Ngôn sứ Êlia
Giới thiệu:
Với Êlia và người kế vị tên Êlisa, chúng ta bước vào một giai đoạn mới. Giai đoạn các ngôn sứ, những người sẽ để lại dấu ấn sâu đậm trên ý thức xã hội, chính trị và tôn giáo Ítraen.
Tất nhiên, phong trào ngôn sứ không bắt đầu từ Êlia theo đúng nghĩa. Ngay từ thời Samuen "Đấng thị kiến" (1Sm 9,9; xem 1Sm 3,1 và 20) đã có các cộng đồng ngôn sứ (1Sm 10,5-6; 19,18-24) và dưới thời Đavít, các ngôn sứ Nathan (2Sm 7; 12) và Gát (1Sm 22,5 và 2Sm 24,11-19) đóng vai trò quan trọng bên cạnh nhà vua. Dưới triều Salomôn, Ahiyya từ Silo đã tiên báo vương quốc chia cắt (1V 11,29-39), và sau chia rẽ này, "những người của Đức Chúa" (1V 13,1) sẽ tiếp tục nói và hành động nhân danh Đức Chúa.
I. Bối cảnh lịch sử:
1. Tình hình chính trị hòa bình.
Ngôn sứ Êlia ở nửa đầu thế kỷ thứ 9. Tình hình chính trị thời kỳ tương đối yên ổn trong khu vực Cận Đông. Ai Cập suy yếu mặc dù có một vài cuộc xâm lược các nước láng giềng. Ở phía bên kia Palestine, Átsua vừa thoát khỏi một thời kỳ trì trệ; các vị vua mới tài năng và hiếu chiến sẽ sớm gieo rắc nỗi kinh hoàng cho các nước láng giềng, nhưng hiện tại vẫn là hòa bình. Mối đe dọa nghiêm trọng duy nhất đến từ vương quốc Đamát, vừa mới thành lập (thế kỷ 10), đang nhìn một cách thèm thuồng về phía Ítraen và Giuđa, tấn công khi nước này khi nước kia, tùy theo mục tiêu chính trị (khoảng năm 855, Ben Hadad xứ Đamát tấn công Samaria).
Giữa Ítraen và Giuđa (tách biệt kể từ cuộc ly khai năm 931), mối quan hệ không phải lúc nào cũng tốt đẹp. Hai "anh em thù địch" được đánh dấu cùng một nền văn hóa, truyền thống và đức tin giống nhau, khi sống như kẻ thù (tranh chấp biên giới vào cuối thế kỷ 10), khi như anh em (Liên minh giữa Akháp, vua Ítraen với Joram, vua Giuđa vào thế kỷ 9). Các vương quốc chư hầu bị Đavít chinh phục, như Moab, Edom và Ammon, sẽ lợi dụng những cuộc chiến huynh đệ tương tàn để giành lại độc lập.
Một trong những kiến trúc sư hòa bình vĩ đại ở vương quốc phía bắc (Ítraen) vào thế kỷ 9 là vua Omri (1V 16,23-28). Sau khi nắm quyền khoảng năm 885, ông đã thay đổi thủ đô, rời khỏi Tiaxa đến Samaria dẫn đến một chính sách đối ngoại mới, đánh dấu bằng liên minh với người Phênixi ở Tyr và với cuộc hôn nhân cùng bà Ideven, con gái vua Tyr và Xiđôn, với Akháp, con trai Omri (1V 16,31).
Nền hòa bình tương đối được thiết lập dưới triều đại Omri và con cháu đi kèm với một mức độ thịnh vượng và Ítraen trải qua một thời kỳ huy hoàng nhất. Omri biến Samaria thành thủ đô, vì thống nhất bị phá vỡ bởi cuộc ly khai năm 931. Thông qua liên minh với Phênixi ông thúc đẩy thương mại. Con trai ông, Akháp tiến hành các công trình ở Samaria, củng cố biên giới và tăng cường quân đội, cho phép ông với Đamát giúp đỡ ca, tạm thời chận vua Át sua Salmanasar III tham vọng bành trướng, bị đánh bại ở Qarqar vào năm 853.
2. Tình hình tôn giáo không mấy sáng sủa
Thật không may, nền hòa bình tương đối đi kèm với suy đồi tôn giáo và nguồn gốc cần được tìm kiếm trong những thế kỷ trước đó. Thật vậy, những tiếp xúc với nền văn minh Canaan trong thời kỳ chinh phục (thế kỷ 12-11), thái độ Salomon về tôn giáo đôi khi mơ hồ (1V 11), cuộc ly khai chính trị-tôn giáo năm 931 với việc dựng các đền thờ ở Dan và Bethel (1V 12) đã dẫn đến sự tan rã từ từ đạo tôn thờ YHWH.
Mặc dù bề ngoài, người ta vẫn cử hành cùng một nghi lễ thờ phượng và cầu nguyện bằng cùng những lời, nhưng dần dần trong phong tục đã hình thành một loại tôn giáo hỗn hợp, nơi các thần Baan và Astarte (các vị thần Phênixi) được tôn kính không kém gì YHWH. Omri đã đẩy nhanh sự việc bằng cách kết hôn con trai mình Akháp với Ideven cuồng tín, con gái vua Xiđôn EthBaan, và chính ông này làm thầy tế lễ thượng phẩm cho nữ thần Ashera.
