Chương II
Bắt đầu từ lúc này, có thể nói dịch hạch đụng tới tất cả mọi người. Cho tới lúc đó, tuy những sự kiện kỳ lạ ấy khiến người ta ngạc nhiên và lo lắng, mỗi đồng bào chúng tôi vẫn theo đuổi công việc của mình một cách bình thường, tùy theo khả năng mỗi người. Và chắc hẳn vẫn tiếp tục như thế. Nhưng một khi cửa thành phố đã đóng lại thì họ nhận thấy mọi người, kể cả bản thân người kể chuyện ở đây, đều cùng chung một cảnh ngộ và cần phải biết lo liệu. Chính vì vậy ngay những tuần lễ đầu tiên, một tình cảm hết sức riêng tư như nỗi niềm xa cách một người thân yêu chẳng hạn, cũng bỗng nhiên trở thành tình cảm của cả một dân tộc và cùng với nỗi sợ hãi, trở thành nỗi đau chủ yếu trong thời gian lưu đày dài dặc này.
Một trong những hậu quả nổi bật nhất của việc đóng cửa thành phố quả là tình trạng những con người rơi vào cảnh ly biệt một cách đột ngột mà không được chuẩn bị. Những bà mẹ và những đứa con, những cặp vợ chồng, những người yêu, vài ngày trước đây, cứ nghĩ là một cuộc chia tay tạm thời: họ ôm hôn nhau trên sân ga với đôi ba lời dặn dò, đinh ninh sẽ gặp lại nhau vài ngày hay vài tuần sau, với lòng tin khờ khạo của con người, và buổi ra đi của người thân hầu như chỉ làm họ xao nhãng chút đỉnh công việc thường ngày; thế mà cuộc biệt ly bỗng nhiên trở thành không phương cứu chữa: họ không còn có thể gặp lại nhau hay thư từ cho nhau nữa. Vì thành phố bị đóng cửa mấy tiếng trước khi quyết định của tỉnh được công bố và dĩ nhiên không sao có thể chiếu cố những trường hợp cá biệt. Có thể nói tác động đầu tiên của sự xâm nhập tàn bạo này của dịch bệnh là đồng bào chúng tôi phải hành động như thể họ không có tình cảm riêng tư. Ngay sau khi quyết định đóng cửa thành phố bắt đầu có hiệu lực, trong mấy tiếng liền, người ta tấp nập đến cơ quan tỉnh để thỉnh cầu: hoặc qua điện thoại hoặc trực tiếp quan chức, họ giãi bày những hoàn cảnh cũng đáng chú ý như nhau, và đồng thời cũng không thể xem xét được như nhau. Sự thực, phải nhiều ngày mới có thể thấy chúng tôi ở trong một tình thế không thỏa hiệp, và những từ như “dàn xếp”, “ân huệ”, “ngoại lệ” đều trở thành vô nghĩa.
Ngay đến chút niềm vui viết thư cũng bị từ chối. Một mặt thành phố không còn mối liên hệ với phần còn lại của đất nước, bằng những phương tiện liên lạc thông thường, mặt khác một quyết định của nhà chức trách cấm trao đổi thư từ vì sợ thư từ mang theo vi trùng dịch bệnh. Lúc đầu, một vài người được ưu đãi đến gặp lính gác ở các cửa ngõ thành phố để nhờ chuyển thư tín ra ngoài. Đấy là những ngày đầu tiên xảy ra dịch bệnh, khi những người lính gác thấy không cưỡng lại lòng trắc ẩn là điều tự nhiên. Nhưng ít lâu sau, khi cũng chính những người lính gác ấy thấy rõ tình thế nghiêm trọng thì họ không còn dám gánh lấy phần trách nhiệm mà họ không thể lường trước được sẽ nặng nề tới đâu. Lúc đầu, người ta được dùng phương tiện liên lạc bằng điện thoại liên tỉnh. Nhưng thế là các trạm công cộng và đường dây ùn tắc tới mức phải đình chỉ hẳn trong mấy ngày, rồi về sau bị hạn chế gắt gao và chỉ dành cho các trường hợp khẩn cấp như sinh, tử, cưới xin. Chỉ còn lại một nguồn duy nhất là điện tín. Những con người gắn bó với nhau bằng tâm hồn, bằng con tim và máu thịt, chỉ còn cách đi tìm những dấu hiệu của mối đồng cảm sâu xa ấy trong những chữ viết hoa của một bức điện vẻn vẹn mười từ. Và vì trên thực tế, những công thức có thể sử dụng trong một bức điện chẳng mấy chốc mà hết nên những năm tháng cùng chung sống hoặc những nỗi lòng đau xót, chỉ nhanh chóng thâu tóm lại trong việc trao đổi định kỳ những công thức có sẵn như: “Mạnh khỏe. Nhớ thương. Thân mến”.
Nhưng một số ít người vẫn khăng khăng viết thư và để giao dịch với ngoài thành phố, họ nghĩ ra hết mưu chước này đến mưu chước khác tuy cuối cùng bao giờ cũng chỉ là ảo tưởng. Và dù cho một vài phương sách tưởng tượng ra có thành công chăng nữa, chúng tôi cũng tuyệt nhiên không biết nó ra sao vì không hề có hồi âm. Thế là hết tuần này đến tuần khác, chúng tôi đành viết đi viết lại một bức thư, chép đi chép lại những lời kêu gọi tới mức những từ ngữ lúc đầu thốt ra tưởng như mang theo dòng máu con tim mình, nhưng chỉ ít lâu sau đã mất hết mọi nội dung ý nghĩa. Thế là chúng tôi ghi chép lại như những cái máy, tìm cách dùng những lời văn không hồn này đưa tin về cuộc sống gian khổ của mình. Và để kết thúc, chúng tôi thấy thà dùng mấy tiếng gọi ước lệ của điện tín còn hơn cái lối độc thoại vô ích và bướng bỉnh, cái lối “trò chuyện” vô vị với một bức tường.
Vả lại, sau vài ngày, khi đã rõ ràng là không một ai có thể ra khỏi thành phố, thì người ta nảy ra ý kiến hỏi xem những người ra đi trước khi có dịch, nay có được phép trở về không. Sau mấy ngày suy nghĩ, tỉnh trả lời về được. Nhưng nói rõ là những người trở về, bất luận thế nào, cũng không được ra khỏi thành phố một lần nữa: họ được tự do trở về, nhưng không được tự do ra đi. Tuy vậy, một vài gia đình nhẹ dạ - số này không nhiều - vẫn thiết tha gặp lại người thân hơn là cân nhắc thận trọng, và yêu cầu người thân nắm lấy cơ hội. Nhưng ngay sau đó, những người bị dịch hạch cầm tù hiểu ra mối hiểm họa đe dọa người thân nếu họ trở về nên đành chịu đựng nỗi đau ly biệt. Vào giai đoạn dịch bệnh hoành hành dữ dội nhất, chỉ có một trường hợp tình cảm con người mạnh hơn nỗi sợ hãi đối với một cái chết quằn quại. Đó không phải - như bạn đọc có thể mong đợi - là hai người yêu mà tình ái xô đẩy họ lại với nhau, bất chấp bệnh tật. Đó chỉ là trường hợp hai vợ chồng bác sĩ già Castel lấy nhau từ lâu. Mấy hôm trước khi xảy ra dịch bệnh, bà Castel đi sang một thành phố bên cạnh. Đây không phải là một gia đình nêu cao tấm gương hạnh phúc và người kể chuyện có thể nói rằng đại thể, hai vợ chồng này, đến nay không tin chắc là họ mãn nguyện về cuộc hôn phối của mình. Nhưng sự chia cắt phũ phàng và kéo dài khiến họ thấy không thể sống xa nhau, và bên cạnh cái chân lý bỗng nhiên sáng tỏ ấy, bệnh dịch hạch chẳng có gì đáng kể.
Đây là một ngoại lệ. Còn ngoài ra thì hiển nhiên là cảnh ly biệt chỉ chấm dứt khi dịch bệnh chấm dứt. Và đối với tất cả chúng tôi, nguồn tình cảm tạo nên cuộc sống của mình và mặc dù mình tưởng như đã biết rõ (tình cảm người Oran, như chúng tôi đã nói, là những tình cảm giản dị), bỗng mang một sắc thái mới. Những người chồng và những người yêu vốn hết mực tin tưởng ở người bạn đời của mình, bỗng nhiên thấy mình ghen tuông. Những anh chàng đinh ninh phù phiếm trong tình yêu, nay bỗng trở nên chung thủy. Những cậu con trai trước kia sống bên cạnh mẹ nhưng hầu như không nhìn thấy mẹ, nay bỗng hết sức lo lắng và ân hận khi trong ký ức hiện lên một nét mặt của mẹ. Sự chia ly phũ phàng triệt để, không thể đoán định tương lai sẽ ra sao, làm chúng tôi bối rối, không sao cưỡng lại cái kỷ niệm về sự có mặt còn rất gần gũi nhưng đã rất xa xăm này, kỷ niệm ấy giờ đây choán hết ngày tháng của chúng tôi. Thực ra, chúng tôi đau đến hai lần - trước hết đau nỗi đau của chính mình và sau nữa là nỗi đau mà chúng tôi tưởng tượng ra của người vắng mặt, người vợ, người yêu, đứa con.
Vả lại, trong những trường hợp khác, đồng bào chúng tôi chắc hẳn tìm thấy lối thoát trong một cuộc sống ngoại hình hơn và sôi nổi hơn. Nhưng đồng thời dịch hạch khiến họ phải ăn không ngồi rồi, quẩn quanh trong cái thành phố buồn tẻ và ngày ngày phó mình cho những trò phỉnh phờ của ký ức. Vì trong những buổi dạo chơi thơ thẩn, bao giờ bước chân cũng dun dủi đưa họ đến vẫn con đường nọ và trong một thành phố thật là bé nhỏ, thông thường đó chính là những con đường trước kia họ đã cùng đi với người thân giờ đây vắng mặt.
Thế là trước hết dịch hạch gây nên cảnh chia ly. Và người kể chuyện ở đây đinh ninh mình có thể nhân danh mọi người viết ra cái mà chính bản thân mình đã cảm thấy bởi vì anh đã cảm thấy điều đó đồng thời với nhiều đồng bào khác của mình. Đúng, chúng tôi luôn luôn cảm thấy trống trải trong lòng, khi thì một cách phi lý muốn trở về với quá khứ, khi thì ngược lại muốn thúc đẩy thời gian. Cảm giác biệt ly như những mũi tên cháy bỏng của ký ức. Nếu thảng hoặc chúng tôi có thả mình theo dòng tưởng tượng, có muốn chờ nghe tiếng chuông của người trở về hay một bước chân thân thuộc trên cầu thang; nếu vào những lúc đó chúng tôi có muốn quên đi cái thực tại là các đoàn xe lửa đã không còn nhúc nhích; nếu lúc đó chúng tôi có thu xếp để ở lại vào giờ phút mà thông thường một du khách đáp chuyến tàu nhanh buổi tối có thể đến khu phố mình đi nữa, thì dĩ nhiên những cái trò ấy cũng không thể kéo dài. Nhất định sẽ tới một lúc chúng tôi thấy rõ ràng là các chuyến xe lửa không đến. Lúc đó chúng tôi mới biết là cảnh biệt ly sẽ kéo dài và mình phải gắng sức thu xếp với thời gian. Từ ấy, chúng tôi trở lại cuộc sống giam hãm của mình, chúng tôi chỉ còn biết quá khứ, và dù cho đôi lúc có vài người tấp tểnh muốn sống với tương lai thì cũng phải nhanh chóng khước từ khi cảm thấy nhức nhối những vết thương lòng mà cuối cùng trí tưởng tượng buộc những ai tin cậy nó phải chịu đựng.
Đặc biệt là đồng bào chúng tôi đã rất nhanh chóng, ngay cả ở những nơi công cộng, từ bỏ cái thói quen - mà họ đã tạo lập cho mình - là ước lượng thời gian xa cách. Vì sao? Vì khi những người bi quan nhất định cho nó là sáu tháng chẳng hạn, khi họ đã uống cạn trước đi tất cả nỗi chua xót của những tháng ngày sắp tới, hết sức vất vả nâng ý chí lên ngang tầm sự thử thách ấy, đưa hết sức lực còn lại để khỏi quỵ trước nỗi khổ đau kéo dài qua biết bao tháng ngày đằng đẵng, thì thỉnh thoảng, một người bạn gặp gỡ tình cờ, một ý kiến được nêu lên trên báo, một thoáng ngờ vực hay một sự sáng suốt bất thần, lại khiến họ nghĩ ngợi rằng dẫu sao cũng không có lý do gì mà dịch bệnh không kéo dài hơn sáu tháng, và có thể một năm, hoặc hơn thế nữa.
Lúc đó, ý chí, dũng khí và lòng kiên nhẫn suy sụp đột ngột tới mức họ tưởng như không bao giờ còn có thể thoát khỏi cái hố sâu thăm thẳm này nữa. Vì vậy họ đành nhẫn nhục không bao giờ còn nghĩ tới lúc nào mình được giải thoát, họ không còn hướng về ngày mai và luôn luôn cúi mặt xuống - nếu có thể nói như vậy. Nhưng dĩ nhiên thái độ khôn ngoan ấy, cái lối đánh lừa nỗi đau thương và khép thế lại để từ chối cuộc chiến đấu như vậy, đã không được đền đáp xứng đáng. Thật vậy, khi trốn tránh tình trạng suy sụp mà họ không muốn có với bất kỳ giá nào, thì đồng thời họ cũng không được hưởng những phút giây - kể ra có khá nhiều - họ có thể quên dịch bệnh đi trong khi nghĩ tới viễn cảnh những buổi đoàn tụ trong tương lai. Và từ đó, treo mình lơ lửng giữa vực thẳm và đỉnh cao, họ vật vờ hơn là họ sống, phó mặc cho những tháng ngày vô định, cho những kỷ niệm cằn cỗi, những cái bóng chập chờn chỉ có được sức mạnh khi chịu cắm sâu vào mảnh đất đau thương của mình.
Cứ như thế, họ cảm thấy nỗi đau khổ sâu xa của mọi người bị giam cầm và lưu đày, nỗi đau khổ phải sống với một ký ức hoàn toàn vô tích sự. Chính cái quá khứ mà họ không ngừng nghĩ tới ấy chỉ có dư vị của luyến tiếc. Quả là giá như có thể được, thì họ muốn đưa thêm vào quá khứ ấy tất cả những gì họ ân hận đã không làm khi, trước kia, họ có thể làm được đối với người mà giờ đây họ mong ngóng. Họ muốn người vắng mặt cùng mình chia sẻ mọi hoàn cảnh, dù chỉ tương đối êm đềm, trong cuộc sống tù nhân của mình. Nhưng tình cảm của họ không thể làm họ mãn nguyện. Bực tức hiện tại, thù nghịch với quá khứ và không có tương lai, chúng tôi thật chẳng khác nào những kẻ mà công lý hoặc lòng căm ghét của loài người buộc phải sống sau chấn song sắt. Cuối cùng, cách duy nhất thoát khỏi những ngày nghỉ không thể chịu nổi ấy, là lại cho những chuyến xe lửa chạy bằng tưởng tượng và lấp những giờ trống bằng tiếng leng keng liên hồi của cái chuông ngoài cửa cứ lì lợm lặng im.
Nhưng nói đến lưu đày thì trong phần lớn các trường hợp là cảnh lưu đày tại nhà mình. Và tuy người kể chuyện ở đây chỉ chịu cảnh lưu đày như mọi người, anh ta cũng không được quên những người như nhà báo Rambert hay những người khác nữa: là những du khách bị dịch hạch bất chợt và bị giữ lại trong thành phố, họ phải xa cách vừa người thân vừa quê hương xứ sở. Bởi thế nỗi đau ly biệt tăng lên gấp bội. Trong cảnh biệt ly chung, họ là những người chịu nỗi đau nặng nề hơn cả, vì nếu cũng như đối với mọi người, thời gian gợi lên cho họ nỗi lo âu riêng của nó, thì đồng thời họ cũng lại bị trói chặt vào không gian và luôn luôn vấp phải những bức trường thành ngăn cách nơi bị nhiễm dịch họ đang trú ngụ với quê hương xa xôi của họ. Chắc hẳn họ chính là những người lang thang suốt ngày trong cái thành phố bụi bặm, thầm lặng gợi lại những buổi tối mà chỉ riêng một mình họ biết, gợi lại những buổi sáng của quê hương. Thế là họ ấp ủ nỗi nhớ quê hương bằng những tín hiệu nhỏ nhoi hay những thông điệp ngỡ ngàng: một cánh én bay, một giọt sương chiều, những tia nắng kỳ lạ thỉnh thoảng mặt trời để rớt lại trên những đường phố hoang vắng. Cái thế giới bên ngoài ấy luôn luôn có thể giải thoát người ta khỏi tất cả, nhưng họ không hề để mắt vì khăng khăng ấp ủ những ảo ảnh quá thực và ra sức đeo đuổi hình ảnh một miền đất mà ở đây, một ít ánh sáng, vài ba ngọn đồi, một gốc cây thân thương và những khuôn mặt phụ nữ tạo thành một bầu không khí không sao có thể thay thế được đối với họ.
Cuối cùng, để nói rõ hơn về những người đang yêu là những người đáng nói tới hơn cả và có lẽ người kể chuyện ở đây có điều kiện hơn để nói - họ còn bị giày vò bởi những nỗi lo âu khác, trong đó phải kể tới sự ân hận. Quả là tình thế cho phép họ xem xét tình cảm của mình với một thái độ khách quan đến cuồng nhiệt. Và trong những hoàn cảnh này, ít khi họ không thấy rành rọt sự bất lực của bản thân mình. Trước hết, họ có thể hình dung chính xác hành động và cử chỉ của người vắng mặt. Họ phàn nàn không biết được lịch thời gian của người thân; họ tự trách mình đã lơ là không hỏi cho biết và làm như thế đối với người đang yêu thì lịch thời gian của người mình yêu không phải là ngọn nguồn của mọi niềm vui. Bắt đầu từ đó, họ dễ dàng đi ngược dòng chuỗi ngày yêu đương và xem xét những mặt khiếm khuyết của nó. Lúc bình thường, tự giác hay không tự giác, tất cả chúng ta đều biết không có một tình yêu nào là tuyệt đỉnh cả, thế nhưng chúng ta lại chấp nhận, với thái độ khá bình tĩnh, tình yêu của bản thân mình là một tình yêu tầm thường. Còn kỷ niệm thì khe khắt hơn. Và một cách rất hợp lý, cái tai họa từ bên ngoài đến với chúng tôi và giáng xuống cả một thành phố, cái tai họa ấy chỉ mang đến cho chúng tôi một niềm đau thương vô lý đáng làm chúng tôi phẫn nộ. Nó còn khiến chúng tôi tự mình làm mình đau khổ và do vậy chấp nhận lấy đau khổ. Chính dịch bệnh dùng cách đó để đánh lạc hướng và làm cho tình thế thêm rối ren.
Thế là mỗi người đành phải sống ngày nào biết ngày ấy và sống một mình đối diện với Thượng đế. Cái thái độ phó mặc của mọi người, về lâu về dài có thể tôi luyện tính cách, nhưng mới đầu thì chỉ làm cho chúng trở nên phù phiếm. Đối với một vài đồng bào chúng tôi, chẳng hạn, lúc đó, họ phải chịu một thứ tình trạng nô lệ khác buộc chặt họ vào nắng vào mưa. Nhìn họ, người ta tưởng như lần đầu tiên và một cách trực tiếp, họ có cảm giác về thời tiết. Chỉ cần một tia nắng vàng là nét mặt họ trở nên rạng rỡ, còn những ngày mưa thì như trùm một tấm khăn dày lên mặt mày và tâm tư họ. Mấy tuần lễ trước, họ thoát khỏi tình trạng yếu đuối và nô dịch phi lý ấy vì không phải chỉ có mình họ đối diện với đất trời và vì, trong một chừng mực nhất định, người thân trước kia cùng sống với họ, nay có mặt trong vũ trụ của họ. Trái lại, bắt đầu từ phút giây này, rõ ràng họ đành phó mặc cho những đổi thay thất thường của trời đất, nghĩa là họ đau buồn hay hy vọng đều vô căn cứ cả.
Cuối cùng, trong nỗi cô đơn tột đỉnh ấy, không một ai có thể hy vọng sự giúp đỡ của xóm giềng và mỗi người sống một mình với mối quan tâm của riêng mình. Nếu tình cờ một ai trong chúng tôi muốn thổ lộ chút tâm tình, thì câu trả lời, bất luận như thế nào, cũng thường làm người ấy tự ái. Lúc đó, họ thấy người đối thoại và mình không cùng nói về một điều giống nhau. Thật vậy, anh ta thì bộc lộ tâm tình sau bao tháng ngày nghiền ngẫm và đau thương, và cái hình ảnh anh ta muốn khơi gợi đã được nung nấu biết bao lâu trong ngọn lửa đợi chờ và yêu thương. Trái lại, người kia thì hình dung một thứ tình cảm ước lệ, nỗi niềm đau thương “bán rong ở chợ”, một thứ sầu não nhan nhản hằng ngày. Dù nhân ái hay thù địch, câu trả lời cũng không bao giờ đúng chỗ, không sao chấp nhận nổi. Hoặc chí ít, đối với những ai không sao chịu nổi sự lặng im, trong khi những người khác không thể tìm thấy tiếng nói chân chính của con tim, thì họ đành dùng thứ ngôn ngữ thường tình 1 và nói, theo phương thức ước lệ, tiếng nói của quan hệ bình thường và của việc vặt vãnh, có thể nói là của tin tức hằng ngày. Cả ở đây nữa, những nỗi đau thương chân thực nhất cũng vẫn được diễn tả bằng những công thức trò chuyện nhàm chán. Chỉ có với giá đó những người bị dịch hạch cầm tù mới có thể tranh thủ được sự thông cảm của người gác cổng hay sự chú ý của người nghe.
Thế nhưng - và ở đây là điều quan trọng nhất dù những nỗi kinh hoàng đau xót tới đâu, dù trái tim, tuy trống rỗng, đè nặng lên cuộc sống tới đâu, vẫn có thể nói rằng trong thời kỳ đầu dịch bệnh, những người bị lưu đày này là những người được ưu đãi. Thật vậy, chính vào lúc dân chúng bắt dầu hốt hoảng thì tâm tưởng của họ hoàn toàn hướng về người thân họ mong ngóng. Trong nỗi phiền muộn chung, tính ích kỷ trong tình yêu bảo vệ họ, và nếu họ có nghĩ tới dịch hạch thì cũng chỉ ở chỗ nó có cơ làm cho cảnh ly biệt trở thành vĩnh viễn. Cứ thế, chính giữa lúc dịch bệnh hoành hành, họ có một lối giải trí bổ ích mà người ta có thể cho là sự bình tĩnh. Nỗi tuyệt vọng cứu thoát họ khỏi cơn khủng khiếp, tai họa có mặt tốt đối với họ. Dù có một người trong số họ bị tử vong vì dịch bệnh, chẳng hạn, thì hầu như bao giờ họ cũng chẳng có thể để ý tới nữa. Rút khỏi cuộc đối thoại tâm tình kéo dài với một hình bóng, thà là họ bị ném đột ngột vào sự lặng im sâu xa nhất của đất. Trước đó, họ không hề có thì giờ làm gì hết.
Trong khi đồng bào chúng tôi tìm cách thu xếp với tình cảnh lưu đày đột ngột này, thì vì dịch hạch, người ta đặt trạm gác ở các cửa ngõ thành phố và buộc các con tàu biển trên đường Oran quay trở lại. Từ đó, không một cỗ xe nào vào thành phố. Và người ta có cảm giác ô-tô chạy vòng quanh. Bến cảng cũng có một vẻ kỳ lạ đối với những người từ trên cao các đại lộ nhìn xuống. Cảnh nhộn nhịp thường ngày khiến nơi đây vốn là một trong những bến cảng quan trọng nhất trên bờ biển bỗng nhiên tàn lụi. Chỉ còn vài con tàu đang bị giữ lại kiểm dịch. Nhưng trên bến cảng, những chiếc cần trục đồ sộ bỏ không, những toa goòng lật nghiêng, những chồng thùng phuy hay bao tải trơ trọi, tất cả chứng tỏ rằng chính nền thương mại cũng chết vì dịch hạch.
Mặc dù những cảnh tượng khác thường ấy, rõ ràng đồng bào chúng tôi vẫn khó có thể hiểu tình hình gì đã xảy ra đối với họ. Họ có những tình cảm giống nhau như nỗi xa cách hay sự sợ hãi, nhưng vẫn đặt những công việc cá nhân lên hàng đầu. Chưa một ai thực sự thừa nhận dịch bệnh. Chủ yếu, số đông nhạy cảm với những gì xáo trộn thói quen hoặc đụng tới quyền lợi của họ. Họ bực tức, khó chịu, nhưng đó không phải là những tình cảm có thể đem chống chọi với dịch hạch. Phản ứng đầu tiên của họ, chẳng hạn, là đổ trách nhiệm cho bộ máy nhà nước. Câu trả lời của ông tỉnh trưởng đối với những lời chỉ trích mà báo chí phản ánh (“Phải chăng không thể nghĩ tới việc thực hiện mềm dẻo hơn những biện pháp đã đặt ra?”) là khá bất ngờ. Cho tới lúc này, báo chí cũng như hãng Ransdoc chưa được thông báo chính thức những con số thống kê dịch bệnh. Giờ đây, thị trưởng thông báo hàng ngày cho hãng này và yêu cầu đưa tin từng tuần một.
