Truyện dịch Dịch Hạch (La Peste) - Albert Camus

Thứ Năm, 09 Tháng Tư, 2020

Chương IV Dịch Hạch (La Peste) - Albert Camus

Chương IV

Trong tháng Chín và tháng Mười, dịch hạch làm cho thành phố như cuộn mình lại. Nếu nói tới những tiếng giẫm chân, thì hàng trăm nghìn con người vẫn tiếp tục giẫm chân, hết tuần này qua tuần khác. Sương mù, nắng và mưa kế tiếp nhau trên bầu trời. Từng đàn sáo sậu và họa mi, từ phương nam tới, lặng lẽ bay tít trên cao nhưng lượn quanh thành phố, như thể chiếc néo đập lúa của Paneloux - cái mảnh gỗ kỳ cục vừa quay tròn vừa rít lên trên các mái nhà - xua đuổi chúng. Vào đầu tháng mười, những trận mưa rào dội sạch các ngả đường. Và trong suốt thời kỳ này, không có gì xảy ra quan trọng hơn là cái tiếng giẫm chân khổng lồ ấy.

Rieux và bè bạn nhận thấy mình mệt mỏi không biết chừng nào. Thực tế, những người trong các tổ chức y tế không sao có thể tiêu hóa nỗi mệt nhọc ấy nữa. Bác sĩ Rieux nhận ra điều đó khi ông quan sát thấy ở bè bạn và ở chính bản thân mình một thái độ thờ ơ kỳ lạ ngày một tiến triển. Chẳng hạn, có những con người cho tới nay, sốt sắng biết bao nhiêu đối với những tin tức dính dáng đến dịch hạch như bây giờ không còn thiết tha gì nữa hết. Rambert, tạm thời phụ trách một cơ sở cách ly kiểm dịch, đặt trước đây ít lâu trong khách sạn, biết rất rõ con số những người anh theo dõi. Anh nắm được những chi tiết nhỏ nhặt nhất của hệ thống do anh tổ chức để phân tán tức khắc những người đột nhiên có những dấu hiệu dịch bệnh. Anh nhớ như in những người bị cách ly kiểm dịch. Nhưng anh không thể nói được con số tử vong hàng tuần vì dịch hạch, thực sự anh không biết dịch bệnh tăng hay giảm. Riêng anh, dẫu sao, anh vẫn giữ hy vọng nay mai sẽ có dịp ra khỏi thành phố.

Những người khác thì túi bụi công việc ngày đêm, không còn đọc báo, nghe đài nữa. Và nếu được thông báo một kết quả, thì họ làm ra vẻ quan tâm, nhưng thực tế, họ tiếp nhận nó với thái độ hững hờ của các chiến binh trong những cuộc đại chiến, kiệt sức vì công việc, chỉ lo làm sao không sai sót trong bổn phận hằng ngày, chứ không hy vọng gì nữa, dù là một chiến trận quyết định hay ngày đình chiến.

Tiếp tục làm những con tính do dịch hạch buộc phải làm, chắc chắn Grand không thể nêu lên những kết quả tổng quát. Trái ngược với Tarrou, Rambert và Rieux là những người chịu đựng được vất vả, sức khỏe anh không bao giờ tốt cả. Thế mà ngoài công việc phụ tá ở tòa thị chính và công việc thư ký ở cơ quan Rieux, anh còn làm việc riêng của mình ban đêm. Anh luôn luôn ở trong trạng thái kiệt sức, nhưng được động viên bởi vài ba ý nghĩ cố định, như sau khi dịch hạch chấm dứt, đi nghỉ hoàn toàn ít ra cũng một tuần lễ, và lúc đó, làm thật tích cực công việc hiện anh đang làm dở dang khiến người ta phải “bái phục”. Anh cũng có những cảm xúc đột ngột, và những lúc đó, anh sẵn sàng nói với Rieux về Jeanne, băn khoăn không biết nàng đang ở đâu vào lúc này, và nếu đọc báo, nàng có nghĩ tới mình hay không. Một hôm, Rieux bất giác nói với anh về vợ ông, với một giọng tẻ ngắt, điều trước đây ông chưa hề làm. Không tin những bức điện bao giờ cũng trấn an của vợ, ông quyết định đánh điện cho bác sĩ trưởng nhà dưỡng bệnh. Ông được báo tình trạng bà Rieux trầm trọng thêm và người ta sẽ làm mọi cái để không cho bệnh tiến triển. Giữ kín mãi tin đó, giờ đây, ông không giải thích nổi vì sao, nếu không phải vì mệt nhọc, ông lại đem tâm sự với Grand. Sau khi nói về Jeanne, anh chàng nhân viên thị chính hỏi ông về bà Rieux và ông đã trả lời “Ông biết đấy, - Grand nói - bây giờ, bệnh đó rất dễ chữa”. Rieux tán thành và chỉ nói là ông bắt đầu cảm thấy cảnh xa cách đã kéo quá dài và nhẽ ra ông có thể giúp vợ chiến thắng bệnh tật trong lúc hiện nay, bà ấy chắc cảm thấy mình hoàn toàn cô đơn. Rồi ông lặng im, chỉ trả lời qua quít những câu hỏi của Grand.

Những người khác cũng trong cùng một tình trạng. Tarrou chống đỡ tốt hơn, nhưng những điều ghi chép trong sổ tay cho thấy sự tìm tòi của anh không còn đa dạng như trước, tuy vẫn giữ nguyên chiều sâu. Rõ ràng trong suốt thời kỳ này, anh chỉ còn chú ý tới Cottard. Buổi tối, ở nhà Rieux mà anh đến ở từ khi khách sạn biến thành nhà cách ly kiểm dịch, hầu như anh không còn lắng nghe bác sĩ hay Grand báo tin kết quả nữa. Anh vội lái câu chuyện về những chi tiết nhỏ nhặt thường khiến anh quan tâm trong đời sống ở Oran.

Castel đến báo cho bác sĩ Rieux biết huyết thanh đã sẵn sàng, và hai người quyết định làm cuộc thử nghiệm đầu tiên trên người thằng bé con trai mà ông Othon vừa đưa tới bệnh viện và Rieux cho là một ca tuyệt vọng. Đang nói lại với Castel những con số thống kê cuối cùng, Rieux bỗng nhận thấy người đối thoại của mình đã ngủ say sưa ngay trong ghế bành. Và Rieux cảm thấy cổ họng thắt lại trước khuôn mặt Castel vốn như mãi mãi trẻ trung vì vẻ dịu hiền và châm biếm nhưng nay bỗng nhiên bơ phờ, để lộ sự tàn tạ và già nua, một dải nước bọt giữa đôi môi hé mở.

Rieux đoán biết mình mệt mỏi qua những biểu hiện mềm yếu như thế. Khả năng nhạy cảm của ông không còn nữa. Vốn yếu ớt, nay lại khô cứng và cằn cỗi đi, nó dần dần tiêu tan và phó mặc ông cho những cảm xúc ông không còn tự chủ nổi. Cách tự vệ duy nhất của ông là ẩn náu vào sự cứng rắn ấy và thắt chặt thêm nút dây đã hình thành trong ông. Ông biết rất rõ đây là một cách tốt để tiếp tục công việc. Ngoài ra, ông không có nhiều ảo tưởng, và những ảo tưởng ông còn giữ được, thì sự mệt mỏi cũng làm tiêu tan nốt. Vì ông biết là trong một thời kỳ mà ông không rõ bao giờ kết thúc, mình không còn vai trò chữa bệnh nữa, mà chỉ còn nhiệm vụ chẩn đoán. Phát hiện, xem xét, miêu tả, ghi nhận rồi kết luận, nhiệm vụ của ông chỉ có thế. Có những người vợ nắm cổ tay ông và gào lên: “Bác sĩ ơi! Cứu sống lấy anh ấy!”. Nhưng ông đến không phải để cứu sống, mà là để ra lệnh cách ly. Có khi căm hờn hiện trên các khuôn mặt, nhưng để làm gì? “Ông không có trái tim!”, một hôm, người ta bảo ông như thế. Có chứ, ông có một trái tim. Nó giúp ông chịu đựng mỗi ngày hai mươi tiếng đồng hồ chứng kiến cái chết của những con người sinh ra để sống. Nó giúp ông ngày nào cũng làm đi làm lại chừng ấy công việc. Từ nay, ông chỉ có đủ trái tim cho việc đó. Làm sao trái tim ấy lại có thể đủ để đem lại cuộc sống?

Không, suốt ngày, ông không phân phát những sự cứu trợ, mà là những tin tức. Dĩ nhiên, cái đó không thể gọi là một nghề nghiệp của con người.

Nhưng chung quy, trong cái đám người bị khủng bố và chết chóc này, người ta đã dành cho ai cơ hội làm cái nghề con người của mình? May sao ông thấy trong người mệt mỏi. Giá Rieux còn sung sức hơn, thì mùi xác chết lan tràn khắp nơi có thể khiến ông đa sầu đa cảm. Sự vật tồn tại như thế nào thì người ta cảm nhận chúng như thế ấy, nghĩa là một cách công bằng, một sự công bằng gớm ghiếc và vô nghĩa. Và những người khác, những người bị dịch bệnh, cũng cảm thấy rõ điều đó. Trước khi có dịch hạch, người ta đón tiếp Rieux như một vị cứu tinh. Với ba viên thuốc và một mũi tiêm, mọi việc sẽ đâu vào đó, và người ta dắt tay ông đưa đi dọc hàng lang. Thật thú vị nhưng cũng thật nguy hiểm. Trái lại, giờ đây, ông đến cùng với binh lính và phải dùng báng súng đập cửa thì gia đình người bệnh mới chịu mở. Họ những muốn kéo ông và kéo cả loài người cùng chết với họ. A! quả là con người không thể cần đến con người, quả là ông cũng trần trụi như những kẻ khốn khổ này và, cũng như họ, đáng được thương xót, nỗi thương xót ngày một dâng lên trong lòng mỗi khi ông chia tay họ.

Những ý nghĩ ấy, ít ra cũng trong những tuần lễ đằng đẵng này, lẫn lộn trong đầu óc Rieux với những ý nghĩ về tình cảnh chia ly của bản thân mình. Và đó cũng là những ý nghĩ ông đọc thấy phảng phất trên nét mặt bè bạn. Dần dà, trong cuộc chiến đấu chống mối tai họa này, những người đứng vững trên trận tuyến đều kiệt sức và đâm ra hờ hững đối với những sự kiện bên ngoài và đối với cảm xúc của người khác. Nhưng nguy hại hơn cả là cái lối cẩu thả, buông trôi của mọi người vì kiệt sức. Người ta muốn tránh mọi cử chỉ không thật cần thiết, người ta thấy chúng bao giờ cũng vượt quá sức mình. Họ ngày càng lơ là những quy tắc vệ sinh do chính mình đặt ra, bỏ qua một vài sự tẩy uế họ phải thực hiện đối với bản thân mình, và đôi khi chạy đến với người bị dịch hạch đường phổi mà không hề được dự phòng chống lây nhiễm. Đến phút cuối cùng mới được báo phải có mặt ở những nơi bị nhiễm dịch, họ thấy không còn đủ sức trở về nhỏ thuốc phòng bệnh. Hiểm họa thực sự là ở đó, vì chính bản thân cuộc chiến đấu chống dịch hạch khiến họ là những người dễ bị dịch hạch quật ngã hơn hết. Tóm lại, họ đánh cược với sự may rủi, và may rủi thì không thuộc về ai hết.

Thế nhưng trong thành phố lại có kẻ không tỏ ra mệt mỏi, chán nản và vẫn là hình ảnh sống động của sự thỏa mãn. Kẻ đó là Cottard. Hắn tiếp tục tự tách riêng mình ra trong lúc vẫn duy trì quan hệ với những người khác. Nhưng hễ công việc của Tarrou cho phép là hắn tìm gặp anh, phần vì anh biết rõ hoàn cảnh của hắn, phần vì bao giờ anh cũng thân tình đón tiếp hắn. Quả là một điều kỳ diệu không hề suy suyển. Và dù bận rộn đến mấy, Tarrou trước sau vẫn khoan hòa và chu đáo. Thậm chí một vài tối có mệt đến rã rời đi nữa thì ngày hôm sau, anh lại vẫn vươn lên với một nghị lực mới. “Với Tarrou thì có thể chuyện trò được, vì anh ta là một con người. Bao giờ anh cũng hiểu người ta”, đó là lời Cottard thổ lộ với Rambert.

Vì vậy, vào thời kỳ này, những điều ghi chép của Tarrou dần dần tập trung vào nhân vật Cottard. Anh cố vẽ lên bức tranh những sự phản ứng và những luồng suy nghĩ của Cottard, theo lời hắn tâm tình với anh hay theo cách lý giải của anh. Dưới đề mục “Quan hệ giữa Cottard và dịch hạch”, bức tranh này chiếm mấy trang sổ tay của Tarrou và ở đây người kể chuyện thấy cần nói qua vài nét. Nhận định tổng quát của Tarrou về anh chàng sống với chú ít lợi tức này thâu tóm trong lời xét đoán sau: “Đấy là một nhân vật đang lớn lên”. Vả lại, rõ ràng hắn đang lớn lên trong vẻ vui tươi. Hắn không bất bình với các diễn biến tình hình. Đôi khi, trước mặt Tarrou, hắn thổ lộ chiều sâu tâm tưởng của mình với những nhận xét kiểu: “Dĩ nhiên, tình hình không tốt hơn. Nhưng ít ra, ai cũng bị dính vào cuộc cả”.

“Dĩ nhiên, Tarrou viết thêm, hắn cũng bị uy hiếp như những người khác, nhưng đúng ra hắn bị uy hiếp cùng với những người khác. Vả lại, hắn không thật sự nghĩ - tôi chắc như vậy - là hắn có thể bị dịch hạch. Hắn có vẻ sống với cái ý nghĩ - không đến nỗi ngu ngốc - là không một người đang làm mồi cho một bệnh nặng hay một nỗi lo âu sâu sắc, thì người đó cùng một lúc được miễn trừ mọi bệnh tật hay nỗi lo âu khác. Ông có chú ý, hắn bảo tôi, là người ta không thể cùng một lúc mắc nhiều bệnh được không? Giả sử ông bị một bệnh nặng hay một bệnh không thể chữa khỏi một ca căngxe nghiêm trọng hay lao chẳng hạn, thì ông sẽ không bao giờ bị dịch hạch hay sốt chấy rận, dứt khoát là như vậy. Vả lại, còn xa hơn thế nữa kia, bởi vì chưa bao giờ ông thấy một người bị căngxe chết về tai nạn ô-tô” Dù đúng, dù sai, ý nghĩ đó cũng làm cho Cottard vui vẻ. Điều duy nhất hắn không muốn, là phải cách biệt người khác. Hắn muốn thà bị bao vây cùng với tất cả mọi người còn hơn là bị cầm tù một mình. Khi có dịch hạch, thì không còn vấn đề điều tra bí mật, hồ sơ, phiếu theo dõi, thẩm vấn kín và bắt giam ngay tức thì. Nói đúng ra, không còn có cảnh sát, không còn những tội phạm cũ hay mới, không còn những kẻ phạm pháp, chỉ còn những người bị kết án đang chờ lệnh ân xá hết sức độc đoán, và trong những người đó, có cả bản thân bọn cảnh sát nữa. “Thế đấy, và vẫn theo cách lý giải của Tarrou, Cottard có cơ sở để nhìn những dấu hiệu kinh hoàng và bối rối của đồng bào chúng tôi với cái vẻ thỏa mãn rộng lượng và thông cảm mà chúng ta có thể diễn tả bằng câu: ‘Các anh cứ nói đi, tôi biết cái đó trước các anh cơ’.

Tôi bảo hắn cách duy nhất để khỏi bị tách biệt khỏi người khác, xét cho cùng, là có một lương tâm trong sạch, nhưng hắn không nghe, hắn nhìn tôi một cách dữ tợn và nói: ‘Nếu thế thì không bao giờ ai ở với ai cả’. Rồi lại nói tiếp: ‘Thế đấy, tôi xin nói với ông như vậy. Cách duy nhất để làm người ta sát cánh bên nhau, là lại đem dịch hạch đến cho họ. Ông hãy nhìn xung quanh xem’. Và thực ra, tôi hiểu lắm hắn muốn nói gì, hiểu lắm cuộc sống hôm nay đối với hắn hạnh phúc biết chừng nào. Làm sao hắn lại không nhận biết lúc đó những sự phản ứng vốn là của bản thân hắn; sự cố gắng của mỗi người để có tất cả mọi người với mình; sự ân cần trong khi chỉ dẫn cho một người khách lạc đường lúc này và nỗi bực bội đối với người đó những lần khác; thái độ vội vã của những kẻ đổ xô tới những khách sạn sang trọng, lòng mãn nguyện của họ được đến và được lưu lại ở đấy; sự chen chúc lộn xộn của những kẻ hằng ngày nối đuôi nhau trước các rạp chiếu bóng, ùa vào đông nghịt trong mọi rạp hát và cả các tiệm nhảy, tràn ra như một triều nước vỡ bờ ở mọi nơi công cộng; sự trốn tránh mọi tiếp xúc, nỗi thèm khát thịt da con người đẩy người này tới người khác, cùi tay này tới cùi tay nọ, và giới này tới giới kia? Cottard biết tất cả cái đó trước họ, đó là điều hiển nhiên. Trừ phụ nữ, bởi vì với đầu óc hắn... Và tôi nghĩ là khi hắn soạn sửa đến với một cô gái, thì hắn lại khước từ, để khỏi có một cách ứng xử không hay, sau này có thể làm hại hắn.

Tóm lại, hắn thành công với dịch hạch. Dịch hạch làm cho hắn từ kẻ cô đơn và không muốn cô đơn, trở thành một kẻ đồng lõa. Vĩ rõ ràng hắn là một kẻ đồng lõa và là một kẻ đồng lõa khoái trá. Hắn đồng lõa với mọi thứ hắn nhìn thấy: những sự mê tín, những nỗi sợ hãi không chính đáng, những cơn hờn giận của những tâm hồn khủng hoảng; thói tật của những con người muốn hết sức ít nói tới dịch hạch nhưng lại luôn luôn nói tới; thái độ hoảng hốt và da mặt tái xanh tái nhợt của họ mỗi lúc hơi có chút đau đầu từ khi họ biết dịch hạch bắt đầu bằng những cơn đau đầu; cuối cùng là tính tình dễ bị kích động, nhạy cảm, bấp bênh, sẵn sàng cho những sự lãng quên là một điều xúc phạm và mất một chiếc khuy quần lót cũng lấy làm phiền muộn”.

Tarrou thường đi dạo buổi tối với Cottard. Về sau, anh kể lại trong sổ tay là họ đã hòa lẫn vào trong đám đông âm thầm những buổi hoàng hôn hay những đêm tối như thế nào, vai kề vai, ngụp lặn trong một cái khối trắng lẫn đen, thỉnh thoảng một bóng đèn lại rọi một vài điểm sáng hiếm hoi, và đi theo dòng người đến những chốn khoái lạc nồng nàn giúp người ta chống lại cái lạnh lẽo của dịch hạch. Cái mà vài tháng trước đây, Cottard tìm kiếm ở những nơi công cộng, trong xa hoa và cuộc sống phóng dật, cái mà hắn luôn luôn mơ ước nhưng không được thỏa mãn, nghĩa là sự hưởng lạc cuồng nhiệt, cái đó, giờ đây, cả một dân tộc lăn mình vào. Trong lúc giá cả mọi thứ lên vùn vụt, thì người ta thả sức tiêu phí tiền bạc, và trong lúc số đông thiếu thốn những cái thiết yếu, thì người ta tha hồ tung tẩy những cái thừa thãi. Người ta thấy tăng lên mọi hoạt động của cảnh nhàn rỗi mà thực ra, chỉ là cảnh thất nghiệp. Thỉnh thoảng, từng lúc lâu, Tarrou và Cottard theo dõi một cặp trai gái, trước kia thì chăm chút che giấu mối quan hệ của mình nhưng nay thì sát cạnh bên nhau, ngang nhiên đi qua thành phố, không ngó ngàng gì đến đám đông xung quanh, với lối lơ đễnh ít nhiều cố hữu và trong niềm đam mê lớn. Cottard xúc động: “A! Những kẻ phóng túng!” hắn thốt lên. Và hắn nói to, phấn chấn giữa không khí cuồng nhiệt chung, giữa những món puôcboa vương giả rủng rỉnh xung quanh họ và những mưu toan người ta bày đặt ra trước mắt họ.

Tuy nhiên, Tarrou cho là thái độ của Cottard không mấy ác ý. Câu nói “Tôi biết cái đó trước họ” của hắn bộc lộ bất hạnh nhiều hơn thắng lợi. “Tôi nghĩ, Tarrou viết, hắn bắt đầu yêu mến những con người bị cầm tù giữa bầu trời và mấy bức tường thành phố. Nếu có thể được, hắn sẵn sàng giải thích với họ, chẳng hạn, là tình hình không tới mức khủng khiếp đến thế. Hắn bảo tôi: “Ông nghe họ nói chứ, sau dịch hạch, tôi sẽ làm cái này, sau dịch hạch, tôi sẽ làm cái kia... Họ tự đầu độc cuộc sống của mình trong lúc đáng lẽ họ phải ngồi im. Và thậm chí họ cũng không thấy được lợi thế của họ nữa. Tôi, thì tôi có thể nói: sau khi bị bắt, tôi sẽ làm cái này, được không? Bị bắt bớ là một sự khởi đầu, không phải là một sự kết thúc. Còn dịch hạch... Ông có muốn nghe ý kiến của tôi không? Họ khổ sở vì họ không chịu phó mặc. Còn tôi, tôi hiểu điều tôi nói”.

