Một chuyến đi tìm hoài niệm
(Hình: Steve Douglas/Unsplash)
Một trong những thú vui của tôi khi về thăm Việt Nam là được lang thang một mình. Hoàn toàn tự do không bị gò bó với thời gian, nơi chốn hay phải theo một chương trình đã được xếp đặt trước cho cả nhóm. Với tôi, rất đơn giản chỉ khoác lên vai cái ba lô nho nhỏ đựng hai bộ quần áo, vài vật dụng cá nhân, thế là đủ cho một cuộc du hành thích thú, hợp với bản tính lang bạt cố hữu của mình.
Mấy chục năm sống và làm việc ở hải ngoại, phải chạy đua với thời gian, công việc đầy nhàm chán của đời sống kỹ nghệ, tôi không muốn về Việt Nam để lập lại những gò bó khó chịu đó nữa. Tôi cũng không thích, thật ra cũng có chút dè xẻn, kiết chi mà không muốn cư trú ở một khách sạn sang trọng nhiều sao. Với tôi khi về Việt Nam, những cái hoa lệ đó thật nhàm chán, vô vị. Tôi muốn về để tìm lại những cái rất đơn sơ, mộc mạc mà ngày xưa tôi đã lầm lẫn coi thường mà không nhìn được giá trị của nó. Chẳng có gì thích thú hơn.
Ban đêm nằm trên chiếc chõng tre, trong một chiếc màn chống muỗi, nghe tiếng côn trùng ca vang, rúc rỉa như ru ngủ trong căn nhà mái lá, vách rơm trộn đất ở miền quê. Ban ngày len lỏi giữa những rạch nước đục phù sa trong những cồn đất giữa dòng sông bằng chiếc thuyền nho nhỏ. Khi mệt mỏi, đói bụng tạt vào quán ăn bên sông hay trên con đường mòn đồng quê, thưởng thức những món ăn dân dã, đặc sản của địa phương… Tất cả là những nét đẹp tuyệt vời của thiên nhiên mà tôi chưa một lần nào lãng phí, bỏ qua mỗi khi có dịp về thăm quê.
Với cách du lịch đó, Tháng Tư năm 1995, tôi làm một chuyến đi xuống miền Tây Nam Bộ, nơi mà tôi đã có rất nhiều kỷ niệm trong vài năm cuối đại học và bốn năm bước vào đời công chức, khởi đầu con đường quan lộ của mình.
***
Vĩnh Long, thành phố đầu tiên tôi dừng chân, vào buổi xế trưa, dưới cái nóng như đổ lửa của một ngày nắng gắt. Công việc đầu tiên là tìm một khách sạn nho nhỏ gần trung tâm thành phố nghỉ ngơi bù lại nỗi khổ cực sau gần 3 tiếng đồng hồ bị nén trong chiếc xe đò chật chội.
Chính nơi đây tôi đã có một mối tình đúng nghĩa với Vân, một cô giáo trong thị xã.
Như phần lớn những cuộc tình, ban đầu chúng tôi cũng gặp những khó khăn, thách đố của hoàn cảnh. Đôi lần chúng tôi đã có cảm giác buông xuôi, để mặc cho cuộc tình đi vào đổ vỡ. Nhưng với sự lớn khôn và cứng mạnh của tình yêu đã giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn. Chúng tôi dự tính sẽ thành hôn sau khi tôi hoàn tất công tác dài hạn ở hải ngoại trở về. Nhưng thời gian xa cách kèm theo những đổi dời của thời thế, cuối cùng mối tình của tôi và Vân chỉ là một giấc mơ không bao giờ thành sự thật. Ngày tôi từ giã Vân ra đi cũng là ngày buồn bã khởi đầu một lỡ làng dẫn đến vĩnh biệt xa nhau. Chuyến đi này, đến Vĩnh Long tôi muốn tìm lại những nơi mà ngày xưa chúng tôi đã sống, đã đi qua để mong được sống lại với những dấu tích kỷ niệm của một thời hạnh phúc nhất trong đời tôi.
Sau giấc ngủ trưa khá dài, mệt nhọc đã được lấy ra khỏi cơ thể, tôi làm một cuộc đi dạo để khởi động ký ức của mình về thành phố Vĩnh Long nhiều kỷ niệm này, nhìn lại những con đường ngày xưa, nơi đó vẫn còn mang đầy dấu vết của những năm tháng chúng tôi bên nhau. Bầu trời đã chớm hoàng hôn, nhưng hình như cái nóng gay gắt Tháng Tư chẳng có dấu hiệu gì thuyên giảm. Một góc phố, bến đậu xe lam trong thị xã hay vài quán cà phê nào đó ở trung tâm… Dù ngày nay thay đổi khá nhiều nhưng vẫn còn mập mờ trong trí nhớ, kéo tôi về với cảm giác hoài niệm của một thời đẹp đẽ, hoa mộng trong đời tôi.
Gần mấy tiếng đồng hồ lang thang, mệt mỏi đã thúc giục tôi phải tìm một chỗ nghỉ chân, uống nước. Hoàng hôn thật sự đã biến mất, cái nóng rát buổi chiều gần như đã được đuổi đi bằng làn gió dễ chịu, thoáng mát của trời đêm. Hàng cột đèn đường đã bật sáng, ánh điện cũng chỉ đủ tạo ra vẻ mù mờ của không gian. Hàng quán lưu động trên những chiếc xe thô kệch với những bộ bàn ghế thô sơ, thấp lè tè được bầy la liệt trên lề đường, dọc theo bờ sông. Những chiếc đèn dầu của những “chiếc xe hàng ăn” chiếu ra những ánh lửa bập bùng khi gió thổi. Trong cái bóng tối mông lung nhập nhèm đó, tiếng cười đùa, cụng ly, mời nhau uống rượu từ những nhóm khách ăn nhậu làm cho không gian trở nên náo nhiệt. Hoạt cảnh đó là bức tranh độc đáo rất giống nhau ở hầu hết các thành phố miền nam sông nước Cửu Long, nơi mà thực phẩm chẳng bao giờ thiếu thốn.