Nhưng vẫn không có sự phản ứng tức thời của công chúng. Thật vậy, cái tin ba trăm linh hai người chết về dịch hạch trong tuần thứ ba vẫn không làm người ta xao xuyến. Một mặt, có thể không phải tất cả đều chết vì dịch hạch. Và mặt khác, không một ai trong thành phố biết là lúc bình thường, mỗi tuần có bao nhiêu người chết. Thành phố có hai trăm nghìn dân. Người ta không rõ cái tỷ lệ người chết này có bình thường hay không. Thậm chí đó là loại những con số chính xác mà không bao giờ người ta quan tâm, mặc dù hiển nhiên chúng đáng được chú ý. Có thể nói công chúng không có cơ sở so sánh. Chỉ lâu dần, khi thấy số người chết ngày một tăng, dư luận mới nhận ra sự thật. Quả là tuần thứ năm có ba trăm hai mươi mốt người chết và tuần thứ sáu, ba trăm bốn mươi lăm người. Ít ra những con số tăng dần cũng khá hùng biện. Nhưng không đủ mạnh nên đồng bào chúng tôi, trong không khí lo âu, vẫn có cảm tưởng đây là một sự kiện, dĩ nhiên tai hại, nhưng dẫu sao cũng chỉ nhất thời.
Họ vẫn tiếp tục qua lại trên đường phố, ngồi trước các tiệm cà phê. Nói chung, họ không hèn nhát, họ đùa cợt nhiều hơn kêu ca và tỏ ra vẻ vui lòng chịu đựng những điều bất tiện họ đinh ninh là nhất thời. Bộ mặt bề ngoài vẫn được giữ gìn. Nhưng vào khoảng cuối tháng và hầu như trong tuần lễ cầu kinh - mà chúng tôi sẽ nói tới sau - có những sự kiện quan trọng làm biến đổi quang cảnh thành phố. Trước hết, tỉnh trưởng thi hành những biện pháp đối với tiếp tế và giao thông. Tiếp tế bị hạn chế và xăng, cấp theo định lượng. Thậm chí quy định tiết kiệm điện. Chỉ có nhu yếu phẩm mới được đưa tới Oran bằng đường bộ và đường không. Giao thông giảm dần tới mức hầu như không còn gì nữa, các cửa hiệu bán hàng xa xỉ đóng cửa ngày một ngày hai, những hiệu khác thì treo biển hết hàng trong tủ kính, trong lúc người mua đứng hàng dài trước cửa.
Bộ mặt Oran trở nên khác thường. Số lượng người đi bộ tăng lên rất nhanh và thậm chí vào những giờ thành phố ít hoạt động, nhiều người rảnh rỗi vì các cửa hiệu hay một số công sở đóng cửa, vẫn đi chật đường hay chen chúc ở các tiệm cà phê. Đến lúc này, họ chưa phải thất nghiệp mà là nghỉ việc. Thế là vào khoảng ba giờ chiều chẳng hạn, và dưới một bầu trời đẹp đẽ, Oran cho người ta cái ảo giác về một thành phố ngày hội, giao thông đình lại và cửa hiệu đóng cửa để tổ chức một buổi biểu dương công cộng, và dân chúng ùa ra đường phố tham dự các trò vui.
Dĩ nhiên, các rạp chiếu bóng lợi dụng tình trạng nghỉ ngơi chung này và thu rất bẫm. Nhưng vòng quay trong tỉnh của các bộ phim bị cắt đứt. Sau hai tuần lễ, các rạp buộc phải đổi chương trình cho nhau, và ít lâu sau, đành phải chiếu đi chiếu lại một bộ phim. Nhưng thu nhập vẫn không giảm.
Còn các tiệm cà phê, thì nhờ những kho dự trữ đồ sộ trong một thành phố mà việc buôn bán vang và rượu giữ vị trí hàng đầu, nên vẫn tiếp tục bán hàng. Nói đúng ra, người ta uống rượu nhiều. Một tiệm cà phê quảng cáo là “vang chính hiệu tiêu diệt vi sinh vật”, thế là dư luận quần chúng lại càng tin - như trước đây họ đã từng tin một cách tự nhiên - là rượu phòng ngừa được các bệnh nhiễm khuẩn. Đêm nào cũng vậy, vào khoảng hai giờ, khá nhiều kẻ say rượu bị tống ra khỏi các quán cà phê đi chật cả đường và tuôn ra những lời lẽ lạc quan.
Nhưng mọi sự đổi thay ấy, về một mặt nào đó, kỳ lạ và diễn ra nhanh chóng đến mức khó có thể xem chúng là bình thường và bền vững. Kết quả là người ta tiếp tục đặt tình cảm riêng tư lên hàng đầu.
Hai ngày sau khi thành phố đóng cửa, bác sĩ Rieux bước ra khỏi bệnh viện thì gặp Cottard. Hắn ngửng về phía ông một khuôn mặt mãn nguyện. Rieux khen hắn về cái vẻ tươi tỉnh ấy.
- Vâng, tôi rất mạnh khỏe - Anh chàng người bé nhỏ trả lời - Thưa bác sĩ, bác sĩ cho tôi biết cái bệnh dịch hạch khốn kiếp ấy bắt đầu trở nên nghiêm trọng phải không?
Rieux thừa nhận. Còn hắn thì nhận xét với một vẻ thích thú :
- Không có lý do gì bây giờ nó dừng lại. Sẽ lộn tùng phèo lên tất cả cho mà xem!
Hai người cùng đi với nhau một lát. Cottard kể là một nhà buôn tạp hóa lớn trong khu phố hắn cắt trừ thực phẩm để bán giá đắt và người ta tìm thấy đồ hộp dưới giường hắn khi đến đưa hắn đi bệnh viện. “Hắn đã chết ở viện. Dịch hạch, không thể trả giá được”. Cottard có không biết bao nhiêu là chuyện - chuyện thật hay chuyện giả - về dịch bệnh. Người ta nói, chẳng hạn, ở trung tâm thành phố, một buổi sáng, một gã đàn ông có những dấu hiệu dịch hạch, và trong cơn mê sảng vì bệnh tật, đã xông ra đường, nhảy xổ vào một người phụ nữ đầu tiên hắn gặp và vừa ôm riết bà ta vừa la ầm ĩ là hắn bị dịch hạch.
- Thế đấy! - Cottard nhận xét với một giọng dễ thương không hợp với lời khẳng định của hắn - Tất cả chúng ta đều sẽ điên hết cả thôi, chắc chắn là như vậy.
Ngay buổi chiều hôm đó, Joseph Grand cũng tâm sự với bác sĩ Rieux. Anh trông thấy bức ảnh bà Rieux trên bàn giấy và quay nhìn Rieux. Ông bảo là vợ ông đang đi chữa bệnh, không có mặt trong thành phố. “Về một mặt nào đó, Grand nói, thế là may mắn”. Rieux cho đó quả là điều may mắn và hy vọng vợ ông sẽ khỏi bệnh.
- A! - Grand thốt lên - Tôi hiểu.
Và lần đầu tiên Grand nói nhiều từ khi Rieux biết anh. Anh vẫn phải tìm từ để diễn đạt nhưng hầu như bao giờ cũng tìm được, như thể anh nghĩ ngợi từ lâu về những điều mình đang nói.
Anh kết hôn lúc còn rất trẻ với một cô gái nghèo hàng xóm. Để cưới vợ, anh phải bỏ học và kiếm việc làm. Cả Jeanne lẫn anh không bao giờ ra khỏi khu phố. Anh đến thăm người yêu, và bố mẹ Jeanne vẫn thường chế giễu cái anh chàng cầu hôn ít lời và vụng về này. Ông bố làm ngành đường sắt. Khi nghỉ ngơi, bao giờ ông cũng ngồi trầm tư trong một góc nhà, cạnh cửa sổ, nhìn cảnh tượng đường phố, hai bàn tay to sụ đặt úp trên đùi. Bà mẹ suốt ngày lo công việc gia đình và Jeanne giúp đỡ bà. Người nàng nhỏ nhắn đến nỗi hễ thấy nàng đi qua đường là Grand lại lo ngại. Lúc đó, anh thấy xe cộ qua lại tựa như những vật khổng lồ. Một hôm, trước một cửa hiệu bán quà Nôen, Jeanne, lúc đó đang trầm trồ trước tủ kính, ngả người vào anh và nói: “Đẹp quá!” Anh nắm cổ tay cô gái. Và thế là họ quyết định kết hôn.
Câu chuyện còn lại - theo Grand - rất đơn giản. Mọi người đều như thế cả: người ta lấy nhau, còn yêu nhau chút ít và làm việc. Làm việc tới mức quên cả yêu. Jeanne cũng làm việc vì người ta không giữ lời hứa trước kia của tay chủ sự với Grand. Ở đây, cần có chút óc tưởng tượng để hiểu Grand muốn nói gì. Vì mệt nhọc, anh ta đâm chán nản, ngày càng ít nói và không làm cho người vợ trẻ tin rằng cô được yêu. Một người đàn ông phải làm lụng, cảnh nghèo đói, cánh cửa tương lai bị khép lại dần; cái im ắng buổi tối quanh bàn ăn, trong bầu không khí như thế thì không còn có chỗ cho đắm say. Chắc hẳn Jeanne đau khổ. Nhưng nàng vẫn ở lại: có khi người ta đau khổ mãi mà không hay biết. Năm tháng trôi qua. Về sau nàng ra đi. Dĩ nhiên, không phải ra đi một mình. “Em đã yêu anh nhiều lắm, nhưng bây giờ em mệt mỏi... Em không sung sướng gì phải ra đi, nhưng để bắt đầu lại thì người ta không cần phải sung sướng”. Trên đại thể, nàng đã viết thư cho anh như vậy.
Đến lượt mình, Joseph Grand cũng đau khổ. Nhẽ ra anh có thể bắt đầu lại, như Rieux nói với anh. Nhưng anh đã mất lòng tin.
Chỉ có điều là anh luôn nghĩ tới nàng. Anh muốn viết thư cho nàng để thanh minh. “Nhưng khó quá. Tôi đã nghĩ tới điều đó từ lâu. Chừng nào còn yêu nhau thì chúng tôi hiểu nhau mà không cần nói ra thành lời. Nhưng không phải bao giờ người ta cũng yêu nhau. Nhẽ ra vào một lúc nào đó, tôi phải tìm được lời lẽ để giữ nàng lại, nhưng tôi đã không làm được”. Grand hỉ mũi vào một chiếc khăn kẻ vuông. Rồi chùi râu mép. Rieux nhìn anh.
- Xin bác sĩ thứ lỗi, - Anh nói - nhưng biết nói thế nào nhỉ?... Tôi tin ông. Với ông, tôi có thể nói được. Và thế là tôi xúc động.
Rõ ràng, Grand không mảy may nghĩ tới dịch hạch.
Buổi tối, Rieux đánh điện cho vợ, báo tin thành phố đã bị đóng cửa, còn mình thì mạnh khỏe. Ông căn dặn vợ chăm lo chữa bệnh và bày tỏ nỗi lòng nhớ thương của mình.
Ba tuần sau, khi thành phố đóng cửa, ở bệnh viện đi ra, Rieux gặp một người trẻ tuổi đứng chờ.
- Tôi nghĩ, - Chàng trai nói - ông nhận ra tôi.
Rieux hình như nhận ra anh, nhưng ông ngập ngừng.
- Trước khi xảy ra những sự kiện này, - Anh nói tiếp - tôi đã đến hỏi ông tình hình đời sống của người Ả Rập. Tôi là Raymond Rambert.
- A! Vâng - Rieux đáp - Bây giờ ông có một đề tài phóng sự thú vị đây.
Anh chàng tỏ vẻ cáu kỉnh, bảo không phải là cái đó và anh ta đến có việc nhờ bác sĩ giúp đỡ.
- Xin lỗi ông, - Anh nói tiếp - tôi không quen ai trong thành phố và không may tay thông tín viên tờ báo chúng tôi lại là một kẻ ngu dại.
Rieux bảo Rambert cùng đi tới một phòng chữa bệnh ở trung tâm thành phố vì ông có đôi điều cần dặn dò người ta ở đấy. Họ đi dọc những con đường nhỏ trong khu phố người da đen. Trời sắp về chiều, nhưng thành phố trước kia vào giờ này vốn rất ồn ã, nay vắng vẻ đến rất kỳ lạ. Mấy tiếng kèn clerông vang lên trong bầu trời còn vàng rực: đám nhạc binh muốn tỏ ra đang làm nghề nghiệp của mình. Trong lúc đó, bước theo những con đường dốc, giữa những dãy tường màu xanh, màu vàng nâu, màu tím của những căn nhà kiểu người Mauresques 2, Rambert bắt đầu nói, vẻ rất bồn chồn. Anh để vợ ở lại Paris. Nói đúng ra, không phải vợ, nhưng cũng thế thôi. Anh đã đánh điện cho nàng ngay sau khi thành phố đóng cửa. Lúc đầu, anh nghĩ là một sự kiện nhất thời và chỉ tìm cách liên lạc với nàng. Các bạn đồng nghiệp ở Oran bảo anh là họ không thể làm gì được, bưu điện thì không tiếp và một cô thư ký ở cơ quan tỉnh thì chế giễu anh ra mặt. Xếp hàng dài suốt hai tiếng, cuối cùng, anh mới đánh được bức điện với vẻn vẹn mấy từ: “Tốt đẹp cả. Mong sớm gặp lại”.
Nhưng sáng sớm, khi ngủ dậy, bỗng nhiên anh nảy ra ý nghĩ là dẫu sao anh cũng không biết tình hình này sẽ kéo dài tới bao giờ. Anh quyết định rời khỏi nơi đây. Với giấy giới thiệu (trong nghề làm báo, có những điều kiện thuận lợi), anh gặp được viên chánh văn phòng cơ quan tỉnh và nói với ông ta rằng anh không có quan hệ với Oran, anh không có việc gì phải ở lại, anh đến đây chỉ vì tình cờ, và cho phép anh ra đi là điều hợp lẽ, dù khi ra khỏi thành phố, anh có phải cách ly để kiểm dịch đi nữa. Viên chánh văn phòng bảo anh là ông ta hiểu rất rõ, nhưng không thể có trường hợp ngoại lệ; ông ta sẽ nghiên cứu, nhưng tóm lại, tình hình là nghiêm trọng và ông ta không quyết định được gì hết.
- Nhưng cuối cùng, - Rambert đáp - tôi không dính dáng gì tới thành phố này.
- Dĩ nhiên rồi, nhưng dẫu sao, chúng tôi hy vọng dịch bệnh sẽ không kéo dài.
Để kết thúc, ông ta tìm cách an ủi Rambert, lưu ý anh là anh có thể tìm được Oran đề tài cho một thiên phóng sự thú vị và xét cho cùng, không có sự kiện nào là không có mặt tốt của nó. Rambert nhún vai. Hai người bước tới trung tâm thành phố.
- Thưa bác sĩ, ông thấy đấy, thật là ngu ngốc. Tôi không phải sinh ra để viết phóng sự. Mà có lẽ tôi sinh ra để sống với một người đàn bà. Có phải như thế là hợp lẽ không?
Rieux đáp dẫu sao, điều đó cũng là hợp lẽ.
Trên các đại lộ ở trung tâm thành phố, không thấy đám đông thường ngày. Vài khách bộ hành vội vã trở về nhà xa. Không một ai có nụ cười trên môi. Rieux nghĩ đó là kết quả của bản tin ngày hôm ấy của hãng Ransdoc. Hai mươi bốn tiếng sau, đồng bào chúng tôi lại bắt đầu hy vọng. Nhưng ngay ngày hôm đó, những con số còn quá mới mẻ trong ký ức.
- Ấy là, - Bỗng Rambert đột ngột nói - nàng và tôi, chúng tôi mới gặp nhau ít lâu trước đây thôi và chúng tôi rất hiểu nhau.
Rieux vẫn lặng im.
- Tôi làm phiền ông quá - Rambert nói tiếp - Tôi chỉ muốn hỏi ông có thể cấp cho tôi một giấy chứng nhận là tôi không mang cái bệnh khốn kiếp ấy hay không. Tôi nghĩ cái đó có thể giúp ích cho tôi.
Rieux gật đầu. Một đứa trẻ bỗng đâm nhào vào chân ông và ông nhẹ nhàng nâng nó dậy. Hai người lại tiếp tục đi và tới quảng trường Duyệt binh. Những cành vả và cành cọ, bụi bám xám xịt im phăng phắc xung quanh tượng đài Cộng hòa bụi bặm và bẩn thỉu. Họ dừng chân dưới chân tượng. Rieux lần lượt gõ xuống mặt đất đôi giày phủ một lớp bụi trắng xóa. Ông nhìn Rambert. Chiếc mũ phớt hơi hất ra phía sau, cổ áo sơ-mi thắt cà vạt nhưng không cài khuy, mặt không cạo, anh chàng nhà báo có vẻ lầm lì, ủ rũ.
- Ông hãy tin là tôi hiểu ông, - Cuối cùng Rieux cất tiếng - nhưng lập luận của ông không thỏa đáng. Tôi không thể cấp cho ông tờ chứng nhận ấy vì thực tế, tôi không biết ông có bệnh đó hay không và vì, dù ông không có đi nữa thì tôi cũng không thể chứng nhận là từ khi ông bước ra khỏi phòng tôi cho đến khi ông bước vào cơ quan tỉnh, trong khoảnh khắc đó, ông không bị lây nhiễm. Vả lại, dù cho...
- Dù cho làm sao? - Rambert hỏi.
- Dù cho tôi có cấp cho ông tờ chứng nhận ấy đi nữa, thì nó cũng chẳng giúp được gì ông cả.
- Sao vậy?
- Vì trong thành phố có hàng nghìn người ở trong trường hợp giống như ông, thế nhưng người ta lại không thể để cho họ ra đi được.
- Nhưng nếu như bản thân họ không mang bệnh dịch hạch?
- Lý do đó không đủ. Cái chuyện này thật ngốc nghếch, tôi biết lắm, nhưng nó liên quan đến tất cả chúng tôi. Nó như thế nào thì phải chấp nhận nó như thế ấy.
- Nhưng tôi không phải là người ở đây!
- Tiếc thay! Bắt đầu từ lúc này, ông sẽ là người ở đây như mọi người.
Rambert sôi nổi lên :
- Đây là vấn đề nhân đạo, tôi cam đoan với ông như vậy. Có lẽ ông không hình dung nổi thế nào là một sự chia cắt như sự chia cắt này đối với hai con người hoàn toàn hòa hợp với nhau.
Rieux không trả lời ngay. Nhưng rồi nói là có lẽ ông hình dung nổi. Ông hết lòng mong muốn Rambert gặp lại vợ, mong muốn tất cả những người yêu đều được đoàn tụ, nhưng có những nghị định và đạo luật, có bệnh dịch hạch, và nhiệm vụ của ông là làm theo đúng bổn phận.
- Không, - Rambert chua chát nói - ông không thể hiểu. Ông nói tiếng nói của lý trí, ông mơ hồ mất rồi.
Bác sĩ Rieux ngước mắt lên tượng đài Cộng hòa và nói ông không rõ mình có nói tiếng nói của lý trí hay không, nhưng ông nói tiếng nói của sự thật hiển nhiên, và hai cái đó không nhất thiết phải là một. Anh chàng nhà báo nắn lại cà vạt :
- Thế nghĩa là tôi phải lo liệu lấy bằng cách khác? Nhưng, - Anh nói tiếp, thái độ thách thức - tôi sẽ rời khỏi thành phố.
Rieux đáp ông vẫn hiểu anh, nhưng việc đó không liên quan tới mình.
- Có, cái đó liên quan tới ông - Rambert nói, giọng thay đổi đột ngột - Tôi đến nhờ ông vì người ta bảo tôi rằng ông giữ phần quan trọng trong những quyết định vừa qua. Và tôi nghĩ, ít nhất cũng đối với một trường hợp, ông có thể cởi nới cái mà ông đã góp phần trói buộc trước đây. Nhưng cái đó chẳng quan hệ gì tới ông. Ông chẳng nghĩ đến ai hết. Ông chẳng quan tâm tới những người bị xa cách.
Rieux thừa nhận là ở một mặt nào đó, điều ấy đúng sự thật, ông không quan tâm đến.
- A! Tôi biết - Rambert nói tiếp - Ông muốn nói tới công việc chung. Nhưng lợi ích chung là do hạnh phúc của mỗi người tạo thành.
- Này ông, - Rieux đáp - như người vừa mới ra khỏi một cơn lãng ý, có cái đó và có cái khác nữa. Không nên phán xét. Và ông bực tức thế là sai đấy. Nếu ông thoát ra khỏi tình thế này thì tôi sẽ hết sức sung sướng. Chỉ có điều là có những cái mà nhiệm vụ không cho phép tôi.
Rambert sốt ruột lắc đầu.
- Vâng, tôi bực bõ là có lỗi. Và thế là đã làm mất khá nhiều thì giờ của ông.
Rieux bảo anh lo liệu được thế nào thì cho ông biết và đừng để bụng giận ông. Chắc chắn có một mặt nào đó hai người có thể gặp nhau. Bỗng nhiên Rambert ra vẻ băn khoăn :
- Tôi tin như vậy, - Anh nói sau một lúc im lặng - vâng, tôi tin, mặc dù tôi không muốn tin và mặc dù tất cả những điều ông vừa nói với tôi.
Anh ngập ngừng :
- Nhưng tôi không thể tán thành ông.
Anh kéo thấp chiếc mũ phớt xuống trán và vội vã bước đi. Rieux thấy anh đi vào khách sạn Jean Tarrou ở trong đó.
Một lát sau, ông lắc đầu. Anh nhà báo có lý vì nóng lòng mong ngóng hạnh phúc. Nhưng anh ta có lý không khi anh lên án ông? “Ông mơ hồ mất rồi!”. Có quả là mơ hồ không, những ngày ông sống trong bệnh viện, nơi dịch hạch tiến triển nhanh chóng, mỗi tuần trung bình giết chết năm trăm mạng người? Đúng, trong tai họa, có một phần mơ hồ và hư ảo. Nhưng khi tình trạng mơ hồ bắt đầu giết chết người ta thì phải thực sự quan tâm tới nó. Và Rieux chỉ biết đó không phải là việc dễ dàng nhất. Không phải dễ dàng gì, chẳng hạn, việc điều khiển cái bệnh viện phụ (đến nay thì đã có tới ba cái) mà ông phụ trách. Ông bố trí trong khu nhà một buồng tiếp khách ngoảnh mặt ra phòng khám. Mặt đất được đào thành một cái hồ nước đã được khử trùng bằng crêdin, và ở giữa hồ xếp gạch lên như một hòn đảo nhỏ. Người bệnh được chở đến “đảo”, nhanh chóng cởi bỏ quần áo xuống nước. Sau khi được rửa ráy, lau khô mình và mặc vào chiếc sơ-mi thô ráp của bệnh viện, người bệnh được Rieux khám và sau đó khiêng vào buồng. Người ta đã phải dùng sân chơi có mái che của một trường học với năm trăm giường mà hầu hết đã có người nằm. Sau buổi tiếp khách ban sáng mà ông đích thân phụ trách, tiêm xong vacxin và rạch hạch xoài cho người bệnh, Rieux kiểm tra các con số thống kê, rồi tiếp tục khám bệnh buổi chiều. Đến tối thì đi thăm bệnh nhân tại nhà và khuya mới ra về. Đêm trước, khi trao cho ông bức điện của bà Rieux, mẹ ông bảo là hai tay ông run.
- Vâng, - Ông đáp - nhưng cứ kiên trì thì con sẽ bớt bị kích động đi thôi.
Rieux là người lực lưỡng và dẻo dai. Thực tế, ông chưa mệt. Nhưng ông không sao chịu nổi những buổi khám bệnh tại nhà nữa. Chẩn đoán bệnh sốt dịch tễ, có nghĩa là phải đưa nhanh người bệnh đi cách ly. Thế là quả thật bắt đầu tình trạng mơ hồ và khó khăn, vì gia đình người bệnh biết chỉ gặp lại người thân sau khi người này chết hoặc khỏi bệnh. “Xin bác sĩ rủ lòng thương!”, bà Loret, mẹ chị hầu phòng trong khách sạn Tarrou ở, đã thốt lên như vậy. Thế nghĩa là thế nào? Dĩ nhiên ông xót thương. Nhưng lòng thương xót chẳng làm cho một ai tiến lên cả. Phải gọi điện thoại thôi. Ngay sau đó, tiếng còi xe cứu thương vang lên. Lúc đầu, hàng xóm mở cửa sổ ra xem. Về sau, họ vội vã đóng cửa lại. Thế là bắt đầu những cuộc đấu tranh, những giọt nước mắt, những lời thuyết phục, tóm lại là một sự mơ hồ. Trong những căn buồng hừng hực cơn sốt và nỗi lo sợ, diễn ra những cảnh tượng như điên như dại. Nhưng người bệnh vẫn phải chở đi. Và Rieux có thể ra về.
Những lần đầu, ông chỉ gọi điện rồi vội đến với những người bệnh khác, không chờ xe cứu thương tới. Nhưng thế là gia đình người bệnh đóng cửa lại, thà mặt đối mặt với dịch hạch còn hơn là một sự chia ly mà giờ đây họ đã biết kết cục sẽ ra sao. Những tiếng kêu la, những lời truyền lệnh, sự can thiệp của cảnh sát, rồi về sau của lực lượng vũ trang, và người ta tấn công người bệnh. Trong những tuần đầu, Rieux buộc phải ở lại cho đến khi xe cứu thương tới. Về sau, khi cùng với mỗi người thầy thuốc đi kiểm tra tình hình bệnh tật, có thêm một viên thanh tra cảnh sát kiên quyết, thì Rieux có điều kiện lần lượt đi thăm bệnh nhân. Nhưng trong những thời kỳ đầu thì tối nào cũng, diễn ra giống như tối hôm ông đến nhà bà Loret, trong một căn phòng nhỏ trang trí những chiếc quạt xinh xắn và những cánh hoa giả. Bà ta đón ông, một nụ cười như mếu trên môi.
- Tôi hy vọng không phải là bệnh sốt mà ai ai cũng nói tới.