Điều dẫn đến việc thiết lập một nghi lễ thờ phượng thần Xiđôn ở Samaria (1V 16,32) và xuất hiện các thầy tế lễ Baan (1V 18,19), những người sẽ nhân rộng các Nơi Cao để giảng dạy và thực hành nghi lễ thờ phượng nhục dục dựa trên các điệu múa nghi lễ.
Tất cả những điều này đi kèm với những cuộc bách hại chống lại những người phục vụ Đức Chúa chân thật. Chính trong bối cảnh khủng hoảng này ngôn sứ Êlia xuất hiện.
II. Nhân cách Êlia
Êlia mang tên có nghĩa "YHWH là Đức Chúa Trời của tôi", một cái tên coi như cả một chương trình. Thật khó để tái tạo chân dung ông vì những câu chuyện nói về ông đã được hài hòa hóa sau đó và chủ yếu tiến hành bằng cách chạm khắc riêng lẻ.
1. Một người có nguồn gốc bí ẩn.
Ông xuất hiện trong các bản văn Kinh Thánh ở 1V 17,1, cho biết đến từ Títbe ở Galaát (Transjordan). Những xung đột giữa ông với Akháp và Ideven, sau đó với Akhátgia, đặt ông vào thế kỷ 9. Các bản văn không để lộ gì về cuộc sống cá nhân và chỉ nói về ông vì sứ mệnh. Ông được thúc đẩy bởi Thần Khí Chúa (1V 18,12), ông ở suối Cơrít (Transjordan), trên núi Cácmen, ở Phênixi, tại núi Khôrếp, ở Syria, tại cung điện Akháp và cuối cùng ở sông Giođan, nơi ông được cất lên trời trên một "cỗ xe lửa" (2V 2,11). Vị ngôn sứ mặc áo lông thú và thắt lưng bằng da quanh hông (2 V1,8), do đó xuất hiện như một người đầy bí ẩn, cả trong nguồn gốc (gia đình không rõ) lẫn trong sự biến mất đáng ngạc nhiên.
2. Một người đầy tương phản
Ông có thái độ rõ với "những người quyền lực" đầy những tương phản. Đôi khi ông run sợ trước cơn giận những kẻ quyền lực (1V 19), khi ông đối đầu ngay trên địa bàn những tội ác của họ (1V21,17-24 vườn nho Navốt). Trong việc thực hiện sứ mệnh, ông dao động từ táo bạo mạnh mẽ nhất đến chán nản hoàn toàn nhất. Tất cả những điều làm cho ông trở thành một nhân vật phi thường trong tâm điểm một lịch sử đầy biến động.
3. Một người cô độc
Hơn nữa, một số đặc điểm trong cuộc sống làm cho ông trở thành người cô độc, nơi ông xuất hiện như một loại nhà thần bí "ẩn tu" nổi lên từ sa mạc ở Cơrít, nơi những con quạ nuôi ông (1V 17,3-6), cô độc trong nơi ẩn náu trên núi Cácmen (1V 18,42), mang lại cho ông một vị trí đặc biệt trong truyền thống dòng Cát-Minh, cuối cùng cô độc ở Khôrép (1V 19), nơi trải nghiệm thân mật với Chúa. Trái với phong tục thời đó, ông không gắn bó với một "hội đoàn ngôn sứ" nào, và hiếm khi thấy ông trong các thành phố. Ông là người cô độc, sống trong im lặng sa mạc và núi non.
4. Một ngôn sứ
Nhưng cô độc chủ yếu được thúc đẩy bởi sứ mệnh, vì ông đã làm phiền người khác bị săn đuổi, bị từ chối. Dưới góc độ này, Êlia xuất hiện trước hết như một ngôn sứ, một tôi tớ Chúa, như chính ông tự gọi (1V 17,1; 18,15). Lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa (1V 19,10 và 14), cuộc đấu tranh chống lại thờ hình tượng (1V 18; 2V 1,16), những can thiệp chống lại bất công (1V 21) làm cho ông trở thành người phát ngôn của Thiên Chúa, người bảo vệ đức tin YHWH. Vì vậy, ông sẽ không ngần ngại rời khỏi nơi cô độc để đi đến nơi sứ mệnh đòi hỏi, từ bắc đến nam (từ Zarephath đến Khôrép) và từ tây sang đông (từ Cácmen đến Transjordanie). Dù ông thực sự một người chiêm niệm, một người có mối quan hệ rất thân thiết với Thiên Chúa, nhưng trước hết ông nói và hành động theo ý Thiên Chúa, Đấng ông không ngừng hoạt động trong cuộc sống và lịch sử dân tộc.