Tìm được chiếc bàn gần bờ sông, đưa mắt dõi theo những đám bèo lục bình bập bồng di chuyển theo dòng nước. Cảm giác cô đơn đã kéo trí nhớ tôi về quá khứ của hơn 30 năm, trước khi tôi rời xa Việt Nam. Ngày đó, chính tại nơi đây, tôi và Vân ngồi với nhau lần cuối để rồi tôi từ giã Vĩnh Long, từ giã Vân-người tình mà tôi đã xây rất nhiều mộng ước tương lai để ra đi theo tiếng gọi của phong hầu. Tôi còn nhớ rất kỹ ngày đó chúng tôi ngồi đối diện nhau bên một chiếc bàn nhựa. Cũng dưới ánh sáng đèn đường mù mờ, Vân đưa chiếc ly thủy tinh trống không lên ngang tầm mắt. Hướng về tôi, nàng xoay chuyển chiếc ly nhè nhẹ. Rồi với giọng buồn bã nói với tôi:
-Nhìn xuyên qua đáy chiếc ly, dưới ánh sáng mù mờ, hình bóng của anh như bị lòe đi. Mỗi khi em xoay đổi chiều hướng của nguồn sáng thì bóng hình của anh mờ dần rồi biến mất…
Bỏ chiếc ly xuống bàn, chuyển ánh mắt ra giòng sông, với giọng buồn bã, Vân nói tiếp:
-Anh ra đi, là chuyện chẳng thế nào đổi khác được. Nhưng em có linh cảm đây không phải là tạm biệt mà là lần chúng ta mãi mãi xa nhau.
Nghe Vân nói, tôi chợt nhìn thấy rõ áng mây buồn trong ánh mắt của Vân, tôi nắm nhẹ bàn tay của Vân, vuốt nhè nhẹ như muốn xác nhận thêm lần nữa lời hứa hẹn, tôi sẽ trở về để cho mối tình của tôi và Vân toàn vẹn. Vân không nói gì, mắt vẫn mông lung, buồn bã nhìn theo vài đám lục bình trôi trên sông. Trong không gian tĩnh lặng, buồn bã đó, tôi đọc khẽ bên tai của Vân một bài thơ tôi làm vội vã, dùng tiết tấu tạo âm điệu diễn tả xúc cảm của tôi với Vân:
Hỡi người anh yêu, cho anh xin thêm một lần ước muốn
Em đừng vẽ cuộc đời anh bằng những con đường rất thẳng
Cũng đừng giam giữ anh trong một lâu đài hoa lệ,
Để những buổi hoàng hôn, qua lỗ châu mai
Anh chỉ biết ngồi nhìn đàn chim bay về tổ.
Như một tên tử tù, nhìn trời xanh qua khung cửa nhà giam,
Mà lòng tràn đầy những ước muốn của một người khao khát tự do.
Như em đã biết,
Trời sinh ra anh, không là người diễn viên trên sân khấu
Chỉ biết la hét, cười vui trong vai một kẻ sống trong nhung lụa
Mà lòng mình luôn luôn buồn rười rượi!
Anh sẽ về với em. Chắc chắn, anh sẽ về với em
Để tiếp nối cuộc tình bằng những ước mơ của chúng ta thành sự thật.
Anh sẽ dẫn em đi trên những đường kỷ niệm xa xưa đầy hoa bướm
Những con đường mà chúng mình đã cho nhau nụ hôn đầu tiên,
Anh sẽ làm thơ, đọc cho em nghe những vần thơ tình ái
Anh sẽ viết truyện ngắn, truyện dài lãng mạn,
Kể lể về những cuộc tình của những kẻ yêu nhau
Anh sẽ về với em
Như nước trên nguồn chảy xuống sông,
Sông lại về với biển cả .
Hỡi em yêu,
Hãy tạm biệt anh bằng nụ cười, dù đôi mắt có phải thấm ướt lúc xa nhau.
Hãy vẫy tay buồn làm gió lốc, thổi mây đen ảm đạm .
Hãy viết cho anh những lá thư thật dài,
Kể cho anh nghe toàn những chuyện yêu đương đẹp đẽ .
Để cho anh dù phải xa em mà quên được những tháng ngày tẻ nhạt.
Anh sẽ về với em,
Chắc chắn anh sẽ về với em
Để chúng mình mãi mãi bên nhau.
Đúng như vậy tôi đã xa Vân để ra đi, mong thỏa mộng công hầu. Nhưng rồi hoàn cảnh đổi thay và mối tình của chúng tôi dang dở. Những giấc mơ, lời hứa hẹn của tôi và Vân chỉ còn là ảo mộng, vu vơ.
Chuyến đi này, chỉ một mình tôi trở lại Vĩnh Long mong tìm lại được phần nào những gì mà ngày xưa của chúng tôi còn lưu lại trong hiện thực hay trong ảo giác. Vĩnh Long ngày nay với tôi là một thành phố thật buồn, thành phố của dĩ vãng, thành phố của đầy rẫy dấu tích kỷ niệm và dư âm rất buồn vì nó mang màu sắc và âm vang của chia ly.
Ở Vĩnh Long được 2 ngày, tôi cảm thấy tất cả những gì của thành phố hiện ra đều khơi dậy nỗi buồn đau trong lòng tôi. Thời gian qua đã quá lâu, Vân cũng chẳng còn trên thế gian này nữa, câu tạm biệt ngày ấy đã biến thành vĩnh biệt. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy chẳng có lý do gì để ở lại thành phố quá buồn, nhiều hoài niệm này nữa. Tôi phải rời xa để trốn tránh một nỗi buồn không bao giờ biến mất trong lòng tôi.
***
Rời xa Vĩnh Long, tôi xuống Cần thơ, điểm đến kế tiếp của chuyến đi tìm hoài niệm của mình. Tôi sinh ra ở một làng quê miền Bắc, nhưng phần lớn tuổi ấu thơ được trôi qua ở Hà Nội cho đến khi vào miền Nam ở tuổi lên 9. Với gần 15 năm học hành, lớn khôn ở Sài Gòn, dù thế nào, ít hay nhiều tôi cũng phải có những kỷ niệm với cái thành phố xô bồ, bận rộn này. Nhưng Cần Thơ mới là nơi tôi yêu thích. Tôi đã tưởng rằng sẽ định cư mãi mãi nơi đây, nhận nó là quê hương của đời mình. Rồi những thế hệ tiếp theo của tôi sẽ sinh ra, lớn lên và sẽ đúng nghĩa là người bản địa.
