Tôi không biết em từ đâu đến, chỉ thấy em xuất hiện như ma trơi. Em qua nhà tôi với tiếng mõ lốc cốc và cứ âm thầm lặng lẽ bước đi cho tới khi có người ngoắc gọi. Dân phố ở đây hầu như đã quen em từ lâu và họ gọi em bằng một cái tên thật dễ nhớ và thân tình: Thằng Cu Ðen. Năm 1973, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, tôi được biệt phái về Sài Gòn và thuyên chuyển vào ủy ban hỗn hợp quân sự Việt-Mỹ mà mục đích chính là để giúp bàn giao những căn cứ, cơ sở của Mỹ lại cho quân đội Việt Nam. Nhờ có sự giúp đỡ của ủy ban, tôi mua được căn nhà trong cư xá Thủ Ðức và thế là tôi quen em. Nhà tôi ờ có một khu vườn hẹp nhưng chủ nhà cũ đã để sẵn một ghế đá khá rộng. Tuy không tương phản với khu vườn cũng như không có gì thẩm mỹ nhưng vì tuổi trẻ, gặp đâu hay đấy nên tôi cứ để mặc. Ðể mặc như thế và rồi chiếc ghế đã trở thành nơi tựa nương của Cu Ðen trong một thời gian khá lâu. Ban đầu thì Cu Ðen chỉ ghé về ngủ qua đêm, lâu dần không thấy tôi nói gì vả lại tôi cũng đi vắng thường xuyên nên cái ghế đá này đã vô tình trở thành gia cư của em. Cu Ðen đã mua sắm một rương gỗ khá lớn, dặt dưới gầm ghế đá và có khóa hẳn hòi. Một hôm tôi về khuya, thấy em đang chìm trong giấc ngủ an lành, những tiếng ngáy đều đặn và chiếc áo lính rách nát đắp thân em đã rơi xuống đất. Những con muỗi to như những con mộng đang thi nhau hút máu trên khuôn mặt khắc khổ và gày quắt của em. Thấy thương em qúa và tôi khẽ đánh thức em, mời em vô ngủ trong nhà. Từ đó tôi quen em và từ đó em đem cái rương gỗ của em vô để trong nhà bếp. Ngoài nghề đánh giày, em còn kiêm nghề hớt tóc dạo. Em biết cả tẩm quất nên có khá nhiều khách và em chỉ cần làm việc lẩn quẩn trong khu này mà không cần phải đi xa như những em bé đánh giày, hớt tóc khác. Cu Ðen kể với tôi rằng cha em chết trong chiến tranh, mẹ em nghèo khổ phải trần thân nuôi 3 đứa con và vì thế em phải vô cái đất Sài Gòn này để kiếm ăn và dư tiền gửi vế giúp mẹ. Em khai 17 tuổi nhưng em lại có khuôn mặt thơ ngây của đứa bé 15. Em thường than van với tôi rằng em chỉ tiếp tục làm việc được 1 năm nữa mà thôi. Sau đó là đến tuổi đăng lính. Cu Ðen rất hiếu học, tối nào trước khi đi ngủ cũng đem sách vở ra học. Em học gì tôi không biết, chỉ thấy em chong đèn đọc sách và thỉnh thoảng hỏi tôi điều này, điều nọ. Thấy hoàn cảnh nghèo khó tội nghiệp của em, tôi bằng lòng cho em ở hẳn trong nhà và thường thì những khẩu phần lương thực (ration-C) của Mỹ phát, tôi cho em hết. Hoặc em ăn, hoặc đem bán; Tùy em, muốn làm gì thì làm. Bù lại, em chăm sóc nhà cửa rất chu đáo, sạch sẽ. Nhờ em mà căn vườn bé nhỏ của tôi có nhiều cây hoa đẹp và lạ. Em đến đánh giày, hớt tóc ở nhà ai thấy có kỳ hoa, dị thảo là xin về và chẳng mấy chốc mà tôi có một khu vườn hết sức xinh tươi. Em sống với tôi như người thân trong gia đình và chẳng thế mà đã không ít người đặt câu hỏi: "Vì sao tôi lại để em đi đánh giày?". Cu Ðen có tật hay hỏi điều này, điều nọ liên quan tới quân sự, chiến tranh và thường thì tôi trả lời em một cách bâng quơ vì nghĩ rằng đấy chẳng qua là những thắc mắc, tò mò của vị thành niên. Chỉ tới khi