Hoàng Hạc Lâu xưa và nay
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tĩnh xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu ra đời tại thành Vũ Xương (thuộc về thành phố Vũ Hán bây giờ) vào thế kỷ 8, thời thịnh Ðường. Ngày xưa lầu Hoàng Hạc đẹp như thế nào thì ngày nay khó mà có ai có thể hình dung ra được, nhưng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu thì quả là một hình ảnh thật đẹp. Ðẹp đến nỗi mà dù đã trải qua hơn 1250 năm rồi mà Hoàng Hạc lâu vẫn là một hình ảnh thần tiên dịu ngọt kèm theo một nỗi buồn man mác trong lòng những người đọc thơ của Thôi Hiệu, nhất là đọc qua bài thơ dịch tuyệt vời của nhà thơ núi Tản sông Ðà Nguyễn Khắc Hiếu.
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa.
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh, cây bày.
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Tản Ðà dịch
“yên ba giang thượng” hay “trên sông khói sóng” trong bài thơ là ý nói về con sông Trường Giang trôi chảy bên thành Vũ Xương. Trường Giang là con sông dài thứ ba của thế giới và cũng là con sông dài nhất (6â,300km) của Trung Quốc. Nguồn sông phát xuất từ cao nguyên Thanh Tạng, chảy qua các bình nguyên Tứ Xuyên , xuyên qua ba khu vực hẻm Tam Giáp chảy vào bình nguyên Giang Hán trước khi tuôn ra biển Thái Bình ở cửa ngõ Thượng Hải. Về mặt kinh tế, Trường Giang được xem như là mạch máu chính nuôi dưỡng người dân Trung Hoa trong suốt bao nhiêu ngàn năm qua. Về mặt tinh thần, trên con đường thiên lý của nó, Trường Giang với một khí phách hùng vĩ của núi cộng với sự rộng lớn mênh mông và dòng nước chảy xiết của sông đã là ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh của dân tộc Trung Hoa. Về mặt văn hóa, lịch sử và địa danh, Trường Giang còn là một con sông có rất nhiều các danh lam thắng cảnh, tạo ra biết bao nhiêu nguồn cảm hứng cho các thi nhân Trung Hoa qua mọi thời đại. Và đồng thời, Trường Giang cũng là nơi làm chứng nhân lịch sử cho mọi triều đại tranh dành ảnh hưởng thôn tính lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Hoa.
Trường Giang sau khi chảy xuyên qua Tam Giáp thì vào bình nguyên Giang Hán, chi lưu Hán Thủy nhập vào sông mẹ Trường Giang. Ngã ba sông chính là các địa danh lịch sử nổi tiếng của hơn ngàn năm trước như Hạ Khẩu , Hán Dương, Di Lăng... Ðây cũng chính là khúc sông đã cho ngưới đời sau những di tích, những câu chuyện thần tiên, những sự tích lưu truyền mà người dân Trung Hoa (và ngay cả những quốc gia nào bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa) cũng đều biết đến. Ðộng Ðình Hồ, trận thủy chiến Xích Bích nổi tiếng thời Tam Quốc của Chu Du – Khổng Minh – Tào Tháo, Lầu Hoàng Hạc ..v..v. có mấy ai mà không nghe đến.
Nói đến Lầu Hoàng Hạc thì chúng ta đi ngược lại dòng lịch sử mà tìm hiểu đôi chút về “thân thế” của Hoàng Hạc Lâu.
Vào thời cuối Ðông Hán thế kỷ thứ 3, vua nhà Ðông Hán nhu nhược bị các lộng thần chèn ép. Tào Tháo lợi dụng danh nghĩa phò vua Hán chiếm giữ phía bắc (sau là Tào Ngụy), Lưu Bị xưng là tôn thất nhà Hán, lập ra nhà Thục Hán chiếm giữ miền tây nam. Tôn Quyền lui về Giang Ðông lập ra Ðông Ngô, xưng đế hiệu Ngô Hoàng Vũ vào năm 222. Thế Tam Quốc phân chia từ đó, thành Kinh Châu thuộc về Ðông Ngô nhưng bị Lưu Bị mượn và giao cho Quan Vũ (Quan Vân Trường, người em kết nghĩa vườn đào với Lưu Bị và Trương Phi) trấn giữ. Vì ỷ y và khinh thường quân tướng Ðông Ngô nên Quan Vũ thiệt mạng và để mất Kinh Châu về tay Ðông Ngô. Năm 223, Tôn Quyền ra lệnh xây thành Giang Hạ (Hạ Khẩu) bên ngã ba sông Trường Giang và Hán Thủy để đóng quân. Trong cái thế Tam quốc thời đó, Hạ Khẩu là một thành trì chiến lược rất quan trọng vì tam quốc đều cho rằng phe nào chiếm được Hạ Khẩu thì phe đó sẽ chiến thắng cuộc chiến.