Còn ông, lật tấm đra và sơ-mi lên, lặng lẽ nhìn những nốt đỏ trên bụng, trên đùi bệnh nhân và những cái hạch sưng tấy. Người mẹ nhìn con gái và hốt hoảng kêu la, không sao tự chủ nổi. Tối nào, những người mẹ cũng hét lên như vậy, vẻ mơ hồ, khi nhìn bụng con với tất cả những dấu hiệu chết chóc; tối nào, những cánh tay cũng níu lấy tay Rieux, và bắt đầu tuôn ra những lời nói vô ích, những điều hứa hẹn và những giọt nước mắt; tối nào, tiếng còi xe cứu thương cũng gây nên những cơn khủng hoảng vô bổ như mọi nỗi đau đớn. Và nhiều buổi tối đi thăm bệnh - buổi nào cũng giống buổi nào - Rieux không thể hy vọng gì khác hơn một chuỗi dài những cảnh tương tự, lặp đi lặp lại một cách vô tận. Đúng, dịch hạch, cũng như trạng thái mơ hồ, thật là đơn điệu. Có lẽ chỉ có một cái thay đổi, và cái đó, chính là bản thân Rieux. Tối hôm ấy ông cảm thấy như vậy khi ngồi dưới chân tượng đài Cộng hòa và chỉ có ý thức về sự thờ ơ khó chịu bắt đầu dâng lên trong lòng, mắt đăm đăm nhìn vào cánh cửa khách sạn vừa hút Rambert vào trong đó.
Sau những tuần lễ kiệt sức, sau những buổi hoàng hôn nhìn thành phố đổ ra và quẩn quanh ngoài đường, Rieux hiểu ông không cần phải chống lại lòng xót thương nữa. Lòng xót thương làm người ta mệt mỏi khi nó trở nên vô ích. Và trong những ngày nặng nề này ông chỉ có cảm giác nhẹ nhõm khi nhận thấy con tim mình dần dần khép kín lại. Ông biết nhiệm vụ của mình nhờ đó sẽ thuận lợi hơn. Vì thế ông lấy làm hoan hỉ. Khi mẹ ông, gặp ông lúc hai giờ sáng, hết sức buồn bã về cái ánh mắt trống rỗng của ông trong lúc ngước nhìn cụ, thì chính là cụ phàn nàn về sự lắng dịu duy nhất lúc đó ông đón nhận được. Nhưng làm sao Rambert có thể cảm nhận cái đó được? Đối với anh ta, tất cả những gì đối lập với hạnh phúc của mình đều là “mơ hồ”. Và thực ra, Rieux hiểu rằng ở một mặt nào đó, anh nhà báo này có lý. Nhưng ông cũng hiểu rằng sự mơ hồ có khi mạnh hơn cả hạnh phúc, và lúc đó, và chỉ lúc đó không thôi, phải tính đến nó. Đó là điều phải xảy ra với Rambert, và bác sĩ Rieux biết được chi tiết tình hình ấy qua những lời tâm tình về sau anh bộc lộ với ông. Bằng cách đó, ông có thể theo dõi, và trên một bình diện mới, cuộc đấu tranh âm thầm giữa hạnh phúc của mỗi con người với những sự mơ hồ về dịch hạch, cuộc đấu tranh này là toàn bộ sức sống của thành phố chúng tôi trong suốt thời kỳ dài này.
Nhưng trong lúc người này cho là mơ hồ thì người khác lại cho là sự thật. Quả là sau một tháng, dịch bệnh trầm trọng thêm một cách rõ rệt và cha Paneloux, người giáo sĩ dòng Tên đã dìu ông lão Michel lúc lão bắt đầu lâm bệnh, đọc một bài thuyết giáo sôi nổi. Cha Paneloux đã từng nổi tiếng trong sự cộng tác thường xuyên với tờ tập san của Hội địa lý Oran, nơi uy tín của ông được đề cao vì các công trình phục nguyên văn bia. Nhưng ông tranh thủ được một cử tọa rộng lớn hơn cử tọa của một chuyên gia, bằng một loạt buổi nói về chủ nghĩa cá nhân hiện đại. Ông nhiệt liệt bênh vực một thứ Cơ Đốc giáo nghiêm ngặt, xa lạ vừa với lối tự do tư tưởng hiện đại vừa với chính sách ngu dân những thế kỷ trước. Ông không ngần ngại nói với cử tọa những sự thật đau lòng. Ông nổi tiếng vì thế.
Vào cuối tháng này, các giáo phẩm trong thành phố quyết định chống lại dịch hạch với những phương tiện riêng của mình, bằng cách tổ chức một tuần lễ cầu kinh công cộng. Kết thúc tuần lễ này sẽ là một buổi lễ misa trọng thể tổ chức với sự bảo hộ của thánh Roch 3, vị thánh bị bệnh dịch hạch. Họ mời cha Paneloux thuyết giáo. Đã mười lăm ngày nay, ông ta rứt ra khỏi công việc nghiên cứu về thánh Augustin 4 và Giáo hội châu Phi, những công việc tạo cho ông một vị trí đặc biệt trong dòng Thánh của mình. Bản tính sôi nổi và say mê, ông kiên quyết nhận nhiệm vụ được giao. Trong thành phố, người ta đã bàn tán về buổi thuyết giáo những mấy ngày trước và nó đánh dấu, theo cách riêng của mình, một thời điểm quan trọng trong lịch sử thời kỳ này.
Tuần lễ cầu kinh được đông đảo quần chúng hưởng ứng. Thông thường nhân dân Oran không phải là những người đặc biệt mộ đạo. Chẳng hạn, sáng Chủ nhật, những buổi tắm biển cạnh tranh ra trò với lễ misa. Cũng không phải là một sự cải giáo đột ngột khiến họ sáng mắt vì Chúa. Nhưng một mặt, thành phố bị đóng cửa và hải cảng bị cấm, không còn có thể tắm biển; mặt khác, họ ở trong một trạng thái tinh thần đặc biệt: tuy trong thâm tâm không chấp nhận những sự kiện kỳ lạ đổ ập xuống đầu mình, họ vẫn cảm thấy rõ rệt có một cái gì đó đã thay đổi. Nhưng nhiều người vẫn hy vọng dịch bệnh sẽ dừng lại và họ cùng gia đình họ sẽ được miễn trừ. Bởi vậy họ chưa cảm thấy bị ràng buộc gì hết. Đối với họ, dịch hạch chỉ là một vị khách khó chịu: một ngày kia, nó sẽ phải ra đi như trước kia nó đã từng đến. Kinh hoàng nhưng không tuyệt vọng, họ chưa thấy đến lúc dịch hạch trở nên chính bản thân hình thái cuộc sống của mình, và cũng chưa đến lúc họ lãng quên cuộc sống mà họ đã có thể sống cho đến ngày có dịch bệnh. Tóm lại, họ ở trong cảnh đợi chờ. Về mặt tôn giáo cũng như về nhiều vấn đề khác, dịch hạch gây cho họ một trạng thái tâm lý đặc biệt, xa lạ vừa với sự thờ ơ vừa với lòng say đắm, cái trạng thái rất có thể xác định bằng từ “khách quan”. Chẳng hạn, phần lớn những người hưởng ứng tuần lễ cầu kinh, chắc hẳn đồng tình với một tín đồ khi người đó nói với Rieux: “Dẫu sao, cái đó cũng không thể làm hại”. Tarrou ghi trong sổ tay là trong trường hợp như thế này thì người Trung Hoa sẽ nổi trống lên trước thần dịch hạch. Anh nhận xét thêm là tuyệt đối không sao có thể biết được tiếng trống, thực sự có hiệu lực hơn phương pháp phòng bệnh hay không. Theo anh, muốn giải quyết vấn đề thì phải có đủ thông tin về thần dịch hạch và vì người ta không biết gì về điểm này nên mọi ý kiến đều vô bổ.
Dẫu sao, trong suốt tuần lễ, tín đồ cũng đến chật ních nhà thờ thành phố. Những ngày đầu, nhiều người còn đứng ngoài vườn cọ và thạch lựu trước cổng để nghe làn sóng cầu nguyện lan ra tận ngoài đường. Dần dà, người này theo gương người khác, họ bước vào nhà thờ và góp tiếng nói nhỏ nhẹ vào bản thánh ca. Ngày Chủ nhật, người ta ùn vào giáo đường, tràn ra tận ngoài sân vào những bậc tam cấp ngoài cùng. Từ tối hôm trước, bầu trời đen nghịt, và giờ đây mưa trút xối xả. Những người đứng ngoài đã trương dù ra. Mùi hương và mùi quần áo phảng phất trong nhà thờ khi cha Paneloux bước lên giảng đài.
Ông ta người tầm thước, nhưng béo mập. Khi ông dựa vào mép bàn, hai bàn tay to tướng nắm chặt thớ gỗ, thì người ta chỉ còn thấy một khối dày và đen, trên đó nổi lên đôi má đỏ ửng dưới cặp kính kim loại. Giọng ông nói to, say sưa, lan xa, và khi ông tấn công cử tọa bằng một câu nói sôi nổi và rành rọt: “Các con đang trong cảnh hoạn nạn, các con đáng phải chịu cảnh đó”, thì tiếng rì rầm nổi lên từ trong giáo đường ra tận ngoài sân.
Một cách lôgích thì những lời nói tiếp theo sau hình như không ăn khớp với lời kêu gọi lâm ly ấy. Chỉ có phần sau của bài nói mới làm cho đồng bào chúng tôi hiểu rằng, bằng một thủ pháp hùng biện khéo léo, cha Paneloux đã đưa ra ngay một lúc, như người ta giáng một đòn, chủ đề bài thuyết giáo. Quả là ngay sau câu đó, ông ta viện dẫn văn bản Lời kêu gọi thiên di 5 về thời kỳ dịch hạch ở Ai Cập và nói: “Lần đầu tiên tai họa này xuất hiện trong lịch sử, là để giáng vào những kẻ thù của Thượng đế. Vua Ai Cập chống lại ý chí của Đấng tối cao và dịch hạch đã buộc ông ta phải quỳ gối. Từ buổi sơ khai của lịch sử, tai họa của Thượng đế buộc những kẻ kiêu ngạo và mù quáng phải quỳ mọp dưới chân Người. Các con hãy ngẫm nghĩ và quỳ xuống”.
Ngoài trời, mưa mỗi lúc một nặng hạt. Những hạt mưa tí tách trên cửa kính làm thêm sâu thẳm bầu không khí im lặng như tờ, và câu nói của cha Paneloux vang lên với một âm sắc có sức mạnh khiến cho vài người nghe, sau một giây ngập ngừng, chuồi từ trên ghế tựa xuống ghế quỳ cầu kinh. Những người khác thấy cần noi gương họ và dần dà, toàn thể cử tọa quỳ xuống, trong giáo đường chỉ còn nghe tiếng cọt kẹt của mấy chiếc ghế. Paneloux vươn thẳng người lên, hít thở một hơi sâu và giọng rành rọt hơn, nói tiếp: “Sở dĩ ngày nay dịch hạch đụng tới các con là vì đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ. Những người chính trực thì không có gì phải sợ, nhưng những kẻ độc ác thì có lý do để run rẩy. Trong cái kho thóc mênh mông của vũ trụ, chiếc néo đập lúa khốc liệt sẽ đập hạt lúa - con người cho tới khi rơm rạ tách ra khỏi hạt. Rơm rạ sẽ nhiều hơn hạt, kẻ bị gọi nhiều hơn người được lựa chọn, và Chúa không muốn có tai họa ấy. Đã quá lâu rồi, thế gian này thỏa hiệp với điều ác; đã quá lâu rồi, nó dựa vào lòng từ bi của Đấng tối cao. Chỉ cần biết hối hận là đủ, mọi cái đều sẽ được phép. Và đối với lòng hối hận, mỗi người đều thấy có đủ sức mạnh. Lúc thời cơ đến, chắc chắn người ta sẽ cảm thấy nó. Từ đây tới đó, điều dễ dàng nhất là cứ phó mặc, lòng từ bi của Thượng đế sẽ lo phần còn lại. Thế đấy! Tình hình này không thể kéo dài. Thượng đế đã đằng đẵng cúi bộ mặt xót thương xuống những con người thành phố này, nhưng chờ đợi mãi và thất vọng trong niềm hy vọng vĩnh hằng của mình, Người vừa quay mặt đi. Không có ánh sáng của Thượng đế, giờ đây, chúng ta sẽ chìm đắm lâu dài trong cảnh tối tăm của dịch hạch!”.
Trong phòng, có ai đó cựa quậy, như một con ngựa chồn chân. Nghỉ một lát, cha Paneloux hạ giọng nói tiếp: “Lịch sử các Thánh 6 ghi lại là đời vua Humbert, ở vùng Lombardie, nước Ý bị một bệnh dịch hạch tàn phá dữ dội tới mức người sống chỉ vừa đủ để chôn người chết, và bệnh dịch hoành hành chủ yếu ở Rôma và Pavie 7. Một thiên thần hiển hiện, ra lệnh cho một hung thần vác giáo đến đập cửa các nhà; đập bao nhiêu nhát vào nhà nào thì nhà ấy có bấy nhiêu người chết đi ra”.
Paneloux giơ hai cánh tay cũn cỡn về phía sân nhà thờ, như thể chỉ một vật gì phía sau cái màn mưa đang chuyển động. “Hỡi các con, ông ta lớn tiếng nói, ngày nay, thần chết cũng đang săn đuổi trên các đường phố chúng ta. Các con nhìn xem vị thần dịch hạch kia, đẹp tựa Ma vương và óng ánh như bản thân cái ác, ngất nghểu trên mái nhà, tay phải cầm cây giáo đỏ ngang đầu, tay trái chỉ ngôi nhà. Có thể, ngay tức thì, ngón tay của thần chỉ về phía cửa và cây giáo vang lên trên ván cửa; cũng ngay tức thì, dịch hạch xông vào nhà, ngồi trong phòng chờ các con trở về. Nó ngồi đây, kiên nhẫn và chăm chú, vững chãi như chính sự an bài của vũ trụ. Bàn tay nó chìa ra, không một thế lực trần gian nào và - các con phải nắm chắc điều này - cũng không một trí tuệ nào của loài người giúp các con tránh thoát nó. Và bị đập trên mảnh sân đau thương đẫm máu, các con sẽ bị quẳng cùng với rơm rạ”.
Đến đây cha Paneloux miêu tả một cách rộng lớn hơn hình ảnh chiếc néo đập lúa. Ông ta gợi lên một khúc gỗ khổng lồ quay cuồng phía trên thành phố, nện xuống một cách bất kỳ rồi cất cao lên, đẫm máu: máu và đau thương của loài người được tung ra “cho những sự gieo vãi chuẩn bị cho những mùa gặt chân lý”.
Nói xong một thôi dài, cha Paneloux dừng lại, tóc rũ xuống trán, người run rẩy khiến cả giảng đài cũng rung lên, rồi nói tiếp, giọng trầm hơn nhưng với thái độ lên án: “Đúng, đã đến lúc phải suy nghĩ. Các con tưởng là chỉ cần đến với Chúa ngày Chủ nhật là đủ, không còn gì ràng buộc nữa. Các con cho vài buổi quỳ xuống cầu kinh là đủ chuộc lại đối với Người sự vô tâm tội lỗi của mình. Nhưng Chúa không hững hờ. Những mối quan hệ cách quãng ấy không đủ đối với tình thương cháy bỏng của Người. Người muốn gặp các con lâu hơn, đó là cách yêu thương và nói đúng ra là cách yêu thương duy nhất của Người đối với các con. Vì vậy, không thể chờ đợi các con lâu hơn nữa. Người đã cho tai họa giáng xuống cũng như nó đã giáng xuống tất cả các thành phố tội lỗi như Caïn 8 và các con trai hắn, như những người sống trước nạn Hồng thủy, những người ở Sodome và Gomorrhe 9, như Pharaon và Job 10, và tất cả những kẻ quái ác đã từng hiểu. Và cũng như họ đã làm, các con có một cách nhìn mới đối với người và vật từ khi thành phố này đóng cửa lại xung quanh các con và tai họa. Bây giờ và cuối cùng, các con hiểu là cha phải nói tới cái chủ yếu”.
Một ngọn gió ẩm ướt lùa vào giáo đường và những ngọn lửa nến uốn cong lại, kêu tí tách. Mùi sáp nồng nặc, những tiếng ho, tiếng hắt hơi đến tận chỗ cha Paneloux. Trở lại bản thuyết giáo với một sự tinh tế được nhiệt liệt ca ngợi, ông tiếp tục nói, giọng điềm tĩnh: “Quả là nhiều người trong số các con - cha biết - nghĩ bụng không biết cha muốn đi tới đâu. Cha muốn đưa các con tới chân lý và tập cho các con biết hoan hỉ mặc dù tất cả những điều cha vừa nói. Những lời khuyên nhủ và một bàn tay thân ái không còn là những phương tiện thúc đẩy các con đi tới cái thiện. Ngày nay, chân lý là một mệnh lệnh. Và chính cây giáo đỏ chỉ cho các con và thúc đẩy các con đi tới con đường hạnh phúc. Hỡi các con, cuối cùng chính ở đây thể hiện lòng từ bi của Chúa: người đưa vào mọi vật cái thiện và cái ác, sự giận dữ và lòng xót thương, dịch hạch và hạnh phúc. Cái tai họa làm các con đau đớn, chính nó nâng các con lên và chỉ đường cho các con.
Cách đây rất lâu, những người Cơ Đốc giáo Abyssinie 11 cho dịch hạch là một phương tiện hữu hiệu, có nguồn gốc thần thánh để đạt tới cái vĩnh hằng. Những người không mắc bệnh cuộn tròn lại trong những tấm đra của người bệnh để được chết một cách chắc chắn. Dĩ nhiên niềm cuồng nhiệt ấy đối với hạnh phúc là không đáng ngợi khen. Nó đánh dấu một sự vội vã đáng tiếc, rất gần gũi lòng kiêu ngạo. Không nên vội vã hơn Chúa và khi muốn thúc đẩy trật tự bất di bất dịch đã được vĩnh viễn an bài, thì chỉ dẫn tới tà giáo mà thôi. Nhưng ít nhất tấm gương ấy cũng có bài học của nó. Đối với đầu óc sáng suốt hơn của chúng ta, nó chỉ nêu cao giá trị cái ánh sáng vĩnh hằng diệu kỳ ẩn tàng ở dưới đáy mọi nỗi khổ đau. Ánh sáng ấy soi rọi những con đường chạng vạng dẫn tới siêu thoát. Nó biểu thị ý chí của Chúa quyết biến đổi, không một chút lầm lạc, cái xấu thành cái tốt. Cho đến cả ngày nay, trải qua con đường chết chóc, kinh hoàng và kêu la, nó vẫn dìu dắt chúng ta tới cái im lặng bản chất và tới nguyên lý mọi cuộc sống. Đấy là niềm an ủi mênh mông cha muốn mang lại cho các con để từ nơi đây các con không chỉ mang theo về những lời nói trừng phạt, mà cả những lời lẽ làm các con yên lòng”.
Cử tọa có cảm giác Paneloux kết thúc. Bên ngoài, mưa đã tạnh. Một bầu trời lẫn nước và ánh nắng trút xuống một ánh sáng tươi mát hơn. Từ đường phố cất lên tiếng người nói, tiếng xe cộ qua lại, toàn bộ ngôn ngữ của một thành phố thức giấc. Thính giả kín đáo thu vén áo quần trong tiếng ồn ã trầm đục. Nhưng cha Paneloux tiếp lời và nói rằng sau khi chỉ ra nguồn gốc thần thánh của dịch hạch và tính chất trừng phạt của tai họa này, ông không còn gì để nói nữa và để kết luận, ông không viện đến tài hùng biện, vì nó sẽ không đúng chỗ khi đụng tới một vấn đề bi thảm đến thế. Ông cho là tất cả đã sáng rõ đối với mọi người. Ông chỉ nhắc lại là trong thời kỳ nạn dịch hạch lớn ở Marseille, nhà viết ký Mathieu Marais phàn nàn là bị nhấn chìm trong địa ngục, sống không cứu trợ, không hy vọng. Than ơi! Mathieu Marais là một kẻ mù quáng! Trái lại, ngày nay hơn bao giờ hết, cha Paneloux cảm thấy sự cứu trợ của Chúa và niềm hy vọng Cơ Đốc giáo đối với mọi người. Trái với mọi niềm ước mong, ông ta hy vọng đồng bào chúng tôi chỉ đệ lên thượng giới những lời lẽ thấm đượm tinh thần Cơ Đốc giáo và chan chứa lòng yêu thương, mặc dù nỗi kinh hoàng trong những ngày tháng này, và tiếng kêu la của những người hấp hối. Chúa sẽ làm phần còn lại.
Buổi thuyết giáo có tác động đến đồng bào chúng tôi hay không, khó có thể nói. Viên dự thẩm Othon tuyên bố với bác sĩ Rieux ông ta thấy bản thuyết trình của cha Paneloux là “tuyệt đối không thể bài bác”. Nhưng không phải ai cũng có ý kiến quyết đoán như vậy. Chỉ có điều là buổi thuyết giáo khiến cho một số ít người - trước kia đã thấy mơ hồ - nay nhận thức rõ hơn là vì một tội lỗi không biết rõ, họ phải chịu một sự giam cầm không sao tưởng tượng nổi. Và người này thì tiếp tục cuộc sống nhỏ nhoi của mình và thích ứng với cảnh giam cầm, trong lúc, ngược lại, những người khác chỉ một mực nghĩ tới việc thoát khỏi ngục tù này.
Lúc đầu, người ta chấp nhận việc cắt đứt quan hệ với bên ngoài cũng như có thể chấp nhận bất kỳ nỗi phiền muộn nhất thời nào chỉ xáo trộn một vài thói quen của họ. Nhưng bỗng nhiên nhận thức ra một thứ giam cầm, và dưới bầu trời mùa hạ bắt đầu oi ả, họ lờ mờ cảm thấy sự giam cầm ấy đe dọa cả cuộc đời mình và tối đến, chút nghị lực họ tìm thấy lại với cái không khí mát mẻ, đôi khi đẩy họ tới những hành vi tuyệt vọng.
Trước hết, và dù có phải do kết quả của một sự trùng hợp hay không, chính từ Chủ nhật này, trong thành phố bắt đầu xuất hiện một nỗi sợ hãi khá phổ biến và sâu sắc, khiến người ta có thể ngờ rằng đồng bào chúng tôi thực sự bắt đầu có ý thức về cảnh ngộ của mình, về mặt này, bầu không khí chúng tôi sống trong thành phố có ít nhiều thay đổi. Nhưng thực ra, là sự đổi thay trong thời tiết hay trong lòng, vấn đề là ở chỗ đó.
Ít ngày sau buổi thuyết giáo, trên đường đi ra ngoại ô trong lúc đang bàn luận với Grand về sự kiện ấy, Rieux đụng phải trong đêm tối một người đàn ông núng na núng nính trước mặt mà không bước lên được. Cùng lúc đó, đèn thành phố - mà người ta ngày càng thắp muộn đi - bỗng bật sáng. Cây đèn phía sau lưng họ soi rõ người đàn ông, mắt nhắm tít lại, cười không thành tiếng. Mồ hôi chảy ròng ròng trên bộ mặt nhợt nhạt như căng ra vì một niềm hớn hở âm thầm. Họ đi qua.
- Một thằng điên. - Grand nói.
Nắm cánh tay anh kéo đi, Rieux cảm thấy Grand run lên vì bực tức.
- Chẳng bao lâu nữa, trong thành phố ta, chỉ còn những người điên. - Rieux đáp.
Mệt mỏi, ông cảm thấy cổ họng khô khốc.
- Chúng ta hãy uống tí chút.
Trong tiệm cà phê nhỏ họ bước vào, chỉ có ánh sáng một ngọn đèn đặt trên quầy hàng, người ta thấp giọng chuyện trò tuy không có lý do gì rõ rệt, trong bầu không khí nặng nề, đỏ quạch. Trước quầy hàng, Rieux ngạc nhiên khi thấy Grand gọi và uống cạn một ly rượu mà anh thừa nhận rất nặng. Rồi anh muốn đi ra. Ngoài trời, Rieux cảm thấy như đêm tối đầy rẫy tiếng rên rỉ. Đâu đó trong bầu trời tối om, trên những ngọn đèn đường, một tiếng rít trầm đục làm ông nhớ lại cái néo đập lúa đang khuấy lên liên tục làn gió nóng.
- May quá, may quá. - Grand thốt lên.
Rieux nghĩ bụng không biết ai muốn nói gì.
- May quá, - Anh ta nói tiếp - tôi có công việc để làm.
- Đúng, - Rieux bảo - đó là một điều bổ ích.
Và quyết không để tai tới tiếng rít, ông hỏi Grand có bằng lòng với công việc đó không.
- Vâng, tôi nghĩ mình đi đúng đường.
- Ông làm công việc đó lâu không?
Grand như thể hăng lên, trong giọng nói có mùi rượu.
- Tôi không rõ. Nhưng thưa bác sĩ, vấn đề không phải ở đó, không, không phải ở đó.
Trong bóng đêm, Rieux đoán Grand cựa quậy hai cánh tay. Hình như anh đang chuẩn bị một cái gì đó đến đột ngột, và trơn tru.
- Bác sĩ thấy không, tôi muốn hôm bản thảo đến tay nhà xuất bản, người ta sẽ đứng dậy sau khi đọc xong và nói với các cộng tác viên: “Thưa các ngài, các ngài đành bái phục thôi!”
Rieux ngạc nhiên trước lời tuyên bố đột ngột đó. Ông có cảm giác người bạn đồng hành làm cử chỉ bỏ mũ ra, giơ bàn tay lên đầu và đưa ngang cánh tay ra. Trên bầu trời, tiếng rít kỳ lạ như vang lên mạnh mẽ hơn.
- Vâng, - Grand nói tiếp - cái đó phải hoàn hảo.
Tuy ít am hiểu tập quán văn học, Rieux vẫn có cảm tưởng là tình hình không thể diễn ra đơn giản như vậy và những người làm công tác xuất bản, chẳng hạn, khi ở cơ quan, chắc hẳn không đội mũ. Nhưng thực ra, người ta chẳng biết thế nào và Rieux muốn lặng im. Dù không muốn, ông vẫn lắng nghe những tiếng rì rầm bí ẩn của dịch hạch. Họ đi đến gần khu phố Grand ở. Khu phố nơi ở trên cao, một làn gió nhẹ thổi tới hơi mát và đồng thời át hết những tiếng ồn ã của phố phường. Grand vẫn tiếp tục nói và Rieux không hiểu hết những điều anh muốn nói. Ông chỉ biết là cái tác phẩm anh nói đã có nhiều trang, nhưng tác giả trăn trở hết sức đau đớn để làm cho nó hoàn mỹ. “Những buổi tối, những tuần lễ trọn vẹn để nghiền ngẫm một từ, và có khi chỉ một liên từ”. Đến đây, Grand dừng lại và nắm lấy một chiếc khuy áo ngoài của Rieux. Các từ phát ra một cách vấp váp từ cái miệng thiếu răng của anh.
