 24,30), và họ nhận ra khi Ngài bẻ bánh (Lc 24,35). Chúa Giêsu còn hiện ra lúc các tông đồ đang hội họp và ăn cá nướng trước mặt các ông (Lc 24,42-43). Tất cả đều xảy ra ở ngày thứ nhất trong tuần.
Lúc ban đầu, chắc chắn các Kitô hữu tại Palestine vẫn tiếp tục giữ ngày Sabbat như người Do Thái. Ngoài ngày hưu lễ ra, họ cảm nhận nhu cầu tưởng niệm biến cố Phục Sinh và họp để bẻ bánh (fractio panis). Nghi thức này rất có thể làm ngay chiều ngày thứ bảy hoặc rạng đông ngày hôm sau. Ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày kế tiếp của ngày Sabbat nhanh chóng trở thành ngày ưu đải của người Kitô hữu. Họ gọi đó là ngày của Chúa (Kuriakè hèmena).
Sách Tân ước có ba đoạn văn ghi những dấu tích đầu tiên về sự chọn lựa ngày Chúa nhật như ngày đặc huệ của người Kitô hữu: Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô vào khoảng năm 55, Thánh Phaolô ấn định một ngày cho việc lạc quyên giúp những người nghèo ở Giêrusalem. Công việc bác ái này phải làm trong ngày thứ nhất trong tuần: “Về việc quyên tiền giúp các người thuộc Dân Thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội Thánh ở Galata như thế nào, thì anh em cũng hãy thi hành như vậy, ấy là: ngày thứ nhất trong tuần, anh em mỗi người hãy trích riêng ra một nơi những gì đã may mắn dành dụm được, chớ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên (1Cor 16,1-2).
Theo sách Tông đồ công vụ, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ Ba, Thánh Phaolô đến thành Troas. Thánh Luca cũng đến ở đây một tuần lễ: “ngày thư nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau làm lễ bẻ bánh” (Cv 20,7.11). Sang đến đầu thế kỷ thứ II, tác giả sách Khải Huyền đã ghi trong thị kiến khai mào mạc khải. Ông thấy Chúa Kitô sống lại và quang vinh trong ngày của Chúa (kuriakè hèmana). Tĩnh từ Kuriakè (của Chúa) cũng đã được Thánh Phaolô dùng một lần trong thư nhất gửi tín hữu Côrintô nói vễ bữa Tiệc Ly của Chúa với môn đệ: “Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa” (1Cor 11,20). Như vậy, ngày Chúa Nhật đã trở thành một ngày cố định, ngày Phụng Vụ (Bẻ Bánh), ngày giáo đoàn hội họp nhau lại để nghe giảng dạy, ngày làm việc bác ái trong các giáo đoàn sơ khởi.
Ngoài những chứng từ đến từ Tân ước, chúng ta còn những chứng từ cổ khác nói về những buổi họp phụng tự hằng tuần của người Kitô hữu như sách Didachè: “khi anh em họp, ngày của Chúa, hãy bẻ bánh và tạ ơn, sau khi đã xưng tội lỗi” (14,1) Thánh Inhatiô thành Antiokia (thế kỷ thứ II) cũng cho biết việc giữ ngày Chúa Nhật như đặc điểm của người Kitô hữu: Những người khi trước sống theo trật tự cũ, nay đã đạt tới niềm hy vọng mới bằng cách không giữ ngày Sabbat nữa, nhưng là sống ngày Chúa Nhật, ngày mà đời sống chúng ta được trổ sinh Chúa Kitô chịu chết và Phục sinh (Ad Magnésiens 9,1-2). Thánh giáo phụ Justinô (khoảng năm 165) cũng còn ghi: “tất cả chúng tôi họp trong ngày của Chúa, vì đó là ngày thứ nhất mà Thiên Chúa lấy vật chất từ tăm tối tạo dựng thế giới, và cũng cùng ngày đó, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta đã phục sinh từ cõi chết” (1Apol.67,6).