Vì thế, nhằm để theo dõi binh tình, Tôn Quyền cho xây trên góc một ngọn đồi nhỏ cạnh sông Trường Giang một tháp quan sát bên phía tây nam của thành Giang Hạ để theo dõi binh tình. Ðứng trên tháp, người ta có thể quan sát được thuyền bè di chuyển trên sông Hán Thủy và phía tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.
Cho đến ngày nay, không ít người đã không hiểu vì sao tháp lại có tên là Hoàng Hạc Lâu, một cái tên có vẻ trong câu chuyện thần tiên hơn là một cái tên dùng trong giới quân sự. Dân tộc Trung Hoa thường có quan niệm “ Thiên Nhân hợp nhất “ nên họ thường hay thiên về những câu chuyện thần tiên trong bất cứ các câu chuyện lịch sử, đền đài hay bảo tháp. Vì vậy, câu chuyện về ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô thời Tam Quốc cũng đã được ít nhiều khoác vào những câu chuyện thần tiên liên quan đến ngọn tháp. Người ta có thể dựa theo một câu chuyện như mây bay quanh tháp, thấy chim bay lượn trên ngọn cây cao hay bay vút vào bầu trời xanh biếc. Chỉ cần các yếu tố như thế thôi thì cũng đủ để người ta nghĩ ra một câu chuyện thần tiên về ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô này.
Câu chuyện thần tiên của ngọn tháp quan sát này, có lẽ phát xuất từ thời Nam Bắc Triều, một thời đại loạn lạc liên miên khiến con người không còn tin tưởng nhiều về đời sống, giữa cái bình yên và chiến tranh, giữa cái sống và cái chết, giữa cái giàu sang và nghèo đói khốn cùng. Con người lúc đó có khuynh hướng nghiêng về các câu chuyện thần tiên để quên đi những thực tại đau khổ. Người ta dễ dàng lui về tìm một nơi chốn ẩn náu bình yên để thêu dệt, tưởng tượng ra những điều mơ ước. Bên thành Giang Hạ, Hoàng Hạc Sơn là một ngọn đồi cao tại vùng Hạ Khẩu và vì vậy ngọn đồi này thành một nơi lý tưởng, dễ dàng cho con người tìm về ẩn dật, lánh xa những chuyện đời thường.
Câu chuyện thần tiên sớm nhất được ghi nhận về Hoàng Hạc Lâu là câu chuyện được ghi nhận trong bộ truyện Thuật Ðăng Ký. Nói về một nhân vật tên Tấn Thuật ở Giang Lăng. Tấn Thuật đã có dịp gặp và hầu chuyện với một vị tiên ông cỡi hạc nhưng tiên ông là ai thì lại không thấy sách nói đến. Về sau, Tiêu Tử Hiển của nước Nam Tề (một nước trong giai đoạn Nam Bắc triều) thì cho rằng vị tiên đó chính là Vương Tử An, ông cỡi hạc vàng bay trên ghềnh đá Hoàng Hạc của Hạ Khẩu. Ngồi trên lưng hạc nhìn từ cao xuống, Tử An đã thấy được sự hiểm nghèo và hùng vĩ của con sông Trường Giang, thấy được cái cao của ngọn tháp Ðông Ngô, thấy được cái mênh mông của bình nguyên Giang Hạ. Ðó là tiên ông Vương Tử An của thời Nam Bắc Triều.