- Xin bác sĩ thứ lỗi - Anh ta lúng túng - Tôi không biết tối nay tôi làm sao ấy.
Rieux vỗ nhẹ vai anh và bảo ông muốn giúp anh, câu chuyện của anh làm ông rất thú vị. Grand hơi có vẻ yên tâm, và về đến trước cửa, ngập ngừng một lát, rồi mời ông lên nhà. Rieux nhận lời.
Trong phòng ăn, Grand mời ông ngồi xuống trước một mặt bàn để đầy những trang giấy chữ viết li ti, nhiều chỗ dập xóa.
- Vâng, cái này đây - Grand nói với bác sĩ lúc đó ánh mắt như muốn hỏi anh - Nhưng bác sĩ có uống chút gì không? Tôi có ít vang.
Rieux từ chối. Ông nhìn những tờ giấy.
- Bác sĩ đừng xem. - Grand nói tiếp - Đây là câu mở đầu của tôi. Nó làm tôi đến vất vả, vất vả lắm Grand cũng ngắm nghía tất cả những tờ giấy ấy và bàn tay anh như thể bị thu hút không thể cưỡng lại được bởi một tờ mà anh giơ soi lên bóng điện không có tán. Tờ giấy rung lên trong tay anh. Rieux thấy trán anh ta dâm dấp mồ hôi.
- Anh ngồi xuống, - Ông bảo - và đọc cho tôi nghe đi.
Grand nhìn ông, mỉm một nụ cười biết ơn.
- Vâng, - Anh đáp - tôi cảm thấy muốn đọc.
Anh chờ một lát, mắt vẫn đăm đăm nhìn tờ giấy, rồi ngồi xuống. Cùng lúc đó, Rieux nghe thấy tiếng rào rào mơ hồ trong thành phố như đáp lại tiếng rít của chiếc néo đập lúa. Đúng vào lúc này, ông cảm nhận hết sức nhạy bén về cái thành phố trải rộng ra dưới chân mình, về cái thế giới khép kín nó tạo thành và về những tiếng hú kinh hoàng nó bóp nghẹt trong đêm tối. Giọng Grand cất lên, trầm đục: “Vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, một nàng kỵ sĩ kiều diễm ngồi trên lưng một con ngựa hồng tuyệt đẹp, lướt trên những lối đi đầy hoa trong rừng Boulogne”. Bầu không khí im ắng lại trở lại, và cùng với nó, tiếng rì rầm mơ hồ của cái thành phố đau thương. Grand đặt tờ giấy xuống và tiếp tục nhìn ngắm nó. Một lát sau, anh ngước mắt lên :
- Ông thấy thế nào?
Rieux đáp là nghe xong đoạn đầu, ông muốn biết những đoạn tiếp theo sau. Nhưng Grand sôi nổi đáp như thế là không phải là một quan điểm hay. Anh lấy lòng bàn tay dập dập các trang giấy.
- Đây mới chỉ là sơ thảo. Khi tôi có thể miêu tả một cách hoàn mỹ bức tranh tôi đã có trong trí tưởng tượng, khi câu văn của tôi có được cái nhịp điệu của chính buổi dạo chơi nước kiệu: một - hai - ba, một - hai - ba ấy, thì phần còn lại sẽ dễ dàng hơn, và nhất là ngay từ đầu sẽ gây được cái ảo ảnh sao cho người ta phải nói: “Bái phục!”.
Nhưng muốn được như vậy thì còn nhiều công việc phải làm. Anh không bao giờ chịu giao cho nhà xuất bản cái câu văn còn để nguyên như trên. Vì tuy có khi anh thấy hài lòng, anh vẫn cho là nó chưa hoàn toàn sát với hiện thực, và trong một chừng mực nhất định, nó vẫn có một cái gì đó dễ dãi khiến nó tuy không thật giống song vẫn phảng phất một sự sao chép. Ít ra đó cũng là điều anh muốn thổ lộ. Nhưng bỗng nghe có tiếng chân chạy ngoài cửa sổ. Rieux đứng dậy :
- Bác sĩ sẽ thấy tôi dùng cái đó làm gì - Grand nói và quay về phía cửa sổ, nói thêm: “khi mọi cái sẽ xong”.
Nhưng lại có tiếng chân chạy rậm rịch, Rieux đã xuống cầu thang và hai người đàn ông đi qua trước mặt ông khi ông ra đến ngoài đường. Rõ ràng họ đi về phía cửa ngõ thành phố. Quả là một số ít đồng bào chúng tôi, phát cuồng vì oi bức và vì dịch bệnh, đã không cưỡng lại được hành vi bạo lực và tìm cách đánh lừa sự cảnh giác của những người canh giữ, mong thoát ra khỏi thành phố.
Cũng như Rambert, một số người khác tìm cách thoát khỏi bầu không khí kinh hoàng bắt đầu manh nha, nhưng họ kiên trì và khéo léo, nếu không nói là thành công hơn. Lúc đầu, Rambert làm những cuộc vận động chính thức. Theo lời anh, bao giờ anh cũng cho rằng thái độ cứng đầu cứng cổ cuối cùng sẽ chiến thắng hết thảy và về một phương diện nào đó, nghề nghiệp buộc anh phải tháo vát. Anh đến gặp nhiều quan chức và nhân vật mà thông thường thẩm quyền được mọi người thừa nhận. Nhưng trong vấn đề này, thẩm quyền ấy chẳng dùng được vào đâu cả. Thông thường đó là những con người có những ý kiến chính xác, mạch lạc về tất cả những gì đụng tới ngân hàng, hoặc xuất khẩu, hoặc các loại cam quít, hoặc nữa là việc buôn bán rượu vang; họ có những tri thức không thể bàn cãi về các vấn đề tố tụng hay bảo hiểm, không kể những bằng cấp nghiêm chỉnh và một thiện chí hiển nhiên. Và thậm chí, cái nổi bật hơn cả ở tất cả những người đó, chính là thiện chí. Nhưng về vấn đề dịch hạch, thì hầu như họ chẳng biết tí gì.
Thế nhưng mỗi khi có cơ hội là Rambert biện hộ cho hoàn cảnh của mình trước mặt mỗi người. Chủ yếu, anh luôn luôn lập luận là anh xa lạ đối với thành phố này, và vì vậy, trường hợp của anh phải được xem xét một cách đặc biệt. Nói chung, những người đối thoại với anh chàng nhà báo sẵn sàng chấp nhận điểm này. Nhưng họ thường chỉ cho anh thấy đó cũng là trường hợp của một số người khác, bởi thế trường hợp của anh không đến nỗi đặc biệt như anh tưởng. Khi Rambert đáp là như thế cũng không hề làm thay đổi cái căn bản trong lập luận của anh thì người ta bảo cái đó có làm thay đổi những điều khúc mắc về hành chính vốn đối lập với mọi biện pháp biện đãi vì có thể gây ra cái mà người ta gọi, với một thái độ hết sức ghê tởm, là tiền lệ. Nói chuyện với Rieux, Rambert xếp những kẻ lý sự kiểu ấy vào loại hình thức chủ nghĩa. Bên cạnh đó là những người “khéo nói”: họ cam đoan với anh là tình hình hiện tại tuyệt nhiên không thể kéo dài, và không tiếc những lời khuyên bảo “tử tế” khi anh đến yêu cầu họ có những quyết định; họ an ủi Rambert và quả quyết đây chỉ là một nỗi phiền muộn nhất thời. Có những kẻ “quan trọng” bảo khách ghi lại tóm tắt hoàn cảnh và hứa sẽ xem xét, giải quyết. Những kẻ vô tích sự thì đề xuất những tấm vé cư trú hay địa chỉ những quán trọ rẻ tiền. Những người có đầu óc trật tự thì bảo khách điền vào một tấm phiếu và sau đó xếp vào hồ sơ. Những người bận rộn thì giơ tay lên trời. Những kẻ cho là mình bị quấy nhiễu thì ngoảnh mặt đi. Cuối cùng những người theo lối truyền thống - số này đông hơn cả - thì chỉ cho Rambert một cơ quan khác hay một lối chạy vạy khác.
Anh chàng nhà báo chạy đi chạy lại đến mệt lử và có một ý niệm chính xác thế nào là tòa thị chính hay một cơ quan hành chính cấp tỉnh vì phải ngồi chờ mãi trên một chiếc băng bọc vải giả da trước những tấm áp phích lớn mời mua công trái - loại được miễn thuế - hay ghi tên vào quân đội thuộc địa; vì phải bước vào các công sở, nơi người ta dễ đoán biết các bộ mặt cũng như đoán biết mấy cái ngăn có ván lật để cất giấy má hay mấy cái giá để hồ sơ. Cái lợi - như Rambert chua chát nói với Rieux - là tất cả cái đó làm anh không còn biết tình hình thực sự ra thế nào nữa. Thực tế anh không rõ dịch hạch tiến triển ra sao. Đó là chưa kể ngày tháng vì vậy trôi qua nhanh hơn và trong tình hình chung toàn thành phố, có thể nói mỗi ngày qua đi là con người dịch lại gần hơn thời điểm chấm dứt thử thách, nếu người đó không bị chết. Rieux phải thừa nhận điểm này đúng, nhưng đó là một chân lý có phần quá khái quát.
Đã có một lúc Rambert hy vọng. Anh nhận được của thành phố một tờ phiếu thông tin để trống, yêu cầu anh điền vào một cách chính xác. Tờ phiếu phải ghi rõ hình tích, hoàn cảnh gia đình, các nguồn thu nhập trước kia và hiện nay, và cái mà người ta gọi là curriculum vitae 12 của anh. Anh có cảm giác đây là một cuộc điều tra nhằm thống kê trường hợp những người có thể được gửi trả về nơi thường trú của họ. Một vài tin tức mập mờ thu thập được ở một cơ quan khẳng định cảm giác ấy. Nhưng sau một vài lần chạy vạy, anh ta tìm ra cơ quan gửi phiếu và người ta bảo anh những thông tin ấy được thu thập để “phòng trường hợp”.
- Phòng trường hợp gì? - Rambert hỏi.
Người ta bèn nói rõ với anh là đề phòng trường hợp anh bị dịch hạch và bị giết: người ta có thể một mặt, báo cho gia đình anh, và mặt khác, xét xem nên để ngân sách thành phố đài thọ viện phí hay để về sau gia đình anh hoàn trả lại. Rõ ràng, cái đó chứng tỏ anh không hoàn bị cách xa người con gái đang chờ mong anh, vì xã hội quan tâm đến họ. Nhưng đó không phải là một niềm an ủi. Điều đáng lưu tâm hơn, và vì vậy Rambert lưu ý, là cái cách mà một cơ quan, giữa lúc tai họa hết sức ngặt nghèo vẫn có thể tiếp tục công việc và có những sáng kiến thuộc một thời kỳ khác, vì lý do duy nhất là cơ quan ấy được đặt ra vì công việc đó - sáng kiến trên, thông thường họ không cho cấp trên biết.
Giai đoạn tiếp theo đối với Rambert là giai đoạn vừa dễ dàng nhất vừa khó khăn nhất. Một giai đoạn trì trệ. Anh đã đến gặp mọi cơ quan, làm mọi cuộc vận động, trước mắt, mọi lối thoát về phía ấy đều bị bịt kín. Thế là anh lang thang hết tiệm cà phê này đến tiệm cà phê khác. Buổi sáng, anh ngồi ở một mái hiên, trước một cốc bia hâm ấm, đọc báo với hy vọng tìm thấy một vài dấu hiệu cho biết dịch bệnh sắp chấm dứt, nhìn mặt khách qua đường, chán ngán quay đi khi thấy vẻ ảo não của họ. Và sau khi đọc đi đọc lại đến hàng trăm lần tấm bảng các cửa hiệu phía trước mặt, tờ quảng cáo cho những thứ rượu mạnh khai vị hiện nay không còn có bán nữa, anh đứng dậy ra đi, hoàn toàn không chủ đích, trên những đường phố vàng hoe. Anh lang thang một mình như thế, hết quán cà phê này lại đến tiệm ăn khác cho đến chiều tối. Rieux gặp anh vào một buổi tối như vậy, trước cửa một tiệm cà phê mà anh ngập ngừng không muốn vào. Nhưng rồi quyết định và vào ngồi tận cuối phòng. Theo lệnh trên, trong các tiệm cà phê, người ta bật đèn hết sức muộn. Bóng hoàng hôn tràn vào căn phòng như một thứ nước xám xịt; ánh nắng chiều tà màu hồng phản chiếu trên các tấm kính và mặt bàn cẩm thạch sáng lên yếu ớt trong bóng đêm bắt đầu buông xuống. Giữa căn phòng hoang vắng, Rambert giống như một cái bóng hiu quạnh và Rieux nghĩ đó là giờ phút anh ta thả mình trong suy tư. Nhưng đó hình như cũng là giờ phút suy tư của mọi người bị dịch hạch cầm tù trong thành phố: ai nấy đều cảm thấy phải làm một cái gì để sớm tự giải thoát mình. Rieux quay mặt đi.
Rambert cũng bỏ nhiều thì giờ ở nhà ga. Sân ga bị Cấm không được vào. Nhưng các phòng chờ đi từ phía ngoài vào vẫn mở cửa và thỉnh thoảng, trong những ngày nóng bức, những người hành khất đến đây tìm một chút bóng râm mát. Rambert đọc tấm bảng ghi giờ tàu chạy những ngày trước, những tấm biển ghi cấm nhổ nước bọt và quy tắc cảnh sát trên tàu. Anh đến ngồi trong một góc. Phòng chờ tối om. Một chiếc lò gang đã mấy tháng không được đốt lửa nằm giữa những vệt nước ngoằn ngoèo theo hình con số 8 trên nền nhà. Trên tường, mấy tờ áp phích quảng cáo cho cuộc sống hạnh phúc và tự do ở Bandol 13 hay ở Cannes 14. Rambert đụng phải ở đây cái thứ tự do ghê tởm người ta tìm thấy ở chỗ tận cùng của sự khốn quẫn. Lúc đó, những hình ảnh sâu nặng nhất trong lòng anh, chí ít các theo lời anh nói với Rieux là hình ảnh Paris. Một bức tranh vẽ những tấm đá cổ kính và những dòng sông, những cánh chim bồ câu ở Palais-Royal 15, nhà ga ở phía bắc, những khu phố vắng ở điện Panthéon 16 và một vài nơi chốn khác trong cái thành phố mà trước đây anh biết là mình yêu đến thế, tất cả cái đó đeo đuổi Rambert và không để cho anh làm một cái gì cụ thể cả. Rieux hiểu là những hình ảnh ấy và những hình ảnh về mối tình của anh chỉ là một. Và đến hôm Rambert nói với ông là anh thích thức giấc lúc bốn giờ sáng và nghĩ về thành phố quê hương thì, từ chiều sâu kinh nghiệm bản thân, Rieux dễ dàng hiểu ra rằng chính lúc đó anh nghĩ hình ảnh người con gái xa cách. Đó quả là lúc anh có thể “nắm” được nàng. Thông thường, lúc bốn giờ sáng, người ta không làm gì cả và chỉ ngủ, dù đêm ấy có bị phụ bạc đi nữa. Đúng, người ta ngủ vào giờ ấy, và cái đó làm người ta yên lòng vì nỗi mong muốn rạo rực của một trái tim thao thức là mãi mãi chiếm hữu người mình yêu, hoặc khi xa cách, có thể nhấn chìm người yêu trong một giấc ngủ không mộng mị chỉ được chấm dứt vào một ngày tái hợp.
Ít lâu sau buổi thuyết giáo ở nhà thờ, trời bắt đầu nóng. Đã vào cuối tháng Sáu. Một ngày sau cơn mưa muộn màng hôm thuyết giáo ngày Chủ nhật ấy, mùa hè xuất hiện đột ngột trong bầu trời và trên các mái nhà. Một cơn gió nóng ào ạt thổi suốt một ngày, làm khô khốc các bức tường. Ngày nào cũng có mặt trời. Suốt ngày, thành phố ngập trong ánh nắng và oi bức, ngoài những đường phố có cổng tò vò và các căn phòng, hình như không một nơi nào trong thành phố là không nắng chói chang. Mặt trời đuổi theo đồng bào chúng tôi trên mọi nẻo đường. Và hễ họ đứng lại là nó tấn công. Những ngày nắng đầu tiên này trùng hợp với tình hình người chết tăng vọt - lên tới gần bảy trăm mỗi tuần - nên một bầu khi khí bi thảm bao trùm thành phố. Ở ngoại ô, giữa những con đường bằng phẳng và những ngôi nhà có mặt hiên, tình hình hoạt động giảm sút và, trong cái khu phố người ta luôn luôn sống ngoài hiên ấy, bây giờ thì cửa đóng then cài, không hiểu là người ta đề phòng dịch hạch hay tránh nắng. Những tiếng rên rỉ thoát ra từ một vài nhà. Trước kia, khi thấy vậy, thường có mấy kẻ tò mò đứng ngoài đường, lắng nghe. Nhưng sau tình trạng nguy ngập kéo dài, hình như trái tim mỗi người rắn lại và ai nấy đi lại hay sinh sống bên cạnh những lời than thở, như thể đó vẫn là thứ ngôn ngữ tự nhiên của con người.
Những cuộc huyên náo ở các cửa ô, trong đó cảnh binh phải dùng đến vũ khí, gây nên một mối lo ngại sâu sắc. Chắc chắn có người bị thương, nhưng trong thành phố người ta nói đến người chết: do nắng nóng và hoảng sợ, mọi thứ đều bị cường điệu. Dẫu sao thì nỗi bất bình quả là thứ không ngừng tăng lên, và nhà chức trách lo sợ tình hình có thể trở nên tồi tệ nhất nên đã dự kiến một cách nghiêm ngặt những biện pháp cần thi hành nếu dân chúng, trong cơn tai họa, có thể nổi loạn. Báo chí đăng những quyết định nhắc lại cấm ra khỏi thành phố và dọa bỏ tù những kẻ vi phạm. Những đoàn tuần tra, đi lại trong thành phố. Trên những đường phố vắng vẻ và nóng bức, người ta thường nghe tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường và sau đó thấy binh lính cưỡi ngựa đi qua giữa những dãy cửa sổ đóng im ỉm. Đoàn tuần tra đi qua thì một nỗi im ắng ngờ vực nặng nề lại chụp lên cái thành phố bị uy hiếp. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng súng của những đội đặc biệt phụ trách, theo một lệnh mới, giết chết chó và mèo vì chúng có thể mang theo bọ chét truyền bệnh. Những tiếng nổ đanh ấy góp phần đặt thành phố trong một bầu không khí báo động.
Vả lại, trong nóng bức và im ắng, mọi cái đều trở nên quan trọng hơn đối với trái tim hãi hùng của đồng bào chúng tôi. Lần đầu tiên, mọi người nhạy cảm đối với sắc trời và mùi đất báo hiệu một vụ thay đổi. Mỗi người kinh hoàng hiểu rằng trời nóng bức giúp cho dịch hạch phát triển, và đồng thời mỗi người nhận thấy mùa hè đã đến. Tiếng chim sa yến trong bầu trời chiều trên thành phố trở nên yếu ớt hơn. Nó không còn tương xứng với những buổi hoàng hôn tháng sáu đẩy lùi chân trời ở xứ sở chúng tôi. Hoa mang tới chợ không còn hé nụ nữa, chúng đã nở tung, và sau buổi chợ sáng, cánh hoa vương vãi trên vỉa hè bụi bặm. Rõ ràng màu xuân đã tàn, nó đã vung phí sức lực trong hàng ngàn bông hoa nở khắp nơi trong vùng và giờ đây nó sắp lịm đi, từ từ bị nghiền nát dưới sức nặng của cả dịch hạch và nóng bức. Đối với mỗi đồng bào chúng tôi, bầu trời mùa hạ và những con đường nhợt nhạt đi vì bụi bặm và ưu phiền, cũng mang ý nghĩa uy hiếp chẳng khác hàng trăm cái chết mỗi ngày đè nặng thành phố. Ánh nắng mặt trời dai dẳng, những giờ phút thích hợp với giấc ngủ và nghỉ hè, không còn mời mọc người ta những cuộc hoan lạc với dòng nước và xác thịt nữa. Trái lại, chúng ta trở nên vô vị trong cái thành phố im lìm và kín mít này. Chúng không còn cái ánh sáng lấp lánh của những thời kỳ hạnh phúc. Mặt trời dịch hạch dập tắt mọi sắc màu và xua đuổi mọi niềm vui.
Đấy là một trong những sự đảo lộn lớn nhất dịch bệnh gây ra. Thường ngày, tất cả đồng bào chúng tôi hoan hỉ đón chờ mùa hạ. Thành phố hướng ra biển và thanh niên tràn ra các bãi tắm. Trái lại, mùa hè năm ấy, biển bị cấm và cơ thể con người không được quyền hưởng những thú vui ấy nữa. Biết làm gì trong những điều kiện như vậy? Tarrou vẫn là người miêu tả chân thực nhất cuộc sống chúng tôi lúc bấy giờ. Dĩ nhiên, anh theo dõi tiến triển của bệnh dịch nói chung ghi lại rõ ràng rằng đài phát thanh đã ghi nhận một bước ngoặt của dịch bệnh khi không còn đưa tin hàng trăm người chết mỗi tuần nữa, mà là chín mươi hai, một trăm linh bảy và một trăm hai mươi mỗi ngày. “Báo chí và nhà chức trách tưởng như đánh lừa được dịch hạch. Họ nghĩ là họ đã rút được bớt điểm của nó đi vì một trăm ba mươi là một con số không lớn bằng chín trăm mười”. Tarrou cũng gợi lại những mặt bi thảm hay ly kỳ của dịch bệnh, trong một khu phố vắng, cửa chớp đóng kín mít, bỗng một thiếu phụ mở cửa sổ phía trên đầu anh và kêu to lên hai tiếng trước khi đóng sập cửa lại trong bóng tối dày đặc của căn phòng. Nhưng anh cũng ghi thêm là những viên ngậm bạc hà đã biến hết ở các hiệu thuốc vì nhiều người ngậm để đề phòng bệnh lây lan.
Anh cũng tiếp tục quan sát những nhân vật ưa thích của mình. Anh cho biết là cái ông già nhỏ người hay nhổ nước bọt lên lũ mèo cũng sống trong bi kịch. Quả là một buổi sáng, những phát đạn đã nổ, và như Tarrou ghi lại mấy phát đạn chì đã giết chết phần lớn mèo và khủng bố những con còn lại: chúng rời bỏ đường phố. Cũng ngày hôm đó, vào giờ phút quen thuộc, ông già bước ra ban công, tỏ vẻ ngạc nhiên, cúi xuống, quan sát hai bên đầu phố và nhẫn nhục chờ đợi. Tay gõ khẽ vào hàng rào sắt trên ban công. Ông lão chờ thêm một lúc, xé vụn ra ít giấy, bước vào nhà rồi lại trở ra, và một lúc sau đột ngột biến mất, giận dữ đóng sập cửa lại. Những ngày sau, vẫn tiếp diễn cái cảnh ấy, nhưng nét mặt ông lão tỏ ra buồn bã và hoang mang hơn. Sau một tuần lễ. Tarrou chờ mãi ông lão xuất hiện như thường ngày nhưng cánh cửa sổ vẫn đóng im ỉm với một nỗi buồn rất dễ hiểu.
“Trong thời kỳ dịch hạch, cấm nhổ nước bọt lên mèo”, đó là kết luận trong sổ tay Tarrou.
Mặt khác, buổi tối, khi trở về nhà, anh biết thế nào cũng sẽ gặp trong hành lang bộ mặt âu sầu của người gác đêm đi ngang dọc trong khu nhà. Ông ta không ngớt nhắc đi nhắc lại với mọi người là ông đã dự kiến tình hình xảy ra. Khi Tarrou thừa nhận đã từng nghe lão dự kiến một tai họa, nhưng nhắc lại là lão nói về một vụ động đất kia, thì ông già canh đêm đáp: “A! Giá như là một trận động đất! Một cơn rung chuyển ra trò rồi không còn ai nhắc tới nữa... người ta tính đếm người chết, người sống, và thế là xong. Nhưng còn cái bệnh khốn kiếp này! Ngay những người không mắc bệnh cũng canh cánh trong lòng”.
Tay chủ khách sạn cũng không kém phần phiền muộn. Lúc đầu, khách du lịch phải ở lại khách sạn vì thành phố bị đóng cửa. Nhưng dần dà, bệnh dịch kéo dài, nhiều người thích đến ở nhà bè bạn. Và các phòng khách sạn trước kia chật ních vì những lý do gì thì nay cũng vì những lý do ấy chúng trở nên vắng tanh; không có du khách mới đến thành phố nữa. Tarrou là một trong những vị khách hiếm hoi ở lại và tay chủ khách sạn không bỏ lỡ một cơ hội nào lưu ý anh là nếu không vì muốn làm vui lòng những vị khách cuối cùng của mình thì ông ta đã đóng cửa tiệm từ lâu rồi. Lão thường bảo Tarrou ước lượng xem dịch bệnh còn kéo dài bao lâu: “Người ta bảo, - Tarrou đáp - trời lạnh trở ngại cho loại bệnh tật này”. Lão chủ hoảng hốt lên: “Nhưng thưa ông, ở đây, trời không bao giờ lạnh thực sự. Dẫu sao, cũng còn kéo nhiều tháng nữa”. Vả lại, lão cũng tin là còn lâu khách du lịch mới trở lại thành phố. Đợt dịch hạch làm phá sản ngành du lịch.
Ở khách sạn, sau một thời gian ngắn vắng mặt, lại thấy xuất hiện Othon, “con người - cú mèo”, nhưng theo sau chỉ có hai con “cún” kệch cỡm. Hỏi ra mới biết vợ ông ta phải săn sóc và chôn cất bà mẹ và hiện nay đang phải cách ly kiểm dịch.