Cuối cùng, Elia người của những nghịch lý, và tác giả kể câu chuyện không thể không gợi nhớ đến hình ảnh Môsê, vị ngôn sứ tiêu biểu nhất theo Đệ nhị luật 34,10. Giống như Môsê, Êlia sẽ gặp Thiên Chúa tại Khôrép; giống như Môsê, ông đứng trước Chúa, và ở nơi Môsê chỉ thấy Đức Chúa từ phía sau (Xuất Hành 33,21-29), Êlia nếm trải ngọt ngào sự hiện diện và an ủi từ Lời Ngài trước khi lên đường thực hiện sứ mệnh. Cuối cùng, cả hai đều có một kết thúc bí ẩn.
Êlia nhạy cảm đối với hành động Thiên Chúa, nhiệt huyết truyền giáo, đức tin vô điều kiện vào Thiên Chúa Giao Ước, đã tạo ra một động lực cho phong trào ngôn sứ và những thành quả sẽ đánh dấu các thời đại tiếp theo và mang những tên tuổi danh tiếng như Amốt, Hôsê, Isaia, Giêrêmia... Êlia ra đi bí ẩn cho thấy chính xác làm thế nào dòng ngôn sứ ra đời dẫn đến Gioan Tẩy Giả, được đánh dấu bằng dấu ấn thiêng liêng.
III. Thông điệp ngôn sứ
Một ý tưởng lớn xuyên suốt các văn bản liên quan đến Êlia. YHWH và Baan không thể cùng tồn tại. Với tình trạng tôn giáo hỗn hợp, một câu hỏi nghiêm trọng được đặt ra ai là Thiên Chúa ở Ítraen? Và chính YHWH trả lời thông qua hành động Êlia. Đó là ta và chỉ mình ta; các Baan không gì cả; người ta không thể thờ phượng Baan và ta cùng một lúc.
Êlia đấu tranh cho YHWH, Đấng làm chủ thiên nhiên (ban mưa, 1V 17,1; 18,41-45; chữa lành...). Ảnh hưởng vươn xa ngoài Ítraen (1V 17,7-24). Đón nhận Ngài là Thiên Chúa có nghĩa thỏa hiệp với các yêu cầu Giao Ước (1V 21).
Mặc dù chưa đi đến chủ nghĩa độc thần, Êlia bảo vệ nhiệt thành ý tưởng Ítraen chỉ thuộc về một mình YHWH, nhưng thêm vào một điểm mới mẻ mọi sự bội đạo sẽ rơi vào phán xét. YHWH sẽ trừng phạt dân tộc bất trung. Tuy nhiên, một "phần còn lại" sẽ tồn tại (1V 19,17tt).
IV. Các văn bản Kinh Thánh liên quan đến Êlia
Êlia được đề cập trong nhiều sách Kinh Thánh, nhưng phần chính, câu chuyện, được tìm thấy trong 1V 17-22 (nhưng không có gì trực tiếp về ông trong chương 20 và 22) ; 2V 1-2.
Hầu hết các văn bản được viết vào khoảng năm 800 và có trước sách Các Vua nơi được chèn vào. Tác giả, dựa trên nền tảng lịch sử (vì ký ức về Êlia vẫn còn sống động vào thời điểm đó), chủ yếu muốn đánh thức đức tin Ítraen. Do đó, tác giả nhấn mạnh trình bày Êlia như người anh hùng trung thành với YHWH.
V. Êlia trong truyền thống Kinh Thánh và Kitô giáo
1. Nếu chu kỳ Êlia kết thúc với việc được cất lên trời bí ẩn, nhân vật sẽ tiếp tục được nói đến trong một thời gian dài, cả trong phần còn lại Cựu Ước lẫn trong Tân Ước và văn học Do Thái ngoài Kinh Thánh.
Ông có quyền năng trên lửa từ trời, trải nghiệm thân mật với Thiên Chúa tại Khôrép, lên trời trong một cỗ xe lửa, tất cả đã góp phần xem ông như nhà ngôn sứ được tiên báo trong Đệ nhị luật (18,15-18). Sách Các Vua sẽ chú ý nhiều đến ông có vai trò công lý cho thấy sự hoàn thành các lời ngôn sứ báo thù (2V 9,22-39; 10,1-11 và 15-17; 2 Biên niên sử 21,11-19).
Sách Macabê thứ nhất, xuất phát từ bối cảnh bách hại (khoảng năm 150 trước Công nguyên), ghi nhận lòng Êlia nhiệt thành cháy bỏng đối với Luật pháp, điều khiến ông được cất lên trời (1 Macabê 2,58).
Sách Huấn Ca (48,1-11) sẽ ca ngợi lòng ông nhiệt thành, những phép lạ và lời ngôn sứ, và nói ông được dự định để "xoa dịu cơn giận của Chúa trước khi bùng phát thành cơn thịnh nộ, để hướng tâm người cha về con cái và khôi phục các chi tộc Giacóp" (Huấn Ca 48,10).
Ngôn sứ Malakhi (3,23-24) tuyên bố Êlia sẽ trở lại trước "Ngày của Chúa, ngày vĩ đại và kinh hoàng".