em hỏi tên tuổi chức vụ của những người tới thăm tôi, trong đó có các bạn Mỹ thì tôi mới bảo em và cấm em được tò mò như thế! Có điều lạ là Cu Ðen rất tò mò và mặc dầu tôi đã la mắng em nhiều lần về những câu hỏi hiếu kỳ của em nhưng mỗi khi nhà tôi có khách lạ là Cu Ðen hay tìm cách để lân la tới gần. Tôi cho Cu Ðen ở trọ gần một năm thì bỗng nhiên một hôm đi làm về, tôi không thấy Cu Ðen đâu nữa. Chiếc rương gỗ vẫn còn đấy nhưng mở khóa. Bên trong vẫn còn đầy ắp lương khô, một vài cuốn sách toán và tập làm văn lớp ba, lớp tư cùng toàn bộ dụng cụ đồ nghề đánh giày, hớt tóc. Tôi đóan em về quê thăm mẹ hoặc đi thăm bà con đâu đó nhưng vì sao em lại không nói với tôi một lời. Khác với bình thường, mỗi khi đi đâu xa, em thường lễ phép xin và chào tôi rồi mới đi. Hơi thắc mắc nhưng tôi không mấy quan tâm về sự vắng mặt của em. Cả mấy tuần sau vẫn thấy em không về. Tôi đoán có chuyện chẳng lành đã xảy ra cho em hoặc là em bị bắt lính dọc đường. Tôi nhờ đại úùy Thông, một người bạn thân ở trung tâm 3 nhập ngũ tìm giúp nhưng vẫn bật vô âm tín. Tôi ân hận là đã không hỏi kỹ địa chỉ nhà quê của em để liên lạc. Tôi mất hẳn liên lạc với em từ đấy! *** Mấy ngày nay Sài Gòn chìm đắm trong một tình trạng bất ổn và xáo trộn tới tột độ. Hàng phòng ngự của quân đội Việt Nam cộng hòa sau những ngày tháng chiến đấu anh dũng đã bị tràn ngập và những chiếc xe tăng của quân đội cộng sản Bắc Việt cũng đã đè bẹp được tuyến phòng thủ của đồng bào Hố Nai ở Suối Ðỉa và đang trên đường tiến quân về Sài Gòn. Tổng Thống Dương Văn Minh đã lên tiếng hiệu triệu cho quân sĩ buông súng đầu hàng. Quân sĩ và nhân dân rối loạn, nhiều đơn vị quân đội cộng hòa vẫn chiến đấu đơn lẻ ở một vài nơi quanh Sài Gòn, khiến cho trọng phóng cộng quân khạc đạn inh ỏi thanh toán. Quân trang, quân dụng vứt bỏ khắp nơi. Mặc dầu có lệnh buông súng đầu hàng nhưng tại cổng trường sĩ quan Thủ Ðức vẫn còn một đơn vị cộng hòa án ngữ và vào phút cuối cùng của cuộc chiến, một chiếc xe tăng T-54 đã bị bắn cháy tại đây. Quân đội cộng sản đã bao vây toàn khu vực trường sĩ quan và từ bên trong đã có những binh sĩ buông súng ra ngoài quy hàng. Những tiếng súng chiến đấu lẻ tẻ vẫn vang rền và những tiếng súng đại pháo long trời nổ đất vẫn nổ vang trực chỉ nơi có những tiếng súng nhỏ xuất phát. Trên nóc nhà tôi và nhà bên cạnh vẫn còn một ổ chiến đấu nhỏ, hình như của ban hội đồng xã, nghĩa quân thì phải vì họ mặc quần áo hổ lốn. Tôi định trèo lên nóc chiến đấu với họ. Tôi rút khẩu súng ngắn mà anh bạn Mỹ cho tôi đút vội vào lưng quần rồi tìm bậc thang trèo lên nhưng tai tôi nghe tiếng xích xe tăng đã qúa gần. Tôi cảm thấy lạnh người và bủn rủn như mình không còn xương sống. Ở nhà bên cạnh phát ra những tiếng la khóc inh ỏi rợn người và mùi khói khét lẹt. Tôi trờn người lên tường ngóù qua. Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng trứơc mắt. Một thân người đang cháy dở bên cạnh những người khác đang ra sức dập tắt. Những người chiến đấu đơn lẻ trên nóc nhà tôi cũng đã nhảy xuống, họ vứt súng trước cái rãnh nước trước nhà và tiu nghỉu ra đi trong lặng lẽ, buồn thảm.