Ðến đời nhà Ðường, thì vị tiên cỡi hạc vàng tên Vương Tử An được biến đổi thành Phí Vĩ . Ðời Ðường Vĩnh Thái nguyên niên, trong “Hoàng Hạc Lâu Ký” của Diêm Bá Lý có trích dẫn một sự tích trong Ðồ Kinh: Phí Vĩ lên tiên, cỡi hạc vàng và đã dừng chân nghỉ trên ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô thời Tam Quốc. Vì sự tích này mà tháp này được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. Sách cũng ghi nhận rằng Phí Vĩ từng được giữ chức Thừa Tướng vào cuối thời nhà Thục Hán của thời Tam quốc. Ông mất cha mẹ từ nhỏ, được các người thân nuôi nấng. Khi Lưu Bị lấy được Ích Châu thì ông theo giúp Thái tử Lưu Thiện. Sau khi Lưu Thiện lên ngôi thay vua cha Lưu Bị thì ông được thăng lên chức Thượng Thư, rồi thì Ðại Tướng quân và chức vụ cuối cùng là Thừa Tướng. Năm Diên Hy 16 (254AD) ông bị ám sát chết. Sau khi chết, Phí Vĩ được thăng tiên. Nguyên nhân và lý do tại sao Phí Vĩ lại lên tiên thì không nghe nói đến và điều này vẫn còn là một huyền thoại cho đến ngày nay.
Một số các câu chuyện thần tiên khác về Phí Vĩ thì các câu chuyện này cũng có đồng quan điểm như họ Diêm, nhưng lại được thêm thắt nhiều điều hơn. Trong “Liệt tiên toàn truyện” của Vương Thế Chinh và Uông Vân Bằng đời Minh thì kể thêm rằng sau khi lên tiên, Phí Vĩ hay thơ thẩn đi chu du đây đó, nhất là hay thả bộ dọc theo bờ sông Trường Giang. Ông thường hay ghé vào một tửu lầu ở cuối đồi Hoàng Hạc Sơn uống rượu nhưng ông không có tiền nên uống rượu “ghi sổ”. Nhưng chủ nhân tửu lầu họ Tân vẫn luôn vui vẻ cho ông thiếu tiền rượu mà không hề đòi. Nhiều năm trôi qua như thế, cho đến một ngày Phí Vĩ gọi chủ nhân họ Tân lại nói : “Tôi nợ ông tiền rượu quá nhiều rồi. Bây giờ là lúc tôi xin trả cho ông”. Nói xong, Phí Vĩ một tay cầm vỏ cam, gọi hạc vàng đến. Phí Vĩø cỡi hạc vàng bay dọc theo bờ tường của tửu lầu nói vọng theo :” mỗi khi có khách đến uống ruợu thì ông hãy vỗ tay và hát lên thì ngay lập tức hạc vàng sẽ từ tường hiện ra và múa theo điệu ông hát.” Nói xong Phí Vĩ bay mất!
Người họ Tân tuy nghi ngờ về những điều Phí Vĩ nói nhưng rồi thì vì tò mò ông ta cũng làm theo những gì mà Phí Vĩ đã dặn. Và đúng như thế, mỗi lần họ Tân vỗ tay và hát thì chim hạc luôn luôn hiện ra nhảy theo nhịp hát của ông. Cứ như thế, mười năm trôi qua, chủ nhân tửu lầu họ Tân giờ đây trở nên rất giàu có, nhưng lòng lúc nào cũng nhớ đến Phí Vĩ. Chợt một hôm Phí Vĩ trở lại gặïp họ Tân và hỏi rằng: “chim hạc của tôi đã trả nợ đủ tiền rượu cho tôi chưa? “. Ðể cám ơn, họ Tân đã mời Phí Vĩ dùng cơm tối, nhưng Phí Vĩ không nói gì, ông lấy ra một ống sáo bằng ngọc và và thổi lên một tấu khúc. Chỉ trong chốc lát, một cụm mây trắng từ trời sa xuống, hạc vàng bay đến chỗ ông. Phí Vĩ cỡi chim hạc và bay theo vầng mây trắng mất hút vào trời không. Chủ nhân họ Tân đóng cửa tiệm rượu và dùng hết số tiền mình có để xây Hoàng Hạc Lâu, để tưởng nhớ đến Phí Vĩ và hạc vàng. Từ đo,ù người đời sau dùng câu “bạch vân hoàng hạc” để ám chỉ về sự tích này.