2. Trong Tân Ước, Êlia đóng một vai trò quan trọng. Trong dòng chảy lịch sử tôn giáo, hình ảnh tiên tri Êlia vẫn luôn tỏa sáng như một ngôi sao dẫn đường, từ những trang Cựu Ước đến tận Tân Ước và xa hơn nữa. Khi bước vào thế giới Tân Ước, Êlia hiện diện khắp nơi như một bóng hình ẩn hiện giữa những trang Tin Mừng. Ông mang hình ảnh vị tiền phong mở đường cho Đấng Mêsia. Trong lời Chúa Giêsu, Gioan Tẩy Giả chính là Êlia đã trở lại, không phải bằng xác thân nhưng bằng tinh thần và sứ mạng (Mt 11,14; 17,10-13; Mc 9,11-13; Lc 1,17).
Trên núi Biến Hình, Êlia xuất hiện cùng Môsê, hai cột trụ đức tin Ítraen, đứng bên cạnh Chúa Giêsu trong vinh quang (Mt 17,3-4; Mc 9,4-5; Lc 9,30-33). Cảnh tượng như một bức tranh sống động, nơi quá khứ, hiện tại và tương lai giao hòa. Êlia và Môsê, đại diện cho Luật Pháp và các Ngôn Sứ, như đang trao lại sứ mạng cho Đấng sẽ hoàn tất mọi lời tiên tri và luật lệ.
Dân chúng nhầm lẫn khi cho Chúa Giêsu là Êlia sống lại (Mt 16,14; Mc 6,15; 8,28; Lc 9,8, 19) không chỉ một hiểu lầm đơn thuần, nhưng phản ánh niềm tin sâu sắc vào vị ngôn sứ vĩ đại trở lại, đồng thời cho thấy Chúa Giêsu mạnh và ảnh hưởng đối với người đương thời. Trong lời giảng tại Nazareth, Chúa Giêsu đã khéo léo sử dụng hình ảnh Êlia để mở rộng tầm nhìn dân chúng, cho thấy tình yêu Thiên Chúa không giới hạn trong một dân tộc, nhưng trải rộng đến muôn dân (Lc 4,25-26).
Ngay cả trong giờ phút đau thương nhất trên thập giá, hình ảnh Êlia vẫn hiện diện. Tiếng Chúa Giêsu kêu bị hiểu lầm lời gọi Êlia (Mt 27,47-49; Mc 15,35-36), một lần nữa cho thấy niềm tin mãnh liệt vào vị ngôn sứ can thiệp, như một lời nhắc nhở cuối cùng về mối liên hệ giữa sứ mạng Chúa Giêsu và truyền thống ngôn sứ Ítraen, ngay cả trong khoảnh khắc tưởng chừng như tăm tối nhất.
Vượt ra ngoài khuôn khổ Tân Ước, hình ảnh Êlia tiếp tục phát triển trong truyền thống Do Thái và Kitô giáo. Trong Do Thái giáo, ông trở thành biểu tượng niềm hy vọng cánh chung, vị sứ giả sẽ báo hiệu thời đại Mêsia. Đối với Kitô giáo, Êlia trở thành hình mẫu đời sống tu đức và tiên tri. Ông mang tinh thần nhiệt thành trong việc bảo vệ đức tin chân chính đã trở thành nguồn động lực cho các nhà truyền giáo.
Trong thư thánh Giacôbê, Êlia được nêu làm gương về sức mạnh lời cầu nguyện (Gc 5,17-18), cho thấy các nhân vật Cựu Ước được sử dụng làm mẫu mực cho đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội sơ khai như thế nào. Đề cập này nhấn mạnh tính liên tục giữa đức tin Cựu Ước và Tân Ước, đồng thời tái diễn các câu chuyện cũ để áp dụng vào đời sống Kitô hữu.
Qua dòng thời gian, hình ảnh Êlia không ngừng được tái diễn và làm mới. Từ một nhân vật lịch sử, ông đã trở thành một biểu tượng đa chiều, phản ánh những khát vọng sâu xa nhất của con người về công lý, về Thiên Chúa hiện diện, và về can thiệp thiêng liêng vào lịch sử nhân loại. Trong mỗi thời đại, Êlia lại mang một ý nghĩa mới, nhưng luôn giữ nguyên bản chất một ngôn sứ đích thực, một người của Thiên Chúa.
Như vậy, hành trình Êlia từ Cựu Ước đến Tân Ước và xa hơn nữa không chỉ câu chuyện về một nhân vật, nhưng câu chuyện về sự liên tục và đổi mới trong đức tin, về cách truyền thống tôn giáo vừa giữ gìn di sản quá khứ vừa không ngừng tái diễn để đáp ứng nhu cầu tâm linh mỗi thế hệ. Trong hình ảnh Êlia, thấy được giao thoa giữa lịch sử và huyền thoại, giữa con người và thần thánh, một minh chứng sống động cho sức mạnh bền bỉ của đức tin và hy vọng trong tâm hồn con người.