“Quả là hắn hiểu điều hắn nói, Tarrou viết thêm. Hắn đánh giá đúng mâu thuẫn của dân chúng Oran: họ cảm thấy sâu xa cái nhu cầu sưởi ấm dịch họ lại gần nhau, nhưng đồng thời họ lại không hề thả mình theo nhu cầu ấy vì cái lòng nghi kỵ tách họ ra khỏi nhau. Người ta biết quá rõ là người ta không thể tin cậy người bên cạnh, là người này có thể mang dịch hạch đến cho mình mà mình không hay và lợi dụng sự buông thả của mình để làm mình bị lây nhiễm. Khi đã trải qua như Cottard những ngày thấy mọi người mình muốn kết thân đều có thể là những tên chỉ điểm, thì người ta có thể thấu hiểu nỗi lòng ấy. Chúng ta rất thông cảm viết những người luôn luôn vương vấn cái ý nghĩ là dịch hạch có thể, ngày một ngày hai, đến vỗ vai mình và có lẽ nó đang sắp sửa làm như thế, đúng vào lúc người ta đang hồ hởi được sống bình yên vô sự. Cottard ra sức tìm cách sống khoan khoái trong khi dịch bệnh khủng bố. Nhưng vì hắn cảm nhận tất cả cái đó trước mọi người nên tôi nghĩ hắn không thể cùng họ hoạt động thấy được nỗi lòng ngờ vực trên đây làm họ đau đớn biết chừng nào. Tóm lại, cùng với chúng tôi - những người chưa chết, vì dịch hạch, hắn cảm thấy rõ rệt cuộc sống và tự do của hắn lúc nào cũng sắp bị tiêu tan. Nhưng vì bản thân hắn sống trong kinh hoàng, nên hắn cho rằng những người khác đến lượt họ cũng trải qua nỗi kinh hoàng ấy là điều bình thường. Nói chính xác hơn, lúc đó, nỗi kinh hoàng đối với hắn sẽ dễ chịu đựng hơn là nếu phải nếm trải một mình. Chính đó là chỗ hắn sai lầm và khiến hắn khó hiểu hơn những người khác. Nhưng dẫu sao, cũng chính chỗ đó hắn đáng được người ta tìm hiểu hơn những người khác”.

Cuối cùng, những trang sổ tay của Tarrou kết thúc bằng một câu chuyện minh họa cho cái nhận thức kỳ cục cùng một lúc của cả Cottard lẫn những người bị dịch hạch. Câu chuyện hầu như làm sống lại bầu không khí gay go của thời kỳ này và vì vậy người kể chuyện ở đây dành cho nó một vị trí quan trọng.

Tarrou và Cottard đến nhà hát ôpêra thành phố, nơi đang diễn vở Orphée và Eurydice 1. Cottard mời Tarrou đi xem. Đây là một đoàn đến biểu diễn ở thành phố vào mùa xuân năm có dịch hạch. Bị dịch bệnh giữ lại, đoàn bắt buộc, sau khi thỏa thuận với nhà hát ôpêra của thành phố, diễn lại vở kịch mỗi tuần một lần. Thế là, đã mấy tháng nay, mỗi tối thứ sáu, nhà hát thành phố lại vang lên những lời than vãn thiết tha của Orphée và những lời kêu cứu tuyệt vọng của Eurydice. Tuy nhiên, vở diễn vẫn được công chúng hâm mộ và thu lợi lớn. Chọn những dãy ghế đắt tiền nhất, Cottard và Tarrou ngồi ở phía trước sân khấu chật ních những người trang nhã nhất trong số đồng bào chúng tôi. Ai cũng lo vào để kiếm chỗ. Trong luồng ánh sáng chói chang trước khi kéo màn, và trong lúc các nhạc công nhẹ nhàng hòa tấu, thì những cái bóng người nổi lên rõ nét, chuyển từ hàng ghế này sang hàng ghế khác, nghiêng mình một cách duyên dáng. Trong tiếng lao xao của những câu chuyện thanh tao, người ta lấy lại niềm tin mà chỉ trước đây vài tiếng, trên những ngả đường tối tăm trong thành phố, họ thấy thiếu trong lòng. Áo quần đã xua đuổi dịch hạch.

Trong suốt màn đầu, Orphée than vãn một cách dễ dàng, vài ba thiếu phụ duyên dáng bình luận về nỗi bất hạnh của chàng, và tiếng nhạc cất lên ca ngợi mối tình. Cử tọa hưởng ứng nồng nhiệt nhưng kín đáo. Hầu như người ta không chú ý là Orphée đưa vào trong giọng hát của mình trong màn hai những sự rung động không có trong kịch bản, và với một giọng hơi quá bi tráng, xin các Ma vương động lòng trắc ẩn trước những giọt nước mắt của mình. Những khán giả am hiểu nhất thì cho một vài cử chỉ giần giật của chàng là do tác dụng cách điệu hóa, hỗ trợ cho cách diễn tấu của người hát.

Phải chờ đến bài hát đôi của Orphée và Eurydice trong màn ba (lúc này Orphée mất người yêu) tiếng rì rầm ngạc nhiên mới lan khắp cử tọa. Và như thể chỉ còn chờ cử chỉ này của khán giả, hay nói chắc chắn hơn, như thể vì tiếng rì rầm từ đám khán giả ngồi trên cùng khẳng định với điều mà y cảm nhận, anh chàng diễn viên chọn lúc này để bước ra lan can một cách lố bịch, tay chân dang ra trong bộ quần áo kiểu cổ, và để ngã lăn kềnh giữa những bài mục ca vốn bao giờ cũng không hợp thời nhưng lần đầu tiên khán giả thấy không hợp thời, và là không hợp thời một cách khủng khiếp. Vì cùng lúc đó, dàn nhạc lặng im, khán giả những hàng đầu đứng dậy và từ từ ra khỏi nhà hát, lúc đầu lặng lẽ như ra khỏi nhà thờ sau buổi lễ, hay buồng người chết sau khi thăm viếng, đàn bà thì thu vén xống váy và cúi đầu, đàn ông thì nắm cùi tay dìu các bà để tránh đụng phải hàng ghế phụ. Nhưng dần dà, người ta trở nên vội vã, tiếng rì rầm trở thành tiếng kêu than, và đám đông ùa ra, chen lấn ở cửa, cuối cùng thì xô đẩy nhau và la hét. Cottard và Tarrou vừa rời khỏi hàng ghế, chứng kiến một hình ảnh vốn là hình ảnh cuộc sống của họ lúc bấy giờ: dịch hạch trên sân khấu, dưới dạng một tay hề “trật khớp” và, trong nhà hát, phơi bày ra cả một sự xa hoa - nay trở nên vô ích - với những chiếc quạt bỏ quên và những dải đăng ten vương vãi trên màu đỏ ghế phô tơi.

Trong những ngày đầu tháng chín, Rambert làm việc ra trò bên cạnh Rieux. Anh chỉ có xin nghỉ một ngày, hôm phải gặp Gonzalès và hai gã thanh niên trước trường trung học nam.

Hôm đó, giữa lúc trưa, Gonzalès và anh chàng nhà báo thấy hai gã tươi cười bước tới. Họ bảo lần trước không gặp may, nhưng đành phải chịu. Dẫu sao, hiện nay không phải phiên gác của họ. Phải kiên nhẫn chờ tới tuần sau. Lúc ấy lại sẽ bắt đầu. Rambert bảo đúng là phải “bắt đầu”. Gonzalès hẹn gặp lại thứ hai tuần sau. Nhưng lần này, Rambert sẽ đến ở nhà Marcel và Louis. “Tớ và cậu, hai đứa mình sẽ hẹn gặp nhau. Nếu tớ không có mặt thì cậu sẽ đi thẳng đến nhà họ. Họ sẽ nói cho cậu rõ cậu ở đâu”. Nhưng Marcel hay Louis không rõ người nào, bảo cách đơn giản nhất là đưa “anh bạn” tới ngay. Nếu anh ta không khó tính, thì có đủ cái ăn cho cả bốn người. Và như thế anh ta sẽ rõ tình hình. Gonzalès cho đó là một ý kiến rất hay, và cả bốn người đi về phía cảng.

Marcel và Louis ở cuối khu phố Hải quân, gần những cửa ô mở ra con đường dọc bờ biển. Một ngôi nhà nhỏ kiểu Tây Ban Nha, tường dày, cánh cửa gió bằng gỗ sơn, có những phòng không có đồ đạc và râm mát. Ở nhà đã có bà mẹ hai chàng trai, một bà cụ Tây Ban Nha tươi cười, mặt đầy vết nhăn, lo chuyện cơm nước. Gonzalès ngạc nhiên vì thành phố đã bắt đầu thiếu gạo. “Chúng ta sẽ thu xếp ở cửa ô”, Marcel lên tiếng. Rambert ăn uống, và Gonzalès bảo anh là một người bạn thực sự, trong lúc anh chàng nhà báo thì loay hoay không biết mình sẽ sống cái tuần lễ này ra sao.

Thực ra, anh phải chờ đến hai tuần, vì các phiên gác kéo dài tới mười lăm ngày, để giảm bớt số kíp phải huy động. Và, trong mười lăm ngày ấy, Rambert làm việc không tiếc sức mình, có thể nói là nhắm mắt nhắm mũi mà làm liên tục từ sáng, đến tối. Mãi đến khuya, anh mới ngủ một giấc ngủ nặng nề. Chuyển đột ngột từ nhàn rỗi sang công việc nặng nhọc này, dần dà, anh hầu như không còn ước mơ và sức lực. Anh ít nói tới việc nay mai anh bỏ trốn. Duy chỉ có một sự kiện quan trọng; sau một tuần làm việc, anh thổ lộ với bác sĩ Rieux là lần đầu tiên, trong đêm trước anh say rượu. Ra khỏi quầy rượu, anh có cảm giác bẹn sưng lên và hai cánh tay cử động khó khăn xung quanh nách. Anh nghĩ là dịch hạch. Và phản ứng duy nhất của anh lúc đó - anh đồng ý với Rieux rằng như thế là không hợp lẽ - là chạy lên phía đầu thành phố và từ đó, từ một chỗ không nhìn thấy biển nhưng nhìn thấy một bầu trời bao la, anh thét to với vợ, qua những bức tường thành phố. Trở về nhà và không thấy một dấu hiệu bị lây nhiễm nào trên người, anh có phần xấu hổ vì cơn khủng hoảng đột ngột, Rieux đáp ông rất hiểu vì sao anh có thể hành động như vậy: “Dẫu sao, ông nói, vẫn có thể là ông muốn như thế”.

- Ông Othon sáng nay có nói về ông với tôi, Rieux đột ngột nói thêm, vào lúc Rambert chia tay. Ông ta hỏi tôi có biết ông không: “Ông hãy khuyên ông ta, Othon bảo tôi, đừng nên lui tới những giới buôn lậu. Ông ta làm người ta lưu ý đấy”.

- Thế nghĩa là thế nào?

- Thế nghĩa là ông nên khẩn trương lên.

- Cảm ơn, Rambert vừa nói vừa bắt tay bác sĩ.

Trên ngưỡng cửa, anh đột ngột quay lại. Rieux nhận thấy lần đầu tiên từ khi có dịch hạch, anh mỉm cười.

- Vì sao ông không ngăn cản tôi ra đi? Ông có thể ngăn cản kia mà.

Rieux lắc đầu với cái cử chỉ quen thuộc và bảo đấy là công việc của Rambert, là Rambert đã chọn lấy hạnh phúc và ông, Rieux, ông không thấy có lý lẽ gì để chống lại cả. Ông thấy mình không thể cho cái gì là tốt, cái gì là xấu trong công việc này.

- Trong những điều kiện như vậy, sao ông lại bảo tôi khẩn trương lên?

Đến lượt Rieux mỉm cười :

- Vì có lẽ, tôi, tôi cũng muốn làm một cái gì đó cho hạnh phúc.

Ngày hôm sau, hai người không trao đổi gì thêm và cặm cụi làm việc. Một tuần lễ sau, Rambert đến ở hẳn trong ngôi nhà nhỏ kiểu Tây ban Nha. Người ta đặt cho anh một cái giường trong phòng khách. Vì hai chàng trai không về ăn, và vì họ bảo anh hết sức hạn chế việc đi ra ngoài, nên anh thường sống một mình, hoặc chỉ chuyện vãn với bà già. Bà cụ, người gầy nhưng hoạt bát, quần áo màu đen, da mặt nhăn nheo màu nâu, mái tóc bạc phơ sạch bóng. Bản tính trầm ngâm, cụ chỉ nheo mắt lại cười khi nhìn Rambert.

Có những lúc, cụ hỏi anh không sợ mang dịch hạch về cho vợ hay sao. Anh nghĩ có thể có nguy cơ đó, nhưng dẫu sao, nguy cơ đó rất nhỏ nhoi, còn nếu ở lại trong thành phố thì họ có nguy cơ mãi mãi xa cách nhau.

- Cô ta có dễ thương không? - Bà cụ mỉm cười hỏi.

- Rất dễ thương ạ.

- Đẹp chứ?

- Cháu cho là như vậy.

- A! - Cụ bảo - Thì ra vì thế.

Rambert nghĩ ngợi. Dĩ nhiên là vì thế, nhưng không thể chỉ vì thế mà thôi.

- Ông không tin Chúa trời à? - Bà cụ vốn sáng nào cũng đi nhà thờ hỏi.

Rambert công nhận là không và bà cụ lại nói là vì thế.

- Ông phải về gặp cô ta thôi, ông nói có lý đấy. Nếu không thì ông còn lại cái gì nữa?

Ngoài ra, Rambert chỉ còn biết quanh quẩn giữa mấy bức tường trần trụi và nham nhở, vuốt ve mấy cái hình rẻ quạt trên tường hay đem những dải len viền khăn bàn. Buổi tối, hai chàng trai về nhà. Họ chỉ nói là chưa có thời cơ. Sau bữa ăn tối, Marcel chơi ghi ta và họ cùng nhau uống rượu hồi. Rambert ra vẻ suy tư.

Thứ Tư tuần ấy, Marcel về nhà và bảo: “Tối mai, vào lúc nửa đêm. Ông hãy chuẩn bị sẵn sàng. Hai người cùng gác với họ, thì một bị dịch hạch, một đang trong thời kỳ phải theo dõi vì thường ở cùng phòng với người kia. Như thế, trong vài ba ngày, chỉ có Marcel và Louis gác không thôi. Đêm nay, họ sẽ thu xếp những chi tiết cuối cùng. Mai chắc hẳn sẽ xong”. Rambert cảm ơn. “Ông hài lòng chứ?” bà cụ hỏi. Anh trả lời là có, nhưng đầu óc lại nghĩ tới cái gì khác.

Ngày hôm sau, trời u ám, nóng ẩm và ngột ngạt. Tin tức về dịch hạch đều xấu. Nhưng bà cụ người Tây Ban Nha vẫn bình tĩnh. “Có tội lỗi ở trên đời này. Vậy là điều tất nhiên thôi!” Rambert cũng cởi trần như Marcel và Louis. Nhưng mồ hôi vẫn ròng ròng trên vai, trên ngực. Giữa cảnh tranh tối tranh sáng trong nhà cửa đóng kín mít, họ tựa như những bức tượng bán thân màu nâu bóng loáng. Rambert đi lui đi tới, không nói nửa lời. Bỗng nhiên, lúc bốn giờ chiều, anh mặc quần áo ra đi.

- Cẩn thận - Marcel lên tiếng - Đúng nửa đêm mới khởi hành được. Đâu vào đấy cả rồi.

Rambert đến nhà bác sĩ Rieux. Bà cụ Rieux bảo anh là bác sĩ đang ở bệnh viện thành phố trên. Trước trạm gác, đám đông quanh quẩn mãi. “Đi đi!” một viên đội xếp, mắt lồi, bảo bà con. Người ta đi, nhưng vẫn đi vòng tròn. “Chẳng có việc gì phải chờ đợi cả”, viên đội, áo bắt đầu ướt đẫm mồ hôi, nói tiếp. Đám đông cũng nghĩ như vậy nhưng vẫn ở lại, mặc dù trời nắng như thiêu như đốt. Rambert xuất trình giấy thông hành và viên đội xếp chỉ buồng giấy của Tarrou cho anh. Cửa buồng mở ra sân. Anh gặp cha Paneloux từ trong buồng bước ra.

Trong một căn phòng nhỏ trắng nhờ nhờ, phảng phất mùi thuốc và mùi đra ẩm ướt, Tarrou ngồi sau một chiếc bàn gỗ đen, tay sơ-mi xắn cao, cầm mù soa lau mồ hôi ở chỗ vừa lấy máu trên cánh tay.

- Ông vẫn còn đây? - Anh hỏi.

- Vâng, tôi muốn nói chuyện với Rieux.

- Bác sĩ ở trong buồng. Nhưng nếu thu xếp được mà không phiền đến ông ấy thì hay hơn.

- Sao vậy?

- Ông ấy làm việc quá sức. Tôi cố tránh bớt việc cho ông.

Rambert nhìn Tarrou. Tarrou gầy rộc người. Mệt mỏi làm cho đôi mắt và nét mặt bơ phờ. Đôi vai lực lưỡng nay xo lại. Có tiếng gõ cửa, và một người y tá, đeo mặt nạ trắng, bước vào, y đặt lên bàn Tarrou một chồng phiếu và, với giọng bị ngạt lại sau lớp vải, nói cụt lủn: “Sáu”, rồi đi ra. Tarrou nhìn anh chàng nhà báo và chỉ những tờ phiếu giở ra theo hình rẻ quạt.

- Những tờ phiếu đẹp, hả? Ờ, không, phiếu ghi những người chết đêm qua đấy.

Trán anh hõm xuống. Anh gập tập phiếu lại.

- Chúng tôi chỉ còn lại có công việc kế toán.

Tarrou đứng dậy, dựa vào mép bàn.

- Ông đã sắp đi chưa?

- Tối nay, lúc nửa đêm.

Tarrou bảo là cái đó làm anh vui lòng và dặn dò Rambert phải giữ mình.

- Ông nói thành thật đấy chứ?

Tarrou nhún vai :

- Ở cái tuổi tôi, người ta bắt buộc phải thành thật. Nói dối thì quá mệt.

- Ông Tarrou này, anh chàng nhà báo bảo, tôi muốn gặp bác sĩ. Ông thứ lỗi cho.

- Tôi biết. Ông ấy “người” hơn tôi. Ông vào đi.

- Không phải thế, Rambert đáp một cách khó khăn, và dừng lại.

Tarrou nhìn anh, và bỗng nở một nụ cười.

Họ đi theo một hành lang nhỏ, tường quét vôi màu xanh nhạt, phảng phất ánh sáng của những chiếc bể nuôi cá. Đèn trước hai lớp cửa kính với những cái bóng chập chờn kỳ cục ở phía sau. Tarrou đưa Rambert vào một căn phòng rất nhỏ, bưng ván kín mít. Anh mở một tấm, lấy từ một cái hộp tiệt khuẩn hai chiếc mặt nạ bằng gạc hút nước, đưa một chiếc cho Rambert, bảo anh đeo vào. Anh chàng nhà báo hỏi có ích lợi gì không và Tarrou đáp là không, nhưng như thế để gây lòng tin cho người khác.

Họ đẩy tấm cửa kính. Một phòng rộng thênh thang, cửa sổ đóng kín mít, tuy giữa mùa hè. Phía trên tường, những cái máy làm thay đổi không khí kêu vo vo, và những cái quạt uốn cong của máy khuấy bầu không khí đông đặc và hừng hực, trên hai dãy giường xám xịt. Từ khắp mọi phía, cất lên những tiếng rên rỉ trầm đục hoặc the thé tạo nên một chuỗi than vãn đơn điệu. Những người đàn ông, mặc quần áo trắng, chậm rãi đi lại, dưới luồng ánh sáng dữ dội từ những ô cửa sổ cao có song sắt, hắt xuống. Rambert thấy trong người khó chịu trong cái nóng khủng khiếp của căn phòng và hầu như không còn nhận ra Rieux đang cúi xuống một bóng người rên rỉ. Bác sĩ đang rạch bẹn cho người bệnh hai chân dạng ra, hai cô y tá giữ ở hai bên giường. Ngẩng lên, ông bỏ dụng cụ vào một chiếc khay trên tay một người phụ việc và đứng im lặng một lát, nhìn người bệnh đang được băng bó.

- Có gì mới không? - Ông hỏi Tarrou khi anh bước tới.

- Paneloux nhận thay Rambert ở nhà cách ly kiểm dịch. Ông ta đã làm việc nhiều. Còn phải tập hợp kíp thứ ba theo dõi bệnh nhân trong lúc vắng Rambert.

Rieux gật đầu.