Tôi không quên, ngày đầu tiên từ Sài Gòn xuống đây làm việc, khởi đầu con đường lập nghiệp của mình, Cần Thơ đã chờ đón tôi với vòng tay nồng nàn nhiều ưu ái. Rồi mấy năm sau, ngày tôi đi tu nghiệp hải ngoại, Cần Thơ vẫy tay chào tạm biệt, mong tôi thành tài để được đón chờ tôi ngày trở về. Nhưng thực tế tất cả đã đổi khác, những tính toán, ước mơ của tôi và của Cần Thơ chỉ còn là ảo tưởng. Tôi đã đi, đã tăng tiến tài năng nhưng ngày về lại là một tấu khúc có quá nhiều âm vang lỗi điệu. Mấy mươi năm qua, sống trong nhung lụa, chu du gần khắp trái đất, nhưng tôi vẫn không quên được nơi đã dành cho mình những ân tình nhiều gắn bó. Những lần về thăm đất nước, tôi vẫn tìm dịp để về thăm lại, nhìn lại Cần Thơ nhưng tôi vẫn thấy lòng mình vẫn có cái gì buồn buồn, khó nói!
Suốt hai ngày tại Cần Thơ, tôi đi thăm lại gần như hầu hết những nơi mà ngày xưa ít hay nhiều tôi đã có dịp đi qua. Tạt vào thăm khu kỹ nghệ đồ sộ mới thành lập ở Ô Môn, Thốt Nốt. Với chiếc thuyền gỗ nhỏ, tôi đến chợ nổi Cái Răng, Phong Điền thăm bè nuôi cá, những cồn đất trù phú đủ loại trái cây, rải rác dọc theo giòng sông Hậu. Chiều tối, khi cái nóng đã giảm bớt tôi đi dạo ở khu trung tâm thành phố, nhìn sinh hoạt phố xá về đêm. Khi mỏi chân, hưởng thụ cái thú ngồi xe lôi chạy chầm chậm qua những nơi mà ngày xưa tôi đã làm việc để nhớ hay tìm những gì còn lại trong ký ức…
Dù vẫn còn một số bạn bè, quen biết ngày xưa đang sống ở thị xã nhưng tôi không đến thăm họ.Tôi muốn dành riêng cảm xúc của mình trong chuyến đi này cho Cần Thơ. Tôi muốn tìm lại những dấu vết xa xưa của chính tôi ở Cần Thơ dù biết rằng lòng mình vẫn có những âm thanh buồn bã khi nhớ về kỷ niệm thời quá khứ.
Buổi tối, tìm được một chiếc bàn trống ngay bên cạnh bờ sông, trên bến Ninh Kiều. Ngồi nghỉ chân uống nước, tôi dự tính nhìn lại một lần nữa nếp sinh hoạt của một nơi mà bất cứ ai đến Cần thơ đều biết. Chính nơi đây, lúc tôi còn làm việc ở Cần Thơ, đã bao nhiêu lần ngồi ăn nhậu với bạn bè, thân nhân, quen biết từ xa đến thăm tôi. Cũng nơi đây, tôi và Vân đã bao lần ngồi bên nhau nhìn dòng sông nước chảy mà nói chuyện ước mơ.
Ánh sáng từ mặt trăng tròn trịa treo giữa bầu trời ngàn sao lấp lánh hoà lẫn với đèn đường, rọi xuống mặt nước sông nhấp nhô sóng nhẹ. Tạo ra những giải sáng lung linh trên mặt nước sông, thật đẹp. Những cái đó hòa trộn với xúc cảm của kẻ giang hồ khi trở về nhìn lại Cần thơ, làm tôi chợt nhớ đến bài thơ tiền chiến“ Nhà Tôi“ của Yên Thao. Bài thơ nói đến ngày về của một người chiến binh, trên bước đường chinh chiến, anh ta nhìn lại quê nhà trong tâm trạng hào hùng của một kẻ nam nhi . Đây là bài thơ tôi thường ngâm cho Vân nghe, mỗi khi chúng tôi ngồi bên nhau bên dòng sông tâm sự:
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi về mơ Nguyễn Huệ
Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi đôi mươi cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
Ai bước đi mà không từng bịn rịn
Rồi yêu thương nào có mấy ai vui
Em lặng hồn, nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ!
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh đầy bụi viễn phương
Này anh đồng đội
Người bạn pháo binh
Đã đến giờ chưa nhỉ?
Mà tôi nghe như trại giặc đã tan tành!
Tuyệt vời thay một bài thơ cao ngạo, kiêu hùng mang quá đầy ý nghĩa! Thời gian xa nhau được diễn tả bằng những vết vá trên ống quần nâu bạc màu chinh chiến. Lòng nhớ thương, bịn rịn dành cho người vợ trẻ đẹp như mơ mới cưới ngày ra đi, hiển hiện trong cái đau xót lúc chia ly. Nhưng ngạo nghễ bao nhiêu khi người chinh phụ vẫn mạnh bước rời xa dù trong lòng mình ướt lệ! Rồi ngày về, nhìn quê nhà mà tưởng đến quân thù đang giãy chết. Đúng như vậy, bài thơ quá hay! Không còn gì để mô tả hơn được cái tuyệt vời, đầy hùng tráng của giấc mơ Nguyễn Huệ trong những vần thơ “ Nhà tôi “ của Yên Thao nữa.
Thả hồn vào âm vang của những vần thơ quá hay, quá kiêu hùng đó, tôi chợt nhìn về chính mình, về hiện trạng của tôi lúc này. Cũng trong cái tâm trạng của kẻ tìm về nơi mình thương nhớ. Cũng có dòng sông trước mặt dưới ánh trăng sao lấp lánh. Cũng nơi đây đã ghi nhớ bao lần hò hẹn với tình nhân… Nhưng tôi về đây trong tâm trạng của một khách lãng du đi tìm lại hoài niệm của đời mình. Chẳng một tí gì mang ý nghĩa của hào hùng, ngạo nghễ, dù tâm hồn tôi vẫn có đôi chút lãng mạn nhưng cái lãng mạn đó nhuốm đầy vẻ ủy mị của một kẻ quá tầm thường:
Tôi sẽ về thăm em chiều nay hay chiều mốt
Cho dòng sông không ngái ngủ buổi bình minh
Và cả những con đường em đã đi qua dạo ấy
Vẫn mờ mờ bóng điện sáng ban đêm.