Dân chúng đứng chặt hai bên đường, bàng hoàng nhìn đoàn xe của quân Bắc Việt tiến tới. Họ đứng nhìn trong câm lặng, hiếu kỳ hơn là để hoan nghênh, đón rước. Tôi trèo lên nóc nhìn ra đường. Những binh khí vẫn còn vứt vung vãi đó đây, tôi thu dọn rồi vứt tất cả xuống rãnh nước. Bỗng tai tôi nghe tiếng reo hò: - Ô thằng Cu Ðen! - Cu Ðen đã về! Nghe nhắc tên Cu Ðen, tôi bàng hoàng nhìn xuống đường, dán mắt vào đoàn quân đang tiến tới. Tôi nghi ngờ mắt mình. Chẳng lẽ thằng Cu Ðen lại oai hùng thế! Nó hùng dũng , oai phong dẫn đầu đoàn quân tiến tới, đứng trong chiếc xe jeep mui trần của quân đội Mỹ vứt lại. Tay nó cầm loa, miệng nó hét vang trời. Người bên đường phân vân bàn tán. Mấy ngày sau đó, khu phố tôi ở họp hành liên miên, ngày nào cũng những lời nói quen thuộc, ngày nào cũng tần ấy câu, tần ấy chữ như chiếc máy thu băng quay đi lập lại một đoạn băng cũ kỹ. Có những hôm có cả Cu Ðen chủ trì phiên họp. Da nó nám đen, mặt nó lạnh như tiền, đứng cạnh nó lúc nào cũng có hai thanh niên mặc đồ màu cứt ngựa, đi dép dâu, tay khư khư khẩu súng AK như sẵn sàng nhả đạn. Có những lúc, Cu Ðen chăm chăm nhìn vào tôi với cái nhìn sắt đá, lạnh nhatï. Mặt nó xanh như vừa bị cắt tiết. Tôi đoán biết nó không còn gì cảm tình với tôi nên mỗi khi bắt gặp cái nhìn của nó là tôi nhìn lảng sang nơi khác.