- Castel đã chế xong những liều huyết thanh đầu tiên. Ông ta đề nghị dùng thí nghiệm. - Tarrou nói tiếp.

- A! - Rieux đáp - Tốt lắm.

- Cuối cùng, hiện Rambert có mặt ở đây.

Rieux quay lại. Phía trên mặt nạ, mắt ông nheo lại khi nhìn thấy anh chàng nhà báo.

- Ông làm gì ở đây? - Rieux hỏi - Ông phải ở chỗ khác chứ!

Tarrou nói là Rambert sẽ đi trong đêm nay, lúc mười hai giờ, và Rambert nói thêm: “Về nguyên tắc thì như thế”.

Mỗi lần họ nói, là chiếc mặt nạ bằng gạc lại phập phồng và thấm ướt ở chỗ miệng. Vì thế câu chuyên có phần huyền ảo, tựa cuộc đối thoại của những bức tượng.

- Tôi muốn nói chuyện với ông. - Rambert cất tiếng.

- Chúng ta sẽ cùng đi ra ngoài, nếu ông vui lòng. Ông chờ tôi trong phòng Tarrou.

Một lát sau, Rambert và Rieux ngồi phía sau ô-tô của bác sĩ. Tarrou cầm lái.

- Hết xăng đến nơi rồi - Tarrou nói khi nổ máy - Mai, chúng ta sẽ đi bộ.

- Thưa bác sĩ, - Rambert nói - tôi sẽ không đi và tôi muốn ở lại với ông.

Tarrou không nói nửa lời. Anh tiếp tục lái. Rieux thì hình như không sao thoát ra khỏi cơn mệt mỏi.

- Thế còn cô ấy? - Ông hỏi, giọng trầm xuống.

Rambert đáp anh đã tiếp tục suy nghĩ, tiếp tục tin điều anh tin trước đây, nhưng nếu ra đi thì anh thấy hổ thẹn. Anh thấy như thế thì không xứng đáng với tình yêu của mình đối với người con gái hiện đang xa vắng. Rieux ngồi thẳng dậy, và bảo, giọng chắc nịch, rằng làm thế là ngu ngốc và khi người ta chọn hạnh phúc thì không có gì phải hổ thẹn.

- Vâng, - Rambert đáp - nhưng hưởng hạnh phúc lấy một mình thì cũng có thể hổ thẹn.

Im lặng cho tới lúc đó và không quay đầu lại, Tarrou bèn nói là nếu Rambert muốn chia sẻ nỗi bất hạnh với những con người ở đây, thì anh sẽ không bao giờ có thì giờ dành cho hạnh phúc nữa. Rambert cần lựa chọn.

- Không phải thế. - Rambert đáp - Tôi luôn nghĩ rằng tôi xa lạ với thành phố này và không dính dáng gì tới các ông. Nhưng giờ đây, khi đã thấy những điều trước mắt, thì tôi biết tôi là người ở đây, dù tôi muốn hay không. Công việc này liên quan đến tất cả chúng ta.

Không một ai đáp lại và Rambert tỏ vẻ sốt ruột.

- Vả lại, các ông hiểu rõ điều đó. Nếu không thì các ông làm gì trong cái bệnh viện này? Và các ông, các ông có chọn lựa, các ông có khước từ hạnh phúc không?

Cả Tarrou lẫn Rieux vẫn không ai đáp lại. Không khí im lặng kéo dài cho tới khi về gần tới nhà bác sĩ. Một lần nữa, Rambert nhắc lại câu hỏi và lần này, cất cao giọng hơn. Một mình Rieux quay lại phía anh. Ông ngồi thẳng dậy một cách khó khăn.

- Ông Rambert, xin lỗi ông, nhưng tôi không biết trả lời ông thế nào. Ông cứ ở lại với chúng tôi vì ông muốn vậy.

Ô-tô quặt bánh, Rieux phải dừng lời. Rồi nhìn thẳng về phía trước, ông nói tiếp :

- Trên đời này, không có gì đáng cho người ta xa lánh cái mà người ta yêu mến. Thế nhưng, chính tôi, tôi cũng xa lánh nó mà không hiểu vì sao.

Ông ngã người xuống đệm xe.

- Đó là một sự thật, thế thôi, ông nói tiếp, dáng mệt mỏi. Chúng ta hãy ghi nhận lấy và rút ra những hệ quả.

- Những hệ quả nào? - Rambert hỏi.

- A! - Rieux đáp - Người ta không thể vừa chữa bệnh vừa biết được. Vậy chúng ta hãy hết sức nhanh chóng chữa bệnh. Đó là cái khẩn thiết nhất.

Nửa đêm, Tarrou và Rieux hướng dẫn cho Rambert sơ đồ khu phố anh phụ trách theo dõi. Tarrou nhìn đồng hồ. Ngẩng đầu lên, anh gặp ánh mắt Rambert.

- Ông đã báo cho cô ấy chưa?

Anh chàng nhà báo quay mặt đi và nói một cách khó khăn :

- Tôi đã gửi cho nàng mấy chữ trước khi đến gặp các ông.

Huyết thanh của Castel đã đem dùng thử vào những ngày cuối tháng mười. Trên thực tiễn, nó là niềm hy vọng cuối cùng của Rieux. Nếu lại thất bại một lần nữa, thì ông tin chắc thành phố sẽ hoàn toàn phó mặc cho dịch hạch: dịch bệnh có thể hoành hành trong nhiều tháng nữa, cũng có thể tự nó ngừng lại không một lý do nào cả.

Ngay trước hôm Castel đến gặp Rieux một ngày, con trai Othon bị ốm và cả nhà phải cách ly kiểm dịch. Bà vợ trở về nhà trước một ít nên lại phải sống một mình lần thứ hai. Tôn trọng những quy tắc đã đề ra, viên dự thẩm cho mời bác sĩ Rieux khi vừa nhận thấy trên người đứa bé những dấu hiệu của bệnh. Khi Rieux tới, cả hai vợ chồng Othon đều đứng đầu giường. Con bé gái thì đã đưa đi cách ly. Thằng bé đang trong thời kỳ suy sụp và để cho khám không một tiếng kêu la. Ngẩng đầu lên, bác sĩ bắt gặp ánh mắt Othon, và phía sau ông ta, khuôn mặt tái nhợt của bà vợ: bà ta cho một chiếc mù soa vào miệng và hai mắt trừng trừng theo dõi cử chỉ của bác sĩ.

- Cái đó, phải không? - Viên dự thẩm hỏi, giọng lạnh lùng.

- Phải. - Rieux đáp và một lần nữa nhìn đứa trẻ.

Cặp mắt bà Othon mở to nhưng bà vẫn lặng im. Othon cũng lặng im, nhưng rồi tiếp giọng nói :

- Thưa Rieux, chúng ta phải làm đúng theo quy định.

Rieux tránh không nhìn bà vợ miệng vẫn ngậm chiếc mùa hoa.

- Công việc nhanh thôi, - Ông nói ngập ngừng - nếu tôi có thể gọi điện.

Othon bảo để ông ta tiễn chân Rieux. Nhưng Rieux quay về phía bà vợ :

- Tôi thật khổ tâm. Bà chuẩn bị ít quần áo cho cháu. Bà biết là thế nào rồi.

Bà Othon ra vẻ sững sờ. Bà nhìn xuống đất :

- Vâng, - Bà ta gật đầu đáp - tôi chuẩn bị cho cháu ngay bây giờ.

Trước khi chia tay, Rieux hỏi họ có cần gì không. Bà vợ vẫn lặng im nhìn chồng. Còn Othon thì ngoảnh mặt đi.

- Không - Ông ta đáp và nuốt nước bọt - Nhưng ông cứu lấy cháu.

Việc cách ly kiểm dịch lúc đầu chỉ là một thủ tục đơn giản như về sau được Rieux và Rambert tổ chức hết sức chặt chẽ. Đặc biệt là họ yêu cầu người trong cùng một gia đình bao giờ cũng phải cách ly nhau. Khi một người bị nhiễm bệnh nhưng không biết, thì không nên tạo cơ hội cho bệnh lây lan. Rieux giải thích cho viên dự thẩm, và ông ta cho thế là tốt. Tuy thế, hai vợ chồng nhìn nhau với một ánh mắt khiến bác sĩ thấy sự xa cách đó làm họ bối rối đến chừng nào. Bà Othon và đứa bé gái có thể đến ở trong khách sạn dùng làm nhà cách ly kiểm dịch do Rambert phụ trách. Nhưng đối với ông dự thẩm thì không còn chỗ nào khác ngoài trại cách ly mà tỉnh đang tổ chức, trên sân vận động thành phố, với những chiếc lều bạt mượn của sở công chính. Rieux xin lỗi, nhưng Othon báo chỉ có một luật lệ cho mọi người, và tuân theo luật lệ là đúng.

Còn thằng bé thì được chở đến bệnh viện phụ, trong một lớp học cũ có kê mười chiếc giường. Sau khoảng hai mươi tiếng, Rieux cho là một ca tuyệt vọng. Cơ thể nhỏ bé của nó để cho nhiễm khuẩn tàn phá, không hề có phản ứng chống trả. Những cục hạch xoài nhỏ, đau đớn, vừa mới nổi lên, làm cho các khớp tay chân khẳng khiu của nó không cử động nổi. Nó bị dịch bệnh đánh bại ngay từ đầu. Vì vậy Rieux định thí nghiệm trên mình nó thứ huyết thanh của Castel. Ngay tối hôm đó, sau bữa ăn, họ tiêm chủng kéo dài cho thằng bé, mà không hề có phản ứng. Sáng tinh mơ hôm sau, mọi người đến cạnh nó để xem kết quả cuộc thử nghiệm có tính chất quyết định này.

Thằng bé, thôi không còn mê sảng, quằn quại trên giường. Từ bốn giờ sáng, Rieux, Castel và Tarrou đứng bên cạnh, theo sát tình hình tiến triển hay dừng lại của cơn bệnh. Đứng phía đầu giường, thân hình nặng nề của Tarrou như còng xuống. Rieux đứng phía chân giường, và Castel ngồi bên cạnh đọc một tác phẩm cũ, vẻ bề ngoài hết sức điềm tĩnh. Dần dà, trời sáng rõ trong căn phòng học ngày trước và những người khác cũng tới. Trước hết là Paneloux, đứng phía bên kia giường, đối diện với Tarrou, lựng dựa vào tường. Nét mặt lộ vẻ đau đớn, và nỗi mệt mỏi những ngày ông ta liều cả thân mình thế này đào thành những vết nhăn trên vầng trán sung huyết. Rồi đến lượt Joseph Grand. Đồng hồ đã bảy giờ và anh xin lỗi vì phải hối hả đến hụt hơi. Anh chỉ ở lại một lúc có lẽ tình hình đã có phần rõ rồi. Không nói không rằng, Rieux chỉ vào đứa bé mắt nhắm tịt trên khuôn mặt biến dạng, hai hàm răng nghiến chặt, cơ thể bất động, đầu quay hết bên này sang bên kia, trên chiếc gối không có bọc. Cuối cùng, khi trời sáng rõ, đủ để nhìn thấy trên tấm bảng đen vẫn nằm nguyên ở cuối phòng, dấu vết còn sót lại của những công thức phương trình thì Rambert tới. Anh ngồi tựa lưng vào chân chiếc giường bên cạnh và lấy bao thuốc ra. Nhưng thoáng nhìn thấy đứa bé, anh lại bỏ thuốc vào túi.

Castel vẫn ngồi, ngước mắt kính lên nhìn Rieux :

- Ông có tin tức gì về ông bố thằng bé không?

- Không, - Rieux đáp - ông ta ở trại cách ly.

Ông nắm chặt thành giường thằng bé. Nó rên rỉ. Ông không rời mắt khỏi nó. Nó bỗng co cứng lại và nghiến chặt răng, bụng thắt lại chút ít, từ từ dang rộng hai tay, hai chân ra. Từ cái thân hình bé nhỏ, trần trụi dưới chiếc mền lính, xông lên mùi len và mùi mồ hôi chua chua. Dần dà, đứa bé duỗi người ra, khép tay chân lại vào giữa giường và vẫn nhắm mắt và im lìm, nó có vẻ thở nhanh hơn. Tarrou ngoảnh mặt đi và Rieux bắt gặp ánh mắt anh.

Họ đã từng chứng kiến cái chết của trẻ em, vì đã mấy tháng nay, dịch bệnh không hề chọn lựa, nhưng chưa bao giờ, họ theo dõi nỗi đau đớn của chúng từng phút một như từ sáng đến nay. Và, dĩ nhiên, nỗi đau đớn những đứa trẻ thơ ngây này phải chịu, thực sự như thế nào thì bao giờ họ cũng thấy nó như thế ấy, nghĩa là như một sự phẫn nộ. Nhưng ít ra cho tới lúc này, họ chỉ phẫn nộ một cách trừu tượng - nếu có thể nói như thế - bởi lẽ chưa bao giờ họ nhìn thẳng, lâu đến thế, cơn hấp hối của một đứa trẻ thơ dại.

Đứa bé, như thể bị cắn xé ở dạ dày, gập mình lại một lần nữa và rên rỉ một cách yếu ớt. Nó co quắp lại như thế trong mấy giây đồng hồ mà ai nấy đều thấy dài đằng đẵng, người nó giật bắn lên vì những cơn rùng mình bần bật, như thể cái hình hài mảnh dẻ gập khúc lại dưới cơn cuồng phong của dịch hạch và gãy răng rắc dưới những cơn sốt dồn dập. Cơn giông bão qua đi, nó thư giãn ra một chút, cơn sốt như rút đi và bỏ mặc nó, hổn hển, trên một lớp cát ẩm ướt và bị đầu độc trong đó trạng thái nghỉ ngơi đã chẳng khác nào cái chết. Khi cơn sốt như một lớp sóng nóng bỏng tấn công nó lần thứ ba và nâng người nó lên chút đỉnh, thì thằng bé co quắp lại, rúc vào góc giường vì kinh sợ ngọn lửa đang đốt cháy nó, rồi lắc la lắc lư cái đầu như điên như dại và vứt tung tấm mền đi. Những giọt nước mắt to tướng tuôn ra từ dưới hai mí mắt đỏ rực chảy trên khuôn mặt xám xịt, và cuối cơn, thằng bé, kiệt sức, co rúm hai cẳng chân xương xẩu và hai cánh tay thịt đã biến mất hết, sau bốn mươi tám tiếng, nằm trên giường rối tung, trong tư thế kỳ quái của kẻ bị đóng đinh trên giá chữ thập.

Tarrou cúi xuống, lấy bàn tay phục phịch lau khuôn mặt nhỏ bé đẫm nước mắt và mồ hôi của thằng bé. Castel gập sách lại một lúc và nhìn nó. Ông bắt đầu nói, nhưng phải ho một hơi mới nói được hết câu vì bỗng lạc giọng đi :

- Không có hiện tượng giảm bệnh buổi sáng phải không ông Rieux?

Rieux bảo là không, nhưng thằng bé đã chống chọi lại quá mức bình thường. Paneloux, mệt mỏi dựa vào tường bỗng cất tiếng trầm trầm :

- Nếu có chết, ắt nó phải đau khổ lâu hơn.

Rieux đột ngột quay lại phía ông ta và mở miệng định nói, nhưng lại thôi, cố gắng kìm mình một cách trông thấy và quay trở lại nhìn đứa bé.

Ánh sáng trải rộng trong căn buồng. Trên năm chiếc giường khác, những hình người động đậy và rên rỉ, nhưng một cách kín đáo như thể họ đã bàn bạc cùng nhau. Người duy nhất kêu la, ở tận cuối buồng đằng kia, từng quãng đều đặn một, cất lên những lời than vãn yếu ớt như thể vì kinh ngạc hơn là vì đau đớn. Hình như ngay cả đối với người bệnh, đây không phải là nỗi kinh hoàng buổi đầu. Giờ đây, người ta như thỏa thuận với nhau trong cách chấp nhận bệnh tật. Riêng chỉ có thằng bé là ra sức giãy giụa. Rieux chốc chốc lại bắt mạch cho nó, tuy không cần thiết, và đúng hơn là để thoát khỏi tình trạng bất động bất lực của mình. Hai mí mắt khép lại, ông cảm thấy mạch thằng bé như hòa lẫn vào sự chuyển động của chính dòng máu ông. Ông hòa mình làm một với thằng bé đau thương và tìm cách nâng đỡ nó với toàn bộ sức lực còn nguyên vẹn của mình. Nhưng sau một phút hòa nhập, nhịp đập trái tim ông và trái tim thằng bé thời không còn một điệu nữa, đứa bé thoát ra khỏi ông, và cố gắng của ông rơi tõm vào chỗ hư không. Ông bỏ cái cổ tay mỏng manh ra và quay về chỗ mình.

Trên các bức tường quét vôi, ánh sáng chuyển từ màu hồng sang màu vàng. Phía sau cửa chính, bắt đầu một buổi sáng oi bức rần rật. Người ta chỉ loáng thoáng nghe Grand nói khi ra đi là anh sẽ trở lại. Ai nấy chờ đợi. Thằng bé, mắt vẫn nhắm tịt, như có phần dịu đi. Hai bàn tay giờ đây như những móng vuốt, cào cấu hai bên mép giường rồi lần ngược lên, gãi gãi cái mền chỗ gần đầu gối, và đột nhiên, thằng bé gập chân, khép hai đùi lại bên bụng và nằm im lặng. Lần đầu tiên, nó mở mắt và nhìn Rieux đứng trước mặt. Trên khuôn mặt gầy choắt lại, đờ đẫn, xám xịt như đất sét, miệng nó hé mở, liên tục phát ra một thứ tiếng hầu như không còn ăn khớp gì với nhịp thở và làm cho căn phòng bỗng nhiên âm vang một chuỗi những lời phản kháng đơn điệu, rời rạc, ít mang tính người tới mức như thể được thốt ra từ tất thảy mọi con người cùng một lúc. Rieux nghiến chặt răng và Tarrou ngoảnh mặt đi. Rambert bước lại gần giường, bên cạnh Castel lúc đó đã gập sách lại trên đầu gối. Paneloux nhìn cái miệng trẻ thơ, hoen ố vì bệnh tật, chứa đầy cái tiếng kêu của mọi lứa tuổi ấy. Ông quì xuống đất và không ai ngạc nhiên khi nghe ông, giọng nói có phần nghẹn ngào nhưng rành rọt, thốt lên: “Cầu xin Chúa cứu thoát thằng bé”, trong lúc tiếng rên rỉ âm thầm của nó vẫn không ngớt.

Thằng bé vẫn tiếp tục kêu la, và xung quanh nó, các bệnh nhân cũng náo động cả lên. Người bệnh từ nãy bỗng không ngớt than vãn ở phía cuối đàng kia buồng, nay càng than vãn nhiều hơn, tạo thành một tiếng kêu la thật sự, trong lúc những người bệnh khác rên rỉ ngày một thêm dữ dội. Tiếng nức nở tràn ngập gian phòng như một làn sóng, át cả tiếng cầu kinh của Paneloux. Tay bíu chặt thanh giường, nhắm mắt lại, Rieux mệt mỏi, chán chường đến rã rời.

Mở mắt ra, ông thấy Tarrou đứng bên cạnh.

- Tôi phải đi đây - Rieux nói - Tôi không thể chịu nổi nữa.

Nhưng bỗng nhiên, các bệnh nhân khác đều lặng im. Lúc đó, ông mới biết tiếng kêu của thằng bé yếu đi, yếu đi mãi và vừa ngừng lại. Xung quanh ông, những lời than vãn lại nổi lên, nhưng trầm đục, và tựa tiếng vang vọng xa xăm của cuộc chiến đấu vừa mới kết thúc. Vì quả nó đã kết thúc. Castel chuyển sang phía bên kia giường và bảo thế là hết. Miệng há to, nhưng câm lặng, thằng bé nằm giữa đống chăn đệm ngổn ngang, co quắp lại, những giọt nước mắt còn vương trên mặt.

Paneloux đi lại cạnh giường và làm dấu ban phước. Rồi vén áo, đi ra bằng cửa chính.

- Có nên bắt đầu lại tất cả không? - Tarrou hỏi Castel.

Ông bác sĩ già lắc đầu.

- Có lẽ - Ông nói, một nụ cười nhăn nhúm trên môi - Dẫu sao, nó cũng đã chống trả mãi.

Nhưng Rieux ra khỏi buồng, bước đi lập cập và với một vẻ khiến cho khi vượt qua Paneloux, ông này nắm cánh tay ông giữ lại.

- Này, ông bác sĩ. - Paneloux bảo ông.

Rieux quay lại vẻ bực bõ và nói với một thái độ dữ dội.

- A! Ít ra, thằng bé cũng vô tội, cha biết chứ! Rồi quay người, vượt lên trước Paneloux, ông đi qua cửa, bước về phía cuối sân trường. Ông ngồi xuống một chiếc ghế băng, giữa những thân cây nhỏ bụi bặm, và lau mồ hôi chảy vào mắt. Ông vẫn muốn la hét để nới cái sợi dây thòng lọng ác nghiệt đang bóp nghẹt tim mình. Nắng từ từ hắt xuống giữa những cành vả. Bầu trời màu xanh buổi sáng nhanh chóng bị bao phủ bởi một lớp viền nhờ khiến không khí càng thêm ngột ngạt. Rieux ngồi phịch xuống ghế. Ông nhìn cây cối, bầu trời, từ từ lấy lại hơi thở, quên bớt mệt mỏi.