Tôi sẽ về với em dù trời mưa hay trời nắng
Thoáng vẽ trong hồn tôi con đường xưa thật nhỏ
Bước chân em nhẹ nhàng như chân chim se sẻ
Ngẩn ngơ nhìn, tôi tìm em trong giấc mộng hôm nay.
Tôi về đây, bập bềnh tóc trắng gió bay bay
Xin hãy mở giùm tôi cánh cửa thời dĩ vãng
Để tôi mơ, dù phải cúi đầu lệ ướt thấm vành môi
Cho ngày về, thoáng nụ cười, buồn dang dở?
Đúng như vậy, tôi đã dùng những câu thơ viết vội khi trở lại Cần Thơ với tâm trạng của kẻ làm thơ ủy mị đi tìm hoài niệm. Không có một tí gì kiêu hùng như của người lính chiến trong những vần thơ Yên Thao.
(Hình: Nhan Nguyen/Unsplash)
Hôm sau, khi mặt trời chớm ngả về chiều. Tôi vừa từ chiếc xe lôi bước xuống bến xe Cần Thơ, dự định lấy xe về lại Sài Gòn, chấm dứt chuyến lang thang. Từ phía con đường bên ngoài bến xe, một ông lão quần áo khá tề chỉnh, tay dắt một đứa bé trai, khoảng 12, 13 tuổi, chạy vội đến chỗ tôi. Ông lão cầm lấy cánh tay tôi lắc lia lịa ra vẻ mừng vui tột cùng:
-Thầy Hai, trời ơi sao lại gặp được thầy ở đây? Thầy về nước bao giờ vậy?…
Ông ta hỏi tôi dồn dập, tôi chẳng biết trả lời ra sao vì chưa biết ông là ai. Trong khi tôi ngẩn ngơ giương mắt nhìn ông già rồi lại nhìn sang đứa cháu của ông ta. Tôi nhíu lông mày, cố kéo trí nhớ về để xác định một người quen biết nào đó mà mình đã vô tình lãng quên. Nhưng hoàn toàn vô ích. Một lúc sau, ông lão hình như nhìn thấy vẻ thắc mắc của tôi. Ông ta lay nhẹ cánh tôi mạnh hơn kèm theo lời nói:
-Thầy Hai, quên tôi rồi sao? Tôi là Châu, nhân viên nông trại ngày xưa mà có lần thầy cho tôi, ông ba Mỹ và chị Điệp cùng về Sài Gòn công tác, nhận hàng viện trợ của Nhật cho đại học đó. Chúng tôi ở nhà thầy mấy ngày, ông bà Hai, ba má thầy đã quá tốt, giết gà vịt đãi chúng tôi đó, thầy nhớ ra chưa?
Câu nói của ông lão đã khơi động trí nhớ giúp tôi nhận ra người quen biết của mình ngày xưa. Ngày đó, mỗi lần được cử về Sài Gòn công tác, tôi thường xin cho vài nhân viên về theo, lấy lý do cần họ để giúp đỡ, khuân đồ đạc. Nhưng thật ra tôi chỉ muốn giúp họ có tí tiền công tác và nhất là để họ có dịp thăm viếng con cháu hay thân nhân của sống trên Sàigòn. Hồi đó, nhà tôi ở bìa thành phố, khá rộng rãi lại có cơ sở chăn nuôi nho nhỏ vì vậy vấn đề cư trú của họ rất thoải mái. Bố mẹ tôi lại thuộc giới lao động, ít học, chẳng có tí gì ngăn cách kẻ trên, người dưới khi họ đến tạm trú. Đã vậy gia đình có sẵn gà vịt, vấn đề ăn uống dành cho họ luôn luôn thịnh soạn.
Từ đó, họ tự phân chia với nhau đi theo tôi khi có dịp về Sài Gòn công tác. Với bất cứ ai được tôi dẫn về nhà, bố mẹ tôi đều đối xử rất chân tình. Chính vì vậy mỗi khi tôi về Sàigòn, họ đều mang gạo, rau, trái cây gửi biếu cho bố mẹ tôi. Hôm nay tình cờ gặp lại họ. Cuốn phim dĩ vãng giữa những người nhân viên cũ và gia đình tôi lần lượt hiện ra trong trí nhớ. Tôi vui mừng ôm chặt lấy đôi vai của ông lão, nhân viên cũ cùng làm việc của mình, cảm động tôi nói với ông ta:
-Ông Châu! Tôi đã nhận ra ông rồi. Mấy chục năm rồi chứ ít sao?
Nói xong, đưa tay lên nhìn đồng hồ thấy vẫn còn sớm, dư đủ thời gian để đón xe về Sài Gòn trong ngày, tôi muốn hỏi thăm về đời sống của những người quen biết ngày xưa rồi tôi mời hai ông cháu vào một quán nước gần bến xe.
Qua lời kể của ông Châu, gần như hầu hết những nhân viên lao động cũng như các chị thư ký nơi tôi làm việc ngày xưa đã về hưu, nhưng vẫn còn sống ở Cần Thơ. Cuộc sống của họ cũng như hàng triệu người Việt khác luôn luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của đất nước. Tôi cũng chẳng giấu giếm ông Châu, tôi kể cho ông ta biết về những nỗi cực nhọc, đắng cay, buồn vui mà tôi đã phải trải qua trong mấy chục năm sống ở hải ngoại.