|
Êlia, vị tiên tri của sự sống Các nhà tiên tri luôn là lời nhắc nhở, đôi khi mạnh mẽ, về cách cư xử của con người theo đường lối Chúa. Đôi khi họ đi ngược dòng và đánh đổi mạng sống, chống lại lợi ích cá nhân và ích kỷ để nâng cao khát vọng con người lên một tầm cao hơn. Êlia là một trong những nhà tiên tri đã mạnh mẽ chống lại quyền lực để thiết lập vinh quang Chúa. Cơn đại hạn Vua Ítraen Akháp đã sa ngã khi theo đuổi việc thờ cúng thần Baan do bà vợ là Ideven khởi xướng. Tiên tri Êlia theo lệnh Chúa gây ra hạn hán trong ba năm trên Ítraen để trừng phạt hành vi vô đạo này. Một ẩn dụ mạnh mẽ về hậu quả việc thờ hình tượng, hạn hán thậm chí còn đe dọa cả nhà tiên tri, buộc ông phải trốn thoát và đến suối Cơrít, nơi những con quạ mang thức ăn cho ông hàng ngày. Nhưng suối cũng cạn kiệt và Êlia đi đến Xarépta giữa thành Tyr và Siđôn. Góa phụ ở Xarépta Tình hình ở Xarépta rất khó khăn và Êlia không còn gì để ăn uống. Ông gặp một góa phụ đang nhặt hai thanh củi để nấu chút lương thực còn lại trước khi chết cùng con trai. Nhà tiên tri yêu cầu bà làm cho ông một cái bánh từ chút bột và dầu còn lại cuối cùng. Mặc dù nghèo khó, bà vẫn làm theo và phép lạ xảy ra. Từ ngày đó cho đến mùa gặt mới, bình dầu và hũ bột không bao giờ cạn. Một bài học đẹp về lòng bác ái được để lại nhân dịp nhà tiên tri đi qua. Nhưng trong thời gian ở với góa phụ, con trai bà qua đời khiến bà vô cùng đau khổ. Êlia kinh ngạc, hỏi Chúa liệu Ngài đã đưa ông đến nhà góa phụ này để giết chết con trai bà. Nhà tiên tri một lần nữa cầu xin quyền năng thiêng liêng để đứa trẻ sống lại. Và con trai bà góa phụ sống lại. Việc cầu thay có thể làm được mọi điều khi phù hợp với tình yêu thiêng liêng. Trận chiến với các ngôn sứ Baan trên núi Cát-Minh Kinh Thánh khi kể lại câu chuyện đầy màu sắc này, muốn thể hiện sức mạnh của Thiên Chúa duy nhất, đôi khi không thiếu hài hước. Êlia thách thức vua Akháp và yêu cầu các ngôn sứ thần Baan chứng minh sức mạnh các thần của họ. Một cuộc thi thực sự về lễ thiêu do các thầy tế lễ Baan thực hiện dưới cái nhìn châm biếm của Êlia, không ngần ngại chế nhạo họ bất lực. Các con vật được dâng làm tế lễ không bị các vị thần vắng mặt tiêu thụ... Êlia cười nhạo và hỏi liệu các vị thần có tình cờ vắng mặt hoặc quá bận rộn với các công việc khác không?! Cuối cùng, để xóa tan mọi nghi ngờ về Thiên Chúa hiện diện thiêng liêng, nhà tiên tri cầu xin Chúa thiêu rụi lễ vật do ông chuẩn bị, một của lễ trước đó đã được tưới đẫm nước để biểu hiện càng rõ ràng hơn. Trong chớp mắt, mọi thứ đều bị thiêu rụi, kể cả đá và đất. Hình phạt thật khủng khiếp cho những kẻ thờ Baan và Êlia sẽ giết tất cả những ngôn sứ giả bằng gươm... Những thử thách cuối cùng của nhà tiên tri Nhưng những thử thách vẫn chưa kết thúc đối với Êlia. Ideven, vợ nhà vua, tìm cách trả thù và muốn giết Êlia, buộc ông phải trốn vào sa mạc một lần nữa. Khi sắp chết vì đói và khát, Thiên thần mang đến cho ông nước và bánh, hình ảnh báo trước về Bí tích Thánh Thể, trước khi ông được no nê lên đường đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm, như Môsê, đến núi Khôrép. Tại nơi thánh, những dấu hiệu kinh hoàng báo trước Thiên Chúa hiện diện, nhưng khi một cơn gió nhẹ thoảng qua, Chúa hiện ra với Êlia, ra lệnh cho ông xức dầu cho Khadaên (1V 1915-17) làm vua Aram, Giêhu làm vua Ítraen (con ông Giơhôsaphét, vua Ítraen thứ 10, 2V 9,1-10) và Êlisa làm người kế vị. Sau đó, Êlia được cất lên trời trên một cỗ xe lửa trước sự kinh ngạc của Êlisa... |
Bài đọc thêm
Tình hình lịch sử
Ngôn sứ Êlia xuất hiện trong một giai đoạn đầy biến động lịch sử Ítraen vào thế kỷ 9 trước Công nguyên. Thời kỳ vua Akháp (874-853 trước Công nguyên), một giai đoạn tương đối ổn định về mặt chính trị nhưng lại đầy thách thức về mặt tôn giáo và đạo đức. Sự kiện then chốt định hình bối cảnh với cuộc hôn nhân giữa Akháp với Ideven, công chúa vương quốc Phênixi thành Tyr.
Cuộc hôn nhân mang lại nhiều lợi ích chiến lược cho Ítraen, tạo ra một liên minh mạnh mẽ với Tyr, mở rộng cơ hội thương mại qua các tuyến đường người Phênixi, và tăng cường khả năng phòng thủ trước các mối đe dọa từ các cường quốc như Átsua và các vương quốc Aram. Tuy nhiên, cũng mang đến những rủi ro đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo và văn hóa.
Ideven, một tín đồ nhiệt thành thần Baan, đã đưa việc thờ cúng thần này vào Ítraen, dẫn đến một cuộc xung đột sâu sắc với những người thờ phượng YHWH truyền thống và đe dọa làm suy yếu bản sắc tôn giáo Ítraen. Nhiều người Ítraen bắt đầu thờ phượng Baan vì nhiều lý do như áp lực chính trị, thu hút bởi nghi lễ mới lạ và gợi cảm hơn, sợ bị trừng phạt nếu không tuân theo, hoặc hy vọng nhận được ưu đãi từ triều đình.
Chính trong bối cảnh phức tạp, ngôn sứ Êlia xuất hiện. Tên ông, có nghĩa "YHWH là Đức Chúa Trời của tôi", đã phản ánh sứ mệnh trong việc bảo vệ đức tin vào YHWH. Êlia xuất hiện đột ngột trong 1V17,1, tuyên bố một thời kỳ hạn hán như một hình thức Thiên Chúa phán xét đối với dân chúng bất trung.
Cuộc đời Êlia được đánh dấu nhiều sự kiện siêu nhiên, thể hiện Chúa bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Ông được quạ nuôi gần suối Cơrít trong thời kỳ hạn hán, một minh chứng cho Chúa quan phòng kỳ diệu. Sau đó, ông được gửi đến Xarépta, ở với một bà góa nghèo. Tại đây, Êlia thực hiện phép lạ nhân bội dầu và bột, cung cấp thức ăn cho bà góa và con trai bà trong suốt thời gian đói kém. Ông thậm chí còn khiến con trai bà sống lại từ cõi chết, thể hiện quyền năng phi thường Chúa ban cho ông.
Đỉnh cao trong sứ vụ Êlia qua cuộc đối đầu nổi tiếng trên núi Cácmen (1V 18). Tại đây, ông thách thức 450 ngôn sứ Baan trong một cuộc thi thách đức tin công khai. Sự kiện không chỉ chứng minh quyền năng tối cao YHWH còn thể hiện Êlia can đảm phi thường. Ông một mình đối đầu với hàng trăm đối thủ, đặt niềm tin hoàn toàn vào Chúa. Khi lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt của lễ Êlia, không chỉ chứng minh YHWH hiện diện và quyền năng nhưng còn dẫn dân chúng tạm thời ăn năn.
Êlia, người được Chúa cứu (1 V 17,1; 18,15) và anh hùng của Chúa
Tuy nhiên, ngay sau chiến thắng vĩ đại này, Êlia lại rơi vào tình trạng tuyệt vọng sâu sắc. Ông chạy trốn vào sa mạc vì bị Ideven đe dọa tính mạng. Một khoảnh khắc quan trọng trong hành trình tâm linh, thể hiện yếu đuối và nhu cầu được Chúa tiếp tục hỗ trợ. Trong sa mạc, Êlia được một thiên sứ chăm sóc, cung cấp thức ăn và nước uống, cho thấy Chúa không bao giờ bỏ rơi các tôi tớ trung thành, ngay cả trong những lúc họ yếu đuối nhất.
Cuộc hành trình Êlia đến núi Sinai (Khôrép) có ý nghĩa sâu sắc, nơi Môsê đã nhận được Luật pháp, và việc Êlia đến đây nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa Luật pháp và các Ngôn sứ. Tại Sinai, Êlia trải nghiệm Chúa hiện diện không phải trong gió mạnh, động đất hay lửa, nhưng trong một tiếng nói nhỏ nhẹ. Điều dạy Chúa thường nói với trong tĩnh lặng và bình an, không phải luôn luôn qua những biểu hiện ngoạn mục.
Người bảo vệ người nghèo (17,8; 21)
Êlia không chỉ một ngôn sứ đấu tranh cho đức tin thuần túy, còn một người bảo vệ mạnh mẽ cho công lý xã hội và quyền lợi người nghèo. Vai trò được thể hiện rõ nét qua hai sự kiện quan trọng được ghi lại trong Kinh Thánh.
Sự kiện đầu tiên xảy ra trong thời kỳ hạn hán (1V 17,8-16). Chúa đã hướng dẫn Êlia đến Xarépta, nơi ông gặp một bà góa nghèo đang trong cảnh túng thiếu. Mặc dù bản thân đang gặp khó khăn, Êlia đã không ngần ngại yêu cầu bà cung cấp thức ăn cho mình. Điều có vẻ như một yêu cầu không công bằng đối với một phụ nữ đang đói, nhưng thực tế như một cơ hội để Chúa thể hiện Ngài quan tâm đối với những người yếu thế. Thông qua Êlia, Chúa đã thực hiện phép lạ nhân bội dầu và bột, đảm bảo bà góa và con trai bà có đủ thức ăn trong suốt thời gian hạn hán. Hành động không chỉ cứu sống bà góa và con trai bà, còn thể hiện Chúa và các ngôn sứ quan tâm sâu sắc đến việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.
Tuy nhiên, vai trò Êlia như một người bảo vệ công lý được thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ nhất trong vụ việc vườn nho Navốt (1V 21). Câu chuyện mang một ví dụ điển hình về việc lạm dụng quyền lực và bất công trong xã hội. Vua Akháp, bị thúc đẩy bởi lòng tham và ích kỷ, muốn có vườn nho Navốt, một người dân bình thường. Khi Navốt từ chối bán vườn nho - một phần di sản gia đình - Akháp đã phản ứng như một đứa trẻ hư hỏng, buồn bã và giận dữ.
Tại đây, Ideven, vợ Akháp, đã can thiệp với một kế hoạch độc ác. Bà đã lên kế hoạch vu khống Navốt, tổ chức một phiên tòa giả và cuối cùng giết chết ông để chiếm đoạt vườn nho. Một ví dụ rõ ràng về việc những người có quyền lực lạm dụng hệ thống pháp luật để áp bức người nghèo và người vô tội.
Chính trong tình huống này, Êlia đã xuất hiện như một tiếng nói mạnh mẽ cho công lý. Ông không ngần ngại đối đầu trực tiếp với vua Akháp, người đang tận hưởng chiến lợi phẩm bất chính. Êlia đã tuyên bố Chúa phán xét đối với Akháp và Ideven, không chỉ vì tội giết người, còn vì lạm dụng quyền lực và vi phạm công lý một cách trắng trợn. Lời Êlia tuyên bố: "Ngươi đã giết người và còn chiếm đoạt tài sản của người ta nữa sao?" (1 V 21,19) như lời cáo buộc mạnh mẽ không chỉ đối với Akháp, còn đối với bất kỳ hệ thống nào cho phép người giàu và quyền lực áp bức người nghèo và yếu thế. Êlia đã tiên đoán cả Akháp và Ideven sẽ gặp phải một kết cục bi thảm vì hành động của họ, thể hiện nguyên tắc ngay cả những người có quyền lực nhất cũng không thể tránh khỏi Chúa phán xét.
Hành động Êlia trong vụ việc thể hiện vai trò quan trọng các ngôn sứ trong việc đấu tranh cho công lý xã hội. Ông đã không chỉ một người truyền đạt thông điệp tôn giáo, còn một người bảo vệ cho những người không có tiếng nói trong xã hội. Êlia đã cho thấy đức tin thực sự không thể tách rời khỏi công lý xã hội, và Chúa quan tâm sâu sắc đến cách các nhà lãnh đạo và người có quyền lực đối xử với những người yếu thế nhất trong cộng đồng.
Qua những hành động này, Êlia đã thiết lập một tiền lệ quan trọng cho các ngôn sứ kế tiếp và thậm chí cho đến tận ngày nay. Ông đã chứng minh « người của Chúa » có trách nhiệm không chỉ trong việc hướng dẫn tâm linh, còn trong việc đấu tranh cho công lý và quyền lợi những người bị áp bức. Điều đã trở thành một chủ đề trung tâm trong nhiều sách ngôn sứ và tiếp tục một khía cạnh quan trọng đức tin Do Thái và Kitô giáo.
Tóm lại, vai trò Êlia như một người bảo vệ người nghèo và đấu tranh cho công lý không chỉ một phần quan trọng trong sứ mệnh cá nhân, còn một ví dụ mạnh mẽ về cách đức tin và hành động xã hội nên đi đôi với nhau. Câu chuyện ông tiếp tục truyền cảm hứng và thách thức ngày nay trong việc đứng lên chống lại bất công và bảo vệ những người yếu thế trong xã hội.
Biểu tượng cỗ xe lửa
Biểu tượng cỗ xe lửa trong câu chuyện về ngôn sứ thăng thiên là một trong những hình ảnh mạnh mẽ và đầy ý nghĩa nhất trong Kinh Thánh. Sự kiện được mô tả trong 2V 2,11 khi Êlia và người kế vị Êlisa đang đi bộ và trò chuyện, "bỗng có một cỗ xe bằng lửa và những con ngựa bằng lửa phân rẽ hai người. Rồi Êlia được cất lên trời trong một cơn gió lốc."
Sự kiện mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và có tầm ảnh hưởng lớn đối với cả truyền thống Do Thái và Kitô giáo.
1. Xác nhận thiêng liêng. Trước hết, Êlia được cất lên trời một cách kỳ diệu xác nhận mạnh mẽ từ Chúa về cuộc đời và sứ vụ ông, cho thấy Chúa đã chấp nhận và tôn vinh Êlia phục vụ trung thành. Điều đặc biệt có ý nghĩa khi xét đến những thử thách và đấu tranh Êlia đã trải qua trong suốt cuộc đời.
2. Biểu tượng bất tử. Cỗ xe lửa và việc được cất lên trời không trải qua cái chết tự nhiên đã trở thành một biểu tượng mạnh mẽ về khả năng vượt qua cái chết. Điều báo trước và củng cố niềm tin vào sự sống vĩnh cửu và sự phục sinh, một khái niệm trung tâm trong cả Do Thái giáo và Kitô giáo.
3. Liên hệ với Thiên đàng. Hình ảnh cỗ xe lửa tượng trưng cho kết nối giữa trần gian và thiên đàng, gợi ý có một thế giới thiêng liêng vượt ra ngoài thực tại vật chất nhìn thấy, và trong một số trường hợp đặc biệt, ranh giới giữa hai thế giới có thể bị xóa nhòa.
4. Tiếp nối sứ vụ ngôn sứ. Sự kiện xảy ra trước mặt Êlisa người kế vị Êlia. Êlisa nhận được áo choàng Êlia khi ông được cất lên trời tượng trưng truyền ngôi và tiếp nối sứ vụ ngôn sứ, nhấn mạnh tính liên tục công việc Chúa qua các thế hệ.
5. Niềm tin về sự trở lại. Cách Êlia rời khỏi trần gian đã dẫn đến niềm tin ông sẽ trở lại. Trong truyền thống Do Thái, Êlia được xem người sẽ trở lại để báo hiệu Đấng Mêsia đến, phản ánh trong lời ngôn sứ Malakhi (4,5-6) và trong nhiều truyền thống Do Thái khác.
6. Ý nghĩa trong Kitô giáo. Trong Tân Ước, hình ảnh Êlia xuất hiện cùng với Môsê trong cảnh Chúa Giêsu biến hình (Mc 9,4, không chỉ liên kết Êlia với Chúa Giêsu còn củng cố vai trò ông như một nhân vật then chốt trong lịch sử cứu rỗi.
7. Biểu tượng sự thanh tẩy và biến đổi. Lửa trong Kinh Thánh thường được liên kết với Thiên Chúa quyền năng hiện diện, cũng như với thanh tẩy. Cỗ xe lửa có thể được hiểu biểu tượng biến đổi hoàn toàn khi ông bước vào sự hiện diện trọn vẹn của Chúa.
8. Ảnh hưởng văn hóa. Hình ảnh cỗ xe lửa đã trở thành một biểu tượng văn hóa mạnh mẽ, xuất hiện trong nghệ thuật, văn học và âm nhạc tôn giáo qua nhiều thế kỷ, thường được sử dụng để tượng trưng cho giải thoát thiêng liêng và thăng hoa tâm linh.
9. Khích lệ đức tin. Đối với người tin, câu chuyện mang một nguồn khích lệ mạnh mẽ gợi ý cuộc sống trung thành và phục vụ có thể dẫn đến một kết thúc vinh hiển và kết nối sâu sắc với Chúa.
10. Thách thức về đức tin và lý trí. Cuối cùng, sự kiện thách thức suy ngẫm về mối quan hệ giữa đức tin và những gì có thể được giải thích bằng lý trí. Và mời gọi người đọc xem xét khả năng những sự kiện siêu nhiên và vai trò đức tin trong việc hiểu biết thế giới xung quanh.
Tóm lại, biểu tượng cỗ xe lửa trong câu chuyện Êlia mang một hình ảnh đa chiều và phong phú, không chỉ đánh dấu kết thúc phi thường cuộc đời một ngôn sứ vĩ đại, còn mở ra nhiều khía cạnh thần học, tâm linh và văn hóa sâu sắc. Hình ảnh tiếp tục truyền cảm hứng và thách thức người tin, mời gọi suy ngẫm về ý nghĩa cuộc sống, cái chết và mối quan hệ con người với thế giới thiêng liêng.
Một hành trình phi thường đời sống tâm linh
Hành trình tâm linh Êlia minh họa sống động về cuộc sống đức tin, với những thăng trầm, thử thách và chiến thắng. Từ lời kêu gọi ban đầu, qua những thử thách và chiến thắng vĩ đại, đến những khoảnh khắc nghi ngờ và đổi mới, cuộc đời ông cung cấp những bài học quý giá về đức tin, lòng can đảm, sự kiên trì và phục vụ.
Câu chuyện Êlia tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc trong Do Thái giáo và Kitô giáo. Trong truyền thống Do Thái, ông được xem như người bảo vệ Ítraen và sẽ trở lại để báo hiệu Đấng Mêsia đến. Trong Kitô giáo, Êlia xuất hiện cùng với Môsê trong cảnh Chúa Giêsu biến hình, thể hiện liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Cuộc đời Êlia nhắc nhở mạnh mẽ về tầm quan trọng việc giữ vững đức tin trong mọi hoàn cảnh, về sức mạnh của lời cầu nguyện chân thành, và về vai trò quan trọng các nhà lãnh đạo tâm linh trong việc hướng dẫn cộng đồng quay về với Chúa. Câu chuyện ông tiếp tục truyền cảm hứng và giáo dục, mang lại những bài học vượt thời gian về lòng trung thành, can đảm và niềm tin vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.