- Sao ông nói với tôi với cái giọng giận dữ như vậy? - Một tiếng nói cất lên sau lưng ông - Đối với tôi cũng vậy, cảnh tượng ấy không sao chịu nổi.

Rieux quay lại phía sau Paneloux :

- Đúng thế! Xin cha thứ lỗi. Nhưng mệt mỏi làm người ta điên dại. Có nhiều lúc trong cái thành phố này, tôi chỉ còn cảm thấy như trong lòng nổi loạn.

- Tôi hiểu - Paneloux thầm thì - Cái đó thật đáng giận vì nó vượt quá sức chúng ta. Nhưng phải chăng chúng ta cần sự yêu mến cái mà chúng ta không hiểu nổi.

Rieux đứng vụt dậy. Ông nhìn Paneloux với tất cả sức lực và tình cảm của mình, rồi lắc đầu :

- Không, thưa cha. Tôi có một quan niệm khác về tình yêu thương. Và cho đến chết, tôi vẫn không sao yêu mến được cái thế giới trong đó những đứa trẻ bị hành hạ.

Một thoáng bối rối trên nét mặt Paneloux.

- A! Ông bác sĩ này, - Ông nói, giọng buồn bã - tôi vừa hiểu cái mà người ta gọi là ân sủng.

Nhưng một lần nữa, Rieux lại ngồi phịch xuống ghế. Mệt mỏi trở lại đến rã rời, ông đáp, dịu dàng hơn :

- Đó là cái tôi không có, tôi biết rõ như thế. Nhưng tôi không muốn tranh luận với cha. Vượt lên trên những lời báng bổ lẫn những lời cầu nguyện, chúng ta cùng nhau làm việc vì một cái gì đó nó liên kết chúng ta lại. Chỉ có cái đó là quan trọng.

Paneloux ngồi xuống cạnh Rieux. Ông có vẻ xúc động :

- Vâng, đúng thế, ông, ông cũng làm việc vì hạnh phúc con người.

Rieux cố mỉm cười.

- Hạnh phúc con người, cái từ đó quá lớn đối với tôi. Tôi không dám đi xa đến thế. Cái tôi lưu tâm là sức khỏe con người, trước hết là sức khỏe con người.

Paneloux ngập ngừng :

- Ông bác sĩ này.

Nhưng rồi ngừng lại. Trên trán ông, mồ hôi cũng đã ròng ròng. Ông thì thầm: “Tạm biệt”, và cặp mắt ông long lanh khi đứng dậy. Ông sắp bước đi thì đang suy tư, Rieux cũng đứng dậy và bước đến bên ông :

- Một lần nữa, xin cha thứ lỗi. Tôi sẽ không bao giờ để cơn giận bùng lên như thế nữa.

Paneloux chìa tay buồn bã nói :

- Thế nhưng tôi chưa thuyết phục được ông!

- Chẳng sao - Rieux đáp - Cái tôi căm thù, là chết chóc và tội ác, cha biết rõ đấy. Và dù cha muốn hay không, thì chết chóc và tội ác ấy, chúng ta vẫn cùng nhau chịu đựng và chống trả.

Rieux giữ bàn tay Paneloux lại trong tay mình :

- Cha thấy không, - Ông nói và tránh không nhìn Paneloux - bây giờ ngay đến Chúa cũng không chia rẽ được chúng ta.

Từ ngày tham gia các tổ chức y tế, Paneloux chưa hề rời khỏi các bệnh viện và những nơi có dịch hạch. Giữa những người cứu trợ, ông tự đặt mình vào vị trí mà ông nghĩ phải là của ông, nghĩa là vào vị trí hàng đầu. Ông đã chứng kiến những cảnh chết chóc. Và tuy về nguyên lý, ông được huyết thanh bảo vệ, nhưng không phải ông không bao giờ băn khoăn về bản thân cái chết của mình. Bề ngoài, ông luôn luôn giữ thái độ bình tĩnh. Nhưng từ hôm nhìn, khá lâu, một đứa trẻ chết, ông hình như thay đổi. Trên nét mặt ông, sự căng thẳng ngày một hiện lên rõ rệt. Và đến hôm ông vừa cười vừa nói với Rieux là ông đang dự thảo một tiểu luận ngắn về vấn đề: “Một linh mục có thể, hỏi ý kiến một thầy thuốc không?” thì Rieux có cảm giác đây là một vấn đề thật sự nghiêm trang. Khi Rieux ngỏ ý muốn được biết công trình ấy, thì Paneloux đáp là ông phải thuyết giáo trong một buổi lễ cầu kinh của nam giới và trong dịp ấy, ông sẽ trình bày ít ra cũng một vài quan điểm của mình :

- Tôi muốn ông đến dự, bác sĩ ạ, vấn đề sẽ làm ông thích thú đấy.

Cha Paneloux trình bày bản thuyết giáo thứ hai của mình vào một ngày gió to. Nói đúng ra, các hàng ghế cử tọa thưa thớt hơn lần trước. Ấy là vì quang cảnh này không còn sức hấp dẫn của cái mới đối với đồng bào chúng tôi. Trong hoàn cảnh khó khăn của thành phố, bản thân từ “cái mới” đã mất hết ý nghĩa. Vả lại, khi chưa hoàn toàn xao nhãng bổn phận tôn giáo hoặc chưa đến nỗi làm cho bổn phận ấy và đời tư hết sức vô đạo của mình chỉ là một, thì người ta thường thay thế những tập quán thường ngày bằng những hành vi mê tín không hợp lý. Họ sẵn sàng đeo những chiếc ảnh tượng hộ mệnh hay bùa ngài thánh Roch nhiều hơn là đi nhà thờ.

Có thể kể làm ví dụ việc đồng bào chúng tôi sử dụng quá đáng những lời tiên tri. Vào mùa xuân, họ trông chờ ngày đêm dịch bệnh chấm dứt, và không ai nghĩ tới việc hỏi người khác những chi tiết chính xác về thời hạn dịch hạch, vì ai nấy đều đinh ninh nó không có thời hạn. Nhưng ngày tháng trôi qua, người ta bắt đầu lo sợ tai họa thực sự sẽ không chấm dứt, và đồng thời lại hy vọng dịch bệnh sẽ kết thúc. Thế là người ta chuyền tay nhau những lời tiên tri phát ra từ các pháp sư hay các thánh của Giáo hội Cơ Đốc giáo. Nhiều nhà in trong thành phố thấy ngay món lợi có thể khai thác từ sự sùng bái này và phát hành rất rộng rãi các văn bản được in ra. Thấy công chúng vẫn một mực khao khát, họ cho tìm tòi trong các thư viện thành phố và lưu hành rộng rãi mọi chứng cứ mà truyền thuyết có thể cung cấp. Khi sử sách đã khô cạn những lời tiên tri, thì người ta đặt hàng cho các nhà báo là những người tỏ ra chẳng thua kém gì, ít ra cũng về phương diện này, những bậc đàn anh trong những thế kỷ trước.

Thậm chí một lời tiên tri được đăng tải dần trên mặt báo và được người ta đọc say sưa chẳng kém những truyện tình trước kia, khi chưa xảy ra dịch bệnh. Những lời này thì dựa trên những con tính kỳ cục trong đó có các yếu tố như con số nghìn của năm, số người chết và số tháng đã qua trong thời kỳ dịch hạch. Những lời khác thì lập những bảng so sánh với các nạn dịch hạch lớn trong lịch sử, rút ra những điểm giống nhau (mà họ gọi là hằng số) và, bằng những cách tính toán cũng không kém phần kỳ cục, cho rằng có thể từ đó rút ra những bài học đối với sự thử thách hiện nay. Nhưng những lời tiên đoán được công chúng hâm mộ nhất, dứt khoát là những lời dự báo, bằng một ngôn ngữ thần bí, hàng loạt sự kiện và sự kiện nào cũng có thể liên quan tới thành phố và do tính phức tạp của chúng, nên lý giải thế nào cũng được. Thế là sách sấm ngữ của Nostradamus 2 và của nữ thánh Odile 3 được mở ra hằng ngày, và bao giờ cũng có kết quả. Và cái còn lại chung cho tất cả các lời tiên tri là cuối cùng chúng đều làm cho người ta yên lòng. Duy chỉ riêng dịch hạch thì không.

Thế là đối với đồng bào chúng tôi, mê tín thay thế tôn giáo, và vì vậy, hôm Paneloux thuyết giáo, thính giả chỉ ngồi hết ba phần tư nhà thờ. Tối hôm đó, khi Rieux tới, thì gió luồn qua các cánh cửa tự động, tha hồ tung hoành giữa những đám cử tọa. Ông ngồi và nhìn thấy cha Paneloux bước lên giảng đài trong một ngôi nhà thờ im lìm, lạnh lẽo, giữa một cử tọa hoàn toàn chỉ gồm đàn ông. Cha Paneloux nói, giọng dịu dàng và cân nhắc hơn buổi trước và nhiều lần, thính giả thấy ông ngập ngừng trong lúc nói. Điều kỳ lạ hơn, là ông không còn nói “các con”, mà là “chúng ta”.

Nhưng giọng nói ông mỗi lúc một thêm vững vàng. Ông bắt đầu nhắc lại là, từ nhiều tháng nay, dịch hạch đã đến với chúng tôi, là giờ đây, chúng tôi biết nó rõ hơn vì đã từng thấy nó bao nhiêu lần “ngồi” vào bàn ăn chúng tôi hay các đầu giường người thân của mình, thấy nó đi bên cạnh hay chờ mình đến ở chỗ làm việc, vì vậy, giờ đây, có lẽ chúng tôi có thể đón nhận tốt hơn điều mà nó không ngừng nói đi nói lại với mình, nhưng trong cơn thảng thốt đầu tiên, có thể chúng tôi chưa nghe được rõ. Điều mà trước đây, cũng ở chỗ này, cha Paneloux đã từng thuyết giáo, đến nay vẫn đúng - hoặc ít ra ông cũng tin như vậy. Nhưng cũng có thể - như điều đó từng xảy ra đối với mọi người, và ông uất ức đập vào ngực - ông đã nghĩ và nói ra điều đó trong khi thiếu tình thương. Tuy nhiên, điều vẫn đúng là bao giờ, trong mọi việc, cũng có cái cần ghi nhớ. Thử thách đau đớn nhất vẫn là “cái lộc” cho người tín đồ đạo Cơ Đốc. Và cái mà trong trường hợp này, người tín đồ ấy phải tìm kiếm, chính là cái lộc của mình, nó ra làm sao, và làm thế nào để tìm thấy nó.

Vào lúc này, xung quanh Rieux, mọi người tìm cách ngồi thật khoan khoái, ngả người ra sau lưng ghế. Một cánh cửa có đệm đập khẽ, có ai đó giữ nó lại. Và Rieux, lãng ý đi vì chút tiếng động ấy, chỉ loáng thoáng nghe Paneloux tiếp tục thuyết giáo. Đại thể ông ta nói là không nên tìm cách lý giải cho mình cảnh tượng dịch hạch, mà nên cố gắng rút ra bài học có thể rút ra được. Rieux láng máng hiểu ra rằng theo cha Paneloux, thì không có gì cần giải thích cả. Ông tập trung chú ý khi Paneloux nhấn mạnh là đối với Chúa, có những điều có thể và những điều không thể giải thích được. Dĩ nhiên, có điều thiện và điều ác, và nói chung, người ta dễ dàng giải thích cái gì ngăn cách giữa thiện và ác. Nhưng cái khó bắt đầu từ bên trong cái ác. Chẳng hạn, có cái ác rõ ràng cần thiết và cái ác rõ ràng vô ích. Có don Juan 4 bị đày xuống Địa ngục và có cái chết của một đứa trẻ. Vì nếu kẻ phóng đãng đáng bị sét đánh, thì trái lại, không thể hiểu được vì sao một đứa trẻ lại phải chịu đau đớn. Và thực ra, trên trái đất, không có gì quan trọng hơn nỗi đau đớn của một đứa trẻ, sự kinh tởm mà nỗi đau có kéo theo nó, và những lý do biện giải cho nó. Còn nữa trong cuộc sống, thì Thượng đế tạo ra cho người ta mọi thuận lợi, và cho đến đây, tôn giáo chẳng có công trạng gì hết. Trái lại, ở đây, Thượng đế dồn chúng tôi đến tận chân tường. Chúng tôi ở dưới những bức tường thành của dịch hạch và phải tìm cái “lộc” của mình trong cái bóng giết người của chúng. Cha Paneloux cũng không nhận ra cho riêng mình những lợi thế có thể dễ dàng giành được và cho phép vượt qua tường. Ông có thể dễ dàng nói rằng những diễm phúc vĩnh hằng đang chờ đón đứa trẻ có thể bù đắp nỗi đau đớn của nó, nhưng, thực ra, ông chẳng hay biết gì về cái đó cả. Thật vậy, ai có thể khẳng định một niềm vui vĩnh cửu có thể bù đắp một lát nỗi khổ đau của con người? Chắc hẳn không phải là một tín đồ đạo Cơ Đốc, vì Chúa đã từng chịu đau đớn trong thịt da và trong tâm hồn. Không, cha Paneloux vẫn ở dưới chân tường, trung thành với sự phanh thây mà cái giá chữ thập là biểu tượng, mặt đối mặt với nỗi đau đớn của một đứa trẻ. Và ông không hề run sợ mà nói với thính giả hôm đó: “Hỡi những người anh em, thời cơ đã đến. Phải tin hết thảy hay phủ nhận hết thảy. Và ai đây trong số các anh em, dám phủ nhận hết thảy?”.

Rieux vừa thoáng nghĩ Paneloux sẽ đề cập tới chuyện dị giáo thì cha đã nói tiếp, một cách mạnh mẽ để khẳng định rằng mệnh lệnh ấy, yêu cầu thuần tuý, là cái “Lộc” của người tín đồ đạo Cơ Đốc. Đó cũng là đạo lý của họ. Paneloux biết rằng cái thái quá trong đạo lý ông sắp nói tới sẽ làm nhiều người khó chịu vì họ đã quen với một đạo lý khoan dung hơn và kinh điển hơn. Nhưng tôn giáo thời kỳ dịch hạch không thể là thứ tôn giáo thường ngày và, nếu Chúa có thể chấp nhận, thậm chí mong muốn, linh hồn nghỉ ngơi và hoan hỉ trong những thời kỳ hạnh phúc, thì, trái lại. Người muốn nó thái quá trong những sự thái quá của bất hạnh. Ngày nay, Chúa ưu ái đặt loài người trong nỗi bất hạnh lớn lao tới mức họ buộc phải tìm kiếm và đảm nhiệm cái đạo lý lớn lao nhất là đạo lý “Tất cả hay không gì hết”.

Trong thế kỷ trước, một tác giả ngoại đạo cho rằng ông ta đã vén được bức màn bí ẩn của Giáo hội khi khẳng định rằng không có Luyện ngục. Ông ta muốn hàm ý là không có biện pháp nửa vời, chỉ có Thiên đường và Địa ngục và người ta chỉ có thể hoặc được cứu vớt hoặc bị đọa đày tùy theo sự lựa chọn của mình. Theo Paneloux, đó là một thứ tà giáo: nó chỉ có thể nảy sinh trong một tâm hồn phóng đãng. Vì quả là có một chốn Luyện ngục. Nhưng dĩ nhiên có những thời kỳ không thể đặt quá nhiều hy vọng vào chốn Luyện ngục ấy, có những thời kỳ không thể nói tới chuyện có những tội nhẹ. Mọi tội lỗi đều có thể làm chết người và mọi thái độ thờ ơ đều mang tội. Hoặc là tất cả, hoặc không là gì cả.

Paneloux ngừng lại, và Rieux nghe rõ hơn, qua các cánh cửa, tiếng rên rỉ của luồng gió hình như đang mạnh thêm lên ở ngoài trời. Cùng lúc đó, cha Paneloux cho rằng cái đạo lý chấp nhận tất thảy ông vừa nói, không nên hiểu theo nghĩa hẹp thường ngày, rằng đây không phải là sự nhẫn nhục tầm thường, cũng không phải một sự hạ mình khó khăn. Đây là một sự sỉ nhục, nhưng là một sự sỉ nhục mà người bị sỉ nhục chấp nhận. Dĩ nhiên, nỗi đau đớn của một đứa trẻ là một sự sỉ nhục đối với khối óc và con tim. Nhưng chính vì vậy phải chịu nỗi đau khổ ấy, - chính vì vậy - đến đây Paneloux khẳng định với cử tọa rằng điều ông sắp nói không phải là điều dễ nói - chính vì vậy, phải mong ước nỗi đau đớn ấy bởi lẽ Thượng đế mong muốn nó. Chỉ có như thế người tín đồ đạo Cơ Đốc mới không né tránh gì hết và, khi mọi lối thoát đã bị bịt kín, sẽ đi vào chỗ tận cùng của sự lựa chọn cốt yếu, sẽ chọn con đường tin hết thảy để khỏi rơi vào ngõ cụt phủ nhận tất thảy. Vào lúc đó, trong các nhà thờ, sau khi biết hạch xoài là con đường tự nhiên để cơ thể tẩy ra ngoài những vi khuẩn nó bị nhiễm, những người đàn bà trung hậu đều nói: “Cầu mong Chúa ban cho nó những cái hạch xoài”. Cũng như những người đàn bà ấy, người tín đồ đạo Cơ Đốc biết phó mặc mình cho ý chí của Chúa, dù ý chí đó, không sao hiểu được. Không thể nói: “Cái đó, tôi không hiểu; nhưng cái này thì không thể chấp nhận”. Phải nhảy vào cái trung tâm cái không thể chấp nhận được đặt ra cho chúng ta ấy, chính là để làm công việc lựa chọn của mình. Nỗi đau đớn của trẻ em là miếng bánh cay đắng của chúng ta, nhưng không có thứ bánh ấy, thì tâm hồn chúng ta sẽ chết vì cái đói tinh thần.

Đến đây, bắt đầu nổi lên tiếng ồn ã vốn thường xuất hiện mỗi khi cha Paneloux ngừng lời. Nhưng bất giác nhà truyền giáo tiếp tục nói, giọng mạnh mẽ hơn, và như thể muốn hỏi vào địa vị các thính giả thì nên có thái độ ra sao. Chắc hẳn người ta sẽ thốt lên cái từ “định mệnh” khủng khiếp. Nhưng ông sẽ không lùi bước trước cái từ ấy nếu ông được phép ghép thêm vào đó tính từ “tích cực”. Dĩ nhiên, và một lần nữa, không nên bắt chước các tín đồ Cơ Đốc giáo Abyssinie mà ông đã nói tới. Thậm chí, không nên nghĩ tới việc bắt chước những người bị dịch hạch ở Ba Tư không họ cho đàn chó dữ đuổi theo những người Cơ Đốc giáo trong các tổ chức y tế, và lớn tiếng cầu Chúa bắt những kẻ dị giáo đó phải chịu dịch bệnh vì chúng muốn chống lại tai họa do Chúa ban phát. Nhưng ngược lại, cũng không nên bắt chước các tu sĩ ở Caire: trong những đợt dịch hạch thế kỷ trước, trong lúc ban thánh thể, họ lấy những cái cặp gắp bánh thánh để tránh tiếp xúc với những cái miệng ướt át và nóng bỏng có thể có mầm mống dịch bệnh. Những người bị dịch hạch ở Ba Tư và các tu sĩ ở Caire đều phạm tội. Vì, đối với những người thứ nhất, nỗi đau đớn của trẻ em không có nghĩa lý gì, và ngược lại đối với những người thứ hai, thì lòng sợ hãi - rất người - đối với đau đớn đã lấn át tất cả. Trong cả hai trường hợp, người ta đã tránh né vấn đề. Họ đều bỏ ngoài tai tiếng nói của Chúa. Nhưng Paneloux muốn nhắc tới những tấm gương khác. Theo lời người kể lại vụ dịch hạch lớn ở Marseille, thì trong số tám mươi mốt nhà tổ chức hành ở tu viện Marseille, chỉ có bốn người sống sót sau dịch bệnh. Và trong số bốn người ấy, thì ba bỏ trốn. Những người viết ký chỉ nói có vậy và theo chức năng nghề nghiệp không bình luận gì thêm. Nhưng đọc những dòng nhật ký này, Paneloux tập trung toàn bộ tư tưởng vào người ở lại, mặc dù bảy mươi bảy xác chết, và nhất là mặc dù tấm gương của ba người kia. Và nắm tay đập mạnh mép bàn, cha Paneloux thét to: “Hỡi những người anh em, chúng ta phải là người ở lại”.

Vấn đề không phải là chối từ những sự phòng ngừa và trật tự sáng suốt của xã hội trong cảnh tai họa mất trật tự. Không nên nghe theo những nhà đạo đức học bảo người ta phải quỳ gối và từ bỏ hết tất thảy. Chỉ cần bắt đầu bước lên phía trước, trong tăm tối, hơi mò mẫm chút ít, và cố làm điều thiện. Còn nữa thì phải tiếp tục tin vào Chúa, ngay đối với cả cái chết của đứa trẻ em, và không tìm kiếm sự cầu viện cá nhân.