- Tôi không thích thế - Lão chủ khách sạn bảo Tarrou - Kiểm dịch hay không, thì bà ta cũng đáng nghi ngại, và do vậy cả mấy cha con ông ta cũng thế.
Tarrou lưu ý lão là theo quan niệm ấy thì mọi người đều đáng nghi ngại. Nhưng lão vẫn khăng khăng và có những quan điểm thật dứt khoát :
- Thưa ông không, cả ông lẫn tôi đều không đáng nghi ngại. Còn bọn họ thì có.
Nhưng Othon không vì thế mà thay đổi, và lần này, dịch hạch chỉ uổng công vô ích. Ông ta vẫn bước vào phòng ăn với điệu bộ ngày nọ, ngồi vào bàn trước rồi hai đứa con mới được ngồi sau và vẫn nói với chúng những lời lẽ lịch sự nhưng ghét bỏ. Chỉ có riêng thằng nhỏ là dáng dấp có thay đổi. Mặc đồ đen như con chị, ngồi thu lu lại, nó giống như cái bóng thu nhỏ của cha nó. Ông lão gác đêm, vốn không ưa Othon, nói với Tarrou :
- A! Thằng cha ấy, hắn sẽ mặc nguyên quần áo mà toi mạng thôi. Cứ thế, chẳng cần tắm rửa gì hết. Hắn sẽ đi thẳng tuột một mạch.
Tarrou cũng thuật lại buổi thuyết giáo của Paneloux, nhưng với những lời bình luận sau đây: “Tôi hiểu cái mối nhiệt tình dễ thương ấy. Khi tai họa bắt đầu và khi nó kết thúc, bao giờ người ta cũng tỏ ra ít nhiều hùng biện. Trong trường hợp thứ nhất, thói quen chưa mất và trong trường hợp thứ hai, thói quen đã được hồi phục. Giữa lúc tai họa, người ta mới làm quen với chân lý, nghĩa là im lặng. Chúng ta hẵng chờ xem”.
Cuối cùng, Tarrou kể lại anh có một buổi nói chuyện dài với bác sĩ Rieux, nhưng chỉ nói là buổi nói chuyện rất kết quả, nhân đấy nhắc tới đôi mắt màu hạt dẻ nhạt của bà cụ Rieux khẳng định một cách kỳ cục là một ánh mắt nhân hậu đến thế bao giờ cũng có sức mạnh hơn dịch hạch, và sau cùng dành những đoạn khá dài viết về ông lão bị hen suyễn, bệnh nhân của Rieux.
Sau buổi nói chuyện, Tarrou theo Rieux đến thăm ông lão. Lão đón tiếp anh với những tiếng cười khẩy, hai tay xoa xoa vào nhau. Lão ngồi trên giường, lưng tựa vào gối, phía dưới có hai nồi đậu hạt: “A! Lại thêm một vị nữa - Lão thốt lên khi thấy Tarrou - Thật là ngược đời, thầy thuốc lại nhiều hơn bệnh nhân. Vì người ta vội đi đời cả hả? Cha xứ nói có lý, người ta bị dịch hạch như thế là đáng đời lắm”. Hôm sau, Tarrou lại đến thăm lão, không báo trước.
Nếu tin vào sổ tay của anh, thì ông lão bị suyễn này vốn làm nghề bán tạp hóa, đến lúc tuổi năm nhăm tự cho là mình đã làm việc đủ rồi. Lão nằm nghỉ và từ đó không dậy nữa tuy bệnh suyễn của lão vẫn dung hòa được với tư thế đứng. Với một khoản lợi tức nhỏ, lão sống thoải mái đến tuổi bảy nhăm. Lão không sao chịu được sự có mặt một chiếc đồng hồ và trên thực tế, nhà lão không có lấy một chiếc. “Một chiếc đồng hồ, lão nói, thì vừa đắt tiền vừa ngu ngốc”. Lão ước lượng thời gian và nhất là giờ các bữa ăn - mối quan tâm duy nhất của lão - bằng hai cái nồi mà đựng đậu khi lão ngủ dậy. Lão bỏ từng hạt đậu vào nồi thứ hai, động tác bao giờ cũng chăm chút và đều đặn như nhau. Cứ thế lão lấy nồi đậu làm đơn vị thời gian đế sắp xếp công việc trong ngày. “Cứ hết mười lăm nồi, lão bảo, thì đến bữa ăn. Thật là đơn giản”.
Vả lại, theo lời bà vợ, thì từ lúc còn rất trẻ, lão đã bộc lộ những dấu hiệu thiên hướng của mình. Công việc, bạn bè, cà phê, âm nhạc, phụ nữ, những buổi dạo chơi, không có gì khiến lão quan tâm. Lão chưa bao giờ ra khỏi thành phố, trừ một hôm, việc nhà buộc lão phải đi Alger. Chỉ đi được một ga, lão đã phải xuống vì không sao tiếp tục cuộc hành trình được. Lão quay trở về bằng chuyến tàu đầu tiên.
Khi Tarrou tỏ vẻ ngạc nhiên về cuộc sống khép kín của lão, thì lão hầu như muốn giảng giải rằng theo tôn giáo, nửa đầu cuộc đời một con người thì đi lên, còn nửa thứ hai thì đi xuống, rằng trong nửa đi xuống ấy, ngày tháng của con người không còn thuộc về mình nữa, bất kỳ lúc nào chúng ta cũng có thể bị tước đoạt, vì vậy người đó không thể làm gì được và chính vì vậy tốt nhất là không nên làm gì hết. Vả lại, sự trái ngược ấy không làm lão sợ hãi: ít lâu sau, lão nói với Tarrou là chắc chắn không có Chúa, vì nếu ngược lại, thì các cha xứ sẽ trở thành vô ích. Nhưng theo những luồng suy nghĩ tiếp theo sau của lão, Tarrou hiểu rằng cái triết lý ấy gắn chặt với tâm trạng đối với những cuộc quyên tiền thường xuyên của xứ đạo. Tuy nhiên, muốn hoàn chỉnh chân dung ông lão thì phải thêm là lão muốn sống thật lâu, một nỗi mong muốn sâu xa nhiều lần lão thổ lộ với Tarrou.
“Phải chăng là một ông thánh?”. Tarrou nghĩ bụng. Và anh trả lời: “Phải, nếu thánh đức là một tập hợp thói quen”.
Nhưng đồng thời Tarrou miêu tả khá tỉ mỉ một ngày trôi qua trong cái thành phố bị dịch hạch này và cung cấp một khái niệm đúng đắn về công việc và cuộc sống của đồng bào chúng tôi trong mùa hè năm ấy: “Không một ai cười ngoài bọn say rượu, anh viết, và bọn này thì cười quá nhiều”. Rồi anh bắt đầu miêu tả:
“Sáng sớm, những làn gió nhẹ thổi trên thành phố còn vắng vẻ. Vào giờ này - nằm giữa cái chết trong đêm tối và những cơn hấp hối giữa ban ngày, - hình như dịch hạch ngừng nỗ lực một lát và lấy lại hơi sức. Mọi cửa hiệu đều đóng cửa. Nhưng đó đây có treo biển ‘Đóng cửa vì dịch hạch’: người ta biết lát nữa chúng sẽ không mở cửa cùng với những cửa hiệu khác. Mấy chú bán báo còn ngái ngủ không rao tin; ngồi tựa lưng vào các góc phố và như những kẻ mộng du, họ ‘bày hàng’ ra dưới mấy ngọn đèn đường. Lát nữa, bị những chuyến tàu điện đầu tiên đánh thức, họ sẽ tản đi trong khắp thành phố, dang rộng tay cầm những tờ báo trên đó nổi bật cái từ ‘Dịch hạch’. ‘Liệu có một mùa thu dịch hạch không?’ Giáo sư B. trả lời: ‘Không’. ‘Một trăm hai mươi bốn người chết, đây là con số tổng kết ngày thứ chín mươi của từ bị dịch hạch’.
Mặc dù cuộc khủng hoảng giấy ngày càng gay gắt, buộc một số xuất bản phẩm định kỳ phải giảm bớt số trang, người ta vẫn lập một tờ báo khác: Tờ tin tức Dịch bệnh, với nhiệm vụ ‘thông báo hết sức khách quan cho đồng bào chúng ta, những bước tiến hay bước lùi của dịch bệnh; cung cấp cho bà con những bằng chứng đáng tin cậy nhất về tương lai bệnh dịch; giúp đỡ mọi người, quen thuộc hay xa lạ, sẵn sàng chống lại tai họa; nâng đỡ tinh thần dân chúng, truyền đạt chỉ thị của nhà chức trách, và nói tóm lại, tập hợp mọi người có thiện chí để chống lại có hiệu quả cái tai họa đang tấn công chúng ta’. Thực ra, chẳng bao lâu, tờ báo chỉ đăng những mục rao hàng các sản phẩm mới, ‘hết sức công hiệu’ để đề phòng dịch hạch.
Vào khoảng sáu giờ sáng, tất cả những số báo này bắt đầu được bán cho những đám người xếp hàng dài trước các cửa hiệu hơn một tiếng khi mở cửa, rồi trên những chuyến tàu điện chật ních người từ ngoại ô vào. Tàu điện trở thành phương tiện giao thông duy nhất và chúng chạy ì à ì ạch, người chen chúc trên các bậc lên xuống và lan can tàu đến muốn gãy tung ra. Nhưng điều kỳ lạ là mọi người hết sức cố gắng quay lưng lại với nhau để tránh lây lan. Đến các điểm đỗ, đàn ông, đàn bà ùa xuống, vội vã tránh xa nhau và tách riêng ra. Thường xuyên xảy ra những cuộc huyên náo mà nguyên nhân duy nhất là sự bực bõ - nay đã trở thành ‘kinh niên’.
Sau mấy chuyến tàu điện đầu tiên, thành phố dần dần thức giấc, những quán rượu đầu tiên mở cửa, trên quầy hàng treo biển: ‘Hết cà phê’, ‘Mời khách tự mang đường đến’ v.v... Rồi đến lượt các cửa hiệu tạp hóa, phố xá trở nên tấp nập. Trời mỗi lúc một sáng và nắng làm cho bầu trời tháng bảy đổ sang màu chì. Đấy là lúc những kẻ vô công rồi nghề lang thang trên các đại lộ. Số đông hình như ra sức trừ khử dịch hạch bằng cách phơi bày sự xa xỉ của họ. Ngày nào cũng vậy, vào khoảng mười một giờ, người ta thấy nhởn nhơ trên những đường phố chính đám nam nữ thanh niên muốn trưng diện: trong cơn tai họa, niềm say mê cuộc sống của họ càng thêm dữ dội, Dịch bệnh lan rộng thì ‘đạo lý’ cũng phát triển. Chúng ta sẽ bắt gặp những cuộc chơi bời phóng dật kiểu thành phố Milan bên cạnh những nấm mồ.
Buổi trưa, chỉ trong nháy mắt là các quán ăn chật ních. Ngoài cửa, những người không có chỗ, tụ tập lại rất nhanh thành từng nhóm nhỏ. Vì quá nắng nóng, bầu trời bắt đầu mất dần ánh sáng. Dưới bóng râm những tấm mành to tướng, khách đến ăn đứng bên lề đường chói chang ánh mặt trời, chờ đến lượt mình. Người ta ùa đến các quán ăn vì chúng giải quyết gọn vấn đề tiếp tế.
Nhưng chúng không mảy may giảm bớt nỗi lo sợ bị truyền nhiễm. Khách ăn để nhiều thì giờ kiên nhẫn lau chùi bát đĩa. Trước đấy ít lâu, một vài khách sạn treo biển: ‘Ở đây, bát đĩa đã được nhúng nước sôi’. Nhưng dần dà, họ chẳng cần quảng cáo gì nữa vì khách bắt buộc phải tới. Vả lại, khách sẵn sàng tiêu pha. Những thứ rượu ngon hay cho là ngon, những món phụ thêm đắt tiền nhất, đây là bước mở đầu một cuộc chạy đua thỏa sức. Hình như một cảnh tượng kinh hoàng đã xảy ra trong một quán ăn, vì một ông khách cảm thấy trong người khó chịu bỗng nhiên tái xanh tái nhợt, đứng dậy loạng choạng bỏ chạy ra ngoài.
Vào khoảng hai giờ, thành phố vắng dần và đó là lúc im ắng, bụi bặm, mặt trời và dịch hạch gặp gỡ nhau ngoài đường. Dọc những ngôi nhà đồ sộ, màu xám xịt, ánh nắng vẫn không ngừng tuôn xuống. Chấm dứt những ngày giờ đằng đẵng cầm tù người ta, là những buổi tối hừng hực ập xuống một thành phố đông đúc và ồn ã. Trong những ngày nắng nóng đầu tiên, người ta không hiểu vì sao buổi tối ngày càng vắng vẻ. Nhưng giờ đây, luồng không khí mát mẻ đầu tiên khiến người ta, nếu chưa có gì để hy vọng thì cũng bớt căng thẳng. Mọi người đổ ra đường phố, nói năng đến cuồng nhiệt, cãi cọ nhau hay thèm khát lẫn nhau và dưới bầu trời tháng bảy đỏ rực, thành phố đầy những đôi trai gái và tiếng ồn ã, trôi giạt về một khoảng đêm hổn hển. Tối nào cũng vậy, trên các đại lộ, một ông già có linh cảm, đội mũ phớt và thắt cà vạt, đi qua đám đông và nói đi nói lại: ‘Chúa là vĩ đại, hãy đến với Người’; nhưng chỉ uổng công vô ích: mọi người đều đổ xô về một cái gì đó mà họ biết lờ mờ hoặc họ cho là cấp bách hơn Chúa. Lúc đầu, khi họ cho dịch hạch cũng là một thứ bệnh như những bệnh tật khác, thì tôn giáo nằm ở đúng vị trí của nó. Nhưng thì thấy tình hình nghiêm trọng, thì họ nhớ tới khoái lạc. Trong cảnh hoàng hôn hừng hực và bụi bặm, toàn bộ nỗi kinh hoàng hiển hiện trên các khuôn mặt lúc ban ngày biến thành một thứ kích động thô bạo, một thứ tự do vụng dại khiến cả một cư dân như lên cơn sốt.
Và cả tôi nữa, tôi cũng như họ. Nhưng sao! Cái chết không là gì hết đối với những người như tôi. Nó là một sự kiện thừa nhận cái đúng đắn của họ”.
Tarrou xin gặp Rieux buổi gặp gỡ anh nói tới trong sổ tay. Tối hôm đó, trong lúc chờ anh, Rieux nhìn mẹ điềm tĩnh ngồi trên ghế, trong một góc phòng ăn, thường ngày cụ ngồi đấy khi không bận công việc nhà. Hai tay chắp lại trên đầu gối, cụ ngồi chờ. Rieux cũng không biết chắc là có phải cụ chờ anh không. Nhưng có một cái gì biến đổi trên nét mặt bà cụ khi ông xuất hiện. Nét mặt vốn lầm lì, dấu ấn của một cuộc đời cần mẫn, bỗng hoạt bát lên. Nhưng rồi cụ lại vẫn ngồi im. Tối hôm đó, qua ô cửa sổ, cụ nhìn ra ngoài đường phố vắng vẻ. Ánh sáng đèn đường đã giảm đi hai phần ba. Từng quãng xa một, một bóng đèn tù mù rọi một chút ánh sáng vào bóng đêm thành phố.
- Không biết người ta có giảm ánh sáng đèn đường trong suốt thời kỳ dịch bệnh không nhỉ? - Bà cụ hỏi.
- Có thể, mẹ ạ!
- Miễn sao đừng kéo dài đến tận mùa đông. Vì nếu thế thì buồn lắm.
- Vâng. - Rieux đáp.
Ông thấy ánh mắt mẹ nhìn lên trán mình. Ông biết vì lo âu và làm việc quá sức trong những ngày qua nên mặt ông hóp lại.
- Tình hình hôm nay không ổn phải không? - Bà cụ hỏi.
- Ồ! Cũng như thường ngày thôi mẹ ạ.
Cũng như thường ngày! Có nghĩa là thứ huyết thanh mới gửi từ Paris về có vẻ ít hiệu quả hơn lần đầu và con số thống kê cứ tăng dần. Người ta vẫn chỉ có thể tiêm chủng huyết thanh phòng bệnh cho những gia đình đã mắc bệnh được thôi.
Muốn sử dụng rộng rãi thì phải có những số lượng khổng lồ. Phần lớn hạch xoài không chịu vỡ mủ như thể đã đến thời kỳ cứng lại, và chúng hành hạ người bệnh. Từ tối hôm trước, trong thành phố xảy ra hai ca mắc bệnh dưới một dạng mới: dạng dịch hạch phổi. Một cuộc họp được tổ chức ngay ngày hôm đó. Ông thị trưởng thì hoang mang, các thầy thuốc thì kiệt sức. Theo yêu cầu của họ, cuộc họp quyết định những biện pháp mới để đề phòng bệnh lây lan theo đường miệng. Cũng như thường ngày, người ta vẫn không rõ tình hình rồi sẽ ra sao.
Rieux nhìn mẹ. Đôi mắt đẹp màu nâu sẫm của bà cụ làm ông nhớ lại những năm tháng được yêu chiều.
- Mẹ có sợ không mẹ?
- Ở tuổi mẹ, người ta chẳng sợ bao nhiêu nữa.
- Ngày thì dài mà con thì không bao giờ được ở bên mẹ.
- Mẹ có phải chờ con cũng chẳng sao nếu mẹ biết thế nào con cũng về. Và khi con chưa về thì mẹ nghĩ tới công việc con làm. Con có tin gì mới không?
- Vâng có, mọi sự đều tốt lành theo bức điện con vừa nhận được. Nhưng con biết là cô ta nói thế cho con yên lòng.
Có tiếng chuông gọi cửa. Rieux mỉm cười với mẹ và đi ra mở. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, trên cầu thang. Tarrou có vẻ như một chú gấu khổng lồ, quấn áo màu xám. Rieux mời khách ngồi vào trước bàn làm việc, còn mình thì đứng sau chiếc ghế bành. Ngăn cách giữa hai người chỉ có cây đèn thắp sáng trên mặt bàn.
Không hề rào đón, Tarrou lên tiếng :
- Tôi biết là tôi có thể nói thẳng với ông.
Rieux im lặng tán thành.
- Chỉ mười lăm ngày hay một tháng sau là ông sẽ không còn làm được gì có ích ở đây nữa. Ông sẽ không với kịp tình hình.
- Đúng thế. - Rieux đáp.
- Tổ chức y tế hiện nay dở. Các ông thiếu người và thiếu cả thời gian.
Một lần nữa Rieux lại thừa nhận là đúng như thế.
- Tôi được biết là tỉnh dự kiến một thứ cơ quan dân sự để buộc những người lành mạnh tham gia công việc cứu trợ chung.
- Ông nắm chắc tình hình đấy. Nhưng người ta đã bất bình lắm rồi và ông thị trưởng không thể không lưỡng lự.
- Vì sao không yêu cầu những người tự nguyện?
- Người ta đã làm, nhưng kết quả ít ỏi lắm.
- Vì người ta đã làm theo con đường Nhà nước và không mấy tin tưởng. Cái họ thiếu là trí tưởng tượng. Họ không bao giờ ở ngang tầm tai họa. Và những liều thuốc họ nghĩ ra chỉ đủ để chữa bệnh sổ mũi. Nếu cứ để họ làm thì họ sẽ chết và chúng ta sẽ cùng chết theo với họ.
- Có thể - Rieux đáp - Tôi phải nói là tuy thế, họ vẫn nghĩ tới việc huy động người tù để làm những công việc nặng nhọc.
- Làm công việc đó, phải là những người tự do thì hơn.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng xét cho cùng vì sao?
- Tôi kinh tởm những vụ án tử hình.
Rieux nhìn Tarrou.
- Thế thì sao? - Ông hỏi.
- Thì tôi có một chương trình thành lập những tổ chức y tế tự nguyện. Ông cho phép tôi phụ trách công việc đó và chúng ta hãy gác lại một bên tổ chức Nhà nước. Vả lại, tổ chức Nhà nước đã quá bận rộn. Tôi có bạn bè hầu như ở khắp nơi và họ sẽ là những hạt nhân đầu tiên. Và dĩ nhiên tôi sẽ tham gia.
- Dĩ nhiên, - Rieux đáp - ông cho là tôi vui vẻ nhận lời. Chúng tôi cần được giúp đỡ, nhất là trong cái nghề này. Tôi sẽ làm cho trên tỉnh chấp nhận. Vả lại, họ không có cách nào khác. Nhưng...
Rieux đăm chiêu :
- Nhưng công việc đó có thể làm chết người, ông biết đấy. Và dẫu sao, tôi cũng phải nói trước với ông điều đó. Ông đã suy nghĩ thật kỹ chưa?
Tarrou ngước cặp mắt màu tro nhìn ông.
- Bác sĩ nghĩ thế nào về bài thuyết giáo của Paneloux?
Câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên và Rieux cũng trả lời một cách tự nhiên :
- Tôi đã sống qua nhiều trong các bệnh viện nên không ưa cái quan niệm trừng phạt tập thể. Nhưng ông biết đấy, đôi khi, những người Cơ Đốc giáo, nói như thế tuy không thực sự nghĩ như thế bao giờ. Họ tốt hơn là họ biểu thị ra ngoài.
- Nhưng ông cũng nghĩ như Paneloux là dịch hạch có mặt từ thiện của nó, là nó làm cho người ta mở mắt ra, nó buộc người ta phải suy nghĩ!
Bác sĩ Rieux lắc đầu, vẻ sốt ruột :
- Dịch hạch cũng như mọi bệnh tật trên đời này thôi. Nhưng cái gì đúng với mọi tai họa thì cũng đúng với dịch hạch. Dịch hạch có thể giúp cho vài bốn người lớn lên. Nhưng dịch hạch gieo rắc khổ ải và đau thương nên nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu bó tay trước dịch hạch.
Rieux chỉ hơi cao giọng một tí. Nhưng Tarrou giơ tay ra hiệu như để làm ông trấn tĩnh. Ông mỉm cười :
- Đúng - Rieux nói và nhún vai - Nhưng ông chưa trả lời tôi. Ông đã suy nghĩ chưa?
Tarrou hơi lấy lại tư thế trong ghế bành và nhô đầu ra ngoài ánh sáng.
- Bác sĩ có tin ở Thượng đế không?
Câu hỏi lại vẫn được đặt ra một cách tự nhiên. Nhưng lần này, Rieux ngập ngừng.
- Không, nhưng như thế có nghĩa là thế nào? Tôi ở trong đêm tối và tôi cố gắng nhìn cho sáng tỏ. Đã từ lâu tôi không còn thấy cái đó độc đáo nữa.
- Phải chăng cái đó ngăn cách ông với Paneloux?
- Tôi không nghĩ như vậy. Paneloux là một nhà nghiên cứu. Ông ta chưa thấy người ta chết nhiều và vì vậy ông ta nói nhân danh một chân lý. Nhưng bất kỳ một linh mục nào ở nông thôn khi cai quản giáo dân và nghe hơi thở của một người hấp hối cũng đều suy nghĩ như tôi. Ông ta sẽ cho chăm sóc nỗi đau khổ trước khi tìm cách chứng minh mặt ưu việt của nó.
Rieux đứng dậy, khuôn mặt khuất trong bóng tối. Ông nói tiếp :
- Chúng ta gác cái đó lại vì ông không muốn trả lời.
Tarrou ngồi yên trong ghế bành mỉm cười :
- Tôi có thể trả lời bằng một câu hỏi được không?
Đến lượt Rieux mỉm cười :
- Thì ra ông thích những điều bí ẩn. Thôi được, ông cứ hỏi.
- Thế này, - Tarrou nói - vì sao bản thân ông, ông tận tụy đến thế trong khi ông không tin vào Thượng đế? Có thể câu trả lời của ông sẽ giúp bản thân tôi trả lời.
Vẫn đứng trong bóng đêm, Rieux đáp là ông đã trả lời rồi, là nếu ông tin vào một Thượng đế toàn năng thì ông đã không còn chạy chữa cho người ta nữa, và dành công việc đó cho Chúa. Nhưng không một ai, không, ngay cả Paneloux là người tin rằng mình tin đi nữa, trên đời này, không một ai tin vào một Thượng đế kiểu đó, vì lẽ không một ai phó mặc mình hoàn toàn và chí ít, về mặt này, Rieux tin là mình ở trên con đường chân lý trong lúc đấu tranh chống lại thế giới như nó đang tồn tại hiện nay.
- A! - Tarrou thốt lên - Ông quan niệm nghề nghiệp của ông như thế đấy?
- Gần như thế. - Rieux vừa đáp vừa đứng ra ngoài vùng sáng.
Tarrou khẽ huýt sáo. Ngước nhìn anh, ông nói tiếp :
- Vâng, chắc ông nghĩ bụng là muốn thế cần phải có lòng kiêu hãnh. Nhưng tôi chỉ có chút lòng kiêu hãnh cần thiết, xin ông cứ tin như vậy. Tôi không rõ cái gì chờ đợi tôi và cái gì sẽ xảy ra sau tất cả tình hình này. Chỉ biết lúc này có người bệnh và cần chữa bệnh cho họ. Sau đó, họ sẽ suy nghĩ và tôi cũng vậy. Nhưng cấp bách hơn hết là chữa bệnh cho họ. Sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó, thế thôi.
- Bảo vệ chống lại ai?
Rieux quay về phía cửa sổ. Ông hình dung mặt biển xa xa kết tụ phía chân trời và trở nên sẫm màu hơn. Ông cảm thấy mệt mỏi và muốn chống lại cái ý muốn đột ngột và phi lý là cởi mở hơn một chút nữa với con người có vẻ kỳ cục nhưng ông cảm thấy thân ái này.