Những sợ hãi, bẽ bàng chưa hết thì bỗng một hôm khi tôi còn đang chập chờn giấc ngủ thì tiếng dập cửa thôi thúc, dập dồn. Từ ngoài cửa vọng vào: - MởÛ cửa ra ngay! Công an khám nhà! Tôi khiếp hồn, lo sợ! Qua ánh sáng nhen nhúm của đèn đường, tôi thấy lô nhô một lũ người cùng với họng súng AK đen ngòm chĩa vào trong nhà. Tôi vội tìm chìa khóa, chân tay tôi run bần bật tựa hồ đứng không vững. Cánh cửa mở ra, một lũ người ùa vào không nói một lời. Họ bố trí mỗi người một góc, nòng súng dí chỉ vào tôi. Tất cả đều xa lạ ngoài Cu Ðen. Tôi khẽ kêu thầm tên Cu Ðen, nó không trả lời mà tiến thằng tới tra còng vào tay tôi rồi nó đọc lệnh khám nhà và sau đó bắt tôi đi. Cả một lũ người hùng hục khám xét, họ lùng sục mọi nơi mọi chỗ rồi kéo ra trước mặt tôi một rương hòm chứa đầy lương khô Mỹ, một vài bộ đồ lính nhàu nát, đồ nghề hớt tóc đánh giày
Họ kết tội tôi là CIA Mỹ. Cu Ðen đã chất vấn tôi: - Khi xưa anh làm gì cho Mỹ? - Thưa em, anh không làm gì cho Mỹ nhưng vì công việc mà làm chung với họ mà thôi! - Ai là anh em với anh, yêu cầu anh chấm dứt xưng hô như thế! Anh điêu ngoa vừa chứ! Nếu không làm tay sai cho Mỹ tại sao anh lại đưa Mỹ về nhà họp hành rồi ăn toàn lương khô Mỹ? - Thưa cán bộ! Tôi không hề họp hành với người Mỹ ở nhà tôi nhưng vì là chỗ quen biết nên thỉnh thoảng họ có đến nhà thăm tôi. - Anh đừng láo! Ðã có biên bản hẳn hòi và qua báo cáo của nhân dân, anh đúng là tay sai của Mỹ. Tang vật còn đầy rẫy trước mặt, anh còn chối cái làm gì? - Yêu cầu các đồng chí đưa nó lên xe và niêm phong căn nhà cũng như đưa tất cả tang vật theo hắn về cơ quan điều tra.
Tôi trở về lại Sài Gòn sau gần hai chục năm trời xa cách. Tôi về ngang căn nhà xưa của tôi. Nhà bây giờ ai ở mất rồi. Tường cao đã che phủ kín khu vườn. Tôi tìm cách nhìn vào trong nhưng tường cao qúa! Tôi bâng quơ nghĩ lại bao kỷ niệm của năm xưa, tôi nhớ tới thằng Cu Ðen. Tôi nhớ đến những lúc tôi cho nó ăn những hộp lương khô của Mỹ. Tôi nhớ lại cái giây phút mà nó ăn những hộp lương khô này một cách ngon lành giống như người đã nhịn ăn nhiều ngày. Tôi nhớ đến những lúc nó ở chung với tôi, nhớ đến ngày mà tôi vắng tin nó! Nhớ đến những lúc tôi chạy hết nơi này, chốn nọ để hỏi tìm tin tức của nó và buồn thay nhớ những lúc nó dẫn đầu đoàn quân chiến thắng về thành, nhớ những lúc nó vặn hỏi tra khảo tôi về những hộp lương khô mà chính những hộp lương khô này đã nuôi sống nó trong một thời gian dài. Tôi bàng hoàng nhớ lại cái lúc mà thằng Cu Ðen tra còng lạnh toát vào cườm tay tôi dẫn đi với những hộp lương khô và hòm dồ nghề của nó. Tôi đau lòng và nước mắt tuôn rơi. Tôi lặng lờ bước vô nhà một người hàng xóm. Họ nhận ra tôi, chúng tôi ôm nhau khóc ngất rồi họ kể cho tôi nghe đủ điều. Ðặc biệt nhất là tin tức về thằng Cu Ðen: - Chú biết không? Khi chú đi rồi thì một thời gian sau Cu Ðen được thăng thưởng về huyện giữ chức gì đó! Chắc là quan trọng lắm! Thỉnh thoảng nó có về khu phố mình họp hành và la hét khiếp lắm! - Tội nghiệp cho chú! Cả khu phố này người ta oán