Đến đây, cha Paneloux gợi lại hình ảnh cao đẹp của giám mục Belzunce trong vụ dịch hạch ở Marseille. Ông nhắc lại rằng, vào cuối thời kỳ dịch bệnh, sau khi làm tất cả những việc phải làm, và nghĩ không còn cách cứu chữa nào nữa, giám mục đã bịt kín cửa lại và ở trong nhà với ít cái ăn, rằng dân chúng - mà giám mục vốn là thần tượng - do một sự biến động tình cảm như thường thấy trong những nỗi đau đớn quá lớn, căm giận ông, đem xác chết vứt đầy xung quanh nhà để làm ông bị lây nhiễm và thậm chí còn quẳng xác qua tường để làm cho ông chết chắc chắn hơn. Thế là đức giám mục, trong một phút yếu đuối cuối cùng, những tưởng tách mình ra khỏi cái thế giới chết chóc, thế nhưng những xác chết lại rơi từ trên trời xuống đầu ông. Còn chúng ta nữa, chúng ta phải đinh ninh là không có ốc đảo nào cả trong dịch hạch. Không, không có cái trung dung. Phải chấp nhận điều sỉ nhục vì phải lựa chọn chết hay yêu Thượng đế. Và ai dám chọn con đường căm ghét Thượng đế?

“Hỡi các anh em, cuối cùng Paneloux nói và định kết luận, tình thương yêu Chúa là một tình thương yêu khó khăn. Nó đòi hỏi sự hy sinh hoàn toàn bản thân mình và thái độ coi thường con người mình. Nhưng chỉ có Thượng đế là có thể xóa bỏ nỗi đau và cái chết của trẻ em, dẫu sao, chỉ có Thượng đế là có thể làm cho cái chết trở nên cần thiết, bởi lẽ người ta không thể hiểu nổi mà chỉ có thể ước mong cái chết. Đấy là bài học gian khổ tôi muốn cùng chia sẻ với anh em. Đấy là niềm tin, đau đớn đối với con người, quyết định đối với Thượng đế, mà chúng ta phải tiếp cận.

Trước hình ảnh khủng khiếp này, mọi người đều phải bình đẳng. Ở đỉnh cao chót vót ấy, tất cả đều hòa đồng và bình đẳng, chân lý sẽ toát ra từ sự bất công bề ngoài. Chính vì thế trong nhiều nhà thờ ở miền nam nước Pháp, trong mấy thế kỷ nay và dưới những viên gạch lát chôn cầu kinh, đã yên nghỉ những người chết vì dịch hạch và các vị linh mục đứng nói phía trên mộ họ. Tinh thần mà các vị truyền bá toát ra từ các lớp tro mà trẻ em có góp phần trong đó”.

Khi Rieux bước ra, một luồng gió dữ dội ùa qua cánh cửa hé mở, đập thẳng vào mặt các tín đồ. Gió đưa vào trong nhà thờ một mùi nước mưa, một hương vị vỉa hè ướt át khiến họ có thể đoán được quanh cảnh thành phố trước khi họ ra khỏi nơi đây. Phía trước Rieux, một linh mục già và một trợ tế trẻ vừa bước ra cửa, vất vả lắm mới giữ được mũ. Nhưng không phải vì vậy mà linh mục già không bình luận bài thuyết giáo. Ông ca ngợi tài hùng biện của cha Paneloux, nhưng lo lắng đối với những tư tưởng táo bạo được trình bày. Ông cho rằng bài thuyết giáo chứa đựng nhiều lo âu hơn là sức mạnh, và vào cái tuổi Paneloux, một linh mục không có quyền được lo âu. Đầu cúi thấp để che gió, người trợ tế trẻ tuổi nói một cách chắn chắn rằng anh ta lui tới nhiều ở chỗ cha Paneloux nên biết được sự tiến triển về tư tưởng của ông, và bản tiểu luận của ông còn táo bạo hơn nhiều và chắc hẳn sẽ không được phép in ra.

- Thế tư tưởng của ông ta thế nào? - Vị linh mục già hỏi.

Họ đã ra tới sân trước và gió gào hú vây quanh họ, át hết tiếng người trợ tế trẻ. Đến khi nói được, anh ta chỉ nói :

- Nếu một linh mục hỏi ý kiến một thầy thuốc, thì ắt hẳn sẽ có mâu thuẫn.

Khi Rieux về kể lại những lời của Paneloux, thì Tarrou bảo là anh có biết một linh mục mất lòng tin khi nhìn thấy, trong chiến tranh, khuôn mặt một thanh niên chết trận.

- Paneloux nói có lý - Tarrou bảo - Khi trẻ thơ bị chết thì một tín đồ đạo Cơ Đốc phải mất lòng tin hay phải chấp nhận cái chết. Paneloux không muốn mất lòng tin, ông ta sẽ đi tới cùng. Đó là điều ông muốn nói.

Liệu nhận xét này của Tarrou có cho phép soi sáng chút ít những sự kiện không may xảy ra về sau và trong đó những người xung quanh hình như không thể hiểu nổi thái độ của Paneloux không? Chúng ta sẽ xét đoán.

Mấy ngày sau buổi thuyết giáo, Paneloux lo thay đổi chỗ ở. Đây là thời kỳ dịch bệnh tiến triển, khiến người ta liên tiếp đổi chỗ ở trong thành phố. Và cũng như Tarrou phải rời khách sạn đến ở nhà Rieux, cha Paneloux cũng phải bỏ lại căn nhà dòng thánh dành cho ông để đến ở nhà một bà cụ già, người thường đi nhà thờ và không bị nhiễm dịch. Trong lúc dọn nhà, Paneloux cảm thấy mỗi lúc một thêm mệt mỏi và lo âu. Và chính vì thế ông làm mất lòng tôn kính của bà cụ chủ nhà đối với mình. Khi bà cụ nhiệt liệt ca ngợi giá trị của những lời tiên tri của nữ thánh Odile, cha Paneloux tỏ một thoáng sốt ruột, chắc hẳn vì mệt mỏi. Về sau, ông hết sức cố gắng để bà cụ ít ra cũng giữ thái độ trung lập khoan hòa nhưng không sao đạt được. Ông đã gây ấn tượng xấu. Và tối nào cũng vậy, trước khi trở về căn buồng căng đầy những tấm riđô móc tay, ông cũng nhìn thấy bà cụ ngồi trong ghế xalông quay lưng lại và nghe hai tiếng “Chào cha” lạnh nhạt luôn luôn ám ảnh ông. Vào một buổi tối như thế, khi đi ngủ, đầu kêu ong ong, ông cảm thấy ở cổ tay và thái dương một cơn sốt dữ dội ủ đã từ mấy ngày nay.

Tình hình về sau xảy ra như thế nào, người ta chỉ được biết qua những lời kể lại của bà cụ chủ nhà. Buổi sáng, cụ dậy sớm, theo thói quen. Một lúc sau, ngạc nhiên không thấy cha Paneloux ra khỏi phòng, cụ quyết định gõ cửa, sau mấy phút ngập ngừng. Bà cụ thấy ông còn nằm, sau một đêm mất ngủ. Ông tức thở và có vẻ sung huyết hơn thường ngày. Theo đúng lời cụ nói, cụ lễ phép đề nghị cho mời thầy thuốc, nhưng Paneloux từ chối với một thái độ quyết liệt mà cụ cho là đáng tiếc.

Cụ chỉ còn biết rút lui. Một lát sau, cha Paneloux bấm chuông gọi. Ông xin lỗi về cử chỉ bực tức lúc nãy và nói với cụ rằng không thể có vấn đề dịch hạch, rằng ông không có triệu chứng nào của dịch hạch và đây chỉ là cơn mệt mỏi nhất thời. Bà cụ kiêu hãnh đáp rằng cụ không lo cho sự an toàn của bản thân cụ, nó nằm ở trong tay Chúa, nhưng cụ chỉ nghĩ đến sức khỏe của cha mà cụ cho là cụ có phần trách nhiệm. Nhưng vì Paneloux không nói thêm gì hết nên cụ chủ nhà, chắc hẳn vì muốn làm tròn bổn phận của mình, lại đề nghị cho mời thầy thuốc. Một lần nữa, cha Paneloux lại từ chối, nhưng bằng cách đưa thêm những lời giảng giải mà bà cụ thấy rất mơ hồ. Cụ chỉ nghĩ là mình đã hiểu và đây chính là điều mà cụ thấy là không thể nào hiểu nổi - việc Paneloux không cho mời thầy thuốc vì nó không phù hợp với các nguyên tắc của ông. Cụ kết luận là cơn sốt làm cho ý nghĩ của ông lộn xộn và cụ chỉ đưa nước thuốc sắc cho ông uống.

Lo làm thật đầy đủ những nghĩa vụ mà tình thế tạo ra cho mình, bà cụ đều đặn, cứ hai tiếng một, vào thăm người bệnh. Điều làm cụ ngạc nhiên hơn cả là thái độ bồn chồn xao động liên tục suốt ngày hôm đó của cha Paneloux. Ông quăng ra đi rồi lại kéo về, tay luôn luôn đưa lên vầng trán dâm dấp, và thường gượng dậy như để cố gắng một cơn ho bị bóp nghẹt, khàn khàn và ướt át, giống như muốn giật tung một cái gì, như muốn moi ra mà không được những cục bỏng từ sâu trong cổ họng làm ông ngạt thở. Sau những cơn bệnh biến ấy, ông ngã vật ra sau, với tất cả những dấu hiệu của một tình trạng kiệt sức. Cuối cùng, ông lại gượng dậy nửa nằm nửa ngồi và, trong chốc lát, đăm đăm nhìn ra trước mặt một cách còn dữ dội hơn cả những cơn rẫy rụa lúc trước. Nhưng bà cụ vẫn còn ngập ngừng trong việc đi mời thầy thuốc và cưỡng lại ý muốn người bệnh. Có thể chỉ là một cơn sốt, dù nó có vẻ mãnh liệt đến thế.

Thế nhưng buổi chiều, bà cụ thử hỏi lại Paneloux và chỉ nhận được những câu trả lời mơ hồ. Cụ nhắc lại đề nghị. Nhưng ông vùng dậy và với giọng tuy ngạt thở, nói rành rọt rằng ông không muốn có thầy thuốc. Bà cụ quyết định chờ tới sáng mai và, nếu lúc đó, bệnh không giảm thì cụ sẽ gọi điện theo số điện thoại mà hãng Ransdoc ngày nào cũng nhắc đến hàng chục lần trên đài phát thanh. Luôn luôn lo lắng bổn phận của mình, bà cụ đinh ninh đêm nay sẽ thức trông coi người bệnh. Nhưng tối hôm ấy, sau khi đưa nước thuốc vừa mới sắc cho ông, cụ muốn nằm nghỉ một lát và ngủ quên đi, sáng sớm hôm sau mới tỉnh giấc. Cụ vội chạy vào buồng.

Cha Paneloux nằm dài trên giường, im lìm. Tiếp theo cơn sung huyết cao độ hôm qua, là một hiện tượng xám ngắt càng rõ hơn trên dáng dấp khuôn mặt vẫn còn đầy đặn. Ông đăm đăm nhìn cây đèn chùm con con làm bằng những viên ngọc trai ngũ sắc treo đầu giường. Khi bà cụ bước vào, ông quay đầu lại. Theo lời cụ, lúc đó, ông có vẻ như đã bị hành hạ giày vò suốt đêm và không còn một chút sức lực nào để phản ứng. Cụ hỏi ông tình hình sức khỏe ra sao.

Với một giọng mà bà cụ nhận thấy âm sắc dửng dưng đến kỳ lạ, ông đáp ông không được khỏe, nhưng không phải mời thầy thuốc mà chỉ cần đưa ông đến bệnh viện để mọi sự được làm đúng theo quy tắc. Hốt hoảng, bà cụ vội chạy lại máy điện thoại.

Đến trưa thì Rieux tới. Nghe bà cụ chủ nhà kể lại, ông chỉ nói là Paneloux làm đúng và có lẽ đã quá chậm. Paneloux tiếp ông cũng với một thái độ dửng dưng. Rieux khám cho ông và ngạc nhiên không tìm thấy một triệu chứng chủ yếu nào của dịch hạch - hạch xoài hay màng phổi cả ngoài hiện tượng phổi bị ứ căng và ngạt thở. Dẫu sao, mạch cũng rất yếu và tình trạng chung rất đáng báo động, chỉ còn ít hy vọng.

- Cha không có một triệu chứng chủ yếu nào của dịch hạch cả - Ông nói với Paneloux - Nhưng thực ra, vẫn đáng nghi ngờ và cha vẫn phải cách ly.

Cha Paneloux mỉm cười một cách kỳ lạ, như thế vì phép lịch sự, nhưng im lặng. Rieux bước ra để gọi điện rồi quay trở lại.

- Tôi ở lại với cha. - Ông dịu dàng nói.

Paneloux có vẻ tỉnh táo trở lại và quay về phía Rieux cặp mắt trong đó hình như lại sống dậy một thứ nhiệt tình. Rồi ông phát âm một cách khó khăn, nên không thể biết là khi nói, ông có buồn hay không :

- Cảm ơn ông. Nhưng người tu hành không có bạn. Họ đã đặt tất cả ở Thượng đế.

Ông xin cái giá chữ thập treo trên đầu giường và, khi có trong tay, ông quay đi để nhìn.

Ở bệnh viện, Paneloux không hề hé răng. Ông phó mặc cho mọi sự săn sóc, điều trị, tựa một vật vô tri vô giác, nhưng tay vẫn nắm chặt cái giá chữ thập. Tuy thế, ca của ông vẫn nhập nhằng. Trong óc Rieux vẫn bán tín bán nghi. Là dịch hạch nhưng lại không phải là dịch hạch. Vả lại, đã ít lâu nay, hình như nó thích thú đánh lạc hướng những sự chẩn đoán. Nhưng trong trường hợp Paneloux, tình hình về sau chứng minh rằng sự ngờ vực đó là không quan trọng.

Cơn sốt tăng lên. Tiếng ho mỗi lúc một khàn thêm và hành hạ người bệnh suốt cả ngày. Cuối cùng, buổi tối, Paneloux khạc ra cái cục làm ông ngạt thở. Nó đỏ hỏn. Giữa lúc cơn sốt lên cao, Paneloux ánh mắt vẫn lạnh lùng và sáng hôm sau, khi thấy ông đã chết, nửa người thõng ra ngoài giường, ánh mắt không thể hiện gì hết. Trên tấm phiếu bệnh của ông, có ghi: “Ca không rõ ràng”.

Lễ Các Thánh 5 năm ấy không như các năm khác. Dĩ nhiên, thời tiết có thuận. Nó thay đổi đột ngột và bỗng nhiên những ngày nắng muộn mằn nhường chỗ cho những ngày dịu mát. Cũng như những năm khác, giờ đây, gió lạnh thổi liên hồi kỳ trận. Những đám mây lớn ùn từ chân trời này sang chân trời khác, phủ bóng lên những ngôi nhà và sau khi mây bay qua, ánh sáng lạnh lẽo vàng rực của bầu trời tháng mười một lại ập xuống. Những chiếc áo mưa đầu tiên đã xuất hiện. Nhưng người ta nhận thấy nhiều, rất nhiều những tấm vải tráng cao su óng ánh. Quả là báo chí kể lại rằng, hai trăm năm trước đây, trong những vụ dịch hạch lớn ở phía nam, các thầy thuốc mang vải tráng dầu để phòng bệnh. Các cửa hiệu lợi dụng cơ hội để bán ra một lô quần áo không còn hợp thời trang, nhưng nay ai nấy đều hy vọng chúng có khả năng miễn dịch.

Tuy nhiên, tất cả những dấu hiệu thời tiết ấy vẫn không thể làm người ta quên là các nghĩa trang, chẳng có ai thăm viếng. Những năm trước, các toa xe điện đều ngát mùi hoa cúc, và hàng đoàn phụ nữ đến những nơi người thân an nghỉ để dâng hoa lên mộ. Đấy là ngày người ta tìm cách bù đắp lại cho người quá cố nỗi cô đơn và sự quên lãng kéo dài qua bao tháng ngày đằng đẵng. Những năm ấy, không ai buồn nghĩ tới người chết. Đúng ra người ta đã nghĩ tới quá nhiều. Vấn đề không còn là đến lại với họ với một ít luyến tiếc và nhiều sầu não. Họ không còn là những người cô đơn mà mỗi năm một lần, người ta đến để bày tỏ nỗi lòng nữa. Họ là những kẻ xa lạ mà người ta muốn lãng quên, Lễ tưởng niệm Người chết, năm ấy, có thể nói bị “lờ đi” là vì như vậy. Theo Cottard, - mà Tarrou cho là lời lẽ ngày càng thêm châm biếm - thì ngày nào cũng là ngày Lễ tưởng niệm Người chết.

Và thực sự, ngọn lửa, dịch hạch rừng rực lên ngày một thêm hào hứng trong lò thiêu xác. Quả là ngày này sang ngày khác, số người chết không tăng thêm. Nhưng hình như dịch hạch đã “an vị” ở cực điểm của nó và, đối với các nạn nhân, nó tỏ rõ cái đều đặn và chính xác của một viên chức mẫn cán. Về nguyên lý, và theo ý kiến của các nhân vật có thẩm quyền, thì đấy là một dấu hiệu tốt lành. Bác sĩ Richard, chẳng hạn, cho đồ thị theo dõi sự tiến triển của dịch hạch, lúc đầu liên tục đi lên, rồi sau giữ nguyên mặt bằng một thời gian dài, là đang làm cho người ta yên tâm. “Một đồ thị tốt, một đồ thị tuyệt vời”, ông ta bảo. Ông cho rằng dịch bệnh đã đạt tới cái mà ông gọi là “mặt bằng” đồ thị.

Từ nay thì bệnh chỉ có thuyên giảm thôi. Theo ông, đây là nhờ loại huyết thanh mới của Castel: quả là nó vừa đem lại vài kết quả bất ngờ. Ông già Castel không phản đối nhưng cho rằng trên thực tế, không thể dự đoán gì được, vì lịch sử các dịch bệnh có những bước nhảy bất ngờ. Đã từ lâu, tỉnh muốn làm yên lòng công chúng nhưng vì dịch bệnh nên chưa làm được, nay muốn họp các thầy thuốc để nghe họ báo cáo. Đúng lúc đó, thì bác sĩ Richard chết vì dịch hạch, ngay trên mặt bằng của dịch bệnh. Sự việc thật bất ngờ nhưng cũng chẳng chứng minh gì hết. Thế là các nhà chức trách trở lại bi quan một cách vô căn cứ cũng như trước đây đã từng lạc quan vô căn cứ. Về phía mình, Castel chỉ lo pha chế huyết thanh hết sức cẩn thận. Dẫu sao, cũng chỉ còn một nơi công cộng chưa bị biến thành bệnh viện hay nhà cách ly là trụ sở tỉnh vì cần giữ lại một nơi để hội họp. Nhưng nói chung, và vì dịch bệnh vào thời kỳ này tương đối ổn định tổ chức do Rieux đề xuất vẫn đứng vững. Đội ngũ thầy thuốc và những người giúp việc đã cố gắng đến kiệt sức và không sao có thể hình dung những nỗ lực lớn hơn. Họ chỉ phải tiếp tục một cách đều đặn cái công việc siêu phàm ấy - nếu có thể nói như vậy - Dạng dịch hạch màng phổi trước đây đã xuất hiện, nay lan tràn trong khắp thành phố, tựa như có ngọn gió thổi bùng lên những đám cháy trong lồng ngực. Bị nôn ra máu, người bệnh chết nhanh hơn nhiều. Với dạng mới này của dịch bệnh, nguy cơ lây lan nhiều hơn. Thực ra, ý kiến các chuyên gia luôn luôn mâu thuẫn nhau. Nhưng để được an toàn hơn nhân viên y tế tiếp tục đeo mặt nạ bằng gạc đã sát trùng. Dẫu sao, thoạt nhìn, người ta cho là dịch bệnh có khả năng lan rộng. Nhưng vì bớt được những ca dạng hạch xoài nên cán cân lại thăng bằng.

Nhưng do tiếp tế ngày càng khó khăn nên người ta có những mặt lo lắng khác. Nạn đầu cơ góp phần vào trong đó, và người ta bán với giá không sao tưởng tượng nổi những nhu yếu phẩm lúc đó khan hiếm trên thị trường. Các gia đình nghèo lâm vào tình thế rất vất vả, trong lúc các gia đình giàu có hầu như không thiếu một thứ gì. Nhẽ ra với hiệu lực của hoạt động không thiên vị của nó, dịch hạch phải tăng cường sự bình đẳng giữa các đồng bào chúng tôi, nhưng trái lại, do tác động tự nhiên của những lề thói ích kỷ, nó lại làm cho ý thức về sự bất công càng thêm gay gắt trong lòng người. Dĩ nhiên, còn lại sự bình đẳng tuyệt đối trước cái chết, nhưng không ai muốn có thứ bình đẳng đó. Bị đói, người nghèo càng luyến tiếc nhớ tới những thành phố và vùng nông thôn lân cận, nơi cuộc sống được tự do và bánh mì không đắt đỏ. Vì không được tiếp tế đầy đủ, họ đâm ra phải suy nghĩ kể cũng hơi vô lý là nhẽ ra người ta phải để cho họ ra đi. Tới mức có tin đồn đại rằng thỉnh thoảng trên tường, người ta đọc thấy, hoặc có khi, trên đường ông tỉnh trưởng đi qua người ta nghe vang lên, khẩu hiệu: “Bánh mì hoặc không khí”. Cái công thức hài hước ấy là hiệu lệnh cho một vài cuộc biểu tình bị nhanh chóng dập tắt, nhưng ai cũng thấy rõ tính chất nghiêm trọng của tình hình.