- Tôi không biết gì hết, ông Tarrou ạ, tôi cam đoan với ông là tôi không biết gì hết. Khi tôi bước chân vào nghề, có thể nói là tôi đã bước vào một cách mơ hồ, vì tôi cần đến nó, vì nó là một nghề nghiệp như những nghề nghiệp khác, một trong những nghề nghiệp ước mong của tuổi trẻ. Có lẽ cũng vì đó là một việc đặc biệt khó khăn cho con một người thợ như tôi. Rồi lại phải nhìn người ta chết. Ông có biết là có những người không chịu chấp nhận cái chết không? Ông đã bao giờ nghe một thiếu phụ la hét: “Không bao giờ!” vào lúc chết chưa? Tôi thì đã nghe. Và lúc ấy, tôi nhận ra rằng mình không thể làm quen với cái đó được. Lúc ấy, tôi còn trẻ và hình như tôi kinh tởm đối với bản thân cái trật tự trên đời này. Về sau, tôi trở nên khiêm tốn hơn. Nhưng tôi vẫn không sao quen được việc nhìn người ta chết. Tôi không hề biết gì hơn nữa. Nhưng dẫu sao...
Rieux ngừng lại và ngồi xuống. Ông cảm thấy khô miệng.
- Dẫu sao thế nào? - Tarrou nhẹ nhàng hỏi.
- Dẫu sao... - Rieux nói tiếp, rồi lại ngập ngừng, đăm đăm nhìn Tarrou - đó là điều một người như ông có thể hiểu, phải không nào? Nhưng vì trật tự trên cõi đời này là do cái chết quy định cho nên có lẽ tốt hơn cho Chúa là không nên tin ở Chúa mà cần đem hết sức mình đấu tranh chống lại cái chết, và không ngước mắt lên trời nơi Chúa một mực lặng im.
- Vâng, - Tarrou tán thành - tôi có thể hiểu. Nhưng thắng lợi của ông bao giờ cũng chỉ tạm thời, có thể thôi.
Rieux có vẻ âu sầu :
- Bao giờ cũng thế, tôi biết. Nhưng không phải vì vậy mà thôi không đấu tranh.
- Vâng, không phải vì vậy mà thôi không đấu tranh. Như thế là tôi hình dung được cái bệnh dịch hạch này đối với ông là thế nào.
- Đúng - Rieux nói - Một thất bại không bao giờ chấm dứt.
Tarrou đăm đăm nhìn bác sĩ một lát, rồi đứng dậy và nặng nề đi ra phía cửa. Và Rieux đi theo. Khi ông theo kịp thì Tarrou lúc đó hình như đang nhìn xuống dưới chân, nói với ông :
- Ai dạy cho ông tất cả cái đó, thưa bác sĩ?
Rieux trả lời ngay lập tức :
- Sự cùng khổ.
Rieux mở cửa buồng giấy, và khi bước vào hành lang, nói với Tarrou là ông cũng xuống thang gác để đi thăm một người bệnh ở ngoại ô. Tarrou đề nghị cùng đi và bác sĩ đồng ý. Đi hết hành lang, hai người gặp bà cụ mẹ Rieux và bác sĩ giới thiệu Tarrou với cụ :
- Bạn con.
- Ồ! - Cụ Rieux đáp - Tôi rất sung sướng được biết ông.
Khi cụ đi khỏi, Tarrou còn quay lại nhìn. Trên cầu thang, Rieux bật điện nhưng không được. Thang gác vẫn tối om. Rieux nghĩ bụng không biết có phải do một biện pháp tiết kiệm mới nữa không. Nhưng không sao biết được. Đã ít lâu nay, trong các gia đình và trong thành phố, mọi thứ đều trục trặc. Phải chăng chỉ vì những người gác cổng, và cả đồng bào chúng tôi nữa nói chung, không còn ai quan tâm đến gì nữa hết? Nhưng bác sĩ Rieux không có thì giờ suy nghĩ nhiều hơn vì tiếng nói của Tarrou đã cất lên phía sau lưng :
- Tôi xin nói thêm một lời, thưa bác sĩ, dù ông có cho là lố bịch: tôi thấy ông hoàn toàn có lý.
Rieux nhún vai đối với riêng mình, trong đêm tối.
- Quả thật là tôi không hiểu gì hết. Nhưng ông, thì ông hiểu thế nào?
- Ồ! - Tarrou điềm tĩnh trả lời - Tôi không có gì nhiều phải học cả.
Bác sĩ Rieux đứng lại và sau lưng ông, Tarrou trượt chân trên một bậc cầu thang. Nắm vai bác sĩ, anh chựng lại được.
- Ông có nghĩ là ông hiểu hết mọi cái trên đời không? - Rieux hỏi.
Trong bóng đêm, Tarrou điềm tĩnh trả lời :
- Có.
Ra đến đường phố, họ biết đêm đã khuya, có lẽ đã mười một giờ. Thành phố im ắng, chỉ có tiếng lá cây xào xạc. Rất xa, vang lên tiếng còi xe cứu thương. Họ bước lên ô-tô và Rieux nổ máy.
- Mai, mời ông đến bệnh viện tiêm phòng - Rieux báo - Nhưng để kết thúc và trước khi nói chuyện tiêm chủng, ông phải yên trí là mình chỉ có một phần ba khả năng thoát khỏi bệnh.
- Thưa bác sĩ, sự ước lượng ấy chẳng có ý nghĩa gì, chắc ông cũng rõ như tôi. Trước đây một trăm năm, một đợt dịch hạch giết sạch dân một thành phố Ba Tư, và đúng là chỉ trừ lại người tắm rửa cho người chết mà ông ta thì không một ngày nào nghỉ việc.
- Ông ta đã giành được cái khả năng thứ ba, chỉ có thế thôi - Rieux đáp, giọng bỗng nhiên trầm lại - Nhưng quả là chúng ta còn phải học tất thảy mọi cái về vấn đề này.
Hai người ra đến vùng ngoại ô. Đèn xa chiếu sáng những con đường vắng vẻ. Họ dừng xe. Đứng trước ô-tô, Rieux hỏi Tarrou có muốn vào không và anh nhận lời. Một tia sáng trên bầu trời soi rõ nét mặt họ. Rieux bỗng mỉm cười thân ái :
- Ông Tarrou này, cái gì xui khiến ông quan tâm tới những cái đó?
- Tôi không rõ. Có lẽ là đạo lý của tôi.
- Đạo lý nào?
- Sự thông cảm.
Tarrou quay về phía ngôi nhà và mãi đến lúc hai người bước vào nhà ông lão bị hen suyễn, Rieux mới nhìn thấy mặt anh.
Ngay ngày hôm sau, Tarrou bắt tay vào việc và tập hợp một kíp đầu tiên, sau đó có nhiều kíp khác tiếp theo.
Người kể chuyện không có ý định cường điệu tầm quan trọng của những tổ chức y tế này. Quả là vào địa vị anh ta, chắc hẳn ngày nay, nhiều đồng bào chúng tôi không cưỡng lại được ý muốn quá đề cao vai trò của chúng. Nhưng người kể chuyện nghĩ rằng nếu quá coi trọng những nghĩa cử ấy thì cuối cùng sẽ gián tiếp và mạnh mẽ ca ngợi cái ác. Vì sẽ làm cho người ta có quan niệm là những nghĩa cử ấy sở dĩ có giá trị lớn như vậy, chẳng qua là vì hiếm thấy, còn độc ác và thờ ơ là những động cơ thường gặp hơn nhiều trong hành vi con người. Người kể chuyện không đồng tình với quan điểm đó. Cái ác trên đời này hầu như bao giờ cũng bắt nguồn từ sự dốt nát, và thiện chí cũng có thể gây tổn thất như tà tâm nếu không được soi đường. Người đời, thường tốt hơn là xấu và thực ra, vấn đề không phải là ở đây. Nhưng ít nhiều người đời là dốt nát và chính cái đó là cái mà người ta gọi là nết tốt hay tính xấu, và tính xấu tồi tệ nhất là của những kẻ dốt nát nhưng lại cho là mình biết hết thảy và lúc đó tự cho phép mình chém giết. Tâm hồn đứa giết người là một tâm hồn mù quáng, và sẽ không có lòng tốt chân chính và tình yêu cao đẹp nếu không có toàn bộ sáng suốt cần thiết.
Vì vậy những tổ chức y tế như Tarrou mà thành lập được, phải được đánh giá với một thái độ thỏa mãn khách quan. Và cũng vì vậy người kể chuyện không ca ngợi quá nồng nhiệt ý chí và lòng dũng cảm mà chỉ cho là chúng có một tầm quan trọng vừa phải. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục làm sử gia của những trái tim tan nát và khó thỏa mãn mà dịch hạch đã tạo cho tất cả đồng bào chúng tôi.
Quả là không nên đánh giá quá cao công lao của những người tận tụy với các tổ chức y tế: họ biết rằng chỉ còn có công việc ấy để làm và giả sử không làm thì mới không sao tưởng tượng nổi. Các tổ chức này giúp đồng bào chúng tôi hiểu sâu hơn dịch bệnh và thuyết phục họ phải làm cái phải làm để chống lại dịch bệnh một khi nó đã đến. Vì chống dịch hạch trở thành nghĩa vụ của một vài người như thế đó nên nó xuất hiện thực sự như nó đã từng xuất hiện, nghĩa là nó trở thành công việc của mọi người.
Thế là tốt. Nhưng người ta không ngớt khen một nhà giáo khi ông dạy hai với hai là bốn. Có lẽ đúng hơn là người ta ca ngợi ông đã chọn cái nghề đẹp đẽ ấy. Vậy phải nói rằng Tarrou và những người khác đáng khen ở chỗ là tìm cách chứng minh hai với hai là bốn, chứ không phải ngược lại: nhưng cũng lại phải nói rằng thiện chí đó cũng là thiện chí chung của các nhà giáo, của tất cả những ai có tấm lòng như tấm lòng người thầy giáo. Số lượng những con người hành động như vậy vì danh dự con người lớn hơn người ta tưởng, và ít nhất đó cũng là niềm tin của người kể chuyện. Vả lại, người kể chuyện ở đây nhận ra rất nhanh là người ta sẽ phản bác mình và cho rằng những con người nói trên là những kẻ liều mạng. Nhưng lịch sử bao giờ cũng có lúc người dám nói hai với hai là bốn sẽ bị tội chết. Người thầy giáo biết rõ điều đó. Và vấn đề không phải là tìm xem sự tưởng lệ hay trừng phạt nào chờ đợi lối lý giải ấy. Vấn đề là tìm xem hai với hai có là bốn hay không, về phần những đồng bào chúng tôi dám “liều mạng”, thì họ phải quyết định là họ có ở trong vòng dịch hạch hay không và có phải chống lại nó hay không.
Nhiều nhà đạo đức học mới xuất hiện trong thành phố đâm nản chí, cho rằng chẳng có thể làm được gì cả và chỉ nên quỳ gối. Và Tarrou, và Rieux và bè bạn họ có thể trả lời thế này hay thế nọ, nhưng kết luận thì bao giờ cũng là điều họ đã biết: phải chiến đấu bằng cách này hay bằng cách khác, chứ không chịu quỳ gối. Toàn bộ vấn đề là ra sức hạn chế số người phải chịu cảnh sinh ly tử biệt. Muốn vậy, chỉ có một cách duy nhất là chống lại dịch hạch. Chân lý đó không có gì đáng ngạc nhiên, nó chỉ là điều hợp lý.
Vì vậy, điều rất tự nhiên là ông già Castel đưa hết niềm tin và nghị lực vào việc pha chế huyết thanh tại chỗ, với những nguyên liệu tự tìm kiếm lấy. Thứ huyết thanh sản xuất với việc nuôi cấy bản thân con vi sinh vật đang làm ô nhiễm thành phố, ông và Rieux hy vọng có hiệu lực trực tiếp hơn thứ huyết thanh từ ngoài đưa tới, vì con vi sinh vật này có khác chút đỉnh con vi khuẩn dịch hạch đã từng được xác định một cách kinh điển. Castel hy vọng sẽ chế được khá nhanh đợt huyết thanh đầu tiên.
Cũng vì vậy, điều rất tự nhiên nữa là vốn không hề có dáng dấp anh hùng gì cả, giờ đây, Grand phụ trách ban thư ký các tổ chức y tế. Một số kíp do Tarrou thành lập mà công việc phòng bệnh trong những khu phố quá đông dân. Họ tổ chức làm vệ sinh, xem xét các hầm nhà, kho lúa trước đây chưa được tẩy uế. Một số kíp khác giúp việc các thầy thuốc trong việc khám bệnh tại nhà, bảo đảm việc chuyên chở người bệnh và thậm chí, về sau, tự tay lái xe chở người bệnh và người chết khi thiếu nhân viên chuyên môn. Tất cả công việc đó đòi hỏi phải có ghi chép và thống kê, và Grand đã nhận làm.
Về phương diện này và còn hơn cả Rieux hay Tarrou, người kể chuyện ở đây cho rằng Grand là người đại diện thực sự cho tấm lòng dũng cảm thầm lặng thúc đẩy hoạt động của các tổ chức y tế. Anh nhận lời không chút lưỡng lự, với cái thiện chí vốn thuộc bản chất anh. Chỉ có điều là anh chỉ muốn xin giúp những việc nhỏ thôi. Đối với những việc khác, thì tuổi anh đã quá lớn. Buổi tối, anh có thể làm việc từ mười tám đến hai mươi giờ. Và anh ngạc nhiên nói khi thấy Rieux nồng nhiệt cảm ơn mình: “Công việc này đâu phải là khó khăn nhất. Có dịch hạch thì phải chống lại dịch hạch, điều đó thật rõ ràng. A! Giá như mọi cái cũng đơn giản như vậy!”. Rồi anh nhắc lại câu văn viết về nàng kỵ sĩ. Thỉnh thoảng, khi làm xong công việc lập phiếu. Rieux trò chuyện với Grand. Cuối cũng, cả Tarrou cũng tham gia vào câu chuyện và Grand ngày càng hào hứng tâm sự với hai người bạn. Hai người cũng thích thú theo dõi công việc cần mẫn của Grand giữa lúc dịch hạch hoành hành. Cuối cùng, cả hai người cũng cảm thấy bớt căng thẳng.
“Nàng kỵ sĩ thế nào rồi?”, Tarrou thường hỏi anh như vậy. Và bao giờ Grand cũng một mực: “Nàng đi nước kiệu, đi nước kiệu”, một nụ cười gắng gượng trên môi. Một buổi tối, Grand tuyên bố dứt khoát bỏ tính từ “kiều diễm” khi nói về nàng kỵ sĩ và từ nay sẽ dùng “mảnh mai”. “Như thế sẽ cụ thể hơn”, anh nói thêm. Lần khác, anh đọc cho hai vị thính giả của mình câu văn mở đầu được chữa lại như sau: “Vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, một nàng kỵ sĩ mảnh mai ngồi trên lưng một con ngựa hồng uy nghi lướt trên những lối đi đầy hoa trong rừng Boulogne”.
- Có phải như thế người ta nhìn thấy nàng rõ hơn không? - Grand hỏi.
Sau đó, anh rất băn khoăn về tính từ “uy nghi”. Theo anh, từ đó chẳng nói lên được gì cả và anh đi tìm cái từ nào có thể “chụp ảnh” ngay tức khắc con ngựa cái rực rỡ trong tưởng tượng của anh. “Béo tốt” thì không ổn, vì nó cụ thể nhưng hơi thông tục. “Lấp lánh” đã hấp dẫn anh một lúc nhưng âm điệu lại không ổn. Một buổi tối, anh hoan hỉ tuyên bố đã tìm được: “Một con ngựa hồng màu đen”. Theo anh, màu đen miêu tả kín đáo sự thanh nhã.
- Không được. - Rieux bảo.
- Vì sao?
- “Hồng” không chỉ giống ngựa, mà chỉ màu sắc.
- Màu gì?
- Màu gì đi nữa thì cũng không phải là màu đen.
Grand tỏ vẻ rất xúc động :
- Cảm ơn, may sao có các ông. Nhưng các ông thấy khó biết chừng nào!
- Dùng từ “lộng lẫy” thì ông thấy sao? - Tarrou hỏi.
Grand nhìn anh và nghĩ ngợi :
- Đúng, đúng!
Và dần dần trở lại tươi cười.
Trước đó ít lâu, anh thú nhận là từ “nở hoa” làm anh bối rối. Vì chỉ mới biết có hai thành phố Oran và Montélimar nên thỉnh thoảng anh lại hỏi hai người bạn hoa nở như thế nào trên các lối đi trong rừng Boulogne. Thực ra Rieux và Tarrou chưa bao giờ có cảm xúc đó, nhưng niềm tin sắt đá của Grand làm họ xao xuyến. Anh chàng kinh ngạc trước vẻ nghi hoặc của họ. “Chỉ có các nghệ sĩ mới biết cách nhìn”. Nhưng một lần, bác sĩ Rieux thấy anh hết sức xúc động. Anh đã thay thế “nở hoa” bằng “đầy hoa”. Anh xoa xoa hai tay: “Cuối cùng, người ta nhìn thấy chúng, ngửi thấy chúng. Các ngài “bái phục” đi thôi!” Anh long trọng đọc câu văn: “Vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, một nàng kỵ sĩ mảnh mai ngồi trên lưng một con ngựa hồng lộng lẫy, lướt trên những lối đi đầy hoa trong rừng Boulogne” Nhưng đọc to lên, ba từ chỉ sự sở thuộc 17 cuối câu vang lên một cách khó chịu và Grand hơi ấp úng. Anh buồn bã ngồi xuống. Rồi xin phép bác sĩ Rieux đi ra. Anh cần phải suy nghĩ chút đỉnh.
Vào thời kỳ này - nhưng mãi về sau Rieux và Tarrou mới biết - ở cơ quan, Grand tỏ những dấu hiệu lơ đãng mà người ta cho là đáng tiếc vào lúc, với một biên chế giảm bớt, tòa thị chính phải đối phó với những công việc hết sức nặng nề. Tình hình đó ảnh hưởng tới cơ quan và viên trưởng phòng nghiêm khắc trách cứ anh, bảo là anh được trả lương để làm một công việc mà chính anh lại không làm trọn. “Hình như, - Ông ta nói - ông tham gia tự nguyện vào các tổ chức y tế, ngoài công việc của ông. Cái đó không liên quan đến tôi. Nhưng cái liên quan đến tôi, là công việc của ông. Và cách tốt nhất để ông tỏ ra hữu ích trong những hoàn cảnh khủng khiếp này, là làm tốt công việc của mình. Nếu không, thì mọi cái khác chẳng để làm gì hết”.
- Ông ta nói có lý. - Grand nói với Rieux.
- Đúng, ông ta nói có lý. - Bác sĩ Rieux tán thành.
- Nhưng tôi đãng trí và tôi không biết làm thế nào để kết thúc câu văn của mình.
Grand đã nghĩ tới việc bỏ bớt “Boulogne” vì cho rằng ai cũng hiểu cả thôi. Nhưng như thế thì câu văn lại có vẻ gắn vào “hoa” cái, thực ra, gắn vào “lối đi” 18. Anh cũng đã nghĩ tới khả năng viết: “Những lối đi trong rừng đầy hoa”. Nhưng đặt “rừng” giữa một danh từ và một hình dung từ mà nó tách ra một cách võ đoán 19, anh cảm thấy như có một cái gai đâm trong da thịt. Quả là nhiều tối, anh còn có vẻ mệt mỏi hơn cả Rieux.
Đúng, anh mệt mỏi vì công việc tìm tòi chữ nghĩa này thu hút hết tâm lực anh, nhưng không phải vì vậy mà anh không tiếp tục làm những phép tính và công việc thống kê cần thiết cho các tổ chức y tế. Tối nào cũng vậy, anh kiên nhẫn lý giải các tờ phiếu, vẽ thêm các đồ thị, biểu diễn và chậm rãi cố gắng trình bày các bảng thống kê sao cho thật chính xác. Nhiều khi anh đến gặp Rieux trong bệnh viện, xin một chiếc bàn trong văn phòng hay trạm y tế. Anh ngồi đấy với đống giấy tờ, hoàn toàn giống như anh ngồi ở tòa thị chính, và trong bầu không khí trở nên đông đặc vì các chất tẩy uế và cả vì bệnh tật, anh vẫy vẫy mấy tờ giấy cho mực chóng khô. Lúc đó, anh thực lòng cố gắng không nghĩ tới “nàng kỵ sĩ” của mình và chỉ ra sức làm việc cần làm thôi.
Đúng, nếu quả loài người thiết tha đặt cho mình những tấm gương và những hình mẫu mà họ gọi là những anh hùng, và nếu nhất thiết trong câu chuyện này phải có một người anh hùng, thì người kể chuyện đề nghị chọn người anh hùng tầm thường và mờ nhạt trên đây. Người kể chuyện thấy anh có chút lòng nhân hậu và một lý tưởng thoạt nhìn có vẻ kỳ cục. Như thế thì sẽ trả lại cho chân lý những gì thuộc về chân lý, trả lại cho phép cộng hai với hai cái tổng số bốn của nó và trả lại cho chủ nghĩa anh hùng cái vị trí thứ yếu vốn là của nó: nó phải ở ngay sau, chứ không bao giờ đứng trước những đòi hỏi hào hiệp của hạnh phúc. Và như thế cũng mang lại cho tập ký này tính cách của nó, của một chuyện kể dệt bằng những tình cảm tốt đẹp, tôi muốn nói là những tình cảm không xấu xa một cách lộ liễu và cũng không bồng bột theo lối đóng kịch một cách lố bịch.
Ít ra đó cũng là quan niệm của bác sĩ Rieux khi ông đọc trong báo hay trên đài những lời kêu gọi và khích lệ của thế giới bên ngoài tới thành phố bị dịch hạch. Đồng thời với những thứ cứu trợ gửi tới bằng đường không và đường bộ, tối nào cũng vậy, trên các làn sóng hay các báo chí, cái thành phố từ nay cô đơn này nhận được vô số những lời bình luận xót thương hay ca ngợi. Và mỗi lần như vậy, cái giọng kiểu anh hùng ca hay diễn văn phát phần thưởng lại làm Rieux sốt ruột. Dĩ nhiên, ông biết đó không phải là một mối quan tâm giả dối. Nhưng mối quan tâm ấy chỉ có thể được biểu lộ bằng một ngôn ngữ ước lệ mà người ta dùng để thể hiện những gì gắn bó họ với nhân loại. Thứ ngôn ngữ đó không thể đem áp dụng vào những cố gắng nhỏ nhoi hằng ngày của Grand chẳng hạn, không thể trình bày Grand có ý nghĩa như thế nào ở ngay giữa nạn dịch hạch.
Đôi khi, vào lúc nửa đêm, trong cảnh im lặng như tờ của thành phố hoang vắng, vào lúc đi lại giường để ngủ một giấc ngủ quá ngắn ngủi, Rieux bấm nút mở đài. Và từ những góc biển chân trời, cách xa hàng ngàn kilômét, những giọng nói xa lạ và thân ái vụng về tìm cách nói lên tinh thần đoàn kết và quả là nói lên được, nhưng đồng thời cũng chứng tỏ sự bất lực khủng khiếp của mọi con người trong việc chia sẻ một nỗi đau thương mà mình không thể nhìn thấy: “Oran! Oran!” Lời kêu gọi vượt qua biển cả, nhưng vô ích; Rieux chăm chú hết sức mình lắng nghe, nhưng cũng vô ích; chẳng mấy chốc lời kêu gọi mỗi lúc thêm hùng biện và càng làm nổi bật cái hố ngăn cách khiến cho Grand và diễn giả bên kia trở thành hai kẻ xa lạ. “Oran! đúng, Oran! Nhưng không, bác sĩ Rieux nghĩ ngợi, yêu nhau hoặc cùng chết với nhau, không có phương kế nào khác. Họ ở cách quá xa”.
Trong lúc tai họa tập trung hết sức lực đổ ập xuống thành phố và chiếm đoạt nó vĩnh viễn, thì điều còn phải kể lại trước khi nói tới điểm đỉnh của dịch hạch, chính là những cố gắng tuyệt vọng và đơn điệu của những người cuối cùng, như Rambert, để giành lại hạnh phúc và tước đoạt của dịch hạch cái phần của chính bản thân họ mà họ bảo vệ chống lại mọi sự xâm phạm. Đấy là cái cách họ khước từ sự chinh phục đang uy hiếp mình và tuy sự khước từ này, rõ ràng là không có hiệu quả bằng sự chinh phục kia, người kể chuyện ở đây vẫn cho là nó có đầy đủ ý nghĩa: dù có phù phiếm và mâu thuẫn đi nữa, nó vẫn biện hộ cho cái phần kiêu hãnh ở mỗi con người chúng ta.
Rambert phấn đấu không cho dịch hạch bao vây mình. Biết không thể ra khỏi thành phố bằng con đường hợp pháp, anh quyết định, như anh đã từng nói với Rieux, sử dụng những phương tiện khác. Anh bắt đầu bằng những chú bồi bàn trong khách sạn. Một chú bồi bàn thì luôn luôn biết hết mọi việc. Nhưng những người đầu tiên anh hỏi, thường nghe tin những hình phạt rất nặng đối với loại hành vi này. Thậm chí, có một trường hợp, anh bị coi là một kẻ khiêu khích. Muốn công việc tiến triển chút ít, thì phải gặp Cottard ở nhà Rieux. Hôm đó, Rieux và anh vẫn còn nói về những cuộc chạy vạy vô bổ của anh trong các cơ quan Nhà nước. Mấy ngày sau, Cottard gặp Rambert trên đường và chào hỏi anh với cái vẻ tròn trĩnh giờ đây hắn đưa vào trong mọi mối quan hệ :
- Vẫn không được gì hết à? - Hắn hỏi.
- Vẫn không, không gì hết.
- Đừng trông mong gì ở các công sở. Chúng không phải sinh ra để thông cảm đâu.
- Đúng thế. Nhưng tôi tìm kiếm cái khác. Khó lắm cơ!
- A! - Cottard thốt lên - Tôi hiểu.
Hắn có biết một đường dây, và trước vẻ ngạc nhiên của Rambert, hắn giải thích rằng đã từ lâu, hắn la cà khắp các tiệm cà phê ở Oran, rằng hắn có bạn bè và hắn được biết là có một tổ chức lo liệu loại công việc này. Sự thật là Cottard, mà từ nay chi tiêu vượt quá thu nhập, đã dính líu vào hoạt động buôn lậu những sản phẩm định lượng bị hạn chế. Hắn bán lại thuốc lá và rượu tồi mà giá cả tăng không ngừng và hiện đang làm giàu cho hắn.