Ngoài những chứng từ đến từ những người trong Kitô giáo, đặc biệt còn có chứng cớ hùng hồn của vị quan ngoại giáo Pline le Jeune, tổng trấn xứ Bithinia, miền Tiểu Á. Ông này có nhiệm vụ điều tra về các hoạt động của người Công giáo gửi cho Hoàng đế Trajan: “Các người Kitô hữu đang bị giam đã quyết rằng: tất cả lầm lỗi của họ chỉ ở chổ họ hội họp nhau vào ngày nhứt định, trước lúc hừng đông để cùng nhau ca hát tôn vinh Chúa Kitô là Chúa” (thư của Pline le jeune gửi cho hoàng đế Trajan). Người giáo dân thời đó đã ý thức rõ bổn phận phải tham dự buổi họp Phụng Vụ trong ngày Chúa Nhật. Và việc tham dự đó có thể nguy hiểm tới tính mạng, nhưng họ bất chấp như chuyện 31 đàn ông và 18 đàn bà bị điệu ra Tổng trấn Carthage ngày 12/2/304 về tội hội họp bất hợp pháp trong ngày Chúa Nhật. Linh mục Saturninus đã cung khai trước toà: “Bổn phận của chúng tôi là cử hành ngày của Chúa. Đó là luật lệ của chúng tôi”. Chủ nhà Emeritus, người đã vui lòng dùng nhà mình làm nơi hội họp, thú nhận: “Phải, anh em bị bắt ở đây đã cử hành ngày của Chúa trong ngôi nhà của tôi. Chúng tôi không thể sống mà không cử hành ngày của Chúa được”.
Tóm lại, ngày thứ nhất trong tuần chính là ngày Chúa nhật. Ngày này gợi hình ảnh Thiên Chúa sáng tạo ánh sáng ở ngày đầu tiên (Sáng Thế 1,3-5). Ngày đó ánh sáng đã chiến thắng tăm tối. Ngày thứ nhất trong tuần còn mang ý nghĩa ánh sáng Chúa Kitô đã thắng sự chết và khai mào một sự sáng tạo mới.
- Ngày Chúa Nhật không phải là ngày Sabbat của Do Thái giáo và được bắt nguồn từ mầu nhiệm Phục Sinh. Chúa Nhật là ngày Hội Thánh mừng kính Chúa Phục Sinh. Như vậy nội dung và đối tượng của ngày Chúa Nhật của Giáo Hội Công giáo là mầu nhiệm Vượt Qua.
Công đồng Vaticanô II dạy: Theo tông truyền bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Phục Sinh vào mỗi ngày thứ Tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật. Thật vậy, trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, Sống Lại và Vinh quang của Chúa Kitô, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã dùng sự Phục Sinh của Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động. Vì vậy, ngày Chúa Nhật là ngày lễ Nguyên thủy, phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc. Các cuộc lễ khác nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không được lấn át ngày Chúa Nhật, bởi vì ngày Chúa Nhật là trung tâm và nền tảng của cả năm Phụng Vụ. (HCPV.106)
- Đối với các Thánh giáo phụ, các ngài thích gọi Chúa Nhật là ngày thứ Tám vì nó gợi lên hình ảnh thế giới vĩnh cửu, bửa tiệc nước trời mà Chúa Kitô hứa cho những ai sống trung thành với Chúa ở cõi trần mau qua này. Những hàng gợi ý trên cho thấy giá trị thần học ngày Chúa nhật và mong chúng ta ý thức hơn trong đời sống đức tin. Nếu ngày Sabbat tưởng nhớ lại sự Sáng tạo, Lời giao ước thì ngày Chúa nhật không những bao gồm những giá trị của ngày Sabbat, lại còn mang ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là ngày tưởng niệm ơn Cứu chuộc, báo trước ngày trở lại vinh quang của Chúa Giêsu.
Lm Thêôphilô