Dĩ nhiên, báo chí tuân theo mệnh lệnh nhận được là phải lạc quan với bất kỳ giá nào. Đọc báo, người ta thấy đặc điểm của tình hình là “tấm gương bình tĩnh và dũng cảm đáng xúc động” của dân chúng. Nhưng trong một thành phố hoàn toàn khép kín, trong đó không thể bưng bít được gì hết, không một ai bị đánh lừa về “tấm gương” của cả cộng đồng. Và muốn có một khái niệm chính xác về sự “bình tĩnh và dũng cảm” báo chí nêu lên, chỉ cần bước vào một nơi kiểm dịch hay một trại cách ly do cơ quan Nhà nước tổ chức. Có thể là người kể chuyện ở đây, bị gọi đến chỗ khác, không được biết những nơi đó. Cho nên chỉ xin viện dẫn lời thuật lại của Tarrou.

Thật vậy, trong sổ tay. Tarrou kể lại một buổi anh cùng Rambert đến thăm trại cách ly trên sân vận động thành phố. Sân vận động nằm sát cửa ô, một phía ngoảnh ra đường xe điện, một phía ra những khu đất hoang chạy dài tận chân đồi nơi thành phố được xây dựng. Bao quanh sân là những bức tường cao bằng ximăng và chỉ cần đặt người gác ở bốn cửa ra vào là bệnh nhân không sao bỏ trốn được. Và tường cũng ngăn cản không cho người phía ngoài, do tò mò, quấy nhiễu những người khốn khổ bị cách ly kiểm dịch. Trái lại, những người này, suốt ngày, nghe, tuy không nhìn thấy, những chuyến xe điện chạy qua, và khi nghe tiếng ồn ào náo nhiệt trên xe, đoán được giờ đến sở hay giờ tan sở của viên chức. Họ thấy cuộc sống, mà họ bị loại trừ ra khỏi, vẫn tiếp diễn chỉ cách mình có vài mét, và những bức tường xi-măng chia cắt hai thế giới còn xa lạ với nhau hơn là những thế giới trên hai hành tinh khác nhau.

Tarrou và Rambert đến sân vận động vào một buổi chiều Chủ nhật. Cùng đi với họ có Gonzalès, anh chàng chơi bóng đá, mà Rambert đã tìm gặp lại và cuối cùng anh ta nhận lời luân phiên canh gác sân vận động. Rambert phải giới thiệu anh ta với quản lý trại. Lúc họ gặp nhau, Gonzalès bảo Tarrou và Rambert là trước khi có dịch hạch, đúng vào giờ này, anh ta ăn mặc để ra sân thi đấu. Nhưng bây giờ, sân vận động đã bị trưng dụng không còn thi đấu được nữa, Gonzalès cảm thấy và có vẻ hoàn toàn thất nghiệp. Đấy là một trong những lý do anh nhận canh gác, với điều kiện chỉ vào những ngày cuối tuần không thôi. Trời ít mây và, ngước mắt lên, Gonzalès với thái độ tiếc rẻ, cho rằng thời tiết không mưa cũng không nắng này là lý tưởng cho một trận đấu. Anh cố gợi lại mùi dầu xoa trong nhà thay quần áo, những khu khán đài chật ních người như chỉ muốn sụp đổ, những chiếc mayô sặc sỡ trên sân bãi với thảm cỏ màu hung, những quả chanh lúc nghỉ giải lao hay chai limônat tê tê như châm vào những cái cổ họng khô khốc hàng ngàn chiếc kim mát lạnh. Tarrou ghi thêm là trên suốt chặng đường, anh chàng vận động viên luôn luôn giơ chân đá những viên sỏi trên những con đường sụt lún ở ngoại thành. Anh ta cố đá trúng vào miệng cống và mỗi lần đá trúng, là thốt lên “một, không”. Hút hết điếu thuốc, anh ta nhả mẩu thuốc còn lại xuống lơ lửng trước mặt và giơ chân đá tung lên. Gần tới sân vận động, quả bóng của trẻ nhỏ đang chơi rơi vào chỗ họ và Gonzalès vội đá trả lại chúng một cách chính xác.

Cuối cùng họ bước vào sân vận động. Khán đài chật ních. Nhưng sân bãi thì phủ kín hàng mấy trăm chiếc lều bạt màu đỏ, trong đó, người ta nhìn thấy từ xa chăn nệm và ba-lô. Khán đài được giữ lại để những người bị nhốt có thể tránh mưa, nắng. Mặt trời lặn, họ mới phải trở về lều. Phía dưới khán đài, là những vòi nước tắm lắp sẵn và những phòng thay quần áo ngày trước của các vận động viên nay biến thành văn phòng hay bệnh xá. Phần lớn những người bị nhốt đang ở trong các khán đài. Những người khác đi dạo trên các đường biên. Một vài người ngồi xổm trước cửa lều và bâng quơ nhìn mọi vật. Trên khán đài, nhiều người đã nằm sóng soài và có vẻ chờ đợi.

- Ban ngày họ làm gì? - Tarrou hỏi Rambert.

- Không làm gì hết.

Thật vậy, hầu hết mọi người đều hai cánh tay đu đưa và hai bàn tay không. Cái đám người mênh mông này im lặng như tờ đến kỳ lạ.

- Những ngày đầu, ở đây, nói không sao nghe được. - Rambert cất tiếng - Nhưng càng ngày, họ càng ít nói đi.

Theo những lời ghi chép của Tarrou, thì anh hiểu họ, và lúc đầu, anh thấy họ ngồi túm tụm lại trong lều chỉ biết cào gãi hay nghe tiếng ruồi vo ve, và hễ có ai chịu nghe, là họ thốt lên nỗi giận dữ hay lo sợ trong lòng. Nhưng từ khi trại chật cứng người là người, thì ngày càng ít đi những cái tai sẵn sàng nghe. Vì vậy họ chỉ còn im lặng và nghi ngờ. Quả là có một thứ nghi ngờ từ trên bầu trời xám xịt tuy vẫn có ánh sáng, trút xuống cái trại đỏ rực này.

Đúng, mọi người ở đây đều có vẻ nghi ngờ. Vì bị ngăn cách với những người khác, nên họ nghi ngờ không phải không có duyên cớ và họ lộ bộ mặt của những người đang tìm kiếm những lý do của mình và sợ hãi. Tarrou thấy ai nấy đều có ánh mắt trống rỗng, đều có vẻ đau khổ vì nỗi cách biệt mênh mông với tất cả những gì tạo nên cuộc sống của họ. Và vì không phải bao giờ cũng có thể nghĩ đến cái chết, nên họ không nghĩ tới gì hết. Họ đang nghỉ hè, nhưng cái tồi tệ hơn hết, Tarrou viết tiếp, là họ là những kẻ bị bỏ quên và họ biết điều đó. Những người quen biết họ đã quên họ vì người ta nghĩ tới cái khác và đó là điều rất dễ hiểu. Còn những người yêu thương họ thì cũng quên họ vì đã kiệt cả sức lực trong những việc chạy vạy và những lo toan để đưa họ ra khỏi trại. Mãi lo nghĩ tới việc ra trại ấy, người ta không còn nghĩ đến những người cần đưa ra nữa. Âu cũng là việc thường tình. Và cuối cùng, người ta nhận thấy không ai có thể thực sự nghĩ tới ai, dù là trong cơn hoạn nạn tồi tệ nhất. Vì thực sự nghĩ tới một ai đó, là phải nghĩ tới từng phút một, không vì bất cứ một việc gì mà lãng quên, dù là công việc nội trợ, là con ruồi bay qua, là những bữa ăn, là một sự ngứa ngáy. Nhưng bao giờ chẳng có ruồi bay qua và ngứa ngáy. Vì vậy, cuộc sống thật là khó sống. Và những người ở trong trại biết rõ như vậy”.

Khi gặp họ, người quản lý trại báo là có một ông Othon nào đó muốn gặp. Y đưa Gonzalès vào buồng giấy, rồi dẫn họ tới một góc khán đài: đang ngồi riêng một mình, Othon đứng dậy tiếp họ. Ông ta vẫn quần áo như trước và vẫn mang cổ cứng. Nhưng Tarrou nhận thấy tóc hai bên thái dương ông ta bờm xờm và một chiếc dây giày xổ tung. Viên thẩm phán có vẻ mệt mỏi, và không hề nhìn người đối thoại. Ông nói là rất mừng được gặp họ và nhờ chuyển lời cảm ơn bác sĩ Rieux về những việc bác sĩ đã làm.

Mấy người kia im lặng.

Một lát sau, Othon nói: Tôi hy vọng rằng Philippe đã không quá đau đớn

Lần đầu tiên, Tarrou nghe ông ta gọi tên con và anh hiểu có cái gì đó đã thay đổi. Mặt trời xuống thấp về phía chân trời, và giữa hai dải mây, các tia nắng dọi ngang vào khán đài, nhuộm vàng cả ba khuôn mặt.

- Không, - Tarrou đáp - không, quả là cháu không đau đớn.

Khi chia tay, Othon vẫn nhìn về phía mặt trời.

Tarrou và Rambert đến tạm biệt Gonzalès lúc đó đang nghiên cứu bảng cắt phiên canh gác. Anh chàng cầu thủ mỉm cười bắt tay họ:

Ít ra tôi cũng đã thấy lại buồng thay áo quần, vẫn như cũ thôi.

Một lát sau, viên quản lý tiễn chân Tarrou và Rambert. Bỗng có tiếng rào rào trên khán đài. Loa phóng thanh trước đây dùng để thông báo kết quả các trận đấu hay giới thiệu các đội bóng, thì nay tuyên bố bằng một giọng mũi rằng những người trong trại phải trở về lều để nhận phần ăn buổi tối. Chậm rãi, người ta lê bước rời khỏi khán đài, trở về lều trại. Sau khi mọi người yên vị, hai chiếc xe điện nhỏ, như vẫn thường thấy trong các nhà ga, chạy qua giữa các lều chở những chiếc nồi to tướng. Người ta chìa cánh tay, hai cái muôi vục vào hai chiếc nồi rồi lại bỏ ra để cho vào trong hai cái cà mèn. Cỗ xe chuyển động đi sang lều thứ hai.

- Khoa học đấy. - Tarrou bảo tay quản lý.

- Vâng, - Hắn đáp, vẻ thỏa mãn, và bắt tay họ - thế là khoa học.

Trời chạng vạng tối, bầu trời bớt mây. Một luồng ánh sáng dịu mát tỏa xuống trại. Trong cảnh chiều êm ả, từ khắp mọi phía nổi lên tiếng thìa, tiếng đĩa. Từng đàn dơi bay liệng trên lều trại và đột ngột biến mất. Phía ngoài các bức tường, một chuyến xe điện rít lên ở chỗ bẻ ghi đổi đường.

- Tội nghiệp ông dự thẩm - Tarrou thì thầm khi ông bước qua cổng trại - Phải làm một cái gì cho ông ta. Nhưng biết giúp đỡ một vị quan tòa như thế nào?

Trong thành phố, còn nhiều trại khác, nhưng vì cẩn trọng và thiếu thông tin trực tiếp nên người kể chuyện ở đây không thể nói gì nhiều hơn. Nhưng điều anh ta có thể nói, là sự tồn tại của những trại này, mùi con người từ trại thoát ra, tiếng oang oang của loa phóng thanh trong cảnh hoàng hôn, cái bí ẩn của các bức tường và nỗi niềm sợ hãi đối với những nơi đày đọa này, tất cả đè nặng lên tinh thần đồng bào chúng tôi và tăng thêm sự hoang mang, khó chịu của mọi người. Những sự rắc rối và xung đột với cơ quan Nhà nước tăng thêm.

Cuối tháng mười một, trời buổi sáng lạnh buốt. Những trận mưa xối xả rửa sạch hè phố, quét hết mây trên bầu trời, và đường phố bóng loáng. Sáng sáng, mặt trời yếu ớt tỏa xuống thành phố một thứ ánh sáng lấp lánh, giá lạnh. Trái lại, về chiều, không khí trở lại ấp áp. Đó là lúc Tarrou chọn để đến tâm tình đôi chút với bác sĩ Rieux.

Một hôm, lúc mười giờ, sau một ngày dài, mệt mỏi, Tarrou đi theo Rieux trong buổi đến thăm ông già bị hen suyễn vào buổi tối. Bầu trời dịu dàng tỏa sáng trên mái nhà trong cái khu phố cũ kỹ. Một làn gió nhẹ thoáng qua các ngã tư tối tăm. Đang từ những con đường vắng lặng tới đây, hai người bỗng rơi vào những câu chuyện huyên thuyên của ông lão. Ông bảo họ là có những người (trong trại cách ly) không đồng tình, là cái món ăn có bơ không bao giờ được thay đổi, là “đi đêm ắt có ngày gặp ma” và chắc chắn - đến đây lão vừa nói, vừa hai tay xoa vào nhau - sẽ có tình trạng lộn xộn, gây gổ. Trong lúc được bác sĩ chăm sóc, ông lão vẫn không ngớt bình luận các sự kiện.

Họ nghe có tiếng chân bước trên đầu. Bà lão trước vẻ chú ý của Tarrou, giải thích rằng có những bà hàng xóm trên sân thượng. Đồng thời, họ được biết đứng trên đó, có một tầm nhìn bao quát, và các dãy sân thượng thường có một phía liền nhau nên phụ nữ trong khu phố có thể đến thăm viếng nhau mà không cần ra khỏi nhà.

- Vâng, - Ông lão bảo - mời các ông lên. Không khí trên đó tốt lành.

Họ lên và thấy sân thượng vắng vẻ, chỉ có ba chiếc ghế tựa. Về một phía, xa tít tắp, ta nhìn thấy những mảnh sân thượng chạy dài và cuối cùng dựa vào một cái khối tối om và lởm chởm sỏi đá mà họ nhận ra là ngọn đồi thứ nhất. Phía kia, trên một vài đường phố và bến cảng bị che khuất, là chân trời, nơi trời và biển trộn lẫn vào nhau trong tiếng phập phồng mơ hồ. Bên kia các vách đá xa xa, một luồng sáng mà họ không thấy nguồn phát, xuất hiện một cách đều đặn: ngọn đèn pha trên eo biển, từ mùa xuân, tiếp tục chiếu sáng cho những con tàu quay mũi đi về những bến cảng khác. Trên bầu trời, gió quét hết mây, trở nên lóng lánh, những vì sao trong trẻo lấp lánh và luồng sáng xa xa của ngọn đèn pha, chốc chốc, dọi vào một màu tro thoáng qua. Một làn gió nhẹ mang đến mùi hương liệu và mùi đá sỏi. Cảnh vật im lặng như tờ.

- Ngồi đây thật thú vị. - Rieux ngồi xuống và cất tiếng - Như thể dịch hạch không bao giờ mon men tới.

Tarrou quay lưng lại phía ông và nhìn ra biển.

- Vâng, - Anh nói một lát sau - thú vị thật.

Anh đến ngồi cạnh Rieux và đăm đăm nhìn ông. Ba lần, luồng ánh sáng xuất hiện trên bầu trời. Từ dưới đường phố, vẳng lên tiếng bát đĩa loảng xoảng. Dưới nhà, có tiếng kẹt cửa.

- Rieux này, - Tarrou nói, giọng hết sức tự nhiên - anh chưa bao giờ tìm hiểu tôi là người thế nào cả. Anh có lòng mến tôi không?

- Có, - Bác sĩ Rieux đáp - tôi mến anh. Nhưng cho tới nay, chúng ta không có thì giờ.

- Tốt, điều đó làm tôi yên tâm, anh có muốn giờ này là giờ của tình thân mến không?

Rieux chỉ mỉm cười thay cho câu trả lời :

- Vậy thì, thế này...

“Rieux này, để cho gọn, tôi xin nói là từ lâu, tôi đã từng đau khổ vì dịch hạch trước khi biết thành phố này và nạn dịch này. Tôi muốn nói là tôi cũng như mọi người thôi. Nhưng có người không biết đến tình trạng và hoặc thấy thoải mái nữa kia, cũng có người thì biết và muốn thoát ra khỏi. Riêng tôi, bao giờ tôi cũng muốn thoát ra.

Lúc còn trẻ, tôi sống với ý niệm về sự ngây thơ của mình, nghĩa là không hề có ý niệm gì hết. Tôi không thuộc loại người hay băn khoăn, tôi bắt đầu cuộc đời một cách hợp lẽ. Tôi thành công trong mọi việc, tôi sống thoải mái trong sự hòa hợp, nhất là với phụ nữ, và nếu tôi có một vài nỗi lo âu thì cũng chỉ thoáng qua. Một hôm, tôi bắt đầu suy nghĩ. Giờ đây...

Tôi phải nói với anh là trước kia tôi không nghèo như anh. Cha tôi làm phó chưởng lý ở tòa thượng thẩm, một địa vị đấy chứ. Thế nhưng ông không tỏ dáng vẻ gì chưởng lý cả, vì vốn bản chất nhân hậu. Mẹ tôi sống đơn giản và kín đáo, lúc nào tôi cũng yêu mến mẹ tôi, nhưng tôi không muốn nói về bà. Bố tôi quan tâm tới tôi với lòng yêu thương và tôi còn nghĩ là ông tìm cách hiểu tôi. Ông có những chuyện yêu đương ở bên ngoài, bây giờ thì tôi tin chắc điều đó, và tôi cũng không hề vì vậy mà bực tức. Ông xử sự trong mọi việc đó đúng như ông phải xử sự, không làm phiền một ai hết. Để nói gọn, bố tôi không phải là người thật độc đáo, và bây giờ ông không còn nữa, tôi nhận thấy tuy ông không sống như một vị thánh, nhưng cũng không phải là một kẻ xấu. Ông giữ mức trung dung, chỉ có thế, và là kiểu người được người ta mến yêu một cách đúng mực khiến ông vẫn giữ nguyên phong cách sống của mình.

Tuy vậy ông có một đặc điểm: cuốn sách chỉ nam đồ sộ về hoạt động của đường sắt là sách gối đầu giường của ông. Không phải vì ông thích đi du lịch, trừ vào dịp nghỉ hè, ông đến vùng Bretagne, nơi ông có một trang trại nhỏ. Nhưng ông có thể nói ngay với anh một cách chính xác giờ đi và đến của chuyến xe lửa Paris - Berlin, những sự phối hợp giờ tàu chạy để đi từ Lyon đến Varsovie, số kimômét chính xác giữa hai thủ đô tùy theo anh lựa chọn. Liệu anh có thể nói người ta đi từ Briançon đến Chamonix 6 như thế nào không?

Ngay một tay trưởng ga cũng phải bối rối. Bố tôi thì không. Tối nào, ông cũng lo tìm cách làm giàu thêm hiểu biết của mình về điểm này, và ông lấy thế làm tự hào. Điều đó làm tôi rất thú vị, và tôi thường đặt ra câu hỏi để sau đó hoan hỉ kiểm tra qua cuốn sách chỉ nam về đường sắt những câu trả lời của ông và thừa nhận ông không hề nhầm lẫn. Những trò nho nhỏ ấy gắn bó bố con chúng tôi lại với nhau rất nhiều, vì tôi trở thành một thính giả mà thiện chí được ông đánh giá cao. Còn tôi thì tôi thấy tính ưu việt của ông về đường sắt cũng có giá trị như mọi tính ưu việt khác.

Nhưng thôi, tôi đã không tự kìm chế được mình và có nguy cơ quá đề cao con người trung hậu này. Vì, cuối cùng, bố tôi chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến quyết định của tôi. Nhiều lắm thì cũng chỉ tạo cho tôi một cơ hội. Quả vậy, lúc tôi mười bảy tuổi, ông bảo tôi đi nghe ông nói. Đây là một vụ án quan trọng, ở tòa đại hình, và chắc hẳn ông cụ nghĩ rằng ông sẽ xuất hiện trong diện mạo ưu tú nhất của mình. Tôi cũng cho là ông cụ trông mong vào cái nghi thức này nó có nhiều khả năng đánh vào trí tưởng tượng của tuổi trẻ để thúc đẩy tôi đi vào sự nghiệp mà bản thân ông đã lựa chọn. Tôi nhận lời, để làm vui lòng bố tôi và cũng vì tôi muốn tò mò nhìn ông, nghe ông nói trong một vai trò khác với vai trò ông vẫn đóng ở nhà. Tôi không hề nghĩ gì hơn. Bao giờ tôi cũng cho rằng tình hình xảy ra trong một tòa án cũng tự nhiên và tất yếu như một buổi duyệt binh ngày 14 tháng bảy 7 hay một buổi lễ phát phần thưởng. Tôi có một ý niệm rất trừu tượng về cái đó, và nó không hề làm tôi bối rối.