- Ông có biết chắc chắn không? - Rambert hỏi.
- Có, bởi vì người ta đề xuất với tôi.
- Và ông đã không lợi dụng?
- Ông đừng ngờ vực, - Cottard nói, vẻ thật thà - tôi không lợi dụng bởi vì tôi, tôi không muốn đi. Tôi có lý do riêng của mình.
Im lặng một lát, hắn nói thêm :
- Ông không hỏi tôi vì những lý do gì à?
- Tôi nghĩ cái đó không dính dáng với tôi. - Rambert đáp.
- Quả là một mặt nào đó, cái đó không dính dáng tới ông. Nhưng ở một mặt khác... Cuối cùng, điều hiển nhiên duy nhất, là ở đây tôi cảm thấy dễ chịu hơn nhiều từ khi thành phố bị dịch hạch.
Rambert lắng nghe rồi hỏi :
- Làm thế nào để gặp được tổ chức ấy?
- A! - Cottard đáp - Không dễ đâu. Ông hãy đi cùng tôi.
Bốn giờ chiều. Bầu trời u ám. Thành phố hầm hập. Mọi cửa hiệu đều rũ mành. Đường phố vắng tanh, Cottard và Rambert đi theo những con đường có cổng tò vò và im lặng cặm cụi cất bước. Vào giờ này, không thấy dịch hạch đâu cả. Bầu không khí im ắng này, sự vắng lặng của màu sắc và hoạt động này, đều có thể do mùa hè hoặc do tai họa gây nên. Người ta không biết không khí mang nặng những sự uy hiếp hay mang nặng bụi bặm và nóng bức. Phải quan sát và suy nghĩ mới nhìn ra dịch hạch. Vì nó chỉ bộc lộ ra qua những dấu hiệu tiêu cực. Cottard, tương hợp với dịch hạch, lưu ý Rambert chẳng hạn về hiện tượng không thấy các đàn chó nhẽ ra phải nằm thở hồng hộc trong các hành lang để kiếm một chút mát mẻ thực ra không sao có thể kiếm được.
Họ đi dọc đại lộ Cây Cọ, vượt qua quảng trường Duyệt binh và đi về phía khu phố Hải quân. Bên trái, một quán cà phê quét vôi xanh nằm ẩn dưới một bức mành treo tréo bằng vải thô màu vàng. Cottard và Rambert vừa bước vào vừa lau trán. Họ ngồi xuống những chiếc ghế gấp dùng đặt ngoài vườn, trước những cái bàn tôn sơn xanh. Trong tiệm vắng tanh. Ruồi vo ve trong không khí. Trong một chiếc lồng sơn vàng đặt trên quầy hàng khập khiễng, một chú vẹt trụi hết lông, nằm rũ rượi trên sào. Trên tường treo những bức tranh cũ kỹ, cáu bẩn, giăng dày mạng nhện, miêu tả những trận đánh. Trên các mặt bàn bằng tôn, và ngay cả trước mặt Rambert, những đống phân gà khô quánh lại, anh không hiểu nguyên nhân vì sao cho tới khi, từ một góc nhà tối om, một chú gà trống lộng lẫy làm ầm ĩ lên một lúc rồi chân sáo nhảy ra.
Trời lúc ấy như càng thêm oi ả. Cottard cởi áo ngoài và dập dập lên mặt bàn. Một anh chàng bé nhỏ, trong chiếc tạp dề xanh lụng thụng, từ cuối phòng bước ra, từ xa cúi chào Cottard, đi tới, lấy chân gạt mạnh chú gà trống và, giữa tiếng đàn gà cục cục, hỏi khách dùng món gì. Cottard bảo lấy vang trắng và hỏi thăm về một anh chàng Garcia. Theo lời gã lùn, đã mấy ngày nay, không thấy Garcia đến tiệm.
- Anh có nghĩ là tối nay hắn tới không?
- Ồ! - Anh kia đáp - Tôi đâu biết công việc ông ta. Nhưng ông thì ông biết giờ giấc ông ta kia mà.
- Đúng, nhưng chẳng có gì quan trọng đâu. Tôi chỉ muốn giới thiệu một người bạn với hắn thôi mà.
Anh chàng hầu bàn chùi hai tay ướt vào mặt trước tạp dề.
- A! Thì ra Ngài cũng làm apphe!
- Phải. - Cottard đáp.
Anh chàng kia hít hít,
- Vậy mời ông tối nay trở lại. Tôi sẽ cho thằng bé đi gọi.
Ra về, Rambert hỏi Cottard apphe gì.
- Dĩ nhiên là buôn lậu. Họ đưa hàng ra ngoài cửa ở thành phố, bán với giá đắt.
- Thế à - Rambert nói - Họ có những tổ chức đồng lõa à?
- Đúng thế.
Buổi tối, tấm mành được vén lên, con vẹt khẹc khẹc trong lồng và những gã đàn ông, áo sơ-mi xắn tay, ngồi quanh những chiếc bàn tôn. Một gã, mũ rơm hất ra sau gáy, áo sơ-mi trắng không cài để hở một bộ ngực màu sẫm như đất cháy nắng, đứng dậy. Cottard bước vào. Một khuôn mặt cân đối và da màu nâu, mắt đen và nhỏ, răng trắng, hai ba chiếc nhẫn đeo ở ngón tay. Hắn trạc ba mươi.
- Xin chào, - Hắn nói - chúng ta ra quầy uống đi.
Họ lặng lẽ uống ba chầu rượu.
- Chúng ta đi dạo chứ? - Garcia hỏi.
Họ đi về phía bến cảng và Garcia hỏi hai người có việc gì cần đến hắn. Cottard bảo là hắn giới thiệu Rambert không phải vì apphe, mà chỉ vì cái hắn gọi là “một chuyến ra ngoài”, Garcia vừa bước thẳng về phía trước vừa hút thuốc. Hắn đặt những câu hỏi, dùng “Anh ta” khi nói về Rambert trong lúc làm như không thấy sự có mặt của anh.
- Để làm gì? - Hắn hỏi.
- Anh ta có vợ ở Pháp.
- A!
Và một lát sau :
- Anh ta làm nghề gì?
- Nhà báo.
- Đây là một nghề nói rất nhiều.
Rambert không nói gì.
- Chỗ bạn bè cả. - Cottard lên tiếng.
Họ im lặng bước đi và ra tới bến cảng. Những tấm sắt lớn ngăn không cho vào. Nhưng họ đi về phía một quán rượu, nơi có bán cá trích rán, thơm lừng.
- Dẫu sao, - Garcia kết luận - cái đó không liên quan đến tôi, mà đến Raoul. Tôi phải đi tìm hắn. Và không phải dễ.
- A! - Cottard sôi nổi hỏi - Hắn có việc gì phải trốn tránh à?
Garcia không đáp. Gần tới quán rượu, hắn đứng lại và lần đầu tiên quay nhìn Rambert.
- Ngày kia, lúc mười một giờ, ở góc trạm kiểm soát hải quan, phía đầu thành phố?
Hắn làm ra bộ muốn ra đi, nhưng lại quay về phía hai người.
- Phải có phí tổn đấy. - Hắn bảo.
Hắn nói hờ hững như nêu một lời nhận xét.
- Dĩ nhiên. - Rambert đồng tình đáp.
Một lát sau, anh chàng nhà báo cảm ơn Cottard :
- Ồ! Không - Hắn vui vẻ đáp - Tôi lấy làm thích thú được giúp ông. Vả lại, ông là nhà báo, có ngày ông sẽ trả ơn tôi.
Hai ngày sau, Rambert và Cottard đi dọc những đường phố lớn không có bóng râm dẫn về phía đầu thành phố. Một phần trạm hải quan đã biến thành bệnh xá, và trước tấm cửa lớn, người ta đứng chờ đợi, hy vọng một cuộc thăm viếng không sao có thể cho phép được, hoặc tìm kiếm những tin tức chỉ sau một lúc đã trở thành lạc hậu. Dẫu sao, nhờ có sự tập hợp ấy, người ta có điều kiện đi đi lại lại, và cũng nhờ đó mà cách quy định cuộc gặp gỡ giữa Garcia và Rambert chẳng có gì khác thường cả.
- Thật kỳ lạ, - Cottard nói - cái thái độ khăng khăng đòi đi khỏi thành phố. Cuối cùng, tình hình xảy ra thật là thú vị.
- Đối với tôi thì không. - Rambert đáp.
- Ồ! Dĩ nhiên, phải liều một cái gì đấy. Nhưng xét cho cùng, trước khi xảy ra dịch hạch, người ta cũng liều không kém khi đi qua một ngã tư thật sự tấp nập.
Đúng vào lúc đó, ô-tô của Rieux đỗ lại ở ngang tầm họ. Tarrou cầm lái và Rieux như nửa thức nửa ngủ. Ông tỉnh dậy để làm công việc giới thiệu.
- Chúng tôi biết nhau. - Tarrou nói - Chúng tôi cùng ở một khách sạn.
Anh mời Rambert lên xe về thành phố.
- Không, chúng tôi có buổi hẹn gặp ở đây.
Rieux nhìn Rambert :
- Vâng. - Rambert nói.
- A! Bác sĩ biết rồi chăng? - Cottard ngạc nhiên hỏi.
- Ông dự thẩm đến kìa. - Tarrou vừa nói vừa nhìn Cottard.
Anh chàng này biến sắc mặt. Quả là Othon đi từ phía trên đường xuống và tiến về phía họ, bước chân mạnh mẽ nhưng đều đặn. Ông bỏ mũ ra khi đi qua nhóm người.
- Chào ngài thẩm phán! - Tarrou cất tiếng.
Ông ta chào đáp lễ những người ngồi trên ô-tô, rồi nhìn Cottard và Rambert đứng ở phía sau, nghiêm trang gật đầu, Tarrou giới thiệu anh chàng thực lợi và nhà báo. Viên dự thẩm nhìn trời trong giây lát và thở dài bảo thật là một thời kỳ buồn bã.
- Thưa ông Tarrou, người ta bảo ông là ông lo việc thi hành những biện pháp phòng bệnh. Tôi hết sức hoan nghênh ông. Thưa bác sĩ, ông có nghĩ là bệnh sẽ lan rộng không?
Rieux đáp nên hy vọng là không và viên thẩm phán nhắc lại phải luôn luôn hy vọng, vì ý định của Thượng đế thì không sao hiểu thấu được. Tarrou hỏi tình hình có khiến ông ta phải làm việc gấp bội không.
- Trái lại, những vụ việc mà chúng tôi gọi là thuộc phạm vi thường phạm giảm bớt. Tôi chỉ còn phải thẩm vấn những trường hợp vi phạm nghiêm trọng những điều khoản mới. Chưa bao giờ người ta tôn trọng những đạo luật ngày trước như hiện nay.
- Chắc hẳn vì chúng tốt hơn những điều khoản sau này. - Tarrou nói.
Viên thẩm phán thôi không còn vẻ mơ màng ngước mắt đăm đăm nhìn trời nữa. Và quan sát Tarrou với một thái độ lạnh nhạt.
- Cái đó có nghĩa lý gì? - Ông ta bảo - Cái quan trọng không phải là luật, mà là việc xét xử. Chúng ta chẳng làm gì được.
- Thằng cha đó, - Cottard nói sau khi viên thẩm phán đi rồi - chính là kẻ thù số một.
Xe nổ máy.
Một lúc sau, Rambert và Cottard thấy Garcia đi tới. Hắn tiến về phía họ. Không làm hiệu gì và thay cho lời chào, chỉ nói: “Phải chờ”.
Xung quanh, đám đông, trong đó phụ nữ nhiều hơn cả, chờ đợi im phăng phắc. Hầu hết đám phụ nữ ấy đều mang theo những cái giỏ với niềm hy vọng hão huyền là trao cho người nhà bị bệnh và với ý nghĩ còn rồ dại hơn là người bệnh có thể ăn các thức ăn của họ mang tới. Những người lính gác mang vũ khí đứng canh cửa và chốc chốc một tiếng kêu kỳ cục vượt qua khoảnh sân giữa trạm hải quan và cánh cổng. Những khuôn mặt lo âu trong đám đông vội quay về phía bệnh xá.
Ba người đang nhìn cảnh tượng ấy thì phía sau lưng, một tiếng “chào” rành rọt và trầm trầm cất lên, khiến họ quay lại. Mặc dù trời nóng, Raoul ăn bận rất chỉnh tề. Cao lớn và cường tráng, hắn mặc áo cài chéo màu sẫm và đội mũ phớt vành bắt ngược lên. Da mặt xanh xao. Mắt nâu và hai môi sít lại. Raoul nói nhanh và rành rọt :
- Chúng ta đi về phía thành phố, - Hắn bảo Garcia - cậu có thể để mặc bọn tớ.
Garcia châm thuốc hút và để họ ra đi. Họ bước nhanh, theo bước chân của Raoul đi giữa hai người.
- Garcia đã nói với tôi - Hắn bảo - Có thể được đấy. Nhưng dù thế nào, cũng mất mười nghìn quan.
Rambert đáp là anh chấp nhận.
- Các anh đến ăn trưa ngày mai với tôi, ở khách sạn Tây Ban Nha, đường phố Hải Quân.
Rambert thỏa thuận và Raoul bắt tay anh, lần đầu tiên nở nụ cười trên môi. Raoul đi rồi, Cottard xin lỗi vì ngày mai hắn không rỗi, vả lại Rambert không còn cần đến hắn nữa.
Hôm sau, khi anh chàng nhà báo bước vào khách sạn Tây Ban Nha, mọi người đều quay lại nhìn. Cái hầm tối tăm ấy ở thấp hơn nền một con đường nhỏ bụi bặm và bị mặt trời hun nóng, chỉ có những khách đàn ông, phần lớn là người gốc Tây Ban Nha. Nhưng khi Raoul ngồi ở một bàn phía cuối, ra hiệu cho Rambert và Rambert đi về phía hắn, thì sự tò mò biến mất ngay trên các khuôn mặt, và người ta quay trở lại ăn uống. Cùng ngồi ở bàn là một gã to cao nhưng gầy, râu ria tua tủa, hai vai lực lưỡng, mặt dài như ngựa, tóc lưa thưa. Cánh tay áo sơ-mi của hắn xắn cao, để lộ hai cánh tay dài ngoằng, gầy guộc, phủ đầy lông đen kịt. Hắn gật đầu ba lần khi Raoul giới thiệu Rambert. Raoul không gọi tên hắn mà chỉ dùng “anh bạn chúng tôi”.
- Anh bạn chúng tôi bảo là có khả năng giúp ông. Anh ấy sẽ...
Raoul ngừng lời vì cô gái hầu bàn đến để nghe Rambert đặt hàng.
- Anh ấy sẽ giới thiệu ông với hai người bạn chúng tôi, và hai người này sẽ cho ông biết những người canh gác tận tâm với chúng tôi. Nhưng không phải thế là xong. Những người canh gác này, tự bản thân họ phải chọn thời cơ thuận lợi. Cách đơn giản nhất là ông sẽ nghỉ lại một vài đêm tại nhà một trong hai người đó - người này ở gần cửa ô - Nhưng trước đấy, anh bạn chúng tôi đây phải tổ chức cho ông những cuộc tiếp xúc cần thiết. Khi mọi việc được thu xếp xong, thì ông sẽ thanh toán các khoản phí tổn với anh ấy.
Một lần nữa, “anh bạn” lại gật cái đầu ngựa trong lúc không ngớt trộn món xà lách cà chua và ớt mà hắn xơi ngấu nghiến. Rồi hắn nói với một giọng Tây Ban Nha lơ lớ. Hắn đề nghị gặp Rambert hai ngày sau, lúc tám giờ sáng, dưới cửa lớn nhà thờ.
- Còn hai ngày nữa kia à? - Rambert lên tiếng.
- Đó là vì không phải là chuyện dễ - Raoul đáp - Phải tìm gặp lại mấy gã.
Một lần nữa, gã mặt ngựa gật đầu còn Rambert thì đồng tình nhưng chẳng hào hứng gì. Sau đó, cả ba người lúng túng, không biết còn chuyện gì để nói nữa. Nhưng mọi cái trở nên hết sức dễ dàng khi Rambert biết gã kia là một cầu thủ bóng đá. Bản thân anh cũng ham mê môn thể thao này. Thế là họ nói chuyện về giải vô địch Pháp, về tài năng các đội nhà nghề của Anh và về chiến thuật v.v... Cuối bữa ăn, gã mặt ngựa trở nên hết sức sôi nổi và “cậu tớ” với Rambert, thuyết phục anh là trong một đội bóng, không có vị trí nào đẹp hơn vị trí trung vệ. “Cậu biết không, hắn nói, trung vệ là người phân bố trận đấu, đó chính là bóng đá”. Rambert tán thành, tuy bao giờ anh cũng giữ chân trung phong. Câu chuyện chỉ dừng lại khi đài phát thanh, sau lúc lặp đi lặp lại khẽ khàng những khúc nhạc trữ tình, báo tin là ngày hôm trước, dịch hạch làm chết một trăm ba mươi bảy người. Cử tọa không một ai phản ứng. Gã mặt ngựa nhún vai và đứng dậy. Raoul và Rambert cũng đứng dậy theo.
Lúc từ giã, anh chàng trung vệ siết chặt tay Rambert :
- Tớ tên là Gonzalès. - Hắn nói.
Hai ngày sau là hai ngày dài vô tận, đối với Rambert. Anh đến nhà Rieux và kể lại mọi chi tiết. Rồi theo bác sĩ đi thăm người bệnh. Anh chia tay với ông trước cửa nhà một bệnh nhân nghi là bị dịch hạch. Trong hành lang, nghe có tiếng chân chạy và tiếng nói: người ta báo cho gia đình biết thầy thuốc đến.
- Tôi hy vọng là Tarrou sẽ đến. - Rieux khẽ nói.
Ông có vẻ mệt mỏi.
- Dịch bệnh tiến triển nhanh quá, phải không ông? - Rambert hỏi.
Rieux đáp lại không phải như vậy và thậm chí đường biểu diễn các con số thống kê đi lên chậm hơn trước. Nhưng phương tiện chống dịch hạch không có nhiều.
- Chúng tôi thiếu dụng cụ - Ông nói - Trong tất cả các đội quân thế giới, người ta thường thay thế tình trạng thiếu hụt dụng cụ bằng con người. Nhưng người, chúng tôi cũng thiếu.
- Đã có các thầy thuốc và nhân viên y tế ở ngoài vào kia mà.
- Vâng - Rieux đáp - Mười thầy thuốc và một trăm nhân viên. Bề ngoài nhìn thì thế là nhiều. Nhưng đối với tình hình bệnh hiện nay thì chỉ vừa đủ. Nếu dịch bệnh lan rộng thì sẽ thiếu.
Rieux lắng tai nghe những tiếng động trong nhà, rồi mỉm cười nói với Rambert :
- Đúng, ông phải lo cho xong sớm đi.
Một thoáng buồn trên nét mặt Rambert :
- Ông biết đấy, tôi ra đi không phải vì cái đó.
Rieux đáp là ông biết, nhưng Rambert vẫn nói tiếp :
- Tôi tin tôi không phải là đứa hèn nhát, ít nhất là trong phần lớn cuộc đời tôi. Tôi đã có dịp thử thách. Nhưng có những ý nghĩ tôi không sao chịu nổi.
Rieux nhìn thẳng vào anh :
- Ông sẽ gặp lại cô ấy.
- Có thể, nhưng tôi không chịu được cái ý nghĩ là tình hình này kéo dài và trong lúc đó, cô ta sẽ già đi. Ở tuổi ba mươi, người ta bắt đầu già và phải lợi dụng hết tất thảy. Tôi không rõ là ông có thể hiểu hết hay không.
Rieux khẽ khàng đáp là ông nghĩ rằng ông hiểu. Bỗng Tarrou đi tới, vẻ rất sôi nổi.
- Tôi vừa mới yêu cầu Paneloux cùng tham gia với chúng ta.
- Vậy thế nào? - Rieux hỏi.
- Ông ta suy nghĩ và trả lời đồng ý.
- Tôi hài lòng - Rieux bảo - Tôi hài lòng thấy ông ta tốt hơn bài thuyết giáo của ông.
- Mọi người đều như thế cả - Tarrou tiếp lời - Chỉ có điều là phải tạo cơ hội cho họ.
Anh mỉm cười và nháy mắt về phía Rieux :
- Công việc của tôi, trong cuộc đời, là tạo cơ hội.
- Tôi xin lỗi, - Rambert lên tiếng - nhưng tôi phải đi.
Ngày thứ năm, đúng hẹn, anh đến dưới cổng lớn nhà thờ, lúc tám giờ kém năm. Không khí còn mát mẻ. Trên bầu trời, vần vũ những đám mây trắng và tròn mà lát nữa, nắng lên sẽ làm tiêu tan ngay trong một lúc. Một mùi ẩm ướt còn phảng phất trên các bãi cỏ tuy đã bị hun khô. Mặt trời, phía sau những ngôi nhà phía đông, chỉ đốt nóng cái mũ trên bức tường Jeanne d’Arc hoàn toàn mạ vàng, dựng trên quảng trường. Đồng hồ điểm tám tiếng. Rambert đi lại mấy bước dưới cái cổng vắng người. Từ trong nhà thờ nghe thoang thoảng có tiếng cầu kinh và mùi rượu cất dưới hầm cùng mùi hương trầm. Bỗng tiếng hát ngừng lại đột ngột. Hàng chục bóng đen nhỏ nhoi ra khỏi nhà thờ và lúp xúp đi về phía thành phố. Rambert bắt đầu sốt ruột. Những bóng đen khác bước lên những bậc tam cấp cao và đi về phía cổng. Anh châm thuốc, nhưng lại nghĩ là có lẽ không nên hút ở chốn này.
Tám giờ mười lăm, đàn oocgơ trong nhà thờ bắt đầu cất lên nhè nhẹ. Rambert bước vào dưới vòm tò vò tối om. Một lúc sau, anh nhìn thấy giữa giáo đường những bóng đen vừa đi qua trước mặt. Tất cả đều tụ tập lại trong một góc, trước một thứ bàn thờ tạm thời trên đặt một bức tượng thánh Roch vừa mới vội vã làm xong ở một xưởng điêu khắc trong thành phố. Quỳ gối, những bóng đen ấy như lại càng thêm co rúm lại, tan biến đi giữa bầu không khí xám xịt, giống như những mảng bóng tối đông đặc lại, rải rác đó đây và cũng chẳng rõ nét rõ hình hơn mấy so với màn sương tù mù chúng nhấp nhô trong đó. Phía trên, mấy cây đàn oocgơ không ngừng biến tấu.
Khi Rambert bước ra thì Gonzalès đang bước xuống bậc tam cấp và đi về phía thành phố.
- Tớ tưởng là cậu đã bỏ đi rồi - Hắn nói với anh chàng nhà báo - Như thế là chuyện bình thường.
Hắn thanh minh là hắn chờ bạn theo lời hò hẹn gặp, ở gần đây thôi, lúc tám giờ kém mười. Nhưng hắn chờ mãi hai mươi phút vẫn không thấy.
- Chắc là có một sự trục trặc. Trong công việc chúng tớ, làm không phải bao giờ cũng dễ chịu.
Hắn hẹn một buổi gặp khác, ngày hôm sau, cũng vào tám giờ, trước đài tử sĩ. Rambert thở dài, hất mũ phớt ra sau gáy.
- Chẳng sao đâu - Gonzalès vừa cười vừa kết luận - Cậu cứ nghĩ một chút tới những pha phối hợp, những đợt xuống bóng và chuyền bóng trước khi ghi một bàn thắng.
- Dĩ nhiên - Rambert đáp - Nhưng trận đấu chỉ kéo dài một tiếng rưỡi thôi.
Chỉ có đài tử sĩ Oran là nằm ở nơi có thể nhìn thấy biển, tựa một nơi dạo chơi chạy dọc, trên một quãng ngắn, theo những vách đá thẳng đứng trên bến cảng. Ngày hôm sau, Rambert người đầu tiên đến chỗ hẹn, chăm chú đọc danh sách những người hy sinh ở chiến trường. Mấy phút sau, hai gã đàn ông đến gần, thờ ơ nhìn anh, rồi đến đứng chống tay vào lan can trên con đường và như dồn hết tâm trí vào việc nhìn ngắm cảnh bến cảng hoang vắng. Cả hai tầm vóc như nhau, cả hai cùng mặc quần xanh nước biển và áo tricô hải quân ngắn tay. Rambert đi xa ra chút ít, rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài, chậm rãi nhìn theo họ. Chắc hẳn họ không ngoài tuổi hai mươi. Vào lúc đó, Gonzalès tiến về phía anh và xin lỗi :
- Bạn chúng ta kia. - Hắn nói và đưa anh đến gặp hai chàng trai mà hắn giới thiệu tên là Marcel và Louis. Nhìn chính diện, hai người rất giống nhau và Rambert đoán là hai anh em.
- Đấy, - Gonzalès lại nói - bây giờ các bạn đã quen nhau. Phải thu xếp cho xong công việc đi thôi.
Marcel hay Louis, không rõ người nào, bảo là còn hai ngày nữa sẽ đến phiên họ gác trong suốt một tuần và phải chọn ngày thuận lợi nhất. Họ có cả thảy bốn người gác cửa phía tây, trong đó hai người kia là binh sĩ chuyên nghiệp. Không nên đặt vấn đề để họ tham gia vào công việc. Không có gì bảo đảm về phía họ, vả lại họ tham gia thì phải thêm chi phí. Nhưng có thể có vài tối nào đó, hai anh bạn đồng nghiệp ấy bỏ đi một lúc đến buồng sau một tiệm rượu mà họ biết rõ. Marcel hay Louis không biết người nào, bàn với Rambert đến ở nhà họ, gần cửa ô và chờ người đến tìm. Lúc đó, việc ra đi sẽ hết sức dễ dàng. Nhưng phải khẩn trương vì mới đây, có tin sẽ đặt ở mỗi cửa ô hai trạm gác.