Tuy nhiên, theo Vương Tượng Chi của đời Bắc Tống viết trong “Dự Ðịa kỷ thắng” thì lại ghi nhận rằng sở dĩ tháp quan sát được gọi là Hoàng Hạc Lâu là vì tháp này nằm trên Hoàng Hộc Sơn, phía tây nam của Từ Thành ngày xưa. Vào thời cổ đại, chữ Hộc (con ngỗng trời: thiên nga) trong ngôn ngữ cổ đại Trung Hoa cũng còn có nghĩa là Hạc, nên về sau người ta dùng chữ Hạc cho rõ nghĩa hơn. Từ đó, Hoàng Hộc Sơn được gọi là Hoàng Hạc Sơn. Nhưng về sau, ngọn núi nhỏ Hoàng Hạc này có hình thù ngoằn ngèo giống như Rắn nên đời sau đã lấy môt tên khác là Xà Sơn thay vì gọi là Hoàng Hạc Sơn.
Thời gian trôi qua, người ta có thể quên đi cái tên Hoàng Hạc Sơn, nhưng tên tháp Hoàng Hạc Lâu thì đã đi vào lòng người bất tử và trở thành một thắng cảnh, một di tích, một huyền thoại cho đời sau. Có lẽ chỉ vì tại cái bài thơ Hoàng Hạc Lâu của ông Thôi Hiệu mà thôi! Từ đó, cái tên “Bạch vân Hoàng Hạc” (mây trắng hạc vàng) được dùng như là một nghĩa bóng để người đời sau ám chỉ nói đến thành phố Vũ Hán ngày nay.
Ðến đời nhà Minh nhà Thanh , người ta còn có thêm thắt các câu chuyện thần tiên khác vào với sự tích đời nhà Ðường. Nhưng có lẽ chúng ta cũng chưa cần biết đến ở đây vì dù sao thì Thôi Hiệu đã viết Hoàng hạc Lâu trong cái không gian và thời gian là sự tích của đời nhà Ðường mất rồi!
Ðến viếng cảnh Hoàng Hạc Lâu, nhìn cái nguy nga tráng lệ của “Lầu” ngày nay thì người ta không khỏi thắc mắc nghĩ đến “Lầu” ngày xa xưa hình dáng như thế nào! Ðã gọi là tháp quan sát, chắc hẳn ít nhất tháp cũng phải có 2 tầng. Trải qua bao nhiêu thăng trầm với thời gian và lịch sử, Hoàng Hạc Lâu đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần. Triều đại nào của Trung Hoa cũng cho xây lại Hoàng Hạc Lâu, không hiểu có phải vì bài thơ của Thôi Hiệu hay không? Hay vì sự tích của Hoàng Hạc Lâu, hay vì vì một điều gì đó! Nhưng rõ ràng là dân gian Giang Hạ, người của đất Sở ngày xưa sống không thể thiếu được Hoàng Hạc Lâu. Không ai muốn cho Hạc vàng bay đi mất cả! Các triều đại thời Nam Bắc Triều, nhà Ðường, nhà Nguyên, thời Ngũ Ðại, nhà Minh, nhà Thanh, Cộng Sản đều cho kiến trúc lại Hoàng Hạc Lâu.
Ngày nay, người ta cũng cố tìm hiểu về di tích kiến trúc lầu Hoàng Hạc từ thuở lầu mới khởi đầu từ thời Tam Quốc. Tuy nhiên, vẫn chưa có ai biết được rõ lầu xưa được xây cất như thế nào! Qua những tài liệu còn giữ lại, người ta được biết Hoàng Hạc Lâu vào thời nhà Ðường là môt lầu 2 tầng, kiến trúc theo phong thái nhà Ðường. Tháp được xây ngay gần bên sông Trường Giang chứ không phải tại vị trí như hiện nay. Từ xa nhìn tháp lầu giống như là 2 tầng lầu chệt xếp chồng lên nhau. Mỗi tầng có mái riêng, mái không cong lắm so với các kiến trúc về sau này. Trên tầng hai, có lan can chung quanh để đứng ngắm nhìn trời sông. Ngồi trên lầu, người ta có thể thưởng ngoạn được cả không gian của thành phố Ngạc Châu (tên cũ của Vũ Hán). Hơn thế nữa, vào đời nhà Ðường, Hoàng Hạc Lâu đã được xem như là nơi đàn hát , tiêu khiển và thưởng ngoạn phong cảnh của tao nhân mặc khách. Chẳng vì thế mà Thôi Hiệu, Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Ðỗ Phủ ..v..v. và không biết là bao nhiêu thi tài đã dừng gót tại Hoàng Hạc Lâu, ngắm cảnh “bạch vân hoàng hạc” và để lại cho đời những thi ca bất tử . Một câu chuyện kể lại rằng khi Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu ngắm cảnh. Thấy cảnh sinh tình, nhà thơ muốn phóng tay viết về Hoàng Hạc Lâu nhưng ông chợt thấy đã có bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Biện Châu Thôi Hiệu treo ở đấây. Ðọc bài thơ của Thôi Hiệu, Lý Bạch đành bái phục mà viết rằng “nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu “ (trước mắt có cảnh mà đành chịu, vì thơ Thôi Hiệu viết trên đầu).