Nhưng tôi chỉ giữ lại của ngày hôm đó có một hình ảnh, hình ảnh người phạm tội. Quả là tôi tin y phạm tội, còn phạm tội gì thì không quan trọng. Nhưng con người bé nhỏ, tóc màu hung lơ thơ, trạc tuổi ba mươi ấy, tỏ vẻ muốn thừa nhận tất cả, kinh hoàng thành thực về việc mình đã làm và việc người ta sắp làm đối với mình, nên chỉ mấy phút sau, tôi chỉ còn đăm đăm nhìn vào y. Y có vẻ như một con chim cú hoảng sợ trước một luồng ánh sáng quá chói lọi. Nút cà vạt không thắt đúng chỗ vào giữa cổ áo. Y gặm gặm móng tay, nhưng chỉ trên bàn tay phải không thôi. Tóm lại, tôi xin khỏi nhấn mạnh, chắc anh hiểu đó là một con người đang sống giữa trần gian.

Nhưng tôi, tôi bỗng đột ngột nhận ra điều đó, trong lúc cho đến nay, tôi chỉ nghĩ tới y thông qua cái loại người mà người ta đặt cho một cách dễ dàng cái tên gọi ‘bị cáo’. Tôi không thể nói là lúc đó, tôi quên bố tôi, nhưng có một cái gì như thắt ruột gan tôi lại, không cho tôi chú ý tới cái gì khác ngoài kẻ bị cáo. Hầu như tôi không nghe thấy gì hết, tôi có cảm giác người ta muốn giết chết con người đang sống này, và một bản năng dữ dội như một lớp sóng đưa tôi tới bên cạnh y với một thái độ khăng khăng mù quáng. Tôi chỉ thực sự tỉnh táo trở lại khi bố tôi đọc bản luận tội.

Thay hình đổi dạng vì chiếc áo đỏ, không hiền lành và cũng không có vẻ yêu thương, mồm bố tôi phun ra những câu tràng giang đại hải, như thể phun ra những con rắn độc. Và tôi hiểu là ông yêu cầu, nhân danh xã hội, xử tử hình bị cáo, và thậm chí yêu cầu cắt cổ y. Đúng là ông chỉ nói: ‘Cái đầu ấy phải rơi’. Nhưng, xét cho cùng, chẳng khác nhau là mấy. Và quả là như thế, vì ông đã ‘được’ cái đầu của bị cáo. Chỉ có điều là không phải ông làm cái công việc đó. Còn tôi, người theo dõi vụ án cho đến khi kết thúc, một cách tuyệt đối, với kẻ khốn khổ ấy, tôi có một tình cảm mật thiết và vô cùng sâu xa mà cha tôi không hề có bao giờ. Theo thủ tục, ông phải dự cái mà người ta gọi một cách lịch sự là ‘những phút cuối cùng’, nhưng đúng ra phải nói đó là hành vi giết người nhơ nhớp nhất.

Từ ngày đó, tôi chỉ có thể nhìn cuốn sách chỉ nam về đường sắt một cách tởm lợm. Từ ngày đó, tôi kinh hãi theo dõi pháp luật, theo dõi những vụ xử tử hình, những vụ hành quyết, và choáng váng, tôi nhận thấy rằng bố tôi nhiều lần dự việc giết người và chính những ngày đó, ông dậy rất sớm. Đúng, trong những trường hợp ấy, ông để đồng hồ báo thức. Tôi không dám nói gì với mẹ tôi, nhưng tôi quan sát bà kỹ hơn và tôi hiểu giữa cha tôi và mẹ tôi không còn có gì nữa và mẹ tôi sống một cuộc sống thoát tục. Cái đó giúp tôi hiểu không có gì để tha thứ cho bà cả, vì suốt cuộc đời cho tới khi lấy chồng, mẹ tôi vẫn nghèo khổ và nghèo khổ đã tập cho bà thói quen nhẫn nhục.

Chắc hẳn anh chờ tôi nói là tôi ra đi ngay. Không, tôi đã ở lại trong nhiều tháng, đến gần một năm. Nhưng tôi nhức nhối trong tim. Một buổi tối, bố tôi hỏi chiếc đồng hồ báo thức vì ông phải dậy sớm. Cả đêm hôm ấy, tôi không ngủ. Hôm sau, khi ông trở về nhà thì tôi đã ra đi. Tôi xin nói ngay là cha tôi cho tìm tôi, là tôi trở về gặp ông, và không giảng giải gì hết, tôi điềm tĩnh nói với ông là tôi sẽ tự sát nếu ông bắt tôi trở về. Cuối cùng ông chấp nhận vì bản tính ông vốn dịu hiền, giảng giải cho tôi về sự ngu ngốc khi muốn sống để ăn chơi cho thỏa thích (ông hiểu lý do xử sự của tôi là như vậy và tôi không hề cải chính), căn dặn tôi đủ điều, và cố kìm những giọt nước mắt chân thành muốn trào ra. Về sau, nhưng là sau một thời gian khá dài, tôi thường trở về đều đặn thăm mẹ tôi và tôi gặp bố tôi. Tôi tin rằng đối với ông, những quan hệ như vậy là đủ rồi. Tôi không thù oán ông, tôi chỉ hơi buồn trong lòng.

Khi ông mất, tôi đưa mẹ tôi về ở với tôi và chắc hẳn bà vẫn ở với tôi nếu bà còn sống.

Tôi đã nhấn mạnh nhiều phần mở đầu này vì quả là nó mở đầu cho mọi chuyện. Bây giờ tôi kể nhanh hơn. Tôi nếm mùi đói khổ lúc mười tám tuổi, sau khi ra khỏi cảnh sung túc. Tôi làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Tôi thành công khá dễ dàng. Nhưng cái làm tôi lưu tâm, là việc kết án tử hình. Tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề người tội phạm đã bị xử. Vì vậy tôi làm chính trị, như người ta thường nói. Tôi không muốn làm một kẻ mang mầm mống dịch hạch, chỉ có thế thôi. Tôi nghĩ cái xã hội tôi đang sống là xã hội dựa trên sự kết án tử hình, và bằng cách chống lại xã hội ấy, tôi chống lại sự giết người. Tôi nghĩ như vậy, những người khác bảo tôi như vậy, và, tóm lại, cái đó chủ yếu là đúng. Vì vậy tôi đến ở với những người tôi hằng yêu mến và không tôi ngớt yêu mến. Tôi ở với họ lâu và không có nước nào ở châu Âu mà tôi không cùng chia sẻ những cuộc đấu tranh. Xin cho qua.

Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, cả chúng ta nữa, có lúc nào đó, chúng ta cũng tuyên án tử hình. Nhưng người ta bảo tôi một vài cái chết ấy là cần thiết để đi tới một thế giới trong đó người ta không giết chết một ai nữa. Điều đó đúng một cách nào đó, nhưng dẫu sao, có lẽ tôi cũng không thể tin chắc vào loại chân lý ấy. Có điều chắc chắn, là tôi ngập ngừng. Nhưng tôi nghĩ tới người tội phạm, và có thể vẫn ngập ngừng như thế. Cho tới ngày tôi chứng kiến một vụ hành quyết (ở Hunggari), và cơn choáng váng đã từng xâm chiếm đứa trẻ là tôi ngày trước, đến lúc ấy, đã làm mờ cặp mắt người lớn của tôi.

Anh chưa bao giờ nhìn thấy người ta bắn một con người phải không? Chắc hẳn là không, và thường người đến dự phải có giấy mời và được lựa chọn từ trước. Kết quả là anh chỉ dừng lại ở tranh ảnh và sách vở. Một giải vải bịt mắt, một cây cọc, và mấy người lính xa xa. Không, không phải thế! Anh có biết là trái lại, phân đội súng trường chỉ đứng cách người bắn có một mét rưỡi không? Anh có biết là giá người này bước lên hai bước thì ngực đụng phải những khẩu súng kia không? Anh có biết là cách một quãng ngắn như vậy, những tay súng tập trung phát đạn vào vùng tim người bị bắn và cả bọn chúng, với những viên đạn to tướng, chúng khoét rộng một cái lỗ bỏ được cả nắm tay vào trong đó không? Không, anh không biết những điều ấy vì đó là những chi tiết người ta không nói tới. Giấc ngủ của con người thiêng liêng hơn cuộc sống đối với những người mang mầm mống dịch hạch. Không được ngăn cản giấc ngủ của những con người trung hậu. Phải là bất nhã mới hành động như vậy còn nhã nhặn thì không, ai cũng hiểu điều đó. Dư vị của sự bất nhã ấy vẫn đọng lại trong miệng tôi, tôi không sao dứt bỏ được.

Lúc đó, tôi hiểu rằng ít ra, trong những năm tháng dằng dặc ấy tôi vẫn là một kẻ mang mầm mống dịch hạch tuy một mực đinh ninh là chính mình chống lại dịch hạch. Tôi biết mình đã gián tiếp đồng tình với cái chết của hàng nghìn con người, thậm chí đã gây nên chết chóc vì công nhận là tốt những hành vi và nguyên tắc tất yếu đem lại cái chết. Những người khác thì không bối rối vì cái đó, hay chí ít không bao giờ bộc phát nói ra. Còn tôi, tôi thấy cổ họng bị nghẹn lại. Tôi cùng sống với họ, nhưng tôi vẫn một mình, cô đơn. Khi tôi nói lên nỗi lòng băn khoăn của mình, họ bảo tôi phải nghĩ tới cái “trong cuộc” và họ đưa ra những lý lẽ thường rất hùng hồn để buộc tôi phải nuốt cái tôi không sao nuốt nổi. Nhưng tôi đáp lại là trong những trường hợp ấy, những kẻ quyền quý, những vị mặc áo đỏ và mang mầm mống dịch hạch cũng có những lý lẽ tuyệt vời? và trong khi chấp nhận những lý lẽ không thể chối cãi và những nhu cầu của những con người bé nhỏ mang dịch bệnh, tôi cũng không thể bác bỏ lý lẽ của những kẻ quyền cao chức trọng. Họ lưu ý tôi rằng muốn biện hộ cho những kẻ mặc áo đỏ thì cách tốt nhất là để cho họ cái quyền độc tôn kết án. Nhưng lúc đó, tôi nghĩ bụng nếu đã nhượng bộ một lần thì không có lý do gì để dừng lại nữa. Tôi thấy hình như lịch sử đã biện hộ cho tôi: ngày nay, người ta đua nhau chém giết. Tất cả bọn họ đều điên cuồng chém giết, và họ không sao làm khác.

Dẫu sao, cái tôi băn khoăn cũng không phải là lý lẽ, mà chính là câu chuyện người tội phạm bị án tử hình, cái câu chuyện bẩn thỉu trong đó những cái mồm bẩn thỉu nhiễm dịch hạch tuyên bố với một người đang bị xiềng xích là anh ta sẽ chết, và quả thật đã làm mọi việc cho anh ta chết, sau biết bao đêm hấp hối, hai mắt trân trân, chờ đợi cái chết. Cái tôi băn khoăn là cái lỗ thủng trong lồng ngực. Tôi tự bảo mình, trong lúc chờ đợi, và ít ra cũng cho riêng mình, là tôi sẽ không bao giờ biện hộ, dù chỉ một lần, anh nghe không, cho cảnh chém giết kinh tởm ấy. Vâng, tôi đã chọn sự mù quáng khăng khăng ấy trong lúc chờ tìm xem một cách sáng rõ hơn.

Từ ấy, tôi vẫn không thay đổi. Từ lâu, tôi hổ thẹn, hổ thẹn đến chết đi được, vì đã từng làm một đứa giết người, dù là từ xa, dù là với thiện chí. Cùng với thời gian, tôi chỉ nhận thấy rằng ngày nay, ngay cả những kẻ tốt hơn những người khác cũng không tự ngăn cản được mình chém giết hay ngăn cản kẻ khác giết, vì đấy là lôgich cuộc sống của họ và vì trên đời này không thể làm một cử chỉ nào mà lại không có nguy cơ gây nên cái chết. Vâng, tôi tiếp tục thấy hổ thẹn - tôi hiểu điều đó - là tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng dịch hạch và tôi không còn được yên ổn nữa. Ngày nay, tôi vẫn còn tìm kiếm sự yên ổn ấy bằng cách cố gắng tìm hiểu mọi người và cố gắng không làm kẻ tử thù đối với một ai hết. Tôi chỉ biết mình phải làm điều cần làm để không còn là một người mang mầm mống dịch hạch nữa, và chỉ có như thế mới có thể làm chúng ta hy vọng sự yên ổn, hoặc nếu không được yên ổn nữa, thì cũng một cái chết tử tế. Chính có như thế mới có thể an ủi con người, và nếu không cứu thoát được họ, thì chí ít cũng mang lại cho họ ít tai họa nhất, thậm chí có khi còn có thể đưa tới cho họ một chút điều tốt lành. Và chính vì vậy, tôi quyết định khước từ tất cả những gì, dù xa hay gần, dù vì lý do này hay lý do khác, làm người ta chết hay biện hộ cho việc làm người ta chết.

Và cũng còn chính vì vậy, nạn dịch bệnh này chẳng dạy tôi được bài học gì hết, nếu không phải là bài học phải đứng bên cạnh các anh chống lại nó. Tôi biết đích xác (vâng, anh Rieux ạ, tôi biết hết về đời, anh đã thấy rõ đấy) là mỗi người đều mang mầm mống dịch hạch trong mình, bởi vì không một ai, vâng, không một ai trên đời này được miễn trừ cả. Và tôi biết là phải không ngớt tự kiểm soát mình để khỏi, trong một phút lơ là nào đó, thở vào mặt người bên cạnh, làm anh ta bị lây nhiễm.

Cái tự nhiên, là con vi trùng. Còn nữa, sức khỏe, sự toàn vẹn, cái tinh khiết, nếu anh muốn, đó là tác dụng của ý chí, và là của một ý chí không bao giờ biết nghỉ ngơi. Con người chính trực, con người hầu như không làm một ai bị lây nhiễm, đó là con người ít lơ đãng hơn ai hết. Và phải có ý chí và sức tập trung để không bao giờ lơ đãng cả! Vâng, anh Rieux ạ, làm một kẻ mang mầm mống dịch hạch, thì thật là ngán. Nhưng không muốn làm một người như thế, còn ngán hơn. Chính vì vậy ngày nay ai nấy đều tỏ ra chán ngán, ngày nay, ai nấy đều tự thấy mình ít nhiều có mang mầm mống dịch hạch. Nhưng cũng chính vì vậy một đôi người, vì muốn không còn mang dịch bệnh nữa nên chán ngán đến cực điểm, và chỉ có cái chết mới giải thoát được họ.

Từ nay tới đó, tôi biết là tôi chẳng còn giá trị gì nữa đối với bản thân cái thế giới này, và bắt đầu từ khi tôi từ chối việc giết chóc, tôi đã tự khép mình vào một cảnh lưu đày vĩnh viễn. Làm lịch sử sẽ là những người khác. Tôi cũng biết là rõ ràng tôi không thể phán xét những người khác đó. Có một tư cách tôi không có để làm một kẻ giết người có lý trí. Vì vậy đó không phải là một ưu thế. Nhưng giờ đây, tôi chấp nhận mình là mình, tôi đã học được bài học khiêm tốn. Tôi chỉ nói là trên trái đất này có những tai họa và những nạn nhân, và cần phải hết sức mình chối từ không ‘đánh bạn’ với tai họa. Có lẽ anh thấy như thế là có phần giản đơn, và tôi không rõ cái đó có giản đơn hay không, nhưng tôi biết cái đó là đúng. Tôi đã từng nghe biết bao lý lẽ suýt làm tôi điên đầu, và đã từng làm cho những cái đầu khác điên lên tới mức họ chấp nhận việc giết người, và vì vậy tôi đã hiểu rằng tất cả tai họa của con người đều bắt nguồn ở chỗ họ không có một hành vi ngôn ngữ cho rõ ràng. Thế là tôi quyết định nói năng và hành động cho rõ ràng, để bước theo con đường đúng. Bởi vậy, tôi nói là có tai họa và nạn nhân, và chỉ có thế thôi. Nếu khi nói như vậy, bản thân tôi cũng trở thành tai họa, thì ít ra, tôi cũng không phải là kẻ muốn như vậy. Tôi cố sức làm một kẻ giết người vô tội. Anh thấy thế không phải là một tham vọng lớn chứ.

Dĩ nhiên, cần có một loại người thứ ba, loại những người thầy thuốc chân chính, nhưng thực tế, người ta không thấy có nhiều và đó là điều khó khăn. Vì vậy tôi quyết định đứng về phía các nạn nhân, trong mọi trường hợp, để hạn chế bớt thiệt hại. Đứng trong hàng ngũ họ, chí ít tôi cũng tìm hiểu được người ta làm thế nào để đạt tới loại thứ ba, nghĩa là tìm thấy sự yên ổn”.

Kết thúc lời tâm sự, Tarrou đung đưa cặp đùi và lấy chân gõ nhẹ lên sàn sân thượng. Im lặng một lát, bác sĩ Rieux hơi nhướn mình lên và hỏi Tarrou có suy nghĩ gì về con đường anh phải đi để tìm thấy sự yên ổn không.

- Có, sự đồng cảm.

Xa xa, vang lên hai tiếng còi xe cứu thương. Những lời than vãn, lúc nãy mơ hồ, nay tập trung vào cuối thành phố, gần ngọn đồi sỏi đá. Đồng thời, nghe một cái gì giống như một tiếng nổ. Rồi im ắng, Rieux thấy đèn pha biển nhấp nháy hai lần. Làn gió mát thổi mạnh lên, và cùng một lúc, một luồng gió từ ngoài biển mang vào hương vị muối. Bây giờ thì nghe rõ hơi thở trầm đục của những làn sóng xô vào vách đá.

- Tóm lại, - Tarrou nói một cách giản dị - điều tôi quan tâm, là xem người ta trở thành một vị thánh như thế nào.

- Nhưng anh không tin vào Thượng đế kia mà.

- Đúng thế. Có thể trở thành thánh mà không cần Thượng đế không, đấy là vấn đề cụ thể duy nhất mà ngày nay tôi muốn biết.

Bỗng nhiên, một luồng ánh sáng dữ dội phát ra từ phía những tiếng kêu lúc nãy, và ngược chiều gió, một tiếng ồn ã âm thầm lan tới tận hai người. Luồng sáng tắt đi ngay và đằng xa, dọc các sân thượng, chỉ còn lại một chút ánh màu đo đỏ. Trong một lúc ngừng gió, nghe rõ rệt tiếng người kêu la, rồi tiếng súng nổ và tiếng ồn ã của đám đông. Tarrou đứng dậy, lắng tai. Không còn nghe thấy gì nữa.

- Lại đánh nhau ngoài cửa ô.

- Bây giờ thì hết rồi. - Rieux đáp.

Tarrou thì thầm là không bao giờ hết và vẫn còn những nạn nhân, bởi vì đã an bài như thế.

- Có lẽ, - Bác sĩ Rieux đáp - nhưng anh biết không, tôi cảm thấy mình gắn bó với những người thất bại hơn là với các vị thánh. Tôi nghĩ mình không có hứng thú đối với chủ nghĩa anh hùng và tính cách thần thánh. Cái tôi quan tâm, là làm con người.

- Đúng, chúng ta cùng đi tìm một đích như nhau, nhưng tôi ít tham vọng hơn.

Rieux nghĩ là Tarrou bông đùa và nhìn anh. Nhưng trong ánh sáng lờ mờ từ bầu trời rọi xuống, ông thấy một khuôn mặt buồn bã và nghiêm trang. Gió lại nổi lên và Rieux cảm thấy làn gió ấm mơn man da thịt mình. Tarrou phấn chấn lên và nói :

- Anh có biết chúng ta phải làm gì cho tình bạn không?

- Tùy ý anh. - Rieux đáp.

- Chúng ta cùng nhau tắm biển một cái. Dù đối với một vị thánh tương lai thì đó cũng là một thú vui chính đáng.

Rieux mỉm cười.

- Với giấy thông hành trong người, chúng ta có thể ra tận bờ đập. Xét cho cùng, chỉ sống với dịch hạch, thì thật là quá ngốc. Dĩ nhiên, đã là con người thì phải chiến đấu vì những nạn nhân. Nhưng nếu con người thôi không còn yêu thương gì nữa hết, thì anh ta chiến đấu để làm gì?

- Đúng, - Rieux bảo - chúng ta đi tắm nào.

Một lúc sau, ô-tô đỗ lại gần hàng rào sắt của cảng. Trăng đã mọc. Một bầu trời đục màu sữa phát ra khắp nơi những cái bóng nhợt nhạt. Sau lưng họ là thành phố, và một làn gió nóng và bệnh hoạn đẩy họ đi về phía bờ biển. Họ đưa giấy tờ cho một người gác và y xem xét một lúc lâu. Họ đi qua cửa sắt và qua những mặt bằng để đầy thùng tôno, trong không khí nực mùi rượu và mùi cá, họ bước về phía đập. Trước khi tới nơi, mùi iôt và mùi tảo báo cho họ sự có mặt của biển cả. Biển cả rì rào.