Rambert nhận lời. Anh mời họ mấy điếu thuốc còn lại. Một trong hai người từ đầu chưa nói gì, lúc đó lên tiếng hỏi Gonzalès vấn đề phí tổn đã giải quyết chưa và họ có thể nhận tiền ứng trước không.
- Không, - Gonzalès đáp - không cần thiết, chỗ bạn bè cả mà. Lúc ra đi sẽ thanh toán.
Họ hẹn nhau một buổi gặp khác, Gonzalès đề nghị hai ngày sau sẽ gặp lại tại bữa ăn tối ở khách sạn Tây Ban Nha. Từ khách sạn, sẽ về đến nhà Marcel và Louis.
- Đêm đầu tiên, - Hắn bảo Rambert - tớ sẽ cùng đến với cậu.
Ngày hôm sau, trong lúc đi về buồng, Rambert gặp Tarrou trên cầu thang khách sạn.
- Tôi đến gặp Rieux đây, - Tarrou nói với anh - ông có cùng đến không?
- Tôi không bao giờ dám chắc là tôi không làm phiền ông ta. - Rambert đáp sau một thoáng lưỡng lự.
- Tôi không nghĩ như vậy, ông ấy nói nhiều về ông với tôi.
Anh chàng nhà báo suy nghĩ :
- Ông này, - Anh ta nói - nếu sau bữa ăn tối, các ông có rảnh một lát, dù có khuya, thì mời cả hai ông cùng đến quầy rượu khách sạn.
- Cái đó còn tùy thuộc vào ông ta và vào dịch bệnh. - Tarrou đáp.
Nhưng lúc mười một giờ đêm, Rieux và Tarrou bước vào cái quầy rượu nhỏ hẹp. Khoảng ba chục người đang chen chúc nhau và nói rất to. Từ bầu không khí im ắng của cái thành phố bị dịch hạch bước tới, hai người mới đến dừng lại, có phần choáng váng. Họ hiểu sự náo động ấy khi thấy người ta vẫn còn bán rượu. Rambert ngồi ở cuối quầy và từ trên ghế đẩu trên cao, ra hiệu cho họ. Hai người đến bên cạnh anh và Tarrou điềm tĩnh đẩy lùi một anh láng giềng ồn ào.
- Các ông không sợ rượu chứ?
- Không, - Tarrou đáp - ngược lại.
Rieux hít hít mùi thuốc đắng trong ly rượu. Khó có thể chuyện trò trong cảnh ồn ã này và hình như Rambert chỉ lo uống. Rieux chưa thể đoán là anh ta có say hay không, ở một trong hai chiếc bàn chiếm hết phần còn lại của căn buồng chật hẹp, một viên sĩ quan hải quân, mỗi bên khoác tay một thiếu phụ, kể lại với một anh chàng mập ú, mặt sung huyết, một nạn dịch sốt chấy rận ở Caire: “Người ta lập trại, ông ta nói, cho người bản xứ, với những cái lều cho người bệnh, và tứ phía, một hàng rào lính canh, bọn này bắn vào thân nhân người bệnh khi họ tìm cách lén lút mang đến những liều thuốc cổ truyền. Thật tàn nhẫn, nhưng cũng thật đúng đắn”, ở chiếc bàn thứ hai, câu chuyện của mấy chàng trai ăn mặc lịch sự, không sao hiểu được và bị chìm đi trong điệu nhạc bài Saint James Infirmary 20 tuôn ra từ một chiếc loa tăng âm treo trên cao.
- Ông có mãn nguyện không? - Rieux cất cao giọng hỏi.
- Gần đến nơi - Rambert đáp - Có lẽ trong tuần này.
- Tiếc quá! - Tarrou thốt lên.
- Sao vậy?
Tarrou nhìn Rieux.
- Ồ! - Rieux bảo - Tarrou nói vậy vì nghĩ rằng ở đây ông có thể có ích cho chúng tôi. Nhưng tôi, tôi hiểu rất rõ nguyện vọng ra đi của ông.
Tarrou mời một chầu rượu nữa. Rambert tụt xuống khỏi ghế và lần đầu tiên nhìn anh chính diện :
- Tôi có thể có ích cho các ông trong việc gì?
- Vâng, - Tarrou chậm rãi đáp trong lúc với tay cầm ly rượu - vâng, trong các tổ chức y tế của chúng tôi.
Rambert lấy lại cái vẻ suy tư bướng bỉnh vốn quen thuộc của anh và ngồi lại lên ghế đẩu.
- Ông không thấy các tổ chức y tế ấy có ích sao? - Tarrou hỏi sau khi uống cạn ly rượu và đăm đăm nhìn Rambert.
- Rất có ích. - Anh chàng nhà báo trả lời, rồi cầm ly uống.
Rieux nhận thấy tay anh ta run run. Ông nghĩ là chắc chắn, đúng, chắc chắn, anh ta say bí tỉ rồi.
Ngày hôm sau, khi lần thứ hai bước vào quán ăn Tây Ban Nha. Rambert đi giữa một đám mấy gã đàn ông đã mang ghế ra đặt trước cửa và thưởng thức một buổi chiều rực rỡ khi không khí oi ả mới bắt đầu dịu bớt. Họ hút thuốc mùi hăng hắc. Phía trong, quán ăn hầu như hoang vắng. Rambert đến ngồi ở chiếc bàn cuối phòng, nơi anh đã gặp Gonzalès lần đầu. Anh bảo cô gái hầu bàn là anh chờ bạn. Đã mười chín giờ ba mươi. Dần dà, mấy gã đàn ông trở vào phòng ăn và ngồi vào bàn. Người ta bắt đầu bày bàn và căn buồng thấp lè tè ồn ã tiếng bát đĩa và tiếng trò chuyện râm ran. Đến hai mươi giờ, Rambert vẫn chờ. Đèn bật sáng. Lại có những khách mới đến ngồi vào bàn anh. Anh gọi bữa ăn tối. Hai mươi giờ ba mươi phút, anh ăn xong vẫn không thấy Gonzalès và hai anh chàng thanh niên đâu cả. Anh hút thuốc hết điếu này sang điếu khác. Buồng ăn vắng dần. Ngoài trời, đêm xuống rất nhanh. Một làn gió ấm từ biển thổi vào nâng nhẹ các tấm riđô ở cửa lên. Hai mươi mốt giờ. Rambert thấy buồng ăn không còn một ai và cô gái hầu bàn nhìn anh, vẻ kinh ngạc. Anh trả tiền và bước ra. Trước mặt quán ăn, một tiệm cà phê còn mở cửa. Rambert ngồi trước quầy hàng và quan sát cửa vào quán ăn. Hai mươi mốt giờ ba mươi. Anh trở về khách sạn, không có cách nào tìm gặp được Gonzalès vì không có địa chỉ, lòng bối rối khi nghĩ đến việc phải làm mọi cái từ đầu.
Chính vào lúc đó, khi trong đêm tối chỉ có những chiếc xe cứu thương lướt qua, anh nhận thấy, như anh sẽ thổ lộ với bác sĩ Rieux, là trong suốt thời kỳ này, có thể nói anh đã lãng quên vợ để hoàn toàn dấn mình vào việc tìm kiếm một lối thoát qua những bức tường ngăn cách giữa hai người. Nhưng cũng chính vào lúc đó, khi mọi con đường đã bị bịt kín, anh lại thấy hình ảnh nàng rạo rực trong tim và đột nhiên đau đớn nhức nhối, anh vội vã chạy về khách sạn mong trốn thoát vết thương lòng khốc liệt, tuy anh vẫn phải mang nó theo trong người và nó đốt cháy hai bên thái dương anh.
Tuy vậy, ngày hôm sau, mới sáng tinh mơ, anh đã đến gặp Rieux hỏi xem làm thế nào để tìm Cottard :
- Tất cả những việc tôi vẫn tiếp tục phải làm, - Anh nói - là lại lần theo đường dây.
- Tối mai, mời ông đến. - Rieux bảo - Tarrou yêu cầu tôi mời Cottard, tôi không hiểu vì sao. Ông ta sẽ đến lúc mười giờ. Mời ông có mặt lúc mười rưỡi.
Hôm sau, khi Cottard đến nhà bác sĩ, thì Tarrou và Rieux đang nói về một ca khỏi bệnh bất ngờ trong cơ quan Rieux.
- Một trên mười. Người bệnh gặp may. - Tarrou nói.
- A! - Cottard lên tiếng - Đâu có phải dịch hạch.
Họ cam đoan với hắn là dịch hạch.
- Không thể là dịch hạch khi người bệnh được chữa khỏi. Dịch hạch không tha một ai hết, các ông hẳn cùng biết như tôi.
- Nói chung thì không - Rieux đáp - Nhưng nếu kiên trì thì có khi có thể có những sự bất ngờ.
Cottard cười :
- Có thấy có đâu. Các ông đã nghe những con số tối nay rồi chứ?
Nhìn anh chàng thực lợi với một thái độ khoan dung, Tarrou đáp là anh biết những con số, là tình hình hiện nay nghiêm trọng nhưng điều đó chứng minh cái gì? Nó chứng minh rằng cần có những biện pháp đặc biệt hơn nữa.
- Ồ! Những biện pháp ấy, các ông đã thi hành cả rồi kia mà.
- Đúng, nhưng mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về những biện pháp ấy.
Cottard nhìn Tarrou, không hiểu anh muốn nói gì. Anh bèn bảo là có quá nhiều người ngồi không, là dịch bệnh là công việc của mọi người và mỗi người phải làm nghĩa vụ của mình. Các tổ chức y tế mở cửa đón tất cả mọi người.
- Đấy là một quan niệm, - Cottard đáp - nhưng chẳng có lợi ích gì hết. Dịch hạch có sức mạnh ghê gớm.
- Chúng ta sẽ rõ, - Tarrou kiên nhẫn nói - khi chúng ta đã cố tìm hết mọi cách.
Trong lúc đó, Rieux ngồi ở bàn chép lại các tờ phiếu, Tarrou vẫn nhìn anh chàng thực lợi cựa quậy trên ghế.
- Vì sao ông không đến với chúng tôi, ông Cottard?
Hắn liền đứng dậy, vẻ tự ái, tay cầm chiếc mũ tròn :
- Không phải nghề nghiệp của tôi!
Rồi, với một giọng khoác lác :
- Vả chăng tôi, tôi thấy mình vẫn yên ổn trong khi có dịch hạch, và tôi không thấy vì sao tôi lại phải dính vào cái việc ngăn chặn nó lại.
Tarrou vỗ vỗ trán như thể được một chân lý đột ngột soi sáng :
- A! Đúng rồi, tôi quên, không có thế thì ông đã bị bắt rồi.
Cottard giật nảy người lên và bíu chặt lấy ghế như sắp bị ngã. Rieux ngừng viết và nhìn hắn với vẻ nghiêm túc và chăm chú.
- Ai bảo ông thế? - Hắn kêu lên.
Tarrou tỏ vẻ ngạc nhiên và đáp :
- Chính ông. Hoặc chí ít, bác sĩ và tôi, chúng tôi hiểu như vậy.
Và thấy Cottard bỗng nhiên như lên một cơn điên dại quá sức chịu đựng của hắn và lầm bầm những lời lẽ không đâu vào đâu. Tarrou nói thêm :
- Ông đừng bực bõ. Không phải bác sĩ hay tôi là người tố cáo ông đâu. Chuyện của ông không dính dáng gì tới chúng tôi. Vả lại, chúng tôi chẳng bao giờ ưa cảnh sát cả. Thôi, ông hãy ngồi xuống.
Ngập ngừng một lát, anh chàng thực lợi nhìn chiếc ghế và ngồi xuống. Một lúc sau, hắn thở dài.
- Đấy là một chuyện cũ, - Hắn thừa nhận - mà họ bới móc trở lại. Tôi nghĩ là nó đã được bỏ qua. Nhưng có một ai đó đã nhắc lại. Họ cho gọi tôi tới và bảo tôi sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của họ cho đến khi kết thúc cuộc điều tra. Tôi hiểu là cuối cùng họ sẽ tóm cổ tôi.
- Nghiêm trọng à? - Tarrou hỏi.
- Cái đó còn tùy theo cách ông hiểu. Nhưng dẫu sao thì cũng không phải là một vụ giết người.
- Phạt tù hay khổ sai?
Cottard tỏ ra rất rầu rĩ :
- Phạt tù, nếu tôi gặp may...
Nhưng một lúc sau, hắn nói tiếp, vẻ hung hăng :
- Một sự lầm lẫn thôi. Ai lại chẳng lầm lẫn. Và tôi không sao chịu nổi cái ý nghĩ lại bị bắt đi vì cái đó, bị xa cách nhà cửa, phải rời bỏ thói quen, cách biệt tất cả những người quen thuộc.
- A! Chính vì thế mà ông đã đặt ra cái chuyện thắt cổ? - Tarrou hỏi.
- Đúng, một sự dại dột, quả là như thế.
Lần đầu tiên, Rieux cất tiếng và bảo Cottard là ông hiểu nỗi lo lắng của hắn, nhưng có thể mọi thứ sẽ được thu xếp ổn thỏa.
- Ồ! lúc này, tôi biết là tôi chẳng có gì phải sợ hết.
- Tôi thấy rồi, - Tarrou nói - ông sẽ chẳng tham gia các tổ chức của chúng tôi đâu.
Xoay xoay chiếc mũ trong tay, Cottard ngước lên Tarrou một ánh mắt ngập ngừng :
- Không nên giận tôi.
- Chắc chắn là không. Nhưng ít nhất, - Tarrou vừa mỉm cười vừa nói - ông cũng đừng tìm cách cố tình gieo rắc vi trùng đấy.
Cottard thanh minh là hắn không muốn có dịch hạch, là dịch hạch tự nhiên mà đến và không phải lỗi của hắn nếu lúc này dịch hạch khiến cho công việc của hắn được thu xếp ổn thỏa. Và khi Rambert bước tới ngoài cửa, thì Cottard nói thêm, giọng hết sức quả quyết :
- Vả lại, tôi nghĩ rằng các ông chẳng đi tới đâu cả.
Rambert được biết là Cottard không rõ địa chỉ của Gonzalès, nhưng anh vẫn có thể trở lại tiệm cà phê. Họ hẹn gặp nhau ngày mai. Và khi Rieux tỏ ý muốn được biết tình hình, Rambert mời ông cùng với Tarrou đến buồng anh cuối tuần vào bất kỳ giờ nào buổi tối.
Sáng hôm sau, Cottard và Rambert đến tiệm cà phê và để lại giấy hẹn Garcia tối hôm đó, hoặc ngày hôm sau nếu hắn bận. Tối đến, họ chờ hắn, nhưng không gặp. Hôm sau, Garcia tới. Hắn im lặng nghe Rambert kể lại tình hình. Hắn không nắm được sự thể, nhưng có biết là người ta đã đóng cửa từng khu phố trọn vẹn để tiến hành kiểm tra tại chỗ trong hai mươi bốn tiếng. Có thể Gonzalès và hai gã thanh niên không vượt qua được trạm kiểm soát. Nhưng hắn chỉ có thể một lần nữa tổ chức cho họ gặp lại Raoul. Dĩ nhiên, không thể trước hai ngày.
- Tôi thấy, - Rambert nói - phải làm lại từ đầu.
Hai ngày sau, ở một góc phố, Raoul khẳng định giả thuyết của Garcia: những khu phố phía cuối thành phố đều bị cấm cửa. Phải gặp lại Gonzalès. Hai ngày sau nữa, Rambert ăn tối với tay cầu thủ bóng đá.
- Thật là ngốc - Hắn nói - Nhẽ ra phải thỏa thuận về cách gặp lại nhau.
Rambert cũng nghĩ như vậy.
- Sáng mai, chúng ta sẽ đến nhà hai thằng nhỏ, chúng ta sẽ cố gắng thu xếp cho xong.
Ngày hôm sau, hai thằng nhỏ không có nhà.
Gonzalès viết giấy để lại, hẹn gặp họ mười hai giờ trưa hôm sau, tại quảng trường trường trung học. Và Rambert trở về khách sạn. Nét mặt anh làm Tarrou ngạc nhiên khi gặp anh buổi chiều hôm đó.
- Không ổn phải không? - Tarrou hỏi anh.
- Vì phải cố gắng làm lại từ đầu. - Rambert đáp.
Và lại mời Tarrou lần nữa :
- Mời các ông tới tối nay.
Buổi tối, khi Rieux và Tarrou bước vào phòng Rambert thì anh ta đang nằm dài. Anh đứng dậy, rót đầy rượu vào cốc đã chuẩn bị sẵn. Tay cầm ly rượu, Rieux hỏi anh đã tìm đúng đường chưa. Anh chàng nhà báo đáp là anh phải làm lại một vòng hoàn chỉnh, phải trở lại điểm xuất phát ban đầu, và nay mai sẽ có buổi hẹn gặp cuối cùng. Anh ta uống và nói thêm :
- Dĩ nhiên, họ sẽ không tới.
- Không nên làm thành một nguyên tắc. - Tarrou bảo.
- Ông chưa hiểu. - Rambert đáp và nhún vai.
- Cái gì vậy?
- Dịch hạch.
- A! - Rieux thốt lên.
- Không, ông không hiểu rằng vấn đề là phải bắt đầu lại.
Rambert bước đến một góc buồng và mở nắp một chiếc máy hát nhỏ.
- Đĩa hát gì thế? - Tarrou hỏi - Tôi biết rồi đấy.
Rambert đáp là bài hát Saint James Infirmary.
Đĩa hát vừa quay được một nửa thì bỗng nghe hai tiếng súng vang lên từ xa.
- Chắc bắn chó hay bắn theo người bỏ trốn. - Tarrou lên tiếng.
Một lát sau, đĩa hát quay hết vòng và tiếng còi một chiếc xe cứu thương nổi lên, lớn dần, nghe rõ phía ngoài cửa sổ khách sạn, bé đi rồi tắt hẳn.
- Bài hát ấy thật ảo não - Rambert nói - Thế mà đến hôm nay, tôi đã nghe tới lần thứ mười.
- Ông thích nó đến thế kia à?
- Không, nhưng tôi chỉ có cái đĩa ấy thôi.
Và một lát sau :
- Tôi xin nói là phải bắt đầu trở lại.
Anh hỏi Rieux tình hình các tổ chức y tế hoạt động ra sao. Có năm kíp làm việc. Họ hy vọng tổ chức những kíp khác. Anh chàng nhà báo ngồi xuống giường và như chăm chú về mấy cái móng tay của mình. Rieux ngắm cái bóng ngắn và lực lưỡng của anh thu lu lại trên mép giường. Bỗng nhiên ông cảm thấy Rambert nhìn mình.
- Bác sĩ biết đấy, - Anh nói - tôi nghĩ nhiều tới tổ chức của các ông. Sở dĩ tôi không tham gia cùng các ông, là vì tôi có những lý do riêng. Ngoài ra, tôi nghĩ là tôi có thể làm hết sức mình, tôi đã tham gia chiến tranh ở Tây Ban Nha.
- Ở phía nào? - Tarrou hỏi.
- Phía những người bại trận. Nhưng từ đó, tôi có suy nghĩ chút đỉnh.
- Suy nghĩ về cái gì? - Tarrou lại hỏi.
- Về lòng dũng cảm. Giờ đây, tôi hiểu là con người có thể có những hành động cao cả. Nhưng nếu ai đó không thể có một tình cảm lớn, thì tôi không lưu tâm tới anh ta.
- Tôi có cảm tưởng là con người có thể làm tất cả mọi cái. - Tarrou nói.
- Không, con người không thể đau khổ hay sung sướng mãi. Vì vậy không thể làm nên trò trống gì cả.
Anh nhìn hai người, rồi hỏi tiếp :
- Thế nào, ông Tarrou, ông có thể chết vì một tình yêu được không?
- Tôi không rõ, nhưng bây giờ thì có lẽ không.
- Thế đấy. Và ông có thể chết vì một ý tưởng, điều đó rõ như ban ngày. Còn tôi, tôi chán lắm rồi những người chết vì một ý tưởng. Tôi không tin chủ nghĩa anh hùng, tôi biết cái đó là dễ và tôi hiểu là nó làm chết người. Cái mà tôi quan tâm, là ở chỗ người ta được sống và người ta được chết vì cái người ta yêu.
Rieux chăm chú lắng nghe anh chàng nhà báo. Vẫn không ngớt nhìn anh, ông khẽ khàng nói :
- Con người không phải là một ý tưởng, ông Rambert ạ.
Anh chàng nhà báo nhảy từ trên giường xuống, nét mặt bừng bừng một ngọn lửa say mê :
- Con người là một ý tưởng, một ý tưởng ngắn ngủi, từ khi nó quay lưng lại tình yêu. Và đúng là chúng ta không còn có thể yêu. Chúng ta hãy nhẫn nhục, thưa bác sĩ. Chúng ta hãy chờ tới lúc có thể yêu và nếu quả thật không thể được, thì chúng ta hãy chờ sự giải thoát chung mà không chơi cái trò anh hùng. Tôi, tôi không đi xa hơn.
Rieux đứng dậy, vẻ mệt mỏi đột ngột.
- Ông có lý, ông Rambert ạ, hoàn toàn có lý, và tôi không muốn, vì bất cứ cái gì trên đời này, khuyên ông không làm cái điều ông sắp làm, cái điều tôi cho là đúng và tốt. Nhưng tôi vẫn phải nói với ông là không có vấn đề anh hùng trong tất cả cái này. Mà là vấn đề trung thực. Ý tưởng này có thể làm người ta buồn cười đấy, nhưng cách duy nhất để chống lại dịch hạch, là lòng trung thực.
- Lòng trung thực là cái gì? - Rambert hỏi, vẻ bỗng nhiên trở nên nghiêm túc.
- Tôi không rõ nói chung nó là cái gì. Nhưng trong trường hợp của tôi, tôi biết lòng trung thực là ở chỗ làm nghề nghiệp của mình.
- A! - Rambert giận dữ nói - Tôi không biết nghề của tôi là nghề gì. Phải chăng tôi đã lầm lẫn trong lúc chọn tình yêu?
Rieux ngoảnh mặt về phía anh, cao giọng nói :
- Không, ông không lầm lẫn.
Rambert nhìn hai người, vẻ suy tư.
- Hai ông, tôi nghĩ là hai ông không có gì phải mất trong tất cả cái đó. Như thế, dễ đứng về phía tốt hơn.
Rieux uống cạn ly rượu.
- Thôi ta đi, - Ông nói - chúng tôi có việc.
Ông bước ra cửa.
Tarrou bước theo ông, nhưng ra tới cửa, lại hình như thay đổi ý kiến, quay lại phía anh chàng nhà báo và nói :
- Ông có biết là bà vợ Rieux đang ở một nhà dưỡng bệnh cách đây mấy trăm cây số không?
Rambert phác một cử chỉ ngạc nhiên nhưng Tarrou đã đi ra.
Hôm sau, mới sáng sớm, Rambert đã gọi điện cho bác sĩ Rieux :
- Ông có nhận tôi làm việc với ông cho tới khi tôi tìm được cách ra khỏi thành phố không?
Đầu dây bên kia, im lặng một lát, và sau đó :
- Có, ông Rambert ạ. Cảm ơn ông.
--------------------------------
1. Nguyên văn: Ngôn ngữ chợ búa.
2. Người Bắc Phi.
3. Roch (1295 - 1327) là một người Pháp được Giáo hội phong thánh. Theo truyền thuyết, ông tận tụy chăm sóc những nạn nhân dịch hạch, bản thân bị lây nhiễm và nằm ở một nơi xa vắng nhưng được một con chó phát hiện và người chủ con vật cứu sống.
4. Augustin (354 - 430), nhà thần học, triết học và đạo đức học, người tu sĩ nổi tiếng nhất của Giáo hội Cơ Đốc giáo.
5. Văn bản trong tập hai kinh Cựu Ước, nhà vua và nhân dân Ai Cập chống lại Thượng đế nên bị giáng bệnh dịch hạch.
6. La légende dores sưu tập về cuộc đời các vị thánh, được biên soạn vào thế kỷ XIII.
7. Thủ đô và thành phố Italia.
8. Con cả của Adam và Eva (thủy tổ loài người) đã giết chết em.
9. Hai thành phố cổ ở Palestine bị lửa trời đốt cháy (theo Kinh Thánh).
10. Pharaon: tên gọi các vua Ai Cập cổ đại. Job: một nhân vật trong Kinh Thánh bị Chúa trời đày đọa vẫn hôn bàn tay Chúa.
11. Tên gọi ngày trước của nước Ethiopia.
12. Lý lịch (tiếng La Tinh).
13. Những nơi tắm biển ở Pháp trên bờ Địa Trung Hải.
14. Những nơi tắm biển ở Pháp trên bờ Địa Trung Hải.
15. Cung điện nổi tiếng ở Paris.
16. Điện thờ danh nhân ở Pháp.
17. Trong nguyên văn, có ba từ chỉ sự sở thuộc de, du, de (... pleines de jleurs du bois de Boullogne) mà tiếng Việt chỉ cần và chỉ có thể dịch là... đầy hoa trong rừng Boulogne.
18. Do đặc điểm cấu trúc ngữ pháp khác nhau giữa câu tiếng Pháp và câu tiếng Việt, nên ở đây không thể thể hiện từng chi tiết một ý của tác giả. Theo cấu trúc Pháp, “những lối đi đầy hoa trong rừng Boulogne” (les allées pleines de fleurs du Bois de Boulogne) chỉ rõ lối đi là của rừng Boulogne; còn nếu viết “những lối đi đầy hoa trong rừng” (les allees pleines de Aeurs du Bois) thì người đọc có thể hiểu là hoa của rừng. Tóm lại, tác giả câu văn muốn nói là lối đi của rừng, chứ không phải là hoa của rừng.
19. Tức là đặt “Rừng” (Bois) giữa danh từ “lối đi” (allées) và hình dung từ “đầy” (pleines) (Les allées/ du Bois/ pleines de fleurs), trong lúc chính là “lối đi đầy hoa”.
20. Bài hát Bệnh viện thánh James của người Anh.