Tôi rất xúc động nhìn thấy sự buồn bã trên khuôn mặt người nhân viên cũ của mình khi biết mẹ tôi đã mất trong giai đoạn thiếu thốn cực nhọc nhất của đất nước. Ông Châu cho biết, ông cũng như nhiều người nhân viên khác đã có dịp lên Sài Gòn, cư trú tại nhà tôi. Họ không quên lòng tốt của bố mẹ tôi dành cho họ. Từ những bữa cơm thịnh soạn đến việc lo lắng giường chiếu khi họ ngủ đều được bố mẹ tôi chu toàn tươm tất. Ngay cả những người khi có việc quan trọng phải dẫn theo thân nhân, họ dẫn đến nhà tôi tạm trú vẫn được gia đình tôi giúp đỡ tận tình.
Ngồi tâm sự khá lâu, có lẽ đã đến lúc chia tay để kịp về Sài Gòn vào buổi tối, tôi nắm bàn tay nhăn nhúm của ông lão với vẻ buồn bã tôi nói:
-Đã đến lúc tôi phải lên xe rồi ông Châu ạ. Nhờ ông nhắn lời hỏi thăm của tôi đến những người khác. Ông nhớ nói với mọi người tôi không quên những tình cảm mà họ đã dành cho tôi ngày xưa, thời tôi còn làm việc. Tôi chúc ông và mọi người mãi mãi khỏe mạnh, hy vọng chúng ta lại có dịp gặp nhau lại.
Nói xong tôi cầm lấy chiếc ba lô của mình, định bước ra khỏi chỗ ngồi. Ông Châu nhìn tôi có vẻ ngập ngừng tí chút, rồi ông chậm chạp nói với tôi:
-Thấy Hai, nếu thầy không có việc gì gấp, mời thầy đến nhà tôi ăn cơm tối, ngủ lại rồi sáng mai thầy hãy về….
Tôi chưa kịp trả lời thì ông ta nói tiếp:
-Tôi sẽ báo tin cho những người khác biết. Chắc chắn họ rất vui mừng đến gặp gỡ, chào hỏi thầy.
Nhìn tôi đưa tay lên vò trán, như hiểu được sự lưỡng lự của tôi, ông Châu nói tiếp:
-Thật ra, ở quê chẳng có gì đặc biệt để mời thầy, nhưng đây là dịp để gia đình tôi đền đáp lại phần nào lòng tốt của ông bà thân sinh của thầy. Tôi mong thầy đừng từ chối.
Nghe ông Châu nói, tôi biết không còn đường nào để chối từ lời mời của ông ta được. Với hơn 3 năm làm việc, tiếp xúc bạn bè ở miền Nam, tôi đã hiểu khá rõ con người nơi đây. Họ đơn giản, họ nghèo ngôn ngữ để diễn đạt tâm hồn, cảm xúc nhưng họ rất chân tình, không biết màu mè, môi mép, đưa đẩy kiểu ngoại giao. Khi họ đã nhận ai là người thân thiết, thì chẳng bao giờ tính toán thiệt hơn. Họ dám cho những cái họ đang cần, đang thiếu mà không một chút nhăn mặt ngại ngần.
Bước xuống chiếc xe lôi, tôi theo ông cháu ông Châu đi qua chiếc cầu bằng bê tông bắc ngang qua rạch nước chạy dọc theo đường lộ liên tỉnh. Chúng tôi đi vào con đường đất khô ráo, khá rộng, khoảng vài chục mét. Quẹo vào con đường rẽ riêng biệt dẫn đến một căn nhà ngói bề thế đứng giữa một khu vườn trồng cây ăn trái rộng lớn. Vách và mái nhà vẫn còn màu đỏ nâu nguyên thủy, chứng tỏ căn nhà xây cất không lâu. Hình như thấu hiểu được sự ngạc nhiên của tôi khi nhìn thấy cơ ngơi hoành tráng của mình. Ông Châu không dấu được sự sung sướng, tự hào, quay sang tôi ông nói:
-Cũng nhờ mấy năm được mùa, nhất là nhờ mấy ổng cởi mở, thêm vào mấy đứa con lớn khôn, chịu làm ăn gom góp lại tôi mới xây được căn nhà này đó, thầy Hai.
Nói xong ông Châu dẫn tôi đi một vòng thăm cơ ngơi của mình, trước khi vào nhà giới thiệu với vợ con. Khu vườn bao quanh nhà với những mương dẫn nước chạy ngang dọc như bàn cờ. Trên bờ mương những hàng cây ăn trái đang có giá trên thị trường như nhãn, đu đủ, bưởi năm roi… trồng xen kẽ nhau. Những cành cây xum xuê trái nặng trĩu phải dùng cột chống đỡ để khỏi bị gãy. Tất cả nói nên sự màu mỡ của khu vườn và sự khá giả của chủ nhân. Ông Châu chỉ những thửa ruộng xanh tươi bao quanh khu vườn với những bông lúa mới chớm vàng rũ xuống vì nặng hạt, nói với tôi:
-Tất cả 7 công ruộng này tôi trồng lúa nàng thơm giống mới, hàng năm trừ chi phí cũng kiếm được xấp xỉ 50 triệu đó thầy Hai.
Đi bên cạnh ông Châu, tôi có cảm tưởng, niềm hạnh phúc dạt dào trong lời nói, dáng điệu, tiếng cười của ông đã êm nhẹ thấm cả vào thân thể tôi. Cho tôi cái cảm giác vui mừng, có chút tự hào về sự thành công của người nhân viên cũ. Đưa mắt kín đáo nhìn mái tóc trắng gần hết, khuôn mặt nhăn nheo sạm nắng của ông Châu, tôi muốn chia sẻ sự sung sướng đang có nơi ông. Tôi nghĩ hiện tại, ở cái tuổi về già ông rất xứng đáng được đền bù sau gần một đời người lao lực.
Chúng tôi vào nhà được một lúc, khi ráng chiều đã thấp thoáng trên ngọn cây. Sáu người nhân viên khác lần lượt đến, trong đó có chị thư ký trực tiếp của tôi ngày xưa. Họ ôm lấy tôi, hỏi thăm, kể lể cho tôi nghe những khó khăn cũng như những thành công vui vẻ trong mấy chục năm vừa qua. Điều làm tôi cảm động rớm nước mắt đó là họ luôn luôn nhắc đến bố mẹ tôi với những câu nói quá chân tình. Họ chia xẻ sự xót đau, thương tiếc với tôi khi biết mẹ tôi đã mất từ lâu, lúc tôi còn đang khốn khổ ở hải ngoại không có điều kiện về đưa đám.