Nhà Ðường suy tàn để nước Trung Hoa hỗn loạn với thời kỳ Ngũ Ðại và Hoàng Hạc Lâu cũng bị tàn phá vì chiến tranh và thời gian. Thế nhưng “Hoàng Hạc Lâu” đã là một nét văn hóa, một cái điều gì đó mà người đời sau cảm thấy không thể thiếu được khi nhắc đến Hán Dương, Giang Hạ (Hạ Khẩu). Chẳng vì thế, khi nhà Tống thống nhất Trung Hoa thì Hoàng Hạc Lâu lại được kiến trúc lại, nhưng theo phong thái đời Tống. Tống Nhạc Phi một danh tướng thời Nam Tống, mỗi lần trên đường đem quân lên phía bắc với ước mơ quét sạch quân Kim để thu hồi giang sơn cho nhà Ðại Tống ( nhà Tống lúc đó bị nhà Kim đánh chiếm nên lui về đóng đô ở Hàng Châu. Sử gọi là nhà Nam Tống), ông đều ngừng lại ở Hoàng Hạc Lâu, và với bao nhiêu cảm khái về nơi chốn này, ông để lại cho hậu thế một ca từ bất tử “Mãn Giang Hồng, Ðăng Hoàng Hạc Lâu hữu cảm”. Không biết Nhạc Phi có hoài cảm với ý thơ “ Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của người xưa hay không? Thế nhưng sau khi Nhạc Phi chết thì Hoàng Hạc Lâu một lần nữa lại bị phá hủy.
Nhà Nguyên Mông Cổ chiếm trọn và cai trị Trung Hoa gần 100 năm. Chu Nguyên Chương khởi nghĩa thu phục Trung Hoa trở lại cho Hán tộc, lập ra triều đại nhà Minh kéo dài gần 300 năm. Rồi thì nhà Minh suy tàn để nhà Thanh thay thế và cũng trị vì gần 300 năm. Bốn mùa xuân hạ thu đông luân phiên thay nhau có cả hơn ngàn lần, Hoàng Hạc Lâu tan nát vì chiến tranh và hỏa hoạn tất cả 12 lần và cả 12 lần đều được cho xây dựng kiến thiết lại (không kể các lần trùng tu) cho dù dưới bất cứ triều đại nào, vua nào. Vì thế, Hoàng Hạc Lâu có hơn 12 kiểu kiến trúc khác nhau, từ một tháp quan sát thời Ðông Ngô trở thành Hoàng Hạc Lâu đời Ðường, Hoàng Hạc Lâu đời Tống, đời Minh, đời Thanh, cho đến bây giờ thời Cộng Sản. Thế mới biết có những điểm văn hóa người ta muốn quên cũng không quên được, muốn dẹp bỏ đi cũng không dẹp bỏ được.
Từ năm 1957, dân Vũ Hán đã có chương trình phục hồi lại Hoàng Hạc Lâu nhưng mãi cho đến năm 1985 thì Hoàng Hạc Lâu hiện đại mới được hoàn thành. “Lầu” bây giờ cao hơn 50m , có 5 tầng lầu và được xây lại theo vóc dáng Lầu cũ của đời nhà Thanh Ðồng Trị. Lầu mới rộng hơn và cao hơn lầu cũ gần 20m và có thêm 2 tầng lầu. Ðể tránh rủi ro về hỏa hoạn, sườn của Lầu mới được xây bằng sắt thép và xi măng chứ không còn bằng gỗ như ngày xưa nữa. Lầu có thể chia ra làm 3 phần chính. Phần thứ nhất bao gồm cách thiết kế bên trong của tầng 1, tầng này cao hơn 10m và phần trang trí bên trong được thiết kế cho người xem hiểu ngay được về sự tích của Hoàng Hạc Lâu. Một bức tranh thật lớn vẽ tại ngay chính giữa điện, diễn tả về câu chuyện thần tiên “bạch vân hoàng hạc” (mây trắng hạc vàng) của Phí Vĩ đời nhà Ðường lúc thăng tiên . Tiên ông Phí Vĩ thổi sáo cưỡi hạc vàng bay bên trên, mây trắng vây quanh Hoàng Hạc Lâu. Bên dưới là người họ Tân đang đưa cao ly rượu dâng mời Phí Vĩ với sự chứng kiến của bàng dân thiên hạ. Nhìn tranh vẽ, bấy giờ thì người ta mới hình dung ra được câu trả lời cho câu hỏi của Thôi Hiệu, của Tản Ðà “Hạc vàng ai cỡi đi đâu. Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”.