ghét thằng Cu Ðen. Ðúng là làm ơn mắc oán! Ai đời người ta nuôi sống rồi báo ơn người ta như vậy đó! Bà Sáu mẹ của anh Bảy hàng xóm của tôi thêm vào: - Ðúng là qủa bão nhãn tiền! Hại đời người ta, người ta không sao bây giờ mình là ăn mày không xong. - Uûa mà làm sao vậy Sáu! Thấy lạ, tôi hỏi. Vợ anh Bảy nhanh miệng trả lời: - Còn sao nữa! Làm oán thì mắc oán chứ còn làm sao? Khi thằng Cu Ðen lên huyện một thời gian thì nó ăn tiền hối lộ sao đó nên bị khiển trách và bị đổi về mãi tận miệt vườn rồi ăn nhậu bừa bãi nên bị đuổi ra khỏi đảng về làm dân Anh Bảy tiếp lời vợ: - Thằng Cu Ðen bị khiển trách, hận đời đâm ra chơi bời ăn nhậu. Nó tìm lại những người quen biết xưa nhưng không ai muốn kết thân với nó. Nó lại càng buồn, càng ăn nhậu dữ. Bị đuổi ra khỏi đảng một thời gian thì nó bị nạn. Nó nhậu qúa rồi bị đứt gân máu não và sau một thời gian sau thì bệnh tình tuy đở nhiều nhưng nó bị lâm chứng bán thân bất toại. Rồi nó đi ăn xin làm lẽ sống. Nay phố này, mai phố khác
.. Nghe đến đây tôi cảm thấy đau nhói trong tim va khắp người tôi nóng bừng, chân tay tôi nhức buốt. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho thằng Cu Ðen qúa! Ðầu óc tôi rối bời và không muốn nghe thêm nữa. Tôi kiếu từ gia đình người hàng xóm ra về và hẹn gặp họ lại vào một dịp khác. Tôi bước đi chuyệnh choạng, lảo đảo. Ðầu óc tôi nặng trĩu rối bời: "Tội nghiệp cho thằng Cu Ðen qúa! Tìm nó ở đâu bây giờ?". Chân tôi bước vào một tiệm ăn một cách rất vô thức. Bụng tôi rỗng toác nhưng không buồn ăn. Tôi kêu đại một tô phở lót lòng mà đầu óc quay cuồng những hình ảnh của thằng Cu Ðen khi nó còn ở chung với tôi. Ðôi khi những hình ảnh nó bắt tôi đi, nó tra hỏi, ngược đãi tôi hiện về nhưng tôi cố xua đuổi. Tai tôi nghe đâu đây lời ca ai oán của người ăn xin hòa cùng một tiếng đàn lê thê ảm đạm. Người ăn xin có lẽ đã gục đầu dưới chân tôi từ lâu mà tôi không để ý! Tôi nhìn xuống thấy chiếc nón nỉ rách tả tơi trên một thân hình gầy xọm và rách rưới. Lời ca than cứ thế lại trổi vang thật não nùng, ai oán. Tôi móc bóp lấy đại mấy đồng tiền vừa đổi đặt nhẹ trên bàn tay gân guốc và đen đủi của người hành khất. Có lẽ vì qúa cảm động vì một món tiền khá hời nhận được nên người ăn xin gục lạy tôi nhiều lần. Tôi không nỡ để ông ta làm thế! Tôi nhổm dậy kéo ông đứng lên. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi cảm kích. Tôi nhìn ông như quen thuộc. Bốn mắt dán chặt vào nhau. Tôi thấy ông ta quen quen và có lẽ ông ta cũng thấy thế! Rồi hình như ông nhận ra tôi, lạnh lùng quay mặt bước đi. Tôi thấy ông bước đi run rẩy như có điều bất ổn trong lòng. Tôi nhìn ông có cái tai quen thuộc. Cái rái bị cắt đứt một phần. Tôi nhận ra đúng là nó! Bật miệng kêu to: - Cu Ðen Người hành khất giật mình sợ hãi quay lại. Mặt ông ta xanh ngắt không còn hột máu. Ông ta đứng chết trân run rẩy. Cái nón rách run bắn khỏi tay ông, để lộ một khuôn mặt đen thui cháy nắng. Tôi cảm động qúa! Tiến tới ôm chật ông vào lòng và miệng tôi mấp máy: - Cu Ðen ơi! Cu Ðen!
Hoàng Ngọc Lễ
|