Họ nhắc lại những lần lên Sài Gòn tạm trú ở nhà bố mẹ tôi, những bữa ăn thịnh soạn mà gia đình tôi đã tiếp đãi họ… Tôi cảm thấy gần họ, yêu cái chân chất, mộc mạc từ con người họ, những con người của đồng ruộng miền Nam. Nhưng tôi cũng không giấu được cảm giác thoáng buồn khi nhìn về thực tế, hoàn cảnh của mình. Họ vẫn là họ. Họ mãi mãi sống và chết nơi đây, quê hương, đất nước, dân tộc của họ và cũng là của tôi. Còn tôi thì đã khác, quê hương vẫn trong lòng, nhưng cuộc đời tôi đã xa vời vợi. Ngay cả tình thân ái giữa tôi và họ hôm nay, có lẽ chỉ là một cuộc tao phùng thoáng qua trong đời tôi, đời họ mà thôi. Gặp nhau thoáng qua hôm nay nhưng rồi cũng sẽ đi vào quá khứ khi từ giã, xa nhau. Rất khó khăn nếu không muốn nói là không còn có dịp để tái ngộ, nếu có chỉ là những hoài niệm mỗi khi chợt nhớ đến nhau mà thôi.
Buổi tối, một bữa nhậu dĩ nhiên là phải có ở cái vùng miền Nam sông nước phong phú thực phẩm và đầy ắp tình người này. Những ly rượu vẫn còn thơm mùi nếp mới được chuyền cho nhau, hâm nóng bầu không khí của buổi gặp mặt sau hàng chục năm xa cách . Nhưng cũng để mở cửa tâm hồn cho những lời tâm sự thân thương, không gò bó, đuổi đi những cái vớ vẩn kẻ trên người dưới của ngày xưa lúc còn làm việc với nhau. Những nụ cười giòn giã khi nhắc đến kỷ niệm vui buồn hàng chục năm về trước, hoà nhập cùng với vị ngọt của những ly rượu… Hình như nó xóa nhòa đi hết những vết thời gian trên những mái tóc, khuôn mặt chúng tôi.
Nhưng cuộc vui thế nào thì cũng đến hồi kết thúc. Những cái bắt tay nồng nàn, ôm xiết nhau rất chặt nhưng thật buồn khi từ giã nhau. Tôi và họ có linh cảm cuộc chia tay này chắc khó có bao giờ được gặp lại nhau nữa. Thời gian, tuổi tác và không gian cũng như hoàn cảnh… là những dữ kiện mà chúng tôi đã mường tượng ra những rào cản cho lần tái ngộ tương lai.
Nhìn sáu người nhân viên ra khỏi căn nhà của ông Châu lòng tôi trĩu nặng, buồn rười rượi. Tôi đưa mắt nhìn họ, cố gắng ghi nhận thật rõ dáng điệu, hình dạng của từng người vào trí nhớ mà tự nói với mình, đó là những người bạn sẽ không bao giờ tôi quên nhưng buồn ơi ! Tôi cũng chẳng còn dịp để gặp lại được nữa. Xin Trời Phật hãy phù hộ cho họ, cho gia đình họ mãi mãi có những niềm vui trong một đất nước VN thanh bình, thịnh vượng.
Sáng hôm sau, khi bữa điểm tâm vừa xong, tôi đang sửa soạn để về Sài Gòn, ông Châu im lặng nhét vào cái ba lô của tôi một bịch giấy khá nặng, đưa thêm cho tôi một gói khác đựng nhãn và mấy trái bưởi Năm roi. Ông nói với tôi:
-Thấy Hai, tôi nhờ thầy mang biếu ông Hai, ba của thầy 5 ký gạo thơm. Còn nhãn và mấy trái bưởi này nhờ thầy làm đồ cúng bà Hai, mẹ của thầy hộ tôi. Món quà nho nhỏ trả ơn nghĩa của tôi đến bà.
Cá tính của tôi từ xưa rất ngại việc xách mang luộm thuộm khi đi xa, nhưng với lời lẽ của người nhân viên cũ đã làm tôi khó nghĩ. Nhìn gói quà ra vẻ ngần ngừ tôi nói với ông:
-Thay mặt bố mẹ tôi, xin cám ơn ông, nhưng tôi chỉ xin ông mỗi thứ chút ít mà thôi. Tình cảm của ông và tôi thì ông đã biết rồi, không phải là nhiều hay ít, mà chúng ta thông hiểu nhau mới là điều quan trọng .
Ông Châu nằng nặc không chịu, cuối cùng tôi đành phải nhận tất cả. Khoác chiếc ba lô có thêm 5 ký gạo, tay cầm bịch trái cây tôi nói lời từ giã gia đình họ. Lúc đưa tôi lên xe lôi, ông Châu ôm lấy vai tôi, cảm động ông nói:
-Thầy đi mạnh giỏi, mong có dịp được gặp lại thầy nữa. Thầy cho tôi hỏi thăm ông Hai nhe .
Trước khi chiếc xe lôi lăn bánh, ông Châu nói với theo:
-Tối hôm qua lúc chia tay anh ba Mỹ cho biết sáng nay họ sẽ ra bến xe tiễn đưa thầy, tôi nghĩ họ đang ở đó chờ thầy đó.
Đúng như vậy, khi vừa bước xuống khỏi chiếc xe lôi, tôi thấy từ quán nước gần cổng bến xe, ông ba Mỹ và mấy người khác chạy ra đón. Mỗi người xách theo một bịch, nào rau cải, nào trái cây đủ loại, Nhìn họ tôi biết chẳng phải là cuộc đưa tiễn đơn giản, tay không. Chắc chắn có những món quà luộm thuộm đồng quê, nặng tình thân thiết mà tôi khó chối từ.