Hạc vàng đang ở đó! Lầu Hoàng Hạc cũng đang ở đó! Thân chúng ta cũng đang ở đó! Tâm chúng ta cũng đang ở đó! Thôi Hiệu, Tản Ðà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Trần Trọng San cũng đang ở đó! Cảnh xưa cảnh nay, người xưa người nay có mất đi chút nào đâu!
Phần hai bao gồm các tầng từ tầng 2 cho đến tầng 4. Ðây là các tầng gìn giữ lại những bài thơ, những bài từ bất tử nói về Hoàng Hạc Lâu, những bức họa tranh nói về các sự kiện lịch sử từ thời tam quốc, những danh nhân của đất Sở ngày nào như Khuất Nguyên, những thi tài Lý Bạch, Thôi Hiệu, danh tướng Tống Nhạc Phi, những kiến trúc cũ của Hoàng Hạc Lâu đời Ðường, đời Nguyên, Minh, Thanh..v..v. được trưng bày tại đây để mọi người thưởng ngoạn.
Phần ba bao gồm tầng 5 cũng là tầng cao nhất của Lầu. Ðứng ở đây, người ta có thể ngắm cảnh trời sông bao la bát ngát, nhìn dòng sông Trường Giang và Hán Thủy hợp lưu lại thành hình một chữ “Nhân” trong Hán tự . Ngẩng mặt lên để thấy “Giang Thiên hạo hãn” (Sông trời mênh mông bát ngát), nhìn ngang để hiểu
Nhất Lâu tụy Tam Sở tinh thần (Một Lầu kết hợp tinh thần của Tam Sở)
Vân Hạc câu không hoành địch tại (Mây Hạc đều không, chỉ còn lại tiếng sáo)
Nhị thủy giang bách xuyên chi phái (Nước trăm sông nhỏ vào hai sông lớn (Trường Hán))
Cổ kim vô cùng đại giang lưu ( Xưa nay dòng đại giang chảy vô cùng tận)
Bước qua ranh giới của hai chữ quốc gia, văn hóa Trung Hoa quả thực cho người ta nhiều cảm khái về suy tư , về tâm hồn thi vị. Không có được cái cảm khái đó thì có lẽ Tản Ðà chúng ta đã không dịch ra được một bài thơ dịch tuyệt hảo về Hoàng Hạc lâu. Ông không những vẫn giữ nguyên được cái ý nghĩa nguyên thủy Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu mà còn vượt qua nổi cái thâm trầm ngôn ngữ của nguyên tác để đưa vào lòng người đọc thơ những điều nhẹ nhàng tinh túy nhất của ngôn ngữ Việt Nam. (đọc Giảng luận về Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu của Bùi Giáng)
Nhật mộ hương quan hà xứ thị.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai“
Thôi Hiệu còn, Tản Ðà còn, Hoàng Hạc Lâu luôn còn hiện hữu, bất tử bên con sông Trường Giang Hán Thủy, miền Giang Hạ của Trung Hoa.
May 31, 2005
Mừng sinh nhật một người.
Trần Nguyên Thắng
Những bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của các tác giả khác.
Người đi cỡi hạc từ xưa,
Ðất này Hoàng Hạc còn lưa một lầu,
Hạc vàng đi mất từ lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông,
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh Vũ, cỏ trông xanh rì,
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu
Trần Trọng Kim dịch
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu Hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn;
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng;
Xanh ngút châu Anh, lớp cỏ dầy.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Ðầy sông khói sóng gợi niềm tây.
Ngô Tất Tố dịch
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm;
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dầy.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy;
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
Trần Trọng San dịch