Thứ Hai, 25 Tháng Sáu, 2012

Thánh nữ Monica (331-387) và thánh Augustinô (354-430).

Thánh nữ Monica (331-387) và thánh Augustinô (354-430).

Lời giới thiệu.

Đôi khi đọc hạnh tích các thánh - nam hoặc nữ - chúng ta cứ tưởng rằng các vị ấy đã là thánh ngay từ thuở ấu thơ. Nếu nghĩ như thế, sẽ làm cho các thiếu nhi buồn lòng. Các em cũng từng dự thánh lễ, đọc kinh, cầu nguyện; đến trường, các em cũng thụi ngầm, nghịch trộm, cũng biết đấm đá cú cò, chơi với bạn cũng biết gian lận; ở nhà cũng biết ăn vụng hay cắp vặt; ra ngoài, đôi khi cũng phá làng phá xóm. Xem đó thì biết, trong con người, ai ai cũng có tánh hư nết xấu, không nhiều thì ít. Song điều ấy không làm ngăn trở con đường làm thánh của ai hết, nếu có thiện chí.

Augustinô là một vị thánh lớn thời hậu bán thế kỷ thứ IV đầu thế kỷ V. Thời còn là học sinh cũng biết làm biếng, nghịch ngợm. Khi lên cấp Đại học thì đời sống như buông trôi, thả lỏng như ngựa sẩy cương, đã từng sa ngã, đã theo tà giáo.

Khi tìm được chân lý và khôn ngoan thì sám hối ăn năn; lãnh bí tích thánh tẩy lúc 33 tuổi. Sau đó, Augustinô lập dòng ẩn tu, rồi làm linh mục, rồi làm Giám mục giáo phận Hippone tròn dài 35 năm. Ngài chống trả, đả phá các tà thuyết lạc đạo, bênh vực nền Hiệp nhất của Giáo hội. Khả năng làm việc của ngài cũng độc đáo vô song; ngài đi khắp giáo phận để giảng dạy - người ta đã ghi được hàng ngàn bài giảng của ngài. Ngài đã viết hàng trăm tác phẩm về triết học và thần học để lại cho hậu thế.

Ngài đã từng sống qua những giai đoạn chiến tranh loạn lạc, chứng kiến những bước thăng trầm của thời cuộc, song ngài vẫn giữ được trí khôn sắc sảo, sáng suốt vững vàng như ngọn hải đăng soi lối cho tàu bè qua lại khỏi va vào ghềnh đá.

Đức cha Augustinô sống nghèo và khiêm nhượng, khi tạ thế, trong túi không còn một đồng một chữ nào. Những gì Augustinô đã làm được đều nhờ ơn Chúa. Song ơn Chúa ban xuống qua tay từ mẫu, nhờ lời cầu nguyện liên tục năm nọ qua năm kia của từ mẫu là Mônica.

Lược thuật hạnh tích của con thì cùng một lượt phải lược thuật hạnh tích của mẹ, vì hai đời sống đó quan hệ với nhau, hòa đồng với nhau, liên đới với nhau như bóng với hình. Nội dung hạnh tích của thánh nữ Mônica và thánh Augustinô được gói ghém vào một câu : Truyện một linh hồn theo đuổi một linh hồn, hay nói nôm na là : Mẹ đâu con đấy.

Đọc đến cuối truyện, quý vị thấy rõ hai điểm chính yếu :

Điểm thứ nhất : Ơn Chúa thật là toàn năng vạn năng, thay đổi hẳn một con người đã từng sống tội lỗi, đã từng theo tà giáo để trở thành một thánh tổ phụ lập dòng, một vị chủ chiên tiếng tăm lừng lẫy, và là một Tiến sĩ của Hội thánh Công giáo.

Điểm thứ hai : Lời cầu nguyện, đầy đức tin bền bỉ năm này qua năm khác của một bà mẹ, của một sương phụ, lên đến Thiên cung hiệu năng biết chừng nào. Gói ghém hạnh tích của hai vị thánh : thánh mẹ và thánh con vào mấy trang báo khiêm tốn của một địa phương, quả thật không khỏi thiếu sót. Song Nhịp cầu cố gắng trình bày những gì là chính yếu để tâm sự với : các em thiếu nhi, các em học sinh, các anh chị em thanh niên, sinh viên, các bà mẹ, các bậc sương phụ, tùy hoàn cảnh trạng huống của mỗi người học hỏi những điều hay, điều lành của truyện Một linh hồn theo đuổi một linh hồn.

Kính tặng các bà mẹ và các sương phụ. Đặc biệt, thân tặng những anh chị em tân tòng thuộc Cộng đoàn Đức Mẹ Lavang Strasbourg với tấm lòng hâm mộ.

 

Thời thơ ấu

Thành phố Thagaste, tỉnh Numide, xứ Algérie (Bắc Phi châu) là một thành phố được xây dựng ở lưng chừng đồi núi chập chùng, đường sá hẹp hòi chạy ngoằn ngoèo quanh sườn đồi, khe suối đầy nước trong veo, cá lội thấy vi, thảo mộc tốt tươi, bầu trời xanh ngắt ít khi bị mây che lấp.

Thuở ấy, thế kỷ IV, Algérie cũng như toàn bộ Bắc Phi đều thuộc về đế quốc Rôma. Thagaste, nhờ khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, sơn thủy hữu tình, đã sản xuất một cậu bé được Thiên Chúa chúc phúc từ lúc còn trong lòng mẹ. Cậu bé ấy chào đời ngày 13 tháng 11 năm 354. Kể ra, cậu chẳng mập mạp gì, có vẻ mảnh khảnh yếu ớt là khác. Mẹ cậu là bà Mônica, người Công giáo sùng đạo, bố cậu là ông Patrice, một người có chức phận ở thôn xã, có đất đai, có tài sản vào bậc trung, có lòng ngay lành, tuy chưa phải là Công giáo song biết trọng luân thường đạo lý, nhờ vậy mà được mọi người quen thuộc làng xóm láng giềng mến chuộng.

Mặc dầu Mônica rất sốt sắng đạo đức, nhưng theo tục lệ thời ấy, người ta chờ cho đứa bé đến tuổi thành niên hay lớn tuổi hơn nữa mới cho lãnh bí tích rửa tội, vì người ta quan niệm rằng : bao nhiêu tội lỗi đã phạm trước khi được rửa tội thì sẽ được tha thứ hết; chứ sau khi đã được rửa tội mà phạm tội thì tội sẽ nặng nề và khó được thứ tha.

Hai ông bà sinh được ba đứa con : con trưởng tên Navigius rồi đến một bé gái; Augustinô về thứ ba mà cũng là trai út vậy. Mặc dầu đang là người bên lương, ông Patrice bảo vợ rằng :

- Bà cứ việc giáo dục con theo tôn giáo của bà. Dù tôi chưa tin theo tôn giáo của bà, nhưng vì yêu bà chân thành và tha thiết, lòng tôi vẫn tôn trọng tín ngưỡng của bà.

Là một người mẹ Công giáo gương mẫu, Mônica trông nom, nuôi nấng và giáo dục con cái, nhưng đối với Augustinô thì Mônica cưng hơn, có lẽ vì là con trai út. Mônica ghi dấu thánh giá trên trán Augustinô, lấy muối phép cho vào miệng Augustinô, và sau nghi thức đơn giản ấy, Augustinô được kể vào số dự tòng.

Mônica, một người vợ đảm đang, một từ mẫu phúc hậu, lo chu toàn mọi việc tề gia, nhất là lo dạy dỗ con cái về đường đạo đức, biết kính sợ Thiên Chúa, lo làm lành lánh dữ. Được như vậy là vì Mônica chịu ảnh hưởng đạo đức của nghiêm đường, cho nên, thuở còn là một trinh nữ, Mônica thường đến thánh đường đọc kinh cầu nguyện, tôn trọng việc chay tịnh kiêng kham; nghiêm nhặt với bản thân, quảng đại với tha nhân nên ai cũng thương cảm. Khi đã lập gia đình rồi, Mônica lại nêu gương nhẫn nại nhịn nhục, tạo nên cảnh trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm. Thảng hoặc trong các chị em xóm giềng có ai phàn nàn việc nhà bất hòa do chồng con gây ra, thì Mônica không tiếc lời khuyên lơn an ủi; câu châm ngôn một sự nhịn chín sự lành; hoặc ai làm cho người hòa thuận ấy là phước thật vì sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Chính bản thân Mônica, mỗi khi Patrice có gắt gỏng điều gì, thì tìm lời dịu hiền thưa thốt làm cho chồng nguôi giận ngay.

Cậu Augustinô, sức khỏe không lấy gì làm khả quan. Tính tình, đôi khi cũng biết nóng nảy xung giận lặt vặt. Về trí khôn thì thật thông minh, hay suy nghĩ đắm đuối một mình, hay trầm ngâm suy tư. Kẻ ăn người ở trong nhà thấy vậy nên thường nói với ông bà Patrice : Để rồi ông bà sẽ thấy, sau này cậu Augustinô sẽ tiến, tiến xa, tiến xa lắm!.

 

Làm thân học sinh rồi sinh viên.

Ngày tháng trôi qua, Augustinô lớn dần, dồi dào sinh lực và nóng nảy hung hăng như ngựa sinh chứng. Chơi với bạn cũng biết ăn gian vì cái tính muốn thắng chứ không chịu thua kém. Cũng biết gây gỗ để chiếm lời nói cuối cùng; cũng biết đấm đá, cũng biết cắp vặt trong nhà, cũng biết ăn vụng, vì vậy mà thường bị bố cho ăn đòn. Augustinô bị đòn làm cho Mônica xót ruột, đôi khi âm thầm rơi lệ; quá lắm thì cũng trách : Con làm cho mẹ điên đầu, con ơi!. Ông Patrice an ủi vợ :

- Không sao đâu! Trẻ con nó là thế đấy, chẳng lẽ tất cả mọi người làm bố mẹ đều phát khùng cả hay sao!.

Chơi với bọn trẻ cùng xóm, Augustinô cũng biệt lập phe đảng, choảng nhau tơi bời, mặt mày sưng húp bầm tím, tay chân xây xát, cũng thương tích mang về nhà cho bố mẹ thuốc men; thì chiến tranh chơi mà! Hung hăng thật đấy, song Augustinô cũng thích nghe mấy tay kể chuyện đời xưa, thường lưu động qua phố phường, cũng thích xem hát, xem tuồng, rồi cùng bạn bè bắt chước đóng kịch. Song, ước gì, đối với việc học hành, Augustinô cũng tỏ ra hăng hái như vậy mới phải. Trái lại, việc học khai tâm, Augustinô kém thật tình. Tập đọc, tập viết, học toán, học Latinh đối với Augustinô, quả là một cực hình. Thầy giáo cho Augustinô ăn đòn là thường lắm; ông ta thường đe : Bài học mà không thuộc nữa thì tao cho ăn đòn nhừ tử đấy con ạ!. Vì vậy mà nhiều hôm tan học về nhà, Augustinô kêu than tay chân bị bầm tím vì ngọn roi ác nghiệt của thầy giáo. Ông Patrice còn bông đùa : Không sao đâu con ơi! Thương thì roi vọt, ghét thì ngọt bùi. Thuở còn bé như con, bố cũng đã ăn đòn như con.

Rồi một hôm, Augustinô chấp tay, ngước mắt lên trời khấn xin : Lạy Chúa, xin mở trí khôn con, xin cho con học cho được, xin cho con trở nên siêng năng, xin cho con được ngoan ngoãn để con khỏi phải ăn đòn, đau xác quá!. Thế rồi, dần dần, cậu học sinh bướng bỉnh, cứng đầu, kém cỏi, lại tỏ ra thông minh đặc biệt; học đâu nhớ đó, siêng năng tìm tòi nghiên cứu; cậu dám bình văn bằng Latinh các tác phẩm của thi sĩ Virgile, của nhà văn trào phúng hài hước Térenne, của sử gia Salluste.

Giáo sư ngạc nhiên, tra hỏi :

- Cậu chép bài ở đâu thế? Cậu muốn qua mặt thầy ư? Nói thật đi!.

Augustinô thưa :

- Thưa thầy, con học thuộc lòng đấy ạ!. Nói xong, Augustinô đọc một hơi bài bình văn của mình.

 Giáo sư nói :

- Với trí thông minh và trí nhớ như vậy, quả thật cậu là con cưng của ông trời!.

Trí khôn sắc bén đã nảy nở trong đầu óc, bản tính nhạy cảm. Cậu Augustinô, ngoài giờ học, thường theo mẹ đi giúp bệnh nhân, đi viếng các đền thờ, kêu cầu các thánh tử đạo, viếng thăm và bố thí cho người nghèo khó. Mônica dạy cho con :

- Bố thí cho kẻ nghèo là cho Chúa vay, mà Chúa thường cho lãi cao lắm.

Augustinô, trong lòng bồng bột, họa lại :

- Con ước mong được giúp đỡ tất cả mọi người khó nghèo. Câu nói của con, làm cho mẹ hả dạ vì, cùng với con, Mônica làm tròn bổn phận của một Kitô hữu.

Một hôm, Augustinô lâm bệnh, cơn sốt lên dữ dội, bao tử đau thắt lại, bệnh cứ kéo dài, phải liệt giường, rên xiết, làm cho Mônica tưởng rằng không qua khỏi. Trong cơn đau, Augustinô vừa rên vừa nói :

- Rửa tội cho con bây giờ đi, để có chết, hồn con bay thẳng lên thiên đàng. Nhưng sau đó, bệnh thuyên giảm rồi lành hẳn, nên bố mẹ lại nghĩ rằng chưa cần phải vội vàng rửa tội cho con, theo tập tục.

Năm 12 tuổi, Augustinô xong ban tiểu học, thầy giáo nói với ông Patrice :

- Sẵn có khoa ngôn ngữ, có trí thông minh sắc bén, tôi tin chắc con của ông sẽ là một luật sư hoặc một giảng sư xuất chúng.

Ông Patrice hỏi :

- Theo ý thầy thì tôi phải xử trí như thế nào?.

Thầy giáo đáp :

- Nếu tôi ở vào địa vị của ông, tôi sẽ cho nó vào trường trung học ở Madaure.

Vậy là hai ông bà Patrice bằng lòng gởi con lên Madaure, cách thị xã Thagaste 40 km. Lúc tạm biệt gia đình, Augustinô nao nao trong lòng vì thương cha nhớ mẹ, nhớ xóm làng, nhớ chúng bạn. Rời khỏi thềm nhà, chân bước đi mặt còn ngoảnh lại nhìn mái nhà ấm cúng, trong ấy chứa chấp mối tình mẹ với con, con với mẹ, nó đậm đà thiết tha, dịu dàng, êm đẹp xiết bao, nay vì tương lai phải đành xa cách. Đáng tiếc làm sao! Mắt mẹ mắt con nhìn nhau vời vợi, vẫy tay chào nhau mà ngậm ngùi sụt sùi rơi lệ. Ôi! Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!