Vẫn những câu nói tình cảm, làm quà trả nghĩa bố mẹ tôi ngày xưa. Vẫn những lời thoái thác vô ích của tôi. Tôi phải nhận! Chỉ vì tôi không thể chối từ được tấm lòng chân chất, thân tình của họ dành cho tôi được. Cuối cùng những bó rau xanh tươi, những trái đu đủ, ổi xá lỵ, mít trà nóc, bưởi năm roi… vẫn còn thơm mùi ruộng vườn được nhét chung với nhau, rất gọn gàng trong hai cái sọt bằng tre đan. Hình như nhìn thấy ánh mắt ngại ngần của tôi với số lượng quá lớn, kềnh càng đựng quà, ông ba Mỹ nói:
-Đằng nào tới Sài Gòn thầy cũng phải thuê xe về nhà, nặng nhẹ gì đâu mà thầy lo. Chút quà cho ông Hai vui mà thầy Hai.
Rồi cũng nhờ sự xếp đặt của họ với xe đò, hai sọt quà được xếp gọn gàng dưới chỗ ngồi của tôi, bên cạnh tài xế. Khi xe vào địa phận tỉnh Tiền Giang, gần đến ngã ba Trung Lương, tôi chợt muốn tạt vào thăm thành phố Mỹ Tho, một thành phố nhỏ bé, dễ thương nằm bên giòng sông Tiền Giang. Tôi biết sơ sài về Mỹ Tho từ thời còn là học sinh trung học, nhưng từ khi xuống Cần Thơ làm việc rồi quen và yêu Vân. Chúng tôi thường tìm đến thành phố hiền hoà này rong chơi mỗi khi trên đường về Sài Gòn.
Lúc xách ba lô xuống xe ở ngã ba Trung Lương, người lơ xe kéo từ dưới ghế ra 2 cái sọt quà, để xuống mặt đường lộ cạnh bên chân tôi. Lúc đó tôi mới nhớ ra ngoài cái ba lô trên vai, tôi còn thêm những món quà cồng kềnh mà tôi đã quên mất từ khi lên xe. Món quà này đúng là vật cản đôi chân và bản chất giang hồ của tôi. Làm sao với nó đây? Không dễ dàng cho tôi lang thang như mong muốn được.
Cùng xuống xe với tôi có khoảng 4,5 người, trong đó có một bà già có lẽ trên 70 tuổi, người miền quê Nam bộ đúng nghĩa, đầu đội chiếc khăn quàng ca rô màu xanh lá mạ, miệng lép nhép nhai trầu, tay xách cái túi bằng cói lép xẹp. Bà già nhìn hai sọt quà của tôi, hướng về phía tôi, bà nói bâng quơ:
-Chà, mấy trái xoài tượng ngon ghê, chú mua ở đâu dzậy?
Tôi thật thà trả lời:
-Người quen dưới Cần Thơ cho con đó dì.
Bà già nói tiếp:
-Đúng dzậy! Ở chợ đâu dễ mua được thứ ngon và to như dzậy!
Nhìn vẻ chất phác, vui vẻ dễ bắt chuyện của bà già, tự nhiên tôi cảm mến. Hình ảnh những bà mẹ quê Nam bộ mà tôi đã từng quen biết ngày xưa. Trong những dịp về quê thăm viếng gia đình bạn bè vào dịp giỗ Tết hiện ra trong trí nhớ tôi với nhiều ấn tượng đẹp. Họ có thể là bà nội, bà ngoại, là mẹ, là cô, là dì hay là chị của bạn tôi, nhưng họ đều có một điểm chung là rất thân thiện, cởi mở. Gặp họ dù dưới một dạng quen biết rất sơ sài nhưng vẫn được họ đãi ăn uống no say không một tí ngăn cách. Với sự cảm mến trong tiềm thức đó, tôi buột miệng nói với bà già:
-Dì muốn không, con biếu dì đó.
Bà già hơi chau mày, giương mắt nhìn tôi, có lẽ bà nghĩ tôi nói đùa. Bình thản bà trả lời:
-Cám ơn chú Hai, chú dzỡn với tui hoài…
Nghiêm nghị tôi nói chắc:
-Con không dzỡn với dì đâu, nếu dì thích con cho dì hết đó!
Lúc này bà già không còn nghĩ mình nghe lầm nữa, nhưng trên khuôn mặt, ánh mắt của bà vẫn còn vẻ ngạc nhiên, có vẻ vẫn chưa tin lời nói của tôi là thật. Đứng gần đó, một thiếu phụ cỡ tuổi trung niên, cùng xuống xe với tôi và bà già. Có lẽ chị ta đã theo dõi trọn vẹn cuộc đối thọai của chúng tôi. Chị ta nói xen vào:
-Chú ấy nói thật đó, dì cứ nhận đi rồi chia cho chúng tôi mỗi người một chút không tốt sao?
Nghe vậy, bà già sung sướng ra mặt, bước đến cầm lấy 2 sọt qùa xoay qua, xoay lại nhìn rõ những vật phẩm trong sọt, ngước cặp mắt lem nhem trong vui mừng, nói với tôi vài lời cám ơn. Tiếp theo là một sự phân chia rất hoà thuận giữa bà và mấy người cùng chuyến xe. Vài người quay lại nói vài lời cám ơn tôi trước khi vội vàng bước lên chiếc xe đò nhỏ khác vừa táp vào đón họ. Tôi cũng không hiểu sao bà lại không lên xe theo những người kia. Hình như bà ta cố ý nán lại chờ đợi tôi hay muốn nói với tôi điều gì thì phải? Nghĩ như vậy, tôi nhìn bà, hỏi:
-Ủa, sao dì không lên xe?
Bà nhìn tôi rất thân thiện, trả lời:
-Chú Hai đi đâu dzậy? Tôi về quận Chợ Gạo, cũng gần đây nếu chú Hai rảnh ghé tôi chơi.
-Cám ơn dì, con định tạt vào Mỹ Tho chút xíu rồi mới về lại Sài Gòn.
Bà đưa mắt nhìn tôi, trong ánh mắt bà ta có vẻ suy tư, thoáng buồn buồn. Tôi định nói với bà ta vài câu từ giã, nhưng chưa kịp, bà ta đã nói với tôi:
-Chú giống thằng Sáu Út, con của tôi quá. Nó chết đã hơn 10 năm nay rồi, tội nghiệp quá!
Nghe bà lão nói, tôi cũng hơi ngạc nhiên, buột miệng tôi hỏi:
-Chú Sáu Út vì sao mà chết vậy dì?