Biển vỗ nhẹ vào dưới những tảng đá lớn của con đập, và khi họ bước chân trên đập, mặt biển hiện ra, dày như nhung, uyển chuyển và mượt mà như một con thú. Họ ngồi trên những tảng đá quay ra khơi. Nước biển từ từ xuống. Hơi thở lặng lẽ của biển làm nảy sinh rồi lại biến đi những gợn sóng óng ánh như dầu trên mặt nước. Trước mặt họ, bóng đêm trải ra vô tận. Ngón tay khẽ sờ vào những tảng đá lỗ chỗ trên mặt, Rieux cảm thấy lòng tràn ngập một niềm hạnh phúc kỳ lạ. Quay về phía Tarrou, ông đoán trên nét mặt điềm tĩnh và trang nghiêm của bạn biểu hiện một niềm hạnh phúc như vậy, niềm hạnh phúc không bỏ quên gì hết, kể cả tội ác giết người.

Hai người cởi bỏ quần áo, Rieux lặn sâu xuống nước. Nước lúc đầu lạnh, về sau ấm dần khi ông ngồi lên mặt. Bơi được mấy sải tay, ông biết biển, tối hôm đó, ấm áp, cái ấm áp của những mặt biển mùa thu không chúng lấy lại của đất liền sức nóng chất chứa trong nhiều tháng liền. Ông bơi một cách điều hòa. Hai chân ông đập nước để lại phía sau một lớp bọt trắng xóa, nước chảy dọc hai cánh tay, áp sát vào cẳng chân. Một tiếng vỗ mạnh trên mặt nước, ông biết Tarrou cũng đã lặn xuống. Rieux nằm ngửa trên mặt nước, không cử động, mặt ngoảnh lên bầu trời đầy trăng sao. Ông thở từng hơi dài. Rồi ông nghe mỗi lúc một thêm rõ, tiếng đập nước, trong trẻo một cách kỳ lạ trong đêm tối tĩnh mịch. Tarrou bơi lại gần và Rieux nghe anh thở. Ông quay lại, vươn lên ngang hàng với bạn và hai người cùng bơi theo một nhịp. Tarrou bơi khỏe hơn và ông phải cố bơi nhanh cho kịp. Trong mấy phút, họ cùng bơi theo một nhịp độ và sức lực như nhau, và chỉ có hai người với nhau, cách biệt mọi người, thoát khỏi thành phố và dịch bệnh. Rieux dừng lại đầu tiên và hai người chậm rãi bơi trở về, trừ một lúc họ gặp một dòng nước lạnh giá. Không nói nửa lời, cả hai vội trườn nhanh, kích thích bởi sự bất thần này của biển cả.

Mặc quần áo vào, họ trở về, không nói không rằng. Nhưng họ cùng một tâm trạng, và kỷ niệm về cái đêm ấy thật êm đềm. Khi từ xa họ nhìn thấy trạm lính gác dịch hạch. Rieux biết rằng cũng như ông, Tarrou chắc hẳn nghĩ bụng là dịch bệnh vừa bỏ quên họ, rằng thế là tốt, và giờ đây lại phải bắt đầu.

Đúng, phải bắt đầu lại, và dịch hạch không quên một ai quá lâu cả. Trong tháng Chạp, nó hừng hực trong lồng ngực đồng bào chúng ta, nó đốt sáng rực lò thiêu, nó đưa vào trại những bóng người hai bàn tay không, nó không ngừng tiến bước, dáng dấp kiên nhẫn và giần giật. Nhà chức trách trông cậy vào những ngày giá rét để ngăn chặn sự tiến bước ấy, thế nhưng nó vẫn vượt qua những buổi đầu khắc nghiệt của mùa đông, không một phút ngừng nghỉ, vẫn phải tiếp tục chờ đợi. Nhưng người ta không còn chờ đợi nữa vì đã chờ đợi mãi rồi, và toàn thành phố sống không tương lai.

Còn đối với bác sĩ Rieux, thì cái thoáng yên bình và bầu bạn ông được hưởng đã chấm dứt. Một bệnh viện được mở thêm và Rieux chỉ còn mặt đối mặt với người bệnh. Tuy nhiên, ông nhận thấy là vào giai đoạn dịch tễ này, trong lúc dịch hạch ngày mỗi chuyển sang dạng màng phổi nhiều hơn, thì có thể nói người bệnh lại có vẻ hỗ trợ thầy thuốc. Không còn phó mặc cho trạng thái kiệt sức hay những cơn điên dại như buổi đầu, giờ đây, họ tỏ ra có một ý niệm đúng đắn hơn về quyền lợi của mình và tự bản thân họ đòi hỏi những gì mà họ cho là thuận lợi nhất. Họ luôn luôn đòi uống và ai nấy đều muốn được sưởi ấm. Tuy vẫn vất vả như trước, bác sĩ Rieux, trong những lúc này, cảm thấy bớt cô đơn.

Cuối tháng Chạp, Rieux nhận được của ông dự thẩm Othon - lúc đó còn ở trong trại - một bức thư nói rõ là thời kỳ cách ly kiểm dịch của ông đã hết hạn, là cơ quan hành chính không tìm ra ngày ông vào trại và chắc chắn người ta sẽ còn giữ ông lại ở đây vì nhầm lẫn. Vợ ông, ra trại trước đây ít lâu, đã khiếu nại lên tỉnh nhưng ở đó người ta tiếp bà không ra sao và bảo là họ không bao giờ nhầm lẫn hết. Rieux nhờ Rambert can thiệp và, mấy ngày sau, thấy Othon tới gặp. Quả là có một sự nhầm lẫn, và Rieux có phần phẫn nộ. Nhưng Othon, người có gầy đi, giơ một bàn tay yếu ớt lên và cân nhắc từng từ, nói rằng ai cũng có thể nhầm lẫn. Bác sĩ Rieux thì chỉ nghĩ là có một cái gì đó đã thay đổi.

- Thưa ông dự thẩm, ông sẽ làm gì? - Rieux hỏi - Chắc các hồ sơ vụ án đang chờ ông.

- Ồ không - Othon đáp - Tôi muốn đi nghỉ.

- Thật vậy, ông cần nghỉ ngơi.

- Không phải thế, tôi muốn trở lại trại thôi.

Rieux kinh ngạc.

- Nhưng ông ra trại kia mà!

- Tôi làm người ta hiểu sai. Người ta bảo tôi là trong trại có những viên chức tình nguyện.

Ông dự thẩm khẽ đảo cặp mắt tròn xoe và lấy tay miết mái tóc...

- Ông hiểu không, như thế tôi sẽ có việc. Vả lại, - nói thế này thì có phần thế nào ấy - như thế, tôi sẽ cảm thấy bớt xa thằng bé nhà tôi.

Rieux nhìn ông ta. Trong cặp mắt nghiêm khắc và vô tình ấy, sao lại có thể bỗng nhiên xuất hiện một ánh dịu dàng đến thế. Nhưng chúng trở nên mờ đục hơn, không còn trong trẻo nữa.

- Dĩ nhiên, - Rieux bảo - tôi sẽ lo việc đó, vì ông đã muốn như vậy.

Quả thật, ông bác sĩ đã thu xếp và cuộc sống của cái thành phố bị dịch hạch này tiếp tục cho tới ngày lễ Nôen. Đâu đâu, Tarrou cũng giữ một thái độ bình tĩnh làm người ta yên lòng. Rambert thì nói riêng với Rieux là nhờ hai chàng trai gác cửa ô, anh đã lập được một hệ thống thư từ bí mật với vợ. Thỉnh thoảng, anh nhận được một bức thư. Anh bảo Rieux lợi dụng hệ thống của anh và ông nhận lời. Đã nhiều tháng nay, lần đầu tiên, ông viết, nhưng hết sức khó khăn. Ông đã quên đi cả ngôn ngữ thư tín. Bức thư được gửi đi. Nhưng vẫn chưa có hồi âm. Về phía Cottard thì hắn làm ăn phát đạt và những vụ đầu cơ nhỏ làm hắn giàu lên. Còn đối với Grand, thì thời kỳ những ngày lễ này chẳng có gì thú vị.

Lễ Nôen năm ấy, đúng ra là ngày lễ Địa ngục hơn là ngày lễ Phúc âm. Những cửa hiệu trống rỗng và không có ánh sáng, những tấm sôcôla rởm hay những chiếc hộp không trong tủ hàng, những chuyến xe điện chật ních người với những bộ mặt thiểu não, không có gì giống như những ngày lễ Nôen trước kia. Trong ngày lễ mà ngày trước mọi người, giàu cũng như nghèo, gặp gỡ nhau, thì nay chỉ còn chỗ cho một vài trò chơi riêng rẽ và nhục nhã của những kẻ được ưu đãi với cái giá đắt như vàng, ở tận cuối buồng sau cáu bẩn của các cửa hiệu. Nhà thờ ầm ĩ tiếng than vãn nhiều hơn lời cầu phúc. Trong cái thành phố buồn bã và giá lạnh, một vài đứa trẻ chạy nhảy, chưa biết cái điều đang uy hiếp chúng. Nhưng không một ai dám nói với chúng về ông già Nôen mang đầy quà ngày trước, cũ kỹ như nỗi vất vả của loài người, nhưng mới mẻ như niềm hy vọng non trẻ. Trong trái tim mọi người, chỉ còn chỗ cho một chút hy vọng rất cũ kỹ và rất buồn tẻ, đó chính là bản thân chút hy vọng ngăn cản không cho con người phó mặc cho cái chết và thực ra chỉ là cái thái độ khăng khăng muốn sống.

Ngày hôm trước, Grand không đến chỗ hẹn gặp. Lo lắng, sáng tinh mơ hôm sau, Rieux đến nhà anh, nhưng không gặp. Ai nấy lo lắng. Khoảng mười một giờ, Rambert đến bệnh viện báo cho bác sĩ Rieux là trông thấy Grand đằng xa, lang thang trên đường phố, mặt thất sắc. Rồi sau đó mất hút, Rieux và Tarrou đánh ô-tô đi tìm.

Vào giữa trưa, trời lạnh buốt, khi bước ra khỏi ô-tô, Rieux thấy Grand ở đằng xa, mặt áp sát vào tủ kính nhà hàng, bày đầy những đồ chơi bằng gỗ thô kệch. Nước mắt chảy ròng ròng trên khuôn mặt người viên chức lớn tuổi. Những giọt nước mắt làm Rieux xao xuyến vì ông hiểu chúng và ông cũng cảm thấy trong cổ họng mình. Ông cũng nhớ lại buổi kết hôn giữa anh chàng tội nghiệp, trước một cửa hiệu bày hàng Nôen, và Jeanne ngã mình về phía anh để thầm thì là cô ưng thuận. Từ chiều sâu thẳm của những năm tháng xa xăm ấy, ở ngay giữa niềm si mê ấy, tiếng nói tươi mát của Jeanne trở lại với Grand, đó là điều chắc chắn. Rieux biết vào giây phút này, con người đã luống tuổi đang khóc lóc ấy nghĩ tới cái gì, và cái đó, chính ông cũng nghĩ tới như anh ta. Ông biết là cái thế giới không có tình yêu này chẳng khác một thế giới chết và bao giờ cũng sẽ đến một lúc người ta chán ngấy nhà tù, lao động và lòng dũng cảm để đòi hỏi khuôn mặt một con người và trái tim ngây ngất yêu thương.

Grand nhìn thấy ông trong gương. Nước mắt vẫn lã chã, anh quay lại và đứng tựa vào tủ kích, nhìn ông bước tới.

- A! Bác sĩ, a! Bác sĩ. - Anh thốt lên.

Không nói được thành lời, Rieux gật đầu, tỏ ý đồng tình. Nỗi sầu muộn của Grand cũng là của cả ông nữa và cái làm tim ông nhói lên vào lúc này là cơn giận ghê gớm của con người trước nỗi khổ đau mà mọi con người phải chia sẻ...

- Được, Grand ạ. - Ông nói.

- Tôi muốn có thì giờ viết cho cô ấy một bức thư. Để cho cô biết, và để cô được hạnh phúc, khỏi phải ân hận...

Với một chút thô bạo, Rieux đẩy Grand bước về phía trước. Hầu như anh cứ để mình được kéo đi, miệng lẩm bẩm :

- Kéo dài như thế đã quá lâu rồi. Tôi muốn cứ phó mặc, bắt buộc phải như thế. A! Thưa bác sĩ, tôi có vẻ bình tĩnh như thế này. Nhưng muốn được bình thường không thôi, tôi luôn luôn phải cố gắng hết mình. Và giờ đây, lại càng hơn thế nữa.

Anh ngừng lời, tay chân run lật bật, cặp mắt như điên dại. Rieux cầm tay anh. Tay nóng ran.

- Phải về thôi.

Nhưng Grand rút tay ra và chạy mấy bước, rồi đứng lại, dang rộng hai cánh tay và lắc lư từ trước ra sau. Anh quay tròn và ngã vật xuống trên vỉa hè giá lạnh, trên khuôn mặt nhớp nhúa, nước mắt vẫn đầm đìa. Khách đi đường trông thấy từ xa, đứng sững lại, không dám bước thêm. Rieux phải bế anh lên tay.

Bây giờ, trên giường bệnh, Grand ngạt thở: phổi bị xâm nhiễm. Rieux suy nghĩ. Anh không có gia đình. Cần gì phải chở anh đi? Chỉ riêng ông và Tarrou sẽ săn sóc anh...

Grand vẫn nằm, đầu lún sâu xuống gối, da xanh mướt, mắt lờ đờ. Anh đăm đăm nhìn ngọn lửa leo lét Tarrou đốt lên trong lò sưởi với những mẩu gỗ thùng. “Không ổn”, anh thốt lên. Và từ đáy phổi bốc lửa phát ra một tiếng lép bép kỳ cục theo sau mỗi lời anh nói. Rieux bảo anh nằm im và ông sẽ trở lại. Một nụ cười khác thường nở trên môi người bệnh và cùng với nụ cười, khuôn mặt biểu lộ một tình cảm yêu thương. Anh cố gắng nháy mắt. “Nếu tôi thoát khỏi và người ta “bái phục”, bác sĩ nhỉ!”. Nhưng ngay sau đó, anh rơi vào trạng thái mê man, kiệt sức.

Mấy tiếng sau, Rieux và Tarrou thấy người bệnh, nửa nằm nửa ngồi trên giường, và Rieux hoảng hốt nhìn thấy bệnh tiến triển rõ rệt trên khuôn mặt. Nhưng Grand tỏ vẻ tỉnh táo hơn, và ngay lập tức, với một giọng nói trầm xuống đến kỳ lạ, yêu cầu đưa lại cho anh cuốn sổ chép tay anh để trong ngăn kéo. Tarrou trao cho anh. Áp sát tập giấy vào người, anh không nhìn mà đưa lại cho Rieux và ra hiệu mời ông đọc. Một tập viết tay khoảng năm chục trang. Rieux lật các trang giấy và hiểu rằng tất cả chỉ có mỗi một câu văn chép đi chép lại, sửa chữa, thêm, bớt. Trên suốt các trang giấy, lặp đi lặp lại, đối chiếu với nhau, sắp xếp theo cách này rồi lại cách khác, là những từ ngữ: tháng năm, cô gái cưỡi ngựa, những lối đi trong rừng Boulogne. Cũng cả những lời giải thích, đôi khi dài vô tận, và những khảo dị. Nhưng ở phần dưới trang cuối cùng, một bàn tay chăm chút viết có mấy từ, nét mực còn tươi roi rói: “Jeanne rất mực yêu quý của anh, hôm nay là Noên...”. Phía trên, được viết rất cẩn thận câu văn sau khi được chữa lại lần cuối cùng. “Ông đọc đi”, Grand bảo. Và Rieux đọc:

“Vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, một nàng kỵ sĩ mảnh mai, cưỡi trên một con ngựa rực rỡ màu hồng, đi trên những lối đi trong rừng Boulogne, giữa những đoá hoa...”

- Có phải thế không? - Grand hỏi với giọng của người đang lên cơn sốt.

Rieux không ngước lên nhìn anh.

- A! - Grand lại vừa cựa quậy vừa nói - Tôi biết rồi. “Đẹp, đẹp”, cái từ đó không đúng.

Rieux cầm lấy bàn tay anh đặt trên mền.

- Cứ để đấy, bác sĩ, tôi sẽ không có thì giờ...

Ngực anh phập phồng một cách khó nhọc và anh kêu lên đột ngột :

- Đốt đi!

Rieux lưỡng lự, nhưng Grand nhắc lại mệnh lệnh của mình với một giọng khủng khiếp và một nỗi đau đớn tới mức ông vội vứt những tờ giấy vào ngọn lửa lúc đó đã gần tàn. Căn buồng bỗng sáng bừng lên với một sức ấm ngắn ngủi. Khi bác sĩ trở lại gần người bệnh, thì anh ta quay lưng ra và mặt gần như áp sát vào tường. Tarrou nhìn qua cửa sổ, như thể thờ ơ với quang cảnh này. Sau khi tiêm huyết thanh, Rieux nói với bạn là Grand sẽ không qua khỏi đêm nay, và Tarrou xin ở lại. Bác sĩ chấp thuận.

Suốt đêm, cái ý nghĩ Grand sẽ chết ám ảnh Rieux. Nhưng sáng hôm sau, ông thấy anh ngồi trên giường, chuyện trò với Tarrou. Cơn sốt đã biến mất. Chỉ còn lại những dấu hiệu của tình trạng suy nhược chung.

- A! Thưa bác sĩ, - Grand lên tiếng - tôi đã sai lầm.

Nhưng tôi sẽ bắt đầu trở lại. Tôi nhớ hết tất thảy, ông sẽ thấy.

- Chúng ta phải chờ xem. - Rieux nói riêng với Tarrou.

Nhưng cho tới trưa, vẫn không có gì thay đổi. Buổi tối, có thể xem như Grand đã được cứu thoát. Rieux không sao hiểu nổi sự hồi sinh này.

Nhưng cũng hầu như vào thời kỳ ấy, người ta đưa đến chỗ Rieux một nữ bệnh nhân mà ông cho là ở trong tình trạng tuyệt vọng và được cách ly ngay khi tới bệnh viện. Cô gái hoàn toàn bị mê sảng và có tất cả những triệu chứng của dịch hạch màng phổi. Nhưng sáng hôm sau, cơn sốt hạ xuống. Một lần nữa, cũng như trong trường hợp Grand, ông cho đây là sự thuyên giảm về ban sáng mà kinh nghiệm đã dạy cho ông là một dấu hiệu xấu. Nhưng đến trưa, cơn sốt vẫn không tăng. Buổi tối, chỉ tăng có vài phần mười, và sáng hôm sau, biến hẳn. Cô gái, tuy còn yếu, đã thở được dễ dàng trên giường bệnh. Rieux bảo Tarrou là cô ta thoát khỏi bệnh, trái với mọi quy luật. Nhưng trong tuần bốn trường hợp tương tự diễn ra trong khu vực Rieux phụ trách.

Cuối tuần ấy, ông lão bị hen suyễn tiếp bước Rieux và Tarrou với tất cả dấu hiệu của một tình trạng xao động mạnh :

- Lại thế rồi, - Ông lão nói - chúng lại ra.

- Ai!

- Ồ! Chuột mà!

Từ tháng Tư, không tìm thấy một con chuột chết nào hết.

- Có phải dịch bệnh lại bắt đầu trở lại không? - Tarrou hỏi Rieux.

Ông lão xoa xoa hai bàn tay vào nhau :

- Phải nhìn thấy chúng chạy! Thật thú vị.

Lão nhìn thấy hai con chuột sống vào nhà, qua cánh cửa mở ra đường. Hàng xóm cũng nói với lão là ở nhà họ, chuột cũng đã xuất hiện trở lại. Trên mấy cái xà nhà, người ta lại nghe tiếng rậm rịch đã bị lãng quên đi mấy tháng nay. Rieux chờ ngày công bố những con số thống kê tổng quát vào đầu mỗi tuần. Chúng cho thấy dịch bệnh đã giảm bớt.

--------------------------------

1. Theo huyền thoại, Orphée là một nhạc sĩ thiên tài thời cổ Hy Lạp. Eurydice, vợ chưa cưới của chàng, bị rắn cắn chết ngay hôm kết hôn. Orphée xuống địa ngục và vì say mê tiếng hát của chàng, các thần ở đây trả lại người yêu cho Orphée với điều kiện chàng không ngoái cổ nhìn lại phía sau trước khi ra khỏi ngục đàng. Orphée vi phạm lời cấm, nên bị thần Zeus dùng lưỡi tầm sét đánh chết.

2. Nostradamus (thế kỷ 16) là một thầy thuốc và nhà thiên văn học Pháp nổi tiếng, có để lại một tập sấm tiên đoán tương lai, tập Centuries.

3. Nữ thánh người Pháp, chủ nhân một tổ chức viện nổi tiếng (thế kỷ 7 - 8) trong vùng núi Vosges, miền đông nước Pháp, và được xem là có tài tiên tri.

4. Một nhân vật truyền thuyết Tây Ban Nha, kiểu Sở Khanh.

5. Lễ vào ngày 1 tháng 11 hằng năm của Giáo hội.

6. Hai thành phố nhỏ ở Pháp.

7. Ngày Quốc khánh Pháp.

Truyện khác