Madaure là một thị trấn cũ kỹ, không thấy gì làm quan trọng về kích thước, nhưng không kém phần sang trọng với những dinh thự, không kém hùng tráng với những tháp cao, với những thành quách, cũng có vận động trường, với cung đền và khải hoàn môn, trong ấy chứa chấp bao nhiêu là tượng bụt thần.

Đồng bằng trải rộng chạy dài, cây cối thảo mộc mát mẻ xanh tươi nhờ có nhiều kinh lạch nước trong ngần. Khi đã yên vị tại Madaure, Augustinô sớm tỏ ra là một học sinh xuất sắc, nhưng rồi, vì xa cha cách mẹ, không người trông nom hướng dẫn, như ngựa xổng dây cương, liền bị những thú vui quyến rũ. Bất quản lời mẹ khuyên răn, Augustinô thường tới lui chốn trà đình tửu điếm, cũng ăn nhậu say sưa, cũng lân la chốn buôn son bán phấn. Thôi thì lơ là kinh nguyện, tư tưởng đạo hạnh lu mờ; những thói quen tốt lành khi còn ở nhà với mẹ nhường chỗ cho một lối sống chẳng kỷ cương gì nữa. Thật đúng với ca dao : Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

Năm 16 tuổi, Augustinô đã hoàn tất chương trình trung học, lại trở về Thagaste. Giáo sư đến chơi nhà, nói với ông bà Patrice :

- Con trai của ông bà quả là một học sinh xuất sắc nhất trường, học ít mà hiểu nhiều, trí nhớ cũng vô địch. Tôi tưởng rằng ông bà nên cho cậu tú lên Carthage, vào đại học. Tôi cam đoan rằng cậu ấy sẽ là hạng luật sư, giảng sư lỗi lạc nhất vùng.

Augustinô lên Carthage. Mônica lo âu ngại ngùng Ông Patrice rất hãnh diện về cậu quý tử của mình, song tài sản chẳng to tát gì; ông bà đã hy sinh tất cho con rồi, nên nói với Augustinô :

- Con ơi! Bố không có đủ tiền để trang trải kinh phí cho con đi Carthage tiếp tục sách đèn. Con hãy ở nhà kiếm việc gì làm tạm sống qua ngày vậy!.

Thế là việc học của Augustinô đương nhiên bị gián đoạn, song Augustinô vẫn nuôi mộng rồi đây sẽ thoát ly gia đình để đi Carthage. Muốn cho mộng được thành tựu, Augustinô bày ra kế hoạch chỉ để riêng mình biết mà thôi : Ta phải làm thế nào để bố mẹ chán nản về mình mới được. Nghĩ rồi là thực hành kế hoạch.

Augustinô kết thân với bọn lêu lổng, phá làng phá xóm, trêu chọc láng giềng bằng cách trèo cây hái quả; không phải để ăn, song hái rồi vứt bừa bãi ra đường cho kẻ qua người lại dẫm nát, hoặc cho heo ăn, cốt cho người ta tức giận, mà mình thì cười chơi. Láng giềng phải đến mách rồi trách mắng bố mẹ; làm cho ông bà phải xin lỗi người ta.

Biết con như thế, ông Patrice không ngã lòng, ông cưng con và nói bông đùa : Thuở thiếu thời, bố còn nghịch ngợm hơn con nhiều!. Rồi ông vẫn nghĩ phương thế cho mộng sách đèn của con được thực hiện.

Sau một thời gian phá phách, Augustinô đâm ra hối hận. Phần Mônica, nỗi lòng chua xót, chỉ ngậm ngùi không dám phàn nàn, nên phú dâng con cho Đấng Quan phòng, rồi cầu xin : Lạy Chúa toàn năng và nhân lành, con xin đặt số phận, tương lai và định mệnh của Augustinô, đứa con mà Chúa đã thương ban cho con, trong tay Chúa.

Ông Patrice lại nghĩ cách khác nên nói :

- Giải pháp tốt nhất là cưới vợ cho nó là xong.

Mônica :

- Cưới vợ cho nó ư? Nó còn trẻ quá, mà rồi cưới cô nào?.

Patrice :

- Vậy để nó ăn không ngồi rồi mãi ư?.

 Nhưng Đấng Quan phòng đã nhận lời Mônica. Nguyên nhân là ông Patrice có người bạn thân tên là Rômanien, là người giàu có nhất nhì trong vùng. Một hôm, tình cờ đến thăm ông Patrice. Được ông Patrice đề cập đến Augustinô, bất đắc dĩ phải bỏ học vì gia đình không đủ điều kiện cho vào Đại học viện ở Carthage. Rômanien liền đem lòng thương cảm Augustinô nên nói ngay :

- Vậy thì anh chị cho cháu nó sang Carthage, ăn và ở tại nhà tôi, bao nhiêu kinh phí đã có tôi. Tôi chỉ xin một điều là để bù lại, Augustinô hướng dẫn đứa con của tôi trong việc học hành. Anh chị không nên ngại ngùng; con của anh chị cũng như con của tôi.

Patrice và Mônica mở được thế cờ bí. Augustinô thực hiện được mộng sách đèn. Augustinô chuẩn bị hành trang chờ ngày thượng lộ. Carthage là một thị trấn quan trọng của Đế quốc Rôma. Mônica không quên khuyên con những điều với lòng của một bà mẹ phúc hậu đạo đức dặn dò con : nào là con phải chọn bạn, tránh phường lêu lổng; nào là đừng phí phạm thời giờ của tuổi thanh xuân; nào là phải nhớ kinh nguyện sớm chiều; nào là phải xa lánh các trò du hí không lành thánh; ôi nào là... nào là... rồi Mônica kết thúc : Con cưng của mẹ phải nhớ rằng lòng mẹ luôn luôn khắc khoải theo dõi con, chỉ mong con ăn học thành tài, cầu cho con nên người hữu ích... đẹp lòng Chúa mà cũng là cho cha mẹ vẻ vang, hãnh diện.

Rồi muốn được an lòng hơn, Mônica bảo :

- Hay là trước khi lên đường, con lãnh bí tích rửa tội rồi hẵng đi nhé!.

Augustinô thưa :

- Thưa mẹ, để thong thả rồi tính, không nên nhẹ dạ hấp tấp; để cho con có thời giờ suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định.

Rồi mẹ con lại giã từ nhau. Mônica đứng nhìn theo hình ảnh đứa con yêu xa dần, xa dần, mắt đẫm lệ... vẫy tay... rồi Mônica lặng thinh đứng đấy lâu, lâu lắm...

Đây! Carthage đây rồi! Thị trấn này được xây dựng trên ngọn đồi mà thi sĩ Virgile không tiếc lời ca tụng; một thị trấn chứa đựng không biết bao nhiêu là di tích lịch sử oai hùng, tầm quan trọng của nó cũng chẳng kém Rôma. Đứng trên thành quách mà nhìn xuống, Augustinô thấy rõ cái sầm uất náo nhiệt của phố phường, người qua lại đông như ngày hội, quả đúng là ngựa xe như nước áo quần như nêm, Carthage cũng ngang hàng với Byzanee, Antioche với Alexandrie.

Những nhà cửa sang trọng và những dinh thự đều xây dựng trong những khu vườn rộng rãi, cây cối xanh um, mát mẻ... Khắp nơi nơi, đời sống có vẻ sung túc, phong lưu, thoải mái. Trà đình tửu điếm không thiếu, hồ tắm, bể bơi, hý viện không thiếu... ngoài ra, nhìn lên các cửa sổ, bóng dáng kiều nữ lấp ló như ẩn như hiện sau các tấm rèm mờ ảo...

Carthage là như vậy đó, hấp dẫn lắm thay. Augustinô không làm sao khỏi lao mình vào hý trường xem diễn những tuồng kịch bi hùng, hài hước... cũng tham dự khiêu vũ, xem đua xa-mã. Bởi vậy mà Mônica có đủ lý do khuyên răn đứa con cưng của mình trước khi chàng bước ra khỏi nhà.

Augustinô, đầy sinh lực, ham học cũng như ham du hý. Nhưng chẳng bao lâu được tin bố qua đời sau khi đã lãnh bí tích Rửa tội. Ấy cũng là nhờ những gương sáng và lời cầu nguyện của Mônica mà ông Patrice - chồng của một bà thánh và cũng là phụ thân của một vị thánh tương lai - được Chúa đoái thương, qua đời lành thánh. Augustinô vội trở về Thagaste để cùng mẹ, lo cho bố được mồ yên mả đẹp. Mẹ con lại được chung sống bên nhau, tuy chẳng được bao lâu. Mônica thỏ thẻ với con : Cha con được rửa tội, được chết lành thánh cũng an ủi mẹ được phần nào về những hoạt động ngông cuồng phóng túng của con. Mẹ chân thành nói với con rằng cha con quả là người có lòng ngay, có thiện tâm thiện chí. Những đức tính ấy có giá trị hơn cái học thức, cái khoa ngôn ngữ của con ngàn lần.

Lại từ giã mẹ. Lại đi Carthage. Augustinô chúi đầu nghiên cứu triết học, chuyên cần đến giảng đường nghe các giảng sư thời danh diễn thuyết. Các giảng đường chật ních người dự thính. Vì thời ấy, máy in chưa có, các sách vở đều được viết bằng tay nên đắt lắm, chẳng có sinh viên nào có đủ tài chánh để mua - họa chăng là hạng vua chúa quan quyền mới có sách. Augustinô cũng nghiên cứu khoa học, văn chương, ngôn ngữ học, kỷ hà học, toán học, âm nhạc, luật học, vì, cùng với mẹ, Augustinô cũng có mộng trở thành giáo sư, luật sư hoặc chính trị gia.

Một ngày kia, Augustinô nghiên cứu các pho sách của Cicéron, là một chính trị gia lão thành kiêm triết gia, và cũng là một diễn thuyết gia rất lợi khẩu. Augustinô cũng đọc các tác phẩm của Hortensius, người đương thời với Cicéron, bình về đức Khôn ngoan. Chịu ảnh hưởng của Cicéron, Augustinô hăng hái tự bảo: Ta cũng phải dấn thân nghiên cứu về đức Khôn ngoan và Chân lý tuyệt đối, đó là định mệnh của ta, ta phải đi cho đến cùng. Rồi trong tương lai, ta sẽ phổ biến cho thiên hạ những điều ta khám phá được - Vâng, ta sẽ là một giảng sư!.

Nhưng tiếc thay! Cicéron là người ngoài công giáo nên Augustinô biết rằng mình chưa tìm được, chưa gặp được chân Chúa để phục tùng, để phụng sự cho xứng đáng. Đang phân vân thì Augustinô nghĩ rằng nên đọc và nghiên cứu Cựu ước và Tân ước để biết trong ấy nói những gì, may ra tìm được một ánh sáng soi lối cho mình. Biết đâu tôn giáo của mẹ mình giúp mình thỏa mãn điều mình mong ước!

Augustinô đọc Cựu ước và Tân ước, song chưa được toại nguyện và cho rằng Thánh kinh không hơn được sách vở của Cicéron. Augustinô tự cho mình là nhà đại trí thức, nên không thể thấu triệt ý nghĩa và giá trị tuyệt đối của Thánh kinh. Sở dĩ có như vậy vì, thời ấy, Thánh kinh được phiên dịch ra tiếng La tinh một cách sơ sài hay là có phần vụng về, tối nghĩa, nên Augustinô mới dám so sánh một cách nông nổi, vội vàng như vậy.

Nhưng rồi, qua Thánh kinh, Augustinô cũng tự đặt ra cho mình những câu vấn nạn căn bản :

- Vì sao ta sống trên thế gian này?

- Vì sao nhân loại phải đau khổ ê chề?

- Tại sao lại có sự chết?

- Chết rồi, con người sẽ ra sao?

- Sau cái chết, có gì nữa không?

Thế rồi Augustinô gặp và tiếp xúc với phái đạo rối Manichéisme là phái nhìn nhận thần Ahriman cũng có quyền năng như Thiên Chúa, nhìn nhận Ahriman là tạo hóa của vũ trụ càn khôn. Phái này chủ trương nhân loại không nên sinh con đẻ cái ra nữa, để rồi một ngày kia, trên mặt đất này không còn loài người nữa. Và, như vậy là tận thế. Triết lý của tà đạo này đã mê hoặc Augustinô trong suốt chín năm trời. Nó chối hẳn tội tổ tông.

Sống cô đơn một mình chốn đô hội đầy cạm bẫy; xa mẹ, không người dìu dắt chăm nom hướng dẫn; gương xấu thường gặp mà gương lành thì không thấy, vật chất nó cám dỗ như nước lũ. Augustinô đầy nhựa sống, cũng biết rạo rực. Hè thì cảm cảnh chiếc bóng lẻ loi, mà đông thì cảm thấy lạnh lùng đơn chiếc; rồi thì ma đưa lối quỷ dẫn đường. Những lần đến giảng đường, Augustinô băng qua công viên. Trên dãy ghế có nàng con gái ngồi bán quà vặt. Thoạt tiên, chẳng ai để ý đến ai, nhưng dần dần cũng chào hỏi làm quen xã giao lấy lệ; rồi nàng cũng biết mắt liếc miệng cười duyên, ra vẻ thẹn thuồng e lệ, rồi đến giai đoạn câu chuyện vớ vẩn hỏi qua đáp lại, mà kết quả là Augustinô yêu nàng.

Cô bán quà vặt tên là Môdesta, con nhà bạch đinh hạ tiện, Augustinô đem nàng về làm vợ, bất chấp mọi cách biệt thường tình về trình độ học vấn, về thang giá trị xã hội, về quốc tịch, người thuộc mẫu quốc kẻ thì địa phương tôi đòi, chẳng cần môn đăng hộ đối, bất quản kẻ giáo người lương, chẳng cần cưới hỏi rườm rà.

Augustinô mướn một căn nhà nhỏ để chung sống với Môdesta, lo dạy học để sinh nhai vì gia nghiệp của ông Rômanien không thể đài thọ mọi kinh phí cho đôi Uyên ương này được. Môdesta mang thai, và đủ tháng ngày thì sinh được một bé trai kháu khỉnh khôi ngô, đặt tên là Adéodat. Từ đây, trong nhà có tiếng trẻ con ọ oẹ nên cũng vui cửa vui nhà. Thật đúng là :

Có vàng, vàng chẳng nói phô,

Có con, con nói, trầm trồ mẹ nghe.

Đời sống ở Carthage - chốn phồn hoa đô hội - ngày càng đắt đỏ; sổ thu không thăng bằng với sổ chi; thêm vào đó, Augustinô cũng xong đại học rồi nên viết thư thăm mẹ, đại ý muốn đưa vợ con về sống gần mẹ. Mônica, mặc dù thương con song vẫn tỏ ra cương quyết từ chối, nên phúc thư, đại ý : ... Con là đứa con phản bội, con hãy đi cho khuất mắt mẹ. Con cả lòng dám xúc phạm đức tin công giáo của mẹ. Bây giờ con chẳng còn là đứa con của lòng mẹ yêu quý nữa. Mônica đứt từng khúc ruột trước những lỗi lầm của con :

- Augustinô quả thật đã hư thân,

- Augustinô đã theo tà giáo và còn truyền bá tà giáo,

- Augustinô say mê Môdesta, sống chung và có con với Môdesta, là một người ngoại giáo, địa vị thấp hèn, vớ được ở dọc đường, không được cưới hỏi theo phép đạo.