-Nó chết vì tai nạn lao động, lúc mới 22 tuổi chưa có vợ con gì cả. Nếu còn sống chắc cỡ tuổi chú Hai.
Nghe bà lão xét đoán quá thấp tuổi tác của mình, tôi im lặng đưa mắt nhìn khuôn mặt già nua, thoáng gợn nỗi buồn của bà ta. Ngẫu nhiên tôi nhìn vào chiếc giỏ cói của bà ta, một trái bưởi năm roi, một chùm nhãn và mấy trái xoài tượng, tôi buột miệng hỏi:
-Sao dì chỉ lấy ít vậy?
-Không ít đâu chú Hai, tôi lấy dzậy là nhiều hơn mấy người khác rồi đó.
Tôi mỉm cười, chẳng hiểu bà lão nói để tôi vui hay đúng thật . Nhưng khi nhắc cái ba lô của mình lên, tôi chợt nhớ là trong đó còn 5 ký gạo thơm. Chẳng có tí ngại ngần, tôi mở ra cầm gói gạo đưa tận tay bà:
-May quá, con còn sót lại 5 ký gạo, biếu dì luôn nè.
Bà lão đưa tay đẩy bịch gạo,nhất định không nhận. Sau mấy lần đẩy qua, đẩy lại cùng với nhiệt lòng của tôi cuối cùng bà lão để cho tôi nhét bịch gạo vào giỏ của bà. Đúng lúc đó, tôi thấy bà thừ người ra, im lặng. Từ khoé mắt bà lão tôi thấy hai dòng lệ chảy xuống khuôn mặt rám nắng, nhăn nheo cuộn dính với vài sợi tóc trắng lòa xòa. Tôi chẳng hiểu vì sao bà lão khóc? Có thể vì cảm động với lòng tốt nhỏ bé của tôi, người mà bà chưa hề quen biết. Hay bà khóc vì qua tôi bà đã trở về với hình ảnh đứa con trai út bất hạnh của bà ngày xưa? Bà lão đưa bàn tay vuốt nhẹ khuôn mặt tôi, ánh mắt mơ hồ, buồn bã nhìn tôi. Bà nói rất nhỏ:
-Tội nghiệp thằng Sáu Út của tôi quá, nó là đứa con có nghĩa với tôi lắm chú Hai.
Ngẩn ngơ nghe bà lão nói. Tôi nghĩ rằng dù là thằng Hai, thằng Ba, con Năm, con Bẩy… bất cứ một đứa con nào chết đi với bà ta, cũng như với bất cứ bà mẹ, ông cha nào trên thế gian này đều là đứa con tuyệt vời, đáng thương và tiếc nhớ nhất. Chủ quan hay khách quan? Sai lầm hay chính xác? Chẳng còn là điều quan trọng mà cái đáng ghi nhận, đáng tôn thờ đó là lòng mẹ thương con mà ai ai cũng có. Tôi ôm lấy đôi vai bà lão, muốn gửi đến bà sự cảm thông, an ủi của tôi vì nỗi đau buồn mất mát của bà.
Rồi tôi chợt nhớ đến hai sọt quà, 5 ký gạo thơm của những người nhân viên cũ đã nhờ tôi mang biếu bố mẹ tôi đã không còn nữa, đã được tôi phân phát cho những người không quen biết, trong đó có bà lão dễ mến, đáng thương. Trong lòng tôi thoáng gợn một chút áy náy vì tôi đã không làm theo lời dặn của họ. Tôi cũng biết chắc chắn họ đã phải lựa chọn cái tốt nhất, ngon nhất trong khu vườn, thửa ruộng của gia đình họ để tặng tôi. Nhưng tôi hy vọng họ hiểu rõ con người tôi.
Tôi đã lớn lên, đi làm việc ở miền Nam, đã bao nhiêu lần có được những ân hưởng từ những tấm lòng chân thật, không tính toán của người miền Nam, ít hay nhiều tôi cũng bị ảnh hưởng cái tính phóng khoáng, chân chất của người miền Nam mà họ là tiêu biểu. Vậy có gì lạ đâu, tôi cũng như họ mà thôi. Làm sao tôi có thể chi ly khi mình đã sống và nhận được bao nhiêu sư rộng rãi của những người dân nơi đây ?! Ông Châu, ông Sáu, ông Mỹ, chị Điệp và tất cả hãy hiểu và cảm thông cho tôi.
Tôi lại nhớ đến bố mẹ tôi, chắc chắn qua hàng chục năm nuôi dưỡng, giáo dục tôi, bố mẹ tôi đã quá hiểu rõ thằng con trai, tính tình ngỗ nghịch nhưng cũng là đứa con có chút thiện tâm. Cái thiện tâm đó đã được di truyền từ chính bố mẹ tôi mang đến. Với suy nghĩ như vậy tôi chắc chắn bố mẹ tôi chẳng có gì để tiếc rẻ món quà nhỏ nhặt của mình mà tôi đã đem tặng cho một bà lão không hề quen biết. Một bà mẹ già đáng thương, đã nhìn qua tôi mà chảy nước mắt khi nhớ đến thằng con trai út bất hạnh của bà ta, nó đã mất vào lúc còn non trẻ.
Lại một lần nữa tôi đưa mắt nhìn bà, vẫn những nếp nhăn nheo của da mặt, vẫn màu sắc sạm nắng gió mưa, vẫn vài lọn tóc trắng lòa xòa trên khuôn mặt… Tất cả là biểu tượng của sự già nua, cực nhọc in hằn trên cuộc đời bà lão. Trong lòng tôi tự nhiên hiện lên một ước mơ rất đẹp để cho thế hệ sau này sinh ra, lớn lên nơi đây không gặp phải những nghịch cảnh như tôi. Ra đi biền biệt nhưng vẫn không quên được quê nhà, người đồng hương và kỷ niệm để rồi lại tìm về mong được sống với những hoài niệm trong đời mình khi mà mái tóc đã bạc màu vì gió mưa!
(Hình minh họa: Minh Pham/Unsplash)
Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn – 21 tháng 6, 2024
https://saigonnhonews.com