Dù mẹ đã có thư phản đối một cách quyết liệt như vậy, song Augustinô vẫn đưa vợ con về nhà. Vẫn cứng rắn, Mônica không cho con bước chân vào nhà, bà nói :

- Tao không nhìn nhận mày là con tao nữa. Tao từ mày rồi!

Augustinô hốt hoảng phản kháng, nhưng Mônica vẫn không đổi ý :

- Đi đâu thì đi cho rảnh đi. Vết thương của mày không sâu sắc, không xót xa đau đớn, không ác nghiệt độc hại bằng vết thương của mày đã gây ra cho tao đây!

Sự xích mích này đến tai Rômanien, người đã từng bao bọc Augustinô, và đã bị Augustinô dụ dỗ theo tà giáo; liền tìm đến bảo Augustinô : Việc đã lỡ ra như vậy rồi thì tôi lại mời cô thầy và cháu sang nhà tôi như trước, tiếp tục dạy cho con tôi rồi tôi kiếm thêm đệ tử đến học... rồi cũng sống được vậy.

Thế là gia đình bé bỏng của Augustinô lại sang tá túc nhà Rômanien. Augustinô với những bạn thân như Alype tổ chức thành một nhóm để nghiên cứu đèn sách. Augustinô, bị mẹ tỏ thái độ cứng rắn, đâm ra lương tâm bị dằn vặt, song lòng tự ái tự đắc nghĩ rằng mình có học thức, lại sẵn tài năng, thì mình rồi sẽ lướt thắng tất cả mọi khó khăn ở đời.

Phần Mônica, buồn rầu khắc khoải theo con, quyết tìm cách để lãng quên trong những công việc lành phúc đức và cầu nguyện. Một hôm, trong giấc ngủ, Mônica chìm trong một giấc chiêm bao lạ lùng. Mônica thấy mình đứng trên một tấm ván lênh đênh trên biển cả. Bỗng có một người thanh niên rất đẹp, sáng rực rỡ huy hoàng, hỏi Mônica :

- Vì sao con buồn rầu đau khổ thế?

- Thưa ngài, nhớ đến đứa con hư đốn hoang đàng của tôi, lòng tôi luôn luôn đau khổ. Đứa con mà tôi đã nuôi nấng dạy dỗ theo đức tin công giáo, tôi đã đặt bao nhiêu tin tưởng và hy vọng vào nó. Nhưng than ôi! nay nó theo tà giáo, đi truyền bá tà giáo khắp nơi. Đã vậy, nó lại còn đi dan díu với một người đàn bà địa phương bên lương, mà nó đã vớ được ở dọc đường đem về chung sống đến có con, mà không được Giáo hội chứng khiến và chúc phúc.

Người thanh niên ấy nói :

- Bằng an cho con. Con ở đâu đứa con ấy sẽ ở đấy!

Ngạc nhiên, Mônica thấy Augustinô cùng với mình đứng chung với nhau trên tấm ván; còn người thanh niên lạ mặt kia biến đi đâu mất. Thức giấc, Mônica xao xuyến tâm can vì giấc mộng quá ly kỳ, rồi đoán rằng đứa con hoang đàng lưu lạc của mình, một ngày kia sẽ trở về với mình. Tim đánh phập phồng, Mônica liền có ý định đi tìm con càng sớm càng tốt để thuật cho con biết giấc mộng lạ lùng quá tốt đẹp ấy. Trong lúc còn phân vân thì trong thâm tâm lại có tiếng thúc giục : Can đảm lên và với dịu ngọt, chắc chắn sẽ cứu được đứa con hoang đàng.

Vậy là Mônica băng đồng chỉ sá, bất quản ngày đêm, bất quản nhọc nhằn. Ngày lại ngày, rảo khắp phố phường; đến một lối rẽ, đường hẹp, Mônica gặp con. Ôm con vào lòng, Mônica thuật cho con nghe giấc mộng ly kỳ, khuyên con thay đổi tính tình, lo cải tà quy chánh rồi bảo đảm với con là mọi lỗi lầm sẽ được tha thứ vì lòng mẹ thương con vẫn nồng nàn dạt dào như thuở nào.

Augustinô mỉm cười mỉa mai, nói :

- Giấc mộng ấy hẳn tiên báo rằng Con đâu mẹ đấy?.

Mônica cả quyết :

- Không phải thế, vì vị sứ giả nói rõ ràng Mẹ đâu con đấy kia mà!.

Nhưng, oan nghiệt thay! Augustinô buồn rầu thất vọng, vùng ra khỏi tay mẹ - mặc cho mẹ mình năn nỉ van nài - đi lẩn vào đám quần chúng. Cũng trong giai đoạn này, một người bạn tâm giao của Augustinô đột nhiên lâm bệnh rồi mê man bất tỉnh. Người ta vội vàng lo cho chàng ta được rửa tội, chẳng bao lâu sau, chàng ta lại lành bệnh. Thấy vậy, Augustinô nói với anh bạn ấy rằng :

- Cái gì kỳ cục vậy? Rửa tội cho một người đang hấp hối mê man? Dị đoan quá sá! Phải không anh?.

Nhưng Augustinô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy anh bạn của mình giận dữ nói :

- Cậu im mồm đi! Được rửa tội, tôi quả thật được sung sướng. Yêu cầu cậu đừng khoe khoang cái tà giáo của cậu nữa. Tôi chán nó đến ghê tởm!. Sau đó mấy hôm, anh bạn ấy qua đời.

Biến cố đột ngột này làm cho Augustinô chán nản, ngã lòng, vì quanh mình, Augustinô chỉ thấy toàn là hình ảnh của chết chóc. Giờ đây, vắng bóng bạn tâm giao, Augustinô thấy trống trải, quê hương hóa thành chốn lưu đày, quê mẹ hóa ra đất khách. Tiễn bạn ra nghĩa địa, Augustinô mới thấy rằng giáo phái Ahriman lung lay, nên nói với Rômanien:

- May ra, Carthage có thể làm cho tôi khuây khỏa về sự mất mát này; tôi sẽ tăng gia hoạt động, chứ Thagaste không phải là nơi tôi thi thố khả năng.

Augustinô mang vợ con sang Carthage mà chẳng màng đến từ giã mẹ. Biết được tin ấy, Mônica òa lên khóc, tự nói : Có thể nào con tôi đành bỏ tôi, mang vợ con đi mà chẳng cần bàn hơn thiệt với tôi? Có lẽ nào nó bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, ra đi biệt xứ như một tên bất lương?.

Lòng tràn ngập chua xót đắng cay, Mônica tìm đến đức Giám mục khóc lóc thảm thiết, kể lể mọi biến cố oái oăm đã liên tục xảy ra trong gia đạo của mình; Mônica xin đức Giám mục tìm kiếm Augustinô, hướng dẫn để con mình được trở về chính lộ.

Là một vị chủ chăn khôn ngoan, sáng suốt lại già kinh nghiệm, đức Giám mục vững tin rằng Augustinô dư thừa thông minh, một ngày kia sẽ cảm nhận mọi lỗi lầm, ngài an ủi Mônica :

- Con hãy an tâm bền chí cầu nguyện. Một đứa con đã làm cho mẹ tốn bao nhiêu nước mắt thì nó không thể hư mất.

Augustinô mang Môdesta và Adéodat sang Carthage, mướn nhà ở trong một khu xóm lao động rồi chiêu mộ môn sinh để dạy học. Song, thời kỳ này, số giáo sư thì đông, mà môn sinh phần nhiều là hạng lười biếng, ngang đầu cứng cổ, kém lễ giáo; vì vậy mà đời sống trở nên khó khăn; Môdesta cố gắng cần kiệm song vẫn phải thiếu hụt dài dài.

Vật lộn với đời sống nơi phồn hoa đô hội ngót tám năm trời liên tục. Augustinô can đảm chịu đựng. Nhờ học thức rộng, có khoa ngôn ngữ, và có lòng hăng say dạy giáo thuyết Manichéisme nên Augustinô cũng dụ dỗ được nhiều môn sinh.

Trong một cuộc thi văn chương, Augustinô chiếm giải nhất nên tiếng tăm được nhiều người biết đến và hâm mộ. Augustinô lại lao đầu vào ngành xem tướng số theo thiên văn. Khoa này cho rằng mỗi một người từ lúc đầu thai trong bụng mẹ, đã có một vì sao hộ mệnh; nhiều nhà thiên văn đoán số cho người ta gặt hái được nhiều tiền bạc, nên càng làm cho Augustinô tin vào khoa bói toán theo thiên văn này.

Danh tiếng của Augustinô được vị toàn quyền của Hoàng triều Rôma tại Phi châu chú ý, vì chính ông này đã trao giải thưởng văn chương cho Augustinô. Một ngày nọ, nhân dịp được vị toàn quyền tiếp kiến, Augustinô đem khoa bói toán theo thiên văn ra khoe, nhưng bị bác khước, vị này nói : Tôi cũng đã biết, đã nghiên cứu và xem trọng nó, song về sau, tôi thấy mình đã đi sai đường vì tôi nhìn ra mọi thành quả hay mọi thất bại trên dương thế này đều do may hoặc rủi mà thôi.

Sau đó, Augustinô lại có dịp tiếp xúc với một người bạn tên là Firmin để bàn về khoa bói toán đó thì Firmin cũng cho là huyền hoặc. Firmin nêu lên một ví dụ điển hình như sau :

- Bố tôi được sinh ra cùng một ngày, một giờ với đứa con của một người nữ tỳ trong nhà. Song bố tôi thì được thành công hiển hách, mà trái lại, đứa con của người nữ tỳ thì chẳng làm được gì nên thân cả.

Từ đó, Augustinô bắt đầu lưỡng lự về khoa bói toán theo thiên văn; thêm vào đó, được chứng kiến tính tình, ngôn ngữ, cử chỉ và hành động của nhiều tín đồ của giáo phái Manichéisme, nên càng làm cho Augustinô suy nghĩ, tinh thần bị lung lạc.

Một ngày kia, có ông Fauste, Giáo chủ Manichéen đến Carthage. Augustinô đến gặp ông ta để thảo luận nhiều vấn đề. Cuộc đối thoại bắt đầu. Augustinô hỏi :

- Ông nghĩ gì về Thánh kinh?

- Chưa bao giờ tôi đọc Thánh kinh.

- Vậy thì khoa bói tướng số theo thiên văn học mà giáo thuyết của ngài truyền bá thì sao?

- Tôi xin thú thật rằng tôi chẳng biết gì về khoa bói tướng số theo thiên văn học cả.

Sau cuộc hội kiến này, tinh thần Augustinô bị lung lay từ cội rễ nhưng chưa đành bỏ tà giáo này. Augustinô cũng bắt đầu chán nản vì bọn môn sinh vô kỷ luật, hỗn láo xấc xược. Được nghe nói rằng, ở Rôma, thủ đô của đế quốc, học sinh đông đúc lại hiếu học, nên Augustinô quyết định vượt Địa trung hải sang Rôma làm ăn. Augustinô cho ông Fauste biết điều mình ước muốn. Ông ta bèn giới thiệu Augustinô cho một người bạn hiện đang ở Rôma để giúp đỡ Augustinô.

Augustinô định rằng : sang Rôma, định cư xong, sẽ rước Môdesta và Adéodat sang chung sống. Tin này đến tai Mônica. Mônica liền sang Carthage tìm gặp con, khuyên con không nên rời quê hương xứ sở. Trước lời van nài của mẹ, Augustinô sợ vì tình mẫu tử, mình sẽ phải xiêu lòng nên lập mưu gạt mẹ.

Một chiều nọ, Augustinô xách gói hành lý ra đi. Mônica ngại ngùng hỏi :

- Con đi đâu thế?

- Thưa mẹ, con ra hải cảng tiễn chân một người bạn cũ.

- Nếu con bằng lòng thì để mẹ đi với con. Được đi với con, mẹ vui lắm.

Augustinô không dám từ chối, thưa :

- Vâng ạ, mời mẹ cùng đi với con.

Hai mẹ con song đôi, đến hải cảng, chỗ tàu đậu, đợi tàu. Giờ nọ đến giờ kia, hết đứng lại ngồi, đi đi lại lại, cùng nhau nói chuyện lặt vặt về thời tiết về biển rộng sóng chao, về trời đất trăng sao; đôi bên dò xét nhau, mỗi người thả hồn theo tư tưởng riêng tư của mình. Đêm đã về khuya. Mônica đi dọc theo thánh đường kính thánh tử đạo Cyprien, dừng bước, ghé vào thánh đường cầu nguyện. Vì mệt mỏi, Mônica ngồi dưới chân bàn thờ rồi ngủ thiếp đi một cách ngon lành.

Sáng tinh sương, gió nhẹ thổi vào cánh buồm, đưa tàu ra khơi. Trong tàu, Augustinô đã yên vị, nhưng lòng đau thắt. Mặt trời đã mọc từ lúc nào, ánh sáng rọi vào thánh đường. Mônica thức giấc, chạy ra bến tàu, Augustinô không còn ở đấy nữa, vì nhân lúc mẹ còn ngon giấc, Augustinô đã nhẹ bước lên tàu và con tàu đang lướt sóng xa dần, xa dần... Mônica cô đơn đứng nhìn vòi vọi, và chỉ còn biết khóc với than : Con ơi! Con bỏ mẹ sao đành; sao con nỡ lòng gạt mẹ một cách hèn nhát thế? Sao con phản phúc thế? Nỡ lòng nào con hỡi con ơi?!. Rồi chua xót, đắng cay cũng một mình, than khóc cho lắm rồi cũng một thân. Mônica chỉ còn biết lảo đảo về nhà để chịu đau khổ, để khắc khoải, để âu sầu theo con, vì con, và rồi cũng để cầu nguyện cho con. Thật là : Cơm với cá không bằng mạ với con. (ca dao của Huế).

 

Rôma

Đặt chân lên đất Rôma, Augustinô được thấy tận mắt kinh thành muôn thuở. Đây là Forum với bao nhiêu pho tượng, những bậc vị vọng thời danh. Đây là đền Ulpia nguy nga tráng lệ với hai thư viện khổng lồ : một chứa đựng bao nhiêu là tác phẩm về nền văn minh Hy lạp; một, chứa đựng đầy trong đầy ngoài thực phẩm đủ loại để tiếp tế cho dân thành. Nào là cung điện Quirinal, điện Capitole, điện Colisée, điện nào cũng đẹp đẽ sang trọng. Tất cả Rôma có đến ba ngàn đền đài dinh thự, sáu mươi ngàn nhà cho 1.200.000 dân cư ngụ. Thật là nơi văn vật, thủ đô của một đế quốc rộng mênh mông, song than ôi, rất là giả tạo, chẳng lấy gì làm bền vững lâu dài.

Bề mặt, Rôma là đời sống xa hoa lộng lẫy của giới quyền quý giàu sang. Mặt trái của Rôma là nơi cư ngụ của hạng cùng đinh lao động, làm thuê ở mướn. Ôi thôi, thật là tồi tàn khổ sở. Augustinô chiêu mộ môn sinh để dạy học. Học sinh ở đây cũng chẳng kém gì ở Carthage : lười biếng, ngang ngược, mất dạy.

Về nơi ăn chốn ở, khu bình dân cũng có nhà gạch, tầng gác bằng gỗ, trống trải. Muốn tránh mưa gió thì người mướn nhà phải tự sắm lấy mùng màn phên vách. Lên gác, thì nghiệp chủ sắm cho người mướn một cái thang để lên xuống. Nghiệp chủ làm như vậy là, hễ mà người mướn chưa kịp trả tiền thì nghiệp chủ cất thang đi... mùa nắng không có màn che, mùa lạnh chẳng có gì để sưởi ấm, nước ăn, nước tắm rửa thì không có.

Tại Rôma, Augustinô gặp lại Alype, bạn cũ từ Carthage đến. Alype cũng từng bị Augustinô dụ dỗ theo tà giáo Manichéisme, Alype sang Rôma để nhận chức quan tòa, bị bạn bè lôi cuốn đi xem những cuộc giác đấu tại các hý trường giữa người với người hoặc người với thú; nhưng sau đó, được Augustinô khuyên lơn nên từ bỏ đi xem người ta giết nhau ở các đại hý trường.

Phần Augustinô vẫn cố tâm tìm hiểu và học hỏi về chân lý, rồi dần dần làm quen với những người thuộc môn phái Cicéron, môn phái Epicure là những triết gia cũng đang đi tìm chân lý. Song các phái này lại không tin linh hồn là bất diệt, là hằng sống, trong khi ấy, Augustinô lại muốn đi tìm một Đấng Toàn năng thưởng người làm điều lành điều thiện, phạt người làm điều dữ điều ác.

May mắn thay, Augustinô được một người bạn giới thiệu với quan Thủ hiến Rôma tên là Symmaque, là người có nhiều quyền thế. Nguyên trước đã từng sung chức toàn quyền đại diện Hoàng triều La mã tại Phi châu. Symmaque đã hiểu người Phi châu, nên tỏ lòng thương cảm Augustinô, ông ta lại là bà con họ hàng với Đức Giám mục ở Milan là Đức cha Ambrôsiô; ông ta xin ngài cho Augustinô một chân giáo sư tại thành phố lớn lao này. Ông ta cũng nói với Augustinô : Ở đó, anh sẽ được trọng đãi và có lương cao. Để cho nhiều người biết khả năng của Augustinô, ông ta cho tổ chức một buổi diễn thuyết để đánh dấu việc tuyển chọn Augustinô vào hàng giáo sư tại Milan. Augustinô liền báo tin lành này cho Môdesta để hai mẹ con nàng sớm lên Rôma đoàn tụ gia đình.

Sau đó, cả gia đình Augustinô chuẩn bị hành trang đi Milan vì niên khóa mới sắp khai trương. Hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai. Hết chia ly đến sum họp. Cuộc hành trình thật là sung sướng vẻ vang với các phương tiện di chuyển đều do triều đình cung cấp.

Phần Alype, chẳng bao lâu sau, cũng được sung chức quan tòa ở Milan. Hai bạn gặp nhau, ai cũng nên chức phận vẻ vang tại một thành phố quan yếu nhất nhì của Ý. Thời gian này, Augustinô ăn mừng sinh nhật thứ 30 một cách thoải mái. Dạy ở viện Đại học, Augustinô thường đi nghe Đức cha Ambrôsiô giảng thuyết, vì ngài là một diễn giả xuất chúng. Trước khi được chọn làm Giám mục, ngài đã từng làm Thủ hiến ở nhiều tỉnh. Học rộng, tài cao, đức độ, ảnh hưởng của ngài thật lớn lao. Augustinô chuyên cần đi nghe ngài giảng giải về Thánh kinh rõ ràng mạch lạc, bao nhiêu câu hỏi vấn nạn đều được ngài giải đáp minh bạch, nên Augustinô cảm xúc sâu xa, rồi quyết định tìm đến tòa Giám mục để xin yết kiến ngài. Đức cha Ambrôsiô cũng đã được nghe nói đến Augustinô là tín đồ Manichéen, nên ngài muốn tìm cách soi đường dẫn lối cho Augustinô được trở về chính lộ.

Sau vài câu chào hỏi xã giao thường lệ, Đức cha bắt đầu :

 - Người ta cho cha biết là con tìm tòi nghiên cứu nhiều lắm...

- Vâng, con đi tìm Chân lý.

- Vậy thì con nên cầu nguyện đi!

Cuộc tiếp xúc quá sơ sài, quá ngắn ngủi cho nên Augustinô chưa hả dạ, lại còn thấy đắng cay trong lòng và bắt đầu tuyệt giao với bọn Manichéen, vì bọn này chuyên môn khua môi nói dóc. Alype, về sau, theo gương Augustinô, cũng từ bỏ hẳn tà giáo này.

Làm giáo sư ở viện Đại học thật là hợp với trình độ kiến thức của Augustinô, tiếng tăm càng rộng, uy tín càng cao, các sinh viên tiến bộ rõ rệt. Nhân dịp đại tướng Bauton thắng trận ở sông Danube trở về, giáo sư Augustinô đọc một bài diễn văn ca tụng binh nghiệp vẻ vang của vị danh tướng này, được thính giả vỗ tay khen ngợi nhiệt liệt.

Phần Mônica, sau khi bị con lường gạt ở bến tàu Carthage thì đành trở về quê nhà ở Thagaste, ôm ấp nỗi đau buồn, gia tăng kinh nguyện, ăn chay hãm mình, săn sóc bệnh nhân, giúp đỡ kẻ nghèo, cầu cho con được rỗi linh hồn. Buổi sáng nọ, Mônica nhận được thơ của đứa con hư hỏng. Nội dung thơ rằng : ... Về công ăn việc làm của con nay được ổn định, vững chắc, lâu bền, nơi ăn chốn ở khả quan. Con liền nghĩ ngay đến mẹ đang sống cô đơn nơi quê nhà, tâm trí con xao xuyến không yên và không ngớt nhớ mong mẹ. Con xin mẹ thứ tha những lỗi lầm của con đã làm cho mẹ đau buồn trong bao nhiêu năm tháng qua. Nay con mong được đón rước mẹ về sống ngay tại Milan với chúng con, sớm hôm con có mẹ, mẹ có con; con cũng dám xin nhắc lại lời con đã thưa với mẹ, do giấc mộng của mẹ cách đây mấy năm, là : Con đâu mẹ đấy. Xin mẹ nhận lời con khẩn khoản van nài, và trong thời gian nóng lòng được đón rước mẹ, con xin phép được hôn mẹ ngàn cái. Cuối thơ, con lạy mẹ...”

Nhận được thơ, lòng Mônica vui mừng khôn xiết, và cũng tự thấy là mình không thể xa con lâu hơn nữa được, và hy vọng rằng, gần con, sẽ cảm hóa được con, hầu xứng đáng với một thể giá của một giáo sư Đại học. Mônica quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, sang định cư vĩnh viễn ở Milan.

Chuẩn bị hành trang xong, Mônica với trưởng nam là Navigius, hai người anh họ, với bạn cũ của Augustinô là Nébride; tất cả là năm người, đáp tàu sang Ý đại lợi. Tàu vượt sóng ra khơi. Thình lình một cơn cuồng phong nổi lên dữ dội, tàu bị sóng nhồi... mọi người say sóng ói mửa lung tung... thủy thủ đều hốt hoảng vì tin rằng thế nào tàu cũng bị đắm. Riêng Mônica, bình tĩnh lạ thường... cầu nguyện trấn an mọi người : Hãy tin tưởng và trông cậy vào Thiên Chúa. Hãy giữ vững tay lái... Cơn bão dịu lần lần... tàu lại nhắm hướng Milan lướt sóng.

Đến Milan, Mônica cố dằn cơn xúc động khi gặp con. Mừng quá! Nước mắt tuôn ròng, ôm Augustinô vào lòng, ngước mắt lên trời Mônica tạ ơn Đấng Quan phòng. Một tâm hồn theo đuổi một linh hồn, phải chăng là cốt truyện của thánh nữ Mônica và thánh Augustinô?.

Augustinô thưa với mẹ :

- Con đã tuyệt giao với bè phái Manichéisme rồi!

Mônica đáp :

- Mẹ ước muốn con làm được việc quan trọng hơn thế kia.

Trong giai đoạn đầu tiên này, Mônica nhẫn nại chung sống với Augustinô, Môdesta và đứa cháu nội mặc dầu cô dâu bất đắc dĩ này không làm cho Mônica hài lòng thật sự, song đứa cháu nội cũng làm cho bà nội nó khuây khỏa phần nào.

Mặt khác, thấy thánh Augustinô đoạn tuyệt với tà đạo, con đường trở về chính lộ, trở về cội nguồn, Augustinô đã bước được vài bước đầu rồi đó, Có khởi đầu ắt có chung cuộc. Nhớ lại lời an ủi của Đức Giám mục Thagaste, Mônica càng gia tăng kinh nguyện, hy vọng một ngày nào đó, nhờ ơn Chúa, con mình sẽ tìm được chân lý. Mônica chuyên cần đến các thánh đường, hành hương kính viếng các thánh tử đạo, làm các việc bác ái từ thiện.

Tiếng tăm Augustinô ngày càng gia tăng; các tay văn chương lỗi lạc hội nhau thành câu lạc bộ bao quanh Augustinô. Ngoài ra, các bạn thân như Alype, như Nébride cũng đã có mặt ở Milan. Rômanien, người bạn xưa của gia đình đã từng giúp Augustinô trong thời gian theo học ở Viện đại học Carthage cũng vừa đến.

Nhưng oái oăm thay cho định mệnh của con người! Rômanien bị sạt nghiệp vì chính quyền địa phương nên phải đến Milan đệ đơn thưa kiện minh oan. Quả thật, đây cũng là một thử thách đối với Rômanien là người chỉ biết làm ơn cho tha nhân. Xã hội loài người bất công thật. Gặp Augustinô, Rômanien trình bày lý do mình phải đến Milan :

- Tôi phải ra hầu tòa, vậy nhờ uy thế lớn lao của anh và các anh em cạnh tòa án, giúp tôi trong vấn đề tư pháp rắc rối này.

Augustinô chua xót đáp :

- Vâng, Alype và tôi sẽ hết sức can thiệp.

Augustinô, từ bỏ tà giáo và luôn luôn đi tìm chân lý, đi tìm chánh đạo vì cho đến bây giờ, Augustinô vẫn còn xem Đức Kitô cũng như là một nhà hiền triết xuất chúng mà thôi. Augustinô hằng suy nghĩ vấn đề con người có xác có hồn, và, hồn là bất diệt, hồn hằng sống rồi tự đặt những vấn nạn :

- Con người là ai?

- Con người từ đâu mà có?

- Con người sẽ đi về đâu?

Augustinô lại ước ao được thảo luận với Đức cha Ambrôsiô. Nhiều lần muốn đến yết kiến Đức cha, nhưng mỗi lần đã đến nhà thờ chánh tòa thì Augustinô lại chần chờ rồi lại tháo lui vì nghĩ rằng : mình không nên làm bận rộn một vị Giám mục, suốt ngày đa đoan theo thánh vụ. Có lần, Augustinô đã đến nơi, giả ho hen lên tiếng... nhưng cuối cùng lại rụt rè, nhẹ bước rút lui.

Lòng luôn luôn khắc khoải và lương tâm dày vò mỗi khi nghĩ đến vấn đề tín ngưỡng, Augustinô thấy sức khỏe hao mòn, cơn ho suyễn nổi lên dữ dội đến nỗi Augustinô bỏ nghề giảng sư. Một hôm, cùng với các bạn đi bách bộ dọc mấy dãy phố, Augustinô thấy một người hành khất, quần áo tả tơi, tay cầm hũ rượu nhấm nháp, có vẻ sung sướng lắm. Thoáng thấy thất vọng, Augustinô chỉ người hành khất cho bạn rồi nói :

- Đấy, anh em thấy không, đó là hạng người được hạnh phúc thật. Nếu thế, chúng ta cần gì mà phải suy nghĩ nát óc tìm hạnh phúc đâu đâu ấy, vì vài cốc rượu cũng làm cho ta lên tột đỉnh hạnh phúc vậy.

Trở lại việc gia đình của Augustinô. Sự sống chung dưới một mái nhà, bầu không khí giữa Mônica và Môdesta ngày càng khó thở. Sự việc, kể ra cũng dễ hiểu vì những dị đồng tự nhiên, nên không tránh khỏi.

Phần Mônica, trước một cô dâu không cheo cưới - phần đời cũng như phần đạo - sinh trưởng từ chốn bình dân hạ tiện của thành phần dân thuộc địa bản xứ, so sánh lại thì Augustinô là công dân đế quốc, là hạng ăn trên ngồi trước; về tín ngưỡng thì Augustinô là người dự tòng; về phần học thức thì Augustinô xứng bậc thầy của nhiều tay văn hay chữ tốt; về địa vị xã hội thì Augustinô hẳn là người được trọng vọng, đầy uy tín trong triều ngoài quận, dù Augustinô có đưa ra giả thuyết Tình yêu không biên giới thì cũng không thể lấp bằng cái hố chia rẽ giữa con người với con người của cái xã hội đế quốc Rôma thời bấy giờ được.

Xét về tư cách, tác phong, đạo đức và địa vị thì Mônica quả là một người mẹ Công giáo gương mẫu, cho nên tự thấy lương tâm khiển trách mình thì làm sao bỏ qua mọi việc được. Vì vậy mà dần dần, Môdesta nhận thấy rõ ràng mẹ chồng” lạt lẽo, lãnh đạm, cách biệt với mình nên cũng khó chịu. Vậy là trong gia đình thường cũng xảy ra lời qua tiếng lại, tiếng bấc tiếng chì, cũng háy nguýt nhau, tránh thúng đụng nia, tuy chưa đến nỗi nắm tóc vày đầu nhau.

Trước sự kiện đau lòng ấy, một bên là bà mẹ ruột, bên là vợ, Augustinô đứng giữa, không giàn xếp được. Việt nam ta có câu :

Đẹp ý anh không đành lòng mẹ,

Một mai em về, nặng nhẹ khổ thân.

Augustinô cũng chẳng dám nghĩ đến chuyện chém chó răn chồng, mài dao dạy vợ, nên đành thở ra thở vào, giằn lòng đánh chữ làm thinh. Ngày kia, Mônica giải thích cho con mọi lẽ hơn thiệt theo lập trường của mình rồi kết luận :

- Thôi, tốt hơn hết là mẹ trở về quê để gia đình con được yên ổn.

Augustinô phản đối :

- Thưa mẹ, không bao giờ con chịu như vậy được.

Mônica đến yết kiến cha Ambrôsiô trình bày mọi chi tiết về gia đình thiếu cảm thông và thưa rằng :

- Con có nên từ giã Augustinô để trở lại Thagaste không?

Đức cha đáp :

- Con ơi! Con đã lướt sóng, vượt trùng dương đến đây, song trong lòng con bão táp vẫn còn. Con phải nhẫn nại rồi cầu nguyện vì phần rỗi của bao nhiêu người.

Thật là một lời tiên tri, sau này mới thấy được thực hiện. Ngày tháng trôi qua. Augustinô kết thân với Manlius Théodore là nhà mạnh thường quân của giới văn nhân thi sĩ. Manlius nguyên là lãnh sự của đế quốc tại Carthage, mời Augustinô đến chơi, nhà ở đối diện với hồ Côme. Thật ơn trên khéo an bài, vì tại đây, Augustinô khám phá ra bao nhiêu tác phẩm của Plotin và của Platon là hai nhà đại triết gia. Augustinô phải kêu lên : Làm sao mà tôi chưa được đọc tác phẩm của hai vị này? Platon có trước Đức Kitô gần 400 năm, và triết lý của Platon rất gần gũi với triết lý của Đức Kitô! Lạ thật!!! Quá sung sướng, Augustinô vội vàng kêu gọi bạn hữu lại để cùng với mình nghiên cứu cái khám phá mới mẻ của mình.

Alype hỏi :

- Chúng ta phải tìm hạnh phúc ở đâu?

Augustinô :

- Trong cái Khôn Ngoan tuyệt đối.

Alype :

- Cái Khôn Ngoan là gì?

Augustinô :

- Khôn Ngoan là chiếm hữu Chân Lý để chúng ta được vui sống trọn hảo.

Alype :

- Khôn Ngoan phải chăng là đức tính của Chúa Trời Đất?

Augustinô :

- Bởi vậy, chiếm được Khôn Ngoan tức là chiếm hữu được Chúa Tể Trời Đất.

Đấy! Bước đầu tiên của Augustinô trên đường tìm đến Thiên Chúa. Nhờ mặc khải linh ứng, Augustinô cùng với các bạn vô cùng hoan lạc phấn khởi, liền dự tính một chương trình hành động thật bất ngờ, thật hy hữu, nên bảo nhau rằng :

- Còn đợi gì mà anh em ta không thành lập một chốn ẩn tu xa lánh trần thế để khỏi phải lo lắng thắc mắc hàng ngày. Chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu học hỏi và suy ngắm, được hoàn toàn tự do, hướng tâm hồn và lòng trí lên cùng Thiên Chúa?. Vâng, thế thì tuyệt vời! Nhưng trong anh em ta, có người đã lập gia đình, có con cái, thì tính sao? Chẳng lẽ để bà xã xa chồng, con xa cha...?”

Augustinô nói :

- Ôi! vợ với con, phiền hà thật đấy!.

Thật vậy, Augustinô đang vướng phải vợ con. Hơn nữa, gia đình có những lục đục gần như hàng ngày giữa mẹ chồng nàng dâu dù Mônica nhẫn nại chịu đựng, nhất là bị ám ảnh bởi thể giá và uy tín của con; so sánh lại thì Môdesta chỉ là một cô gái địa phương lang bang mà Augustinô - trong giây phút bồng bột, thiếu suy nghĩ đắn đo, vớ được giữa đường ở Carthage, chắc chắn hại đến tương lai của con.

Mônica nghĩ thêm rằng : Dù sao, tình thế vẫn còn cứu vớt được. Augustinô vẫn có đủ thời giờ, đủ điều kiện để cưới một cô gái trong hàng thục nữ đoan trang, gồm tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh, cưới hỏi đàng hoàng theo luật đời luật đạo, danh chính ngôn thuận, đẹp mặt nở mày, mà rồi, mình có chết cũng an lòng.

Mônica cũng tế nhị, không muốn cho Môdesta biết điều dự tính của mình nên một mẹ một con, cho Augustinô hay mọi lẽ hơn thiệt, rồi nói thêm :

- Con ơi! con phải can đảm giải quyết dứt khoát việc hôn nhân của con. Vì yêu con, vì tương lai lâu dài của con, mẹ mới dám nói ra với một tấm lòng ngay lành. Mẹ nói ít, con hiểu nhiều. Mẹ sẽ cầu nguyện cho con.

Augustinô cúi đầu :

- Thưa mẹ, con sẽ nghĩ đến vấn đề này.

Tuy rằng hai mẹ con Mônica thảo luận bàn tính riêng với nhau, nhưng rồi tai vách mạch rừng; thêm vào đó, thái độ của Augustinô đối với Môdesta có phần thay đổi rõ rệt nên Môdesta nói với Augustinô :

- Anh ơi! em cũng cảm nghĩ rằng thân phận em không đáng được sánh đôi với anh theo địa vị của anh. Tốt hơn hết là để em trở về địa vị xưa kia của em vậy.

Augustinô, tim rung động đáp :

- Anh cũng không thể giữ em lại lâu hơn được nữa!

Vậy là giữa đường đứt gánh tương tư. Môdesta chuẩn bị hành trang, để Adéodat lại cho bố và bà nội nó, tình duyên lỡ làng, xách gói ra đi. Augustinô, quả tim không phải là loại sắt đá, tiễn Môdesta ra bến tàu. Đến giờ nhổ neo, tàu hú lên hồi còi lâu dài, thúc giục Môdesta theo hành khách lên tàu. Augustinô đứng ở bến nhìn theo. Tàu nhổ neo, từ từ, từ từ rời bến... gió thổi căng buồm, tàu dần xa, ra khơi... Vậy là :

Đồng tiền chiếc đũa phân ly,

Thiếp đi đàng thiếp chàng đi đàng chàng”

 Augustinô thong thả rời bến tàu, cũng buồn rười rượi. Thật là đau lòng cho cả hai; ai cũng đoạn trường xót xa, nhưng biết làm sao đánh đổ được phong tục tập quán, luật lệ và lễ giáo của một đế quốc đã từng ngự trị hàng bao nhiêu thế kỷ trên bao nhiêu dân tộc, trên bao nhiêu lãnh thổ. Giả thuyết tình vô biên giới không đứng vững được; âu đó chỉ là một câu nói để gỡ gạc, tạo một lối thoát mà thôi.

Sau này, Augustinô than rằng : Tim tôi và tim nàng đã từng khăng khít chung nhịp, nay mỗi người mỗi ngã, tôi phải mang theo mình vết thương lòng đẫm máu.

 

Những biến cố quyết định

Đế quốc Rôma trải qua một thời kỳ bất an, loạn lạc làm rung chuyển hoàng triều. Tại Phi châu, tướng Gildon kết liên với phái Donatiste để bách hại công giáo. Đồng thời, phái Arianisme cũng gây nhiều tai hại. Phái này không nhìn nhận Đức Giêsu là con thật của Đức Chúa trời. Hoàng đế và Hoàng thái hậu cùng với phần lớn triều đình theo phái này. Hoàng hậu Justine buộc Milan phải trao cho bọn Ariens Đại thánh đường của giáo phận. Hoàng đế còn cho lệnh dùng bạo lực đến chiếm đại thánh đường.

Đức giám mục Ambrôsiô động viên giáo dân, tổ chức kháng chiến; biến thánh đường thành pháo đài kiên cố, Ngài nói :

- Tôi sẵn sàng để chết dưới chân bàn thờ.

Mônica cũng hiệp lực với giáo dân tham chiến bảo vệ đức tin. Để khích lệ và củng cố tinh thần giáo dân, đức cha hướng dẫn giáo dân hát thánh vịnh như giáo hữu Đông phương thời xưa bị bách hại. Đây cũng là lần đầu tiên giáo hữu Tây phương hát thánh vịnh. Tiếng hát vang dậy bay vút tận trời xanh. Có điều may mắn là quân đội bất tuân thượng lệnh, không tấn công thánh đường.

Ngày thứ 6 tuần thánh năm ấy - 03-03-386, Hoàng đế phải nhượng bộ. Đức giám mục Ambrôsiô và giáo dân thắng trận vẻ vang. Augustinô vội vã chạy đến thánh đường, gặp mẹ đang đứng tại tiền đường, người có gầy đi, hai mắt sâu hoắm vì thiếu ngủ, song mặt mày lại rạng rỡ hãnh diện. Giáo hội bị bách hại càng làm cho Augustinô tâm hồn xao xuyến và càng xích lại gần với tín hữu Kitô hơn. Thêm vào đó, linh mục Simplicien, người đã làm cho Ambrôsiô trở lại đạo Công giáo, trong lần rửa tội cho một tân tòng, đã lớn tiếng giảng rằng :... Vâng, vâng, Platon dẫn đường cho ta đến với Đức Giêsu... “

Augustinô nghe và ghi nhớ câu ấy, nên tìm đến gặp cha Simplicien, đặt ra nhiều câu hỏi khúc mắc về triết học, về thánh kinh và thần học. Cha Simplicien giải đáp rõ ràng rành mạch tất cả. Cha Simplicien còn tự bảo : Con chiên đi lạc trong rừng mà còn biết kêu be be thì con chiên ấy không bị mất hẳn.

Một biến cố khác càng làm cho Augustinô suy tư lung lắm. Số là nhờ linh ứng, Đức cha Ambrôsiô khám phá được linh cốt của hai vị thánh tử đạo là thánh Gervais (phiên âm Việt ngữ là Giêvaxicô) và thánh Protais (Phôtaxiô) cả hai vị đều có tên trong kinh cầu các thánh. Đức cha cho tổ chức nghi lễ rước kiệu linh cốt các ngài một cách long trọng, nghênh vào thánh đường để giáo dân kính viếng. Chúa đã cho các ngài làm nhiều phép lạ cả thể : Những người bị quỷ ám, đến gần linh cốt đều được cứu chữa và lành hẳn. Có một công dân bị mù đã lâu năm, được người ta dẫn tới, anh ta lấy khăn tay chạm vào linh cốt rồi lau mắt, hai con mắt được sáng ra như người bình thường.

Augustinô nghiêm cung suy luận : Ai có thể làm những việc lạ lùng như thế nếu không phải là bàn tay của Thiên Chúa. Rồi, một ngày nọ, một người bạn công giáo tên là Ponticien đến thăm Augustinô, lúc bấy giờ đang đàm đạo với Alype về thơ của thánh Phaolô. Sau vài lời chào hỏi xã giao thường lệ giữa bạn hữu tâm giao, Ponticien buột miệng hỏi :

- Anh em làm gì vậy? Các anh đang định trở lại đạo Công giáo chăng?

Augustinô đáp :

- Hiện bọn tôi đang nghiên cứu triết lý của thánh Phaolô và nghiên cứu kinh thánh.

- Vậy thì anh em chậm hơn và kém hơn thánh Antôn tu rừng rồi đấy.

- Thánh Antôn tu rừng là ai vậy? Tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả.

 Ponticien liền kể cho các bạn nghe hạnh tích thánh Antôn (251-356) là vị thánh ẩn tu tại hoang địa đất Ai cập (Egypte) cùng với một số anh em khác. Các ngài áp dụng lối sống của thánh Gioan Baotixita tiền hô của Chúa Giêsu; cũng ăn mật ong với châu chấu, hãm mình phạt xác, tự đấu tranh giữa hồn và xác chẳng khác gì xưa kia, trong Cựu ước, tổ phụ Gia cóp chiến đấu với thiên sứ vậy (Sáng thế ký, đoạn 32, câu 24-30). Ponticien nói tiếp :

- Phải can đảm lướt thắng xác thịt, phải có đời sống khắc khổ mới thắng được chước cám dỗ. Bởi vậy, dù sống ở hoang địa khô khan cằn cỗi, song nhờ ơn Thánh linh, ta sẽ thắng.

 

Ăn năn sám hối

Ponticien từ giã các bạn ra về. Augustinô dẫn Alype đến khuôn viên nhà mình, lòng bồng bột, mắt sáng ngời, hai má đỏ hồng.

Alype nói :

- Anh đã suy nghĩ kỹ càng chưa mà dám từ bỏ mọi thú vui trần gian?

Đột xuất, Augustinô đáp :

- Những kẻ dốt nát còn biết thức tỉnh hướng về Thiên Chúa, để chiếm được nước trời huống nữa là bọn mình, dù ít nhiều, mình cũng là hạng có học thức, lẽ nào bọn mình hèn nhát để xác thịt hủy hoại đời sống chúng ta? Phải chăng vì có người đã tiên phong đi trước chúng ta mà làm cho chúng ta hổ thẹn không dám noi theo gương lành thánh của họ sao?

Nói xong, Augustinô bị cảm xúc mạnh vì có một động lực vô hình thúc đẩy, chạy đến gốc cây vả, quỳ gối, khóc nức nở, tâm hồn lâng lâng hướng thượng, dâng lời cầu khẩn, sám hối ăn năn, cung kính phụng thờ. Nhưng, bỗng chốc có tiếng nói - vô hình - bảo Augustinô :

- Cầm sách lên, và đọc đi!

Augustinô bỡ ngỡ, tiếp tục cầu khẩn, tiếng nói ấy lại bảo :

- Cầm sách lên và đọc đi! Đọc đi nào!

Augustinô đứng dậy - lảo đảo như người say rượu - chạy vào nhà. Trên bàn, vẫn là cuốn sách chứa đựng những bài thư của thánh Phaolô. Mở sách ra, Augustinô gặp mấy câu : Anh chị em đừng mải mê theo tiệc tùng, dâm ô đàng điếm, khoái lạc xác thịt; tranh cãi và ganh tị lẫn nhau, hãy mặc lấy Đức Kitô... (Rôma đoạn 13 câu 13-14).

Mặt mày rạng ngời, Augustinô chỉ cho Alype mấy câu nói về nước trời rồi đọc tiếp : ... Anh chị em hãy giúp đỡ kẻ còn yếu lòng tin... Augustinô và Alype cùng nói :

- Lạ lùng thay!... Lời Chúa rất hạp với mọi người.

Thế rồi cả hai người đi thuật lại cho Mônica mọi sự việc vừa mới xảy ra. Thoạt tiên, Mônica rất đỗi ngạc nhiên, song lại mừng khấp khởi, nhìn trời rồi kêu lên :

- Ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa!. Rồi xoay về phía Augustinô, Mônica nói tiếp : Con yêu dấu của mẹ, Thiên Chúa đã phán dạy, đó là Khôn Ngoan và Chân Lý tuyệt đối mà con đã dày công tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi từ bao nhiêu năm trời, nay con mới gặp. Vậy, con hãy dốc lòng theo lời ngài.

Augustinô kêu lên :

- Nếu con đã đặt được chân con lên đường của Đức Kitô, thì ngay từ ngày hôm nay và từ giờ phút này, con là một Kitô hữu rồi mẹ ạ. Ôi! Sung sướng thay! Ôi! Hạnh phúc thay!.

Nói xong, Augustinô ẵm mẹ vào lòng. Hai mẹ con cùng khóc nức nở. Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc!!! Lòng tràn ngập hoan lạc, Mônica phấn khởi nói :

- Thiên Chúa đã nhận lời mẹ khấn xin.

Augustinô họa lại :

- Nguyện xin Thiên Chúa ban cho những lời mẹ khẩn cầu được cụ thể hóa bằng lễ Rửa tội của con!.

Mùa nghỉ hè đến rồi. Augustinô bị viêm phổi, chứng hen suyễn lại phát hiện nên than thở :

- Không biết kiếm đâu được một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi đôi chút nhỉ!.

Ngay lúc ấy, Vérécondus, một trong những bạn giảng sư bảo :

- Thì tôi có một biệt thự tại thôn Cassiciacum, gần Milan này. Anh với mẹ và các bạn tâm giao hãy dọn về đấy mà ở để nghỉ ngơi, suy ngắm, cầu nguyện. Để bù lại, anh em trông nom giúp tôi các công tác đồng áng. Xem được không nào. Với lòng biết ơn sâu sa, Augustinô và Mônica nhận lời.

Cassiciacum là một biệt thự xây trên một ngọn đồi giữa nhiều dãy núi trùng trùng điệp điệp : xa xa là dãy núi Alpes quanh năm tuyết phủ; gần đấy là mấy hồ nước trong veo xanh biếc soi bóng nền trời, thỉnh thoảng, vài đám mây trắng bay lơ lửng trên không trung, tạo thành một khoảng địa đàng, sơn thủy hữu tình. Đồng áng gồm có vườn cây ăn trái, đám ruộng lúa hoa màu xanh lục với cỏ cây thảo mộc, đôi khi làn gió đến làm cho lúa gợn sóng xào xạc, vừa đẹp mắt vừa vui tai.

Đây là một địa điểm lý tưởng cho những người đang nuôi mộng : sống yên tịnh để học hỏi, nghiên cứu những vấn đề về nhân sinh, về vũ trụ, hầu gặp Khôn ngoan và Chân lý tuyệt đối. Bây giờ Mônica đảm trách vấn đề ẩm thực cho đám đông anh em tá túc dưới mái biệt thự Cassiciacum là : Augustinô, Alype, Nébride, Navigius, Trygétius, Rusticus, Lastidiamus, hai người bà con và Adéodat (bây giờ được 12 tuổi rồi).

Mẫn cán về nội trợ, khéo thu xếp nội thất, rành gia chánh, giàu đạo đức, Mônica tận tâm phục vụ từng người với tấm lòng của một từ mẫu biết hy sinh sức khỏe và thời giờ, bất quản thức khuya dậy sớm, quán xuyến tất cả để không một ai phải thiếu thứ gì. Hơn thế nữa, trong lúc phục vụ, Mônica còn tỏ lòng kính trọng từng người đến nỗi - sau này - trong hồi ký, Augustinô viết : Mẹ tôi săn sóc chúng tôi như tất cả chúng tôi đều là con ruột, lại còn lối phục dịch đầy kính cẩn, xem như mỗi chúng tôi là thân sinh của mình vậy.

Chương trình thường nhật của nhóm anh em gồm có : Buổi sáng, sau giờ điểm tâm thì nghiên cứu triết lý, bình văn giảng thuyết. Buổi chiều nghiên cứu giáo thuyết. Augustinô hướng dẫn các cuộc mạn đàm. Thỉnh thoảng Mônica cũng sốt sắng tham gia ý kiến, kinh nghiệm, rất chí lý nhờ ơn Thánh Linh soi sáng. Nhiều khi Augustinô phải thán phục kêu lên :

- Thưa mẹ, mẹ am tường Chân lý một cách thông suốt trong trắng như pha-lê trong lúc con mò mẫm rồi giải đoán nông cạn theo trí khôn non nớt của con.

Nhờ khung cảnh thuận lợi, nhờ núi non trùng điệp cao thẳm, tâm hồn Augustinô vươn lên cõi cao xanh, lòng thanh thản, viết được thơ gởi về Phi châu lôi kéo Rômanien đoạn giao với tà giáo Manichéisme.

Augustinô viết sách : Đời sống hạnh phúc, Mình đàm thoại với mình nói lên bao mối hoài vọng và tuyệt vọng. Trong pho sách ấy chứa đựng bao nhiêu lời kêu than chứa chan hy vọng, và cũng không thiếu những mối thất vọng chán chường. Augustinô viết : Mọi người, tốt cũng như xấu, ai ai cũng muốn được sống sung sướng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc chân thật là được gặp Thiên Chúa để yêu mến Ngài. Rồi, trong lời khẩn nguyện, Augustinô viết : Lạy Chúa, xin ban cho con được biết cầu nguyện cùng Chúa, và xin cho lời con cầu nguyện được Chúa chứng nhậm.

Kể từ đây, Augustinô quyết tâm chuyên nghĩ đến một việc độc nhất là phần rỗi của mình. Augustinô gởi thư đến Viện Đại học báo tin mình từ chức giảng sư. Hè qua. Thu đến. Đông về. Tiết đông thiên lạnh lẽo. Trong biệt thự Cassiciacum đốt củi sưởi ấm càng làm cho quả tim Augustinô bốc lên một ngọn lửa sốt mến đượm nồng, không bao giờ có thể tắt được. Mùa xuân, nhóm anh em chia tay nhau, ai về nhà người nấy, chỉ còn lại Augustinô, Mônica, Alype, Navigius và Adéodat.

Hội thánh Công giáo vào mùa chay dọn lòng giáo hữu đón mừng Đại lễ Phục sinh. Augustinô viết thư về Milan cho Đức cha Ambrôsiô, nội dung là lời thăm hỏi thường lệ rồi đến đoạn quan trọng là : ... Kính lạy Đức cha, con bây giờ đã sẵn sàng rồi. Con rất ước ao được chính Đức cha thân hành ban phép rửa tội cho con... Cuối thư, xin Đức cha ban phép lành cho con. Ký tên : Augustinô.

Gia đình Mônica lại dọn về Milan. Ngày 25-4-387, trong Đại thánh đường mà Đức Giám mục Milan với đoàn chiên (trong số đó có Mônica) cách mấy năm trước đã biến thành pháo đài kiên cố, đã anh dũng bảo vệ để phản đối lệnh của Hoàng đế Roma. Đứa con trai hoang đàng, bê tha, con chiên lạc vào rừng, vị giáo sư đại học, tiến đến giếng nước, khiêm nhượng cúi đầu để lãnh bí tích Rửa tội. Đức cha Ambrôsiô vừa dội nước lên đầu người tân tòng vừa đọc rõ ràng chậm rãi : Augustinô, cha rửa con. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh thần. Hôm nay, Augustinô vừa trọn 33 tuổi.

Đứng cạnh con yêu dấu, lòng tràn ngập hạnh phúc, những giọt nước mắt nóng hổi từ từ chạy dọc theo gò má, Mônica ngước mắt lên trời, ngợi khen, chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa nhân lành đã khấng nhậm lời mình bền chí cầu nguyện. Giấc mộng năm xưa, vị sứ giả đã hiện ra an ủi mình và tiên báo : Con ở đâu, đứa con của con cũng sẽ ở đấy. Nay đã ứng nghiệm.

Theo gương Augustinô, hôm ấy, Alype, Adéodat và Navigius cũng được lãnh bí tích Thánh tẩy. Đã quyết tâm từ bỏ Satan, từ bỏ mọi quyến rũ của Satan, với ơn của Đức Thánh Linh, Augustinô hiên ngang và mạnh dạn tuyên bố : Thôi, thôi, con người ơi! Đừng rên siết nữa vì linh hồn của ngươi là bất diệt.

 

Mônica qua đời

Augustinô và gia đình, giờ đây cũng bùi ngùi nhớ quê hương, xứ sở nên tự bảo : Chúng ta về lại Thagaste, tổ chức đời sống ẩn tu như đã sống ở biệt thự Cassiciacum, lánh xa thế tục, chuyên tâm cầu nguyện phụng thờ Thiên Chúa. Mẹ sẽ là một Thiên sứ điều khiển mọi việc nội thất.

Mọi người chuẩn bị hành trang để đi Ostie rồi sẽ đáp tàu vượt Địa Trung Hải trực chỉ Carthage, để được đạp chân lên quê hương đất mẹ. Augustinô cảm nghĩ : Phi châu chiếm ngự tim tôi thì tim tôi cũng phải tỏa ra trên nước non nhà.

Cuộc hành trình từ Milan đến Ostie cũng vất vả vì phải vượt dãy núi Apennin đầy bọn kiêu quân bất lương, chuyên cướp bóc khách bộ hành, nhưng đoàn người cũng đến được Ostie. Đây là một thương cảng sầm uất và đẹp đẽ, có nhiều kho hàng hóa của Hoàng triều, có những tiệm buôn bán tấp nập nhộn nhịp. Ostie còn được hãnh diện với những vận động trường, những hý viện, những hồ tắm nước nóng, đường phố lát gạch sạch sẽ sang trọng. Đứng trên hải cảng nhìn ra khơi, chúng ta thấy tàu bè liên tiếp ra vào, thu thập tàng trữ sản phẩm của Đế quốc.

Ngày đáp tàu từ từ đến. Ngôi nhà mà gia đình Augustinô tạm trú có một khu vườn rộng rãi đẹp đẽ bao quanh. Một ngày kia, hai mẹ con đứng tựa vào cửa sổ, nhìn ra cảnh vật chung quanh. Trong lúc hai mẹ con đang chan hòa luồng tư tưởng thân ái mật thiết, gẫm suy về trật tự tuần hoàn của vũ trụ bao la, suy về hạnh phúc bất diệt mà muôn vàn các thánh nam nữ đang được hưởng trước nhan Thánh Chúa, lòng hai mẹ con tràn ngập ước mong rồi mình cũng sẽ được hưởng phúc lộc vô biên, nghĩ đến Đấng tự hữu hằng sống nhân từ lòng lành vô lượng vô biên nên cả hai đều ngất trí rất lâu. Đến khi tỉnh lại, Mônica tự nhiên buột miệng nói : Giờ đây, trên thế gian chẳng còn gì xứng đáng có thể giữ mẹ lại được nữa... “

Năm hôm sau, Mônica bị cơn sốt dữ dội. Augustinô và Navigius lo thuốc thang hầu hạ phụng dưỡng với cả tấm lòng hiếu thảo. Rồi trong cơn sốt, Mônica bỗng nói :

- Các con hãy an táng mẹ nơi đây!.

 Hai anh em Augustinô vừa khóc lóc thảm thiết vừa nói :

- Thưa mẹ, xin mẹ nín lại để được an táng nơi quê cha đất tổ.

Mônica nói :

- Các con ơi! Đâu cũng là đất của Đức Chúa Trời. Chúng con an táng mẹ ở đâu cũng được. Nhưng mẹ khuyên chúng con điều này : Bất cứ chúng con ở đâu chăng nữa, dưới chân bàn thờ Thiên Chúa, chúng con hãy nhớ đến mẹ!.

Đến ngày thứ 9, Mônica rất tỉnh táo, nói rõ ràng :

- Lạy Chúa, này tôi tớ của Chúa đây.

Rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, hồn về Thiên cung, hưởng nhan Thánh Chúa. Hôm ấy là ngày 27-8-387, thọ 56 tuổi.

Augustinô khóc lóc thương tiếc mẹ, không tiếc lời ca tụng công đức và lòng mẹ, trải qua bao nhiêu năm tháng lặn lội tìm con, theo con để lo phần rỗi của con; rồi vuốt mắt cho mẹ, lòng tràn ngập thương nhớ, biết ơn. Alype, bạn tâm giao của Augustinô liền cất tiếng hát thánh vịnh : Con ca ngợi vinh quang và lòng từ bi vô biên của Chúa. Adéodat thương tiếc bà nội, cũng khóc lóc thảm thiết. Thánh lễ an táng được cử hành tại thánh đường Ostie, và sau đó, linh cữu Mônica được an táng tại nghĩa trang cạnh thánh đường. Suốt hôm đó, Augustinô cố dằn cơn đau, song, khi màn đêm bao phủ cảnh vật, Augustinô một mình thổn thức, để cho giòng lệ tự do tuôn tràn như mưa rào.

Nhờ công nghiệp và lời cầu nguyện của Mônica mà Augustinô được Chúa kêu gọi và, khi nhiệm vụ hoàn tất, Chúa gọi Mônica về lãnh thưởng. Augustinô chắp tay nguyện cầu : Lạy Chúa, xin ban cho những kẻ đã được Chúa gọi thì ngày kia, cũng được Chúa chọn vào nước Chúa.

 

Hồi hương

Tình hình Ostie bỗng trở nên bất an, mọi sinh hoạt thường nhật đều ngừng trệ. Sở dĩ như vậy là vì viên tướng lãnh Phi châu là ông Gildon nổi loạn chống đế quốc, hàng hải không thể lui tới - hải cảng Carthage bị phong tỏa - thực phẩm tại Ý-đại-lợi bị khan hiếm, dân tình đói khổ.

Trong lúc chờ đợi cho tình hình lắng dịu, hòa bình trở lại, Augustinô đi Rôma, kết hợp các bạn cũ, đi dạy học ở các phố. Mặc chiếc áo chùng thâm của các vị ẩn tu đông phương, đầu lúp khăn, quanh mình có thắt lưng bằng da, Augustinô phen này quyết đả phá giáo phái Manichéen, chẳng những bằng cách tổ chức các buổi giảng thuyết nơi công cộng; lại còn viết sách chỉ trích mọi sai lầm phản đạo của họ nữa. Như thế, suốt mùa đông năm 387, Augustinô có dịp viếng thăm nhiều cộng đoàn dân Chúa, nghiên cứu cách sinh hoạt và luật lệ nội quy của nhiều tu viện, xin ý kiến liên quan đến việc lập dòng ẩn tu mà Augustinô dự tính sẽ lập tại Thagaste là quê nhà.

Đông qua, xuân lại, ngọn gió chính trị đổi nhiều. Tướng Gildon bỗng nhiên trở lại tùng phục Hoàng triều, giải tỏa hải cảng, tàu bè chở đầy thực phẩm tấp nập cập bến Ostie, nhờ vậy mà ngày hồi hương cũng đến theo. Augustinô, Adéodat, Navigius và Alype đáp tàu về Carthage. Hôm nay, Augustinô ăn mừng ngày sinh nhật thứ 35; và là ngày đầu năm 389.

Bước chân lên đất quê mẹ, Augustinô ngước nhìn ra xa, xa, xa. Hai tay giang ra như để đón rước vào lòng giải đất thân yêu, rồi kêu lên :

- Ôi Phi châu! Ôi quê hương! Quả thật người là bảo mẫu của ta!.

 Augustinô mừng mừng tủi tủi. Mừng vì được về lại quê cha đất tổ. Ôi quê hương dấu yêu. Dù ở vào hoàn cảnh nào, giàu hay nghèo, đông thiếu áo, hè thiếu cơm, tình quê hương thiêng liêng vẫn đầm ấm thiết tha. Còn đem thân ở quê người, dù được giàu có, song ta vẫn thấy lạc lõng vì cảnh ăn nhờ ở đậu, đâu đâu rồi cũng chỉ thấy ta với ta, đúng là :

Người trông, ta lại trông người,

Trông người, người lạ, nào ai quen mình

Ngán thay cái kiếp linh đinh

Một mình vò võ, xót tình cố hương!.

Augustinô cũng tủi lắm, trong thâm tâm xao xuyến, tim se lại vì phải gởi hài cốt mẹ tại nghĩa trang Ostie. Nước mắt chan hòa, Augustinô than lên : Ôi! Mẹ ơi! Ở đời này có tiếng nào êm ái dịu ngọt bằng tiếng mẹ! Trong bao năm trời con đã làm cho mẹ đau buồn lo lắng, may nhờ ơn Chúa, con đã ăn năn sám hối thì mẹ không còn nữa. Về quê mà vắng mẹ thật là một mất mát, quá thiệt thòi, quá chua xót cho lòng con. Nay, biết yêu mẹ thì mẹ đã hóa ra người thiên cổ, gởi nắm xương nơi quê người đất khách. Chua xót cho lòng con; trên Thiên cung xin mẹ chứng giám để hướng dẫn con trên con đường làm cho Phi châu trở về cùng Thiên Chúa. Con xin cúi đầu lạy mẹ.

Augustinô và các bạn rời Carthage, trở về Thagaste là nơi Augustinô có đất đai vườn tược. Augustinô tổ chức một cộng đoàn, đón nhận những ai muốn sống đời sống tập thể, chuyên đọc kinh nguyện gẫm; sinh sống bằng sức lao động. Trong khi được Linh ứng, Augustinô nói với bạn hữu : Ước gì, vì lòng mến Chúa, chúng ta cùng chung sống nơi hẻo lánh, vắng vẻ, tránh mọi ồn ào náo nhiệt.

Ẩn viện Augustinô được khai sinh từ giây phút này. Nhờ khung cảnh thiên nhiên yên tịnh, tâm hồn ổn định, Augustinô viết được nhiều sách vở. Trong hai năm, nhờ khả năng thiên bẩm, sách vở của Augustinô làm cho thế giới đương thời mến phục. Lời lẽ sắc bén như gươm, Augustinô quyết tâm trọn đời chống bè phái Manichéen đã mê hoặc mình trong chín năm trời và cũng đã làm thiệt hại cho hàng bao nhiêu tín hữu công giáo. Augustinô cũng viết nhạc, viết thơ từ gởi cho hàng bao nhiêu công dân đế quốc cần lời khuyên răn dạy bảo. Augustinô đã viết một cuốn sách luận về Linh hồn; sách về giáo lý và tín lý của Giáo hội; lại còn viết dạy giáo lý riêng cho con là Adéodat; một cậu thiếu niên có óc thông minh xuất chúng; cả cộng đoàn phải khen ngợi và nói rằng : Thật đúng là cha nào con nấy!. Nhưng than ôi! Không hiểu mắc chứng bệnh gì, Adéodat liệt giường có mấy hôm, thuốc thang rất nhiều nhưng chẳng thấy hiệu nghiệm, Adéodat trút hơi thở cuối cùng trên tay bố.

Hôm ấy Adéodat vừa tròn 15 tuổi. Adéodat, nhờ bộ óc của bố nên sớm có nhiều năng khiếu, là một hãnh diện cho bố, là đứa con có nhiều hứa hẹn, sớm lìa trần chẳng khác gì một chiếc sao băng (étoile filante) xẹt qua đời sống của Augustinô. Tang mẹ rồi đến tang con. Đúng là họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Việt nam ta có câu :

Đã buồn lại giục thêm buồn

Mưa giông chưa tạnh, nước nguồn lại sa.

Augustinô đớn đau chua xót ê chề, nhưng phải nhẫn nhục chịu đựng để nhìn đến những gì còn chờ đón mình mai này. Trong cơn đau buồn, nghĩ đến đời con người, chẳng có gì là lâu dài bền vững, nên ngước mắt lên trời, Augustinô bất giác cầu khẩn Thượng đế muôn muôn đời : Lạy Chúa, chỉ có một mình Chúa mới thật là đời đời vô cùng vô tận.

 

Thọ phong Linh mục

Hằng năm, đến độ xuân về, trong tuần Thánh, đêm vọng Phục sinh, Augustinô thường dự lễ nghi Rửa tội cho tân tòng. Thấy những anh em tân tòng được rửa tội xong, được choàng áo trắng tinh, sắp hàng trước bàn thờ, thật trang nghiêm, thật oai vệ, thật cảm động, Augustinô nhớ lại phần mình cách đây mấy năm, tại nhà thờ chánh tòa Milan, đã được Đức cha Ambrôsiô ban bí tích rửa tội, nên vui thỏa kêu lên :

- A! Ước gì tôi có được chiếc lưới của Thánh Phêrô, để tôi chài tất cả dân ngoại Phi châu vào trong lưới ấy!.

Augustinô tưởng rằng mình đã được an phận sống đời ẩn tu, song định mệnh con người là do Chúa khôn ngoan và nhiệm mầu an bài; không ai có thể tiên đoán, tiên liệu theo ý riêng mình được.

Số là, một ngày nọ, Augustinô được một giáo hữu vị vọng thành Hippone, cách Thagaste gần 100 Km, ước ao được nghe Augustinô giảng giải lời Chúa. Không ngần ngại, Augustinô chẳng quản xa xôi nhọc nhằn, dùng lạc đà, nhắm Hippone mà tiến. Đến Hippone, liên tưởng và nhớ cảnh yên tĩnh của chốn ẩn tu, Augustinô định ở Hippone độ vài ngày mà thôi.

Hippone là một thị trấn rất đẹp về thiên nhiên, tọa lạc trên hai ngọn đồi thoai thoải nhìn xuống đồng bằng, có hai con sông chảy ra biển. Đây cũng là một hải cảng sầm uất. Trước khi đến gặp người mời mình, Augustinô ghé vào thánh đường để cầu nguyện cho người ấy. Chính trong lúc ấy, trên tòa giảng, Đức Giám mục khả kính là Valère giảng gần xong; ngài nói thêm : Tôi nay ngày càng già, công tác thánh vụ rất nhiều, nên tôi cần một linh mục trẻ tuổi để giúp tôi đảm đương công việc của giáo phận. Bất ngờ, giáo hữu nhận diện được người khách lạ nên hô hoán lên :

- Augustinô! Augustinô! Nhà ẩn tu ở Thagaste!.

Họ bao quanh Augustinô, họ đẩy Augustinô tiến lên; họ xúm nhau bồng bổng Augustinô, không để cho nhà ẩn tu thoát thân. Họ đưa Augustinô đến trước mặt Đức cha Valère và đồng thanh hô lên :

- Augustinô làm linh mục! Augustinô làm linh mục!.

Thời ấy, khi toàn thể giáo hữu chọn một người nào, đưa đến trình cho Giám mục, thì người ấy đương nhiên được phong chức linh mục. Trước áp lực ấy, Augustinô tự vấn lương tâm : có nên rời bỏ cộng đoàn ẩn tu yên tĩnh hay không? Bỗng nhiên, Augustinô khóc nức nở, nhưng cũng không lẽ nào phụ lòng hâm mộ của giáo dân muốn chọn mình làm kẻ chăn chiên. Phụng thờ Thiên Chúa trong chức vụ linh mục thì cũng như thờ phượng Ngài với đời sống ẩn tu vậy!

Đức cha đến khuyên :

- Con nên nhận lời để giúp đỡ cha. Cộng đoàn dân Chúa muốn tức là Thiên Chúa muốn. Con đừng từ chối!.

Augustinô thưa :

- Thân lạy Đức cha, con khiêm nhượng cúi đầu xin vâng.

Cộng đoàn chỉ còn đồng thanh hoan hô nhiệt liệt. Augustinô viết thơ về Thagaste cho bạn hữu, quy tụ anh em lại thành một tu viện; còn Đức cha Valère tổ chức lễ nghi phong Augustinô làm linh mục. Augustinô liền nghĩ rằng, trên thiên cung mẹ mình vui thỏa dường nào! Từ đây, Augustinô giảng dạy trong thánh đường, dạy giáo lý cho chầu-nhưng, hòa giải các vụ tranh chấp và quản lý các tài sản của giáo phận. Ngờ đâu, đi thăm Hippone một chút thôi, mà Augustinô phải nhận lãnh chức thánh để phụ tá Đức Giám mục.

Phái tà giáo Manichéen vẫn tiếp tục gieo rắc tà thuyết gây tai hại trong giáo hạt, cho nên giáo dân đến gặp Augustinô và nói :

- Còn đợi gì nữa mà cha không đả phá tà thuyết do Fortunat truyền bá. Xin cha tổ chức một cuộc đối chất công khai.

Fortunat rất lo ngại nhưng rồi cũng phải chấp nhận đối chất. Cuộc đối chất được tổ chức vào ngày 28-8-392 và kéo dài hai ngày liên tục, giáo dân tham dự rất đông đảo. Trước lối trình bày mạch lạc, đầy đủ, tài liệu căn bản được trưng ra, Fortunat đuối lý, bị dân chúng chế nhạo, vội vàng trốn khỏi địa hạt Hippone.

Ngoài bọn Manichéen, cũng có nhiều tà phái khác nổi lên truyền bá tà thuyết phản công giáo, Augustinô lo đả phá chúng để bảo toàn đức tin cho con chiên. Augustinô nói :

- Các phái đạo rối đó đều là con đẻ của tội kiêu ngạo.

 

 Làm Giám mục

Đức cha Valère ngày càng già yếu, nhưng được an lòng thỏa dạ thấy Augustinô quả là con người kiến thức sâu rộng, đức tin kiên trì, tài khoa ngôn ngữ, hết lòng binh vực nền Hiệp nhất của Giáo hội; hơn nữa, thấy sức khỏe mình kém đi rõ rệt, biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa nên chọn cha Augustinô làm giám mục phụ tá với quyền kế vị - mặc cho cha Augustinô thoái thác.

Năm 395, Augustinô được Đức cha Mégalina, Giáo chủ Numidie tấn phong Giám mục. Chẳng bao lâu sau, Đức cha Valère qua đời, Đức cha Augustinô lên cai quản giáo phận Hippone nhỏ hẹp, nhưng ngài là một vị Giám mục tiếng tăm nhất thời bấy giờ. Năm nay, ngài tròn 40 tuổi.

Làm Giám mục là một gánh nặng, vì không phải là chỉ biết trên giấy mực ở văn phòng, song là phải dấn thân lặn lội với con chiên. Đức cha Augustinô luôn luôn đi thăm viếng các giáo xứ rải rác, từ kẻ chợ đến thôn quê; mọi xê dịch ngài đều dùng một con lừa già yếu, bất quản nắng mưa, phải giàn xếp mọi tranh chấp tố tụng, phải quản lý tài sản của giáo phận, phải cứu giúp kẻ nghèo đói, bất luận giáo hay lương. Đến đâu, ngài cũng giảng dạy, ủi an khuyến khích, đả phá các tà thuyết để mang lại sự hiệp nhất của Giáo hội.

Thật tội nghiệp cho ngài, một người chỉ muốn sống ẩn dật, đừng ai biết đến, vậy mà nay phải xông pha nơi đầu tên mũi đạn như một chiến sĩ ngoài mặt trận, không ngày đêm nào được hưởng chút yên tĩnh mà mình rất khát khao thèm muốn.

Trước tình hình băng hoại của đế quốc, mọi người đều phân vân, ái ngại, lo lắng, khắc khoải, Đức cha sẵn lòng chia sẻ mối âu lo của con chiên. Ngài lên tòa giảng dạy, khuyên mọi người phải trông cậy vào Chúa quan phòng. Ngài nói: Trên thế gian này, mọi sự đều qua đi, song lời Chúa chẳng bao giờ qua.

Bệnh sốt thường hành hạ ngài, làm cho ngài gầy đi, lưng còm xuống, song đôi mắt vẫn luôn tinh anh, ngài vẫn tiếp tục giảng dạy. Ban thư ký của ngài đã ghi và lưu lại đến ngày nay trên một ngàn bài giảng. Ngài giải thích các thánh vịnh, phúc âm, thánh thư. Thính giả của ngài đầy các hạng người : ngư phủ, thủy thủ, thương gia, trí thức, kẻ tôi đòi, giáo sư, công chức, kẻ góa bụa, người tu hành, giàu nghèo, sang hèn, người lớn trẻ con. Tắt một lời : ai ai cũng thích nghe ngài giảng. Dù phải chen vai, đụng chạm nhau giữa mọi hạng người. Ngài thường nói :

- Giáo hội cũng giống như chiếc lưới của thánh Phêrô, thả xuống biển rồi kéo lên. Trong lưới có nhiều loại và nhiều hạng cá : ngon hay dở, lớn hay bé. Chủ thuyền chỉ chọn lọc loại cá tốt cá ngon.

Ý ngài muốn nói đến ngày thế mạt, ngày phán xét chung. Giảng về tội trọng và tội nhẹ, ngài nói :

- Con sư tử, với hàm răng, giết được người ta lập tức; song nếu ta cho một người vào cái hố chỉ có rận với chí, người ấy cũng sẽ chết vì bị bao nhiêu ngàn vạn chí rận cắn cho.

Thính giả khoái tai, thường hoan hô thì Đức cha nói :

- Anh chị em khen tôi giảng hay... Phần tôi, tôi chỉ muốn anh chị em nghe rồi phải thực hành điều tôi đã giảng.

Đức cha hăng say đả phá các tà giáo nên càng làm cho chúng tức giận vì chúng thường đuối lý mỗi khi phải đối chất với ngài, nên - theo lối bần tiện - chúng tìm đủ mọi cách để hại đến tánh mạng của ngài để báo thù. Hôm nọ, trên lộ trình thăm viếng con chiên, ngài bị chúng nó phục kích, song, linh tính đã dẫn ngài đi lối khác. Đợi suốt ngày không thấy ngài, chúng tiu nghỉu hổ thẹn tháo lui. Sự việc ấy, giáo dân trình lại cho ngài biết. Ngài nói :

- Đương nhiên cha đi tìm chiên lạc cho chủ, thì bị ác thú châm nọc độc, cái đó chẳng lạ lùng gì!.

Về tình hình chính trị, giai đoạn này, tướng Phi châu là Gildon lại đồng minh với các phái tà giáo để chống lại triều đình Rôma, vì triều đình chủ trương bình định châu Phi. Thượng viện kết tội tướng Gildon là kẻ thù của dân chúng.

Tháng 4-398, một đạo quân của triều đình đổ bộ bao vây Gildon rồi xử tử y tại trận, ông Optat, lãnh tụ bọn Donatiste cùng với những công chức bội phản đều cùng chung số phận. Đức cha lại đứng ra can thiệp, nói : Sau khi đã sát phạt rồi thì bây giờ phải là giai đoạn thứ tha. Ngài luôn luôn nhắc nhở tướng lãnh và những kẻ có quyền thế phải ăn ở nhân hậu, quảng đại, vì đó là tác phong cao thượng của người lãnh đạo. Ước gì các vua chúa, quan quyền biết sớm thứ tha, chậm sát phạt. Kẻ cầm quyền phải biết rằng chỉ khi nào vì lợi ích quốc gia mới nên dùng đến uy chứ đừng bao giờ vì tư thù tư oán

Đối với các ông hoàng, bà chúa, con ông cháu cha, ngài thường bảo : Lòng ham muốn đè đầu đè cổ người thấp kém hơn mình là điều thối nát làm băng hoại xã hội, không kém gì tính kiêu căng ngạo nghễ. Tất cả chúng ta đều phải biết rằng, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Toàn Năng, chứ con người cũng chỉ là con người, dù người đó có chỉ huy điều khiển hàng triệu người khác. Vì vậy, mà chủ trương của Đức cha Augustinô là khuyên phục chứ không phải là chinh phục. Cho nên, ngài tổ chức tại Tubureium một cuộc đối chất với Fortinius, có hàng vạn người tham dự. Như thường lệ, lợi khẩu của ngài có tài liệu căn bản dẫn chứng. Tuy vậy, đối tượng của ngài chưa chịu nên nói :

- Nếu Augustinô là chắc chắn nắm được chân lý thì cần gì phải đối chất với phe ta. Chính quân đội của triều đình thắng chúng ta chứ không phải là Augustinô.

Để trả thù Đức cha, bọn chúng vu cáo ngài là hoang dâm, là phạm thượng, thờ bụt thần ma quỷ. Trước sự kiện ấy, Đức cha phải biện minh, khiêm nhượng tuyên bố :

- Tôi đã sa ngã, lầm lạc như điên như cuồng. Điều ấy tôi không chối cãi, và tôi càng xưng ra cái quá khứ sai lầm của tôi, đồng thời, tôi càng tuyên xưng và ngợi khen lòng từ bi nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, là Đấng đã tha thứ mọi tội lỗi của tôi. Vậy thì, hỡi những kẻ đã lỡ mà theo đạo rối, đạo lạc! Sao anh em chưa chịu cải tà quy chánh, mà cứ theo dõi chống báng tôi? Tôi là ai? Tôi có đáng gì đâu? Tôi chỉ là một cá nhân. Tôi đâu có phải là toàn cả Hội thánh Công giáo? Tôi đâu có phải là toàn gia nghiệp của Đức Kitô rải tràn khắp mặt địa cầu; mà tôi chỉ là một phần tử nhỏ mọn khiêm tốn trong ấy mà thôi. Thế cũng là hạnh phúc cho tôi lắm rồi. Tôi không tự đoán xét tôi vì tôi tự biết mình hơn là những kẻ lạc đạo, rối đạo biết tôi, và, Thiên Chúa biết tôi hơn là tôi tự biết mình tôi. Cuối cùng, Đức cha cũng phải giận lắm.

Một tên thuộc tà giáo Donatiste kêu lên :

- Chúng tôi là kẻ được tử đạo!.

Đức cha phản pháo ngay :

- Nếu một tên tội phạm bị trừng trị vì đã phạm trọng tội với quốc gia, mà gọi là tử đạo, thì trong chốn ngục thất hiện nay, đầy dẫy người tử đạo hay sao? Chính các ông đã giết người và giòng máu ấy mới đích thật là giòng máu tử đạo!.

Nói thì nói vậy vì là phải nói, song khi quan lãnh sự tuyên án tử hình một tên tà đạo, vì đã móc mắt hay chặt tay một vị linh mục, thì Đức cha Augustinô lại can thiệp, năn nỉ xin tha. Ngài nói :

- Xin quan nhớ lại lời dạy của Đấng đã vì chúng ta mà chịu đau khổ đến nỗi đã phải chết trên thập giá!.

 

Đức cha Augustinô giữa cơn ly loạn

Đế quốc Rôma lại trải qua một thời tao loạn. Năm 401 Alarie cầm đầu quân Wisigoths xâm nhập Ý-đại-lợi, tiến về Milan. Hoàng đế Honorius phải về Ravenne lánh nạn. Nhưng cuối cùng Alarie thất bại, phải rút lui.

Ngày 31-12-406, quân Vandales là bọn chuyên cướp giật, băng sông Rhin tràn qua Gaule. Thừa dịp này, Alarie lại kéo bộ hạ sang Ý, nhắm Rôma mà tiến. Thượng viện phải xuất hết công khố ra mua chuộc Alarie, để tên này đi khỏi lãnh thổ Ý. Sự việc này làm cho dân gian phải nai lưng ra đóng góp tài sản; ruộng đồng bị bỏ hoang. Không nản chí, Đức cha Augustinô liền xây dựng nền tảng cho một triết lý Công giáo, chống bọn man rợ và luôn cả các phái tà đạo, lấy Thánh kinh làm căn bản. Cũng khoảng năm 400, ngài viết một pho sách nhan đề là Tuyên xưng, trong ấy, ngài tự thuật đời của mình là kẻ đi tìm đường sống cho mình và đã tìm được trong Thiên Chúa. Tác phẩm Tuyên xưng này quả là một công trình tuyệt tác, diễn tả tư tưởng cao siêu mà giá trị văn chương vẫn còn lưu đến ngày nay.

Ngoài ra, ngài còn viết thơ bút đàm với các vị Giám mục, các nhà văn hào, các giáo hữu vị vọng. Năm 394, ngài được liên lạc với thánh Jérôme, bấy giờ đang sống ẩn dật tại Bethléem để dịch Thánh kinh từ tiếng Hy-bá sang tiếng la tinh. Thoạt tiên, Jérôme nghe người ta nói xấu Augustinô, nhưng với đức khiêm nhượng và lối xã giao rất khôn khéo, tế nhị, thánh Jérôme thông cảm, nên hai vị này đã trở thành bạn tâm giao.

Ngày 7-12-404, Đức cha Augustinô lại chấp nhận một cuộc đối chất công khai với ông Félix, lãnh tụ của tà phái Manichéen. Cuộc đối chất có ảnh hưởng quan trọng và tốt đẹp cho giới công giáo; suốt hai ngày liền, trong thánh đường chánh tòa Hippone. Tham dự có rất đông giáo dân, chật trong chật ngoài. Đức cha sẵn có tài diễn thuyết, lại là người rất lợi khẩu, nên nổi bật lên.

Thính giả hồi hộp nghe đôi bên lời qua tiếng lại, thật là hào hứng. Đức cha nêu lên những tài liệu chính xác, vững như đồng. Félix lung lạc. Cuối cùng, Félix xuống khỏi tòa giảng, tiến đến trước mặt Đức cha, ôm hôn ngài. Tạ ơn Chúa! Félix ăn năn thật lòng, xin trở lại đạo công giáo.

Tháng 11-409, Alarie liên minh với bọn Vandales, chiếm Rôma lần thứ hai, gây áp lực, buộc thượng viện bầu Atale thuộc tà giáo Arianisme làm hoàng đế. Atale bị viên tướng tài của hoàng đế Honorius đánh bại tháng 8-410. Alarie tiến quân vào Rôma lần thứ ba để trả thù. Trong ba ngày liền, bọn quân man rợ cướp bóc, chém giết, hãm hiếp, đốt phá. Rôma sống trong tang tóc. Augustinô đau buồn khôn xiết, kêu lên :

- Định mệnh con người không phải là xuôi tay để than khóc, song phải xây dựng cho ngày mai. Cho dù cả thế giới có bị tiêu diệt chăng nữa, người công giáo cũng đừng sợ gì nữa cả!.

Nay Đức cha vừa trọn 56 tuổi, người già đi vì thức khuya dậy sớm, công vụ nhọc nhằn, hai gò má nhăn nheo nhưng đôi mắt vẫn sáng quắc do ngọn lửa đức tin chiếu rọi. Ngài nói : Rôma bị phá hủy thật ư? Rôma chính thật vẫn sống động trong tâm hồn của con dân Rôma, mà linh hồn là bất diệt. Rôma không mất nếu con dân Rôma còn có đức tin.

Bị quân man rợ chiếm đóng, phá phách tột độ xã hội Rôma bị phân hóa băng hoại. Người ngoại giáo hô hoán lên rằng :

- Các thần của ta bỏ rơi ta rồi. Ấy cũng chỉ vì bọn Công giáo không chịu thờ cúng các thần, chúng ta phải trả thù bọn Công giáo!.

Nói là làm ngay. Bọn ngoại giáo lại mặc sức chém giết, đốt phá nhà cửa của người Công giáo khắp Carthage; tiếng kêu khóc vang dội tới trời xanh. Hoàng đế Honorius muốn cho dân chúng Phi châu chung sống hòa bình nên yêu cầu các giám mục Công giáo với phái Donatistes phải họp nhau, thảo luận dưới quyền chủ tọa của ông Marcellin, sứ giả toàn quyền của hoàng triều.

Ngày 8-6-411, Đức cha Augustinô biện minh cho giáo hội Công giáo một cách tài tình nên sứ giả Marcellin buộc tội phái Donatistes, bắt phải hoàn trả các thánh đường cho người Công giáo. Nhưng sau đó, Carthage cũng không hưởng được hòa bình vì thủ hiến Héraclien phản loạn. Ông ta nói :

- Thời bây giờ nhiều người xưng vương xưng đế, tội gì mà ta không làm như thế?.

Ông ta liền hạ lệnh phong tỏa thương cảng; cấm chở thực phẩm các loại sang Ý-đại-lợi. Tháng 6-413, Héraclien cho quân đổ bộ định tiến chiếm Rôma, song bọn phản bội bị tiêu diệt, Héraclien trốn về Carthage thì bị tướng Marin (của triều đình) bắt được và trảm quyết liền.

Hoàng đế hạ lệnh sát phạt những tên đã đồng lõa với Héraclien, cho chúng trở thành tôi mọi, bị tù đày tất cả. Bọn Donatistes liền kiếm cách trả thù Marcellin, vị sứ giả tài ba lỗi lạc của triều đình, bằng cách vu oan nhiều điều đến nỗi hoàng thượng ra lệnh bắt Marcellin giam vào ngục thất rồi tuyên án tử hình. Đức cha Augustinô đoán không sai, vội vã sang Carthage, vào ngục thăm người bạn tù (Marcellin), điều tra, rồi xác nhận Marcellin bị tư thù và bị xử oan. Đức cha than lên :

- Ôi! ngục tù tối tăm, song lương tâm kẻ bất lương còn tối tăm hơn thế nhiều lắm!.

Đức cha vội vàng đi yết kiến thượng tướng Marin để can thiệp cho Marcellin. Ngài nói:

- Tôi thường kêu gọi lòng nhân từ quảng đại đối với kẻ phản loạn thật đấy, song hôm nay tôi đến để can thiệp cho một người vô tội bị hàm oan vì tư thù. Nếu ngài vẫn trảm quyết người vô tội, thì quả thật, ngài phạm một tội ác tày trời mà rồi chính ngài sẽ lãnh lấy hậu quả. Phải chăng đây là lời tiên tri của một thánh nhân?

Dù vậy, tướng Marin vẫn cho chặt đầu sứ giả Marcellin. Lòng Đức cha vừa đau khổ vừa lấy làm nhục nhã trước luật pháp tối tăm, bất công. Ngài từ giã Carthage, nơi đã xảy ra một tội ác chán chường. Quả nhiên, về sau, vì hối mại quyền thế, Marin bị tố, bị bắt rồi bỏ thây nơi chốn lưu đày. Liên tiếp bao nhiêu năm trời, Đức cha Augustinô phải đương đầu chống với các bọn tà giáo Manichéisme, Donatisme, Arianisme, Pélagianisme. Tà giáo Donatisme nói rằng những bí tích do các giáo chức bất xứng ban cho người ta đều không có giá trị.

Tà giáo Arianisme thì nói rằng trong ba ngôi Thiên Chúa, ngôi Con không đồng bản tính với ngôi Cha, cũng như không được vô cùng vô tận như ngôi Cha. Đức Kitô, về bản tính Thiên Chúa thì kém hơn, và lệ thuộc với ngôi Cha. (Phái tà giáo này bị Công đồng Nicée (325) và Công đồng Constantinople (381) lên án).

Tà giáo Pélagianisme thì chủ trương là ơn thánh đều do con người biết làm điều thiện chứ không cần phải do Chúa ban. Đức Giáo Hoàng Innôcentiô (401-417) lên án Pélage - người đã đưa ra tà thuyết này. Trong cuộc tranh chấp với Pélage, Đức cha Augustinô đại thắng và người ta tặng ngài danh hiệu tiến sĩ về ơn thánh sủng (Docteur de la Grâce).

Trong suốt thời kỳ này, Đức cha Augustinô phải chứng kiến nhiều tranh chấp về tôn giáo như đã trình bày sơ lược trên đây; còn về chính trị thì có những tranh chấp về lãnh thổ giữa hoàng triều với các lãnh chúa địa phương.

 Tại Marseille, tướng Boniface - tài kiêm văn võ - đã anh dũng bảo vệ an ninh chống bọn Goths. Hoàng đế cử tướng Boniface làm toàn quyền Bắc Phi. Đức cha Augustinô cảm mến đức độ và tài thao lược của vị tướng tài này. Chẳng được bao lâu, phu nhân qua đời, tướng Boniface buồn rầu, chán nản, đến thăm Đức cha rồi nói :

- Tôi định từ giã thế gian để làm một tu sĩ cho yên thân. Ở đời chẳng có gì bền vững. Đi tu, lo việc rỗi linh hồn là tốt hơn hết.

Đức cha nói :

- Thưa tướng quân, trước hết, tôi xin cảm ơn ngài về tình thân hữu cũng như sự tín nhiệm của ngài đã dành cho tôi. Ngài đến tâm sự với tôi, cho tôi biết dự tính quan trọng về tương lai của ngài. Thật là đẹp đẽ! Nhưng, tướng quân ơi! xin tướng quân biết cho rằng hiện giờ, nước nhà cũng như Giáo hội, Chúa đang cần tướng quân để bảo vệ cả thế quyền lẫn thần quyền.

Địa vị của tướng quân là thờ phượng Chúa, phụng sự Chúa với binh mã. Nhiều trường hợp buộc ta phải giao tranh để được hòa bình, và rồi cũng phải có binh mã để bảo vệ hòa bình. Hòa bình cũng giống như một kho tàng quý báu mà ta phải gìn giữ và bảo vệ. Gặp lúc tình hình nguy hiểm mà phải sử dụng kiếm cung để phụng sự công lý, thì đó là một nhiệm vụ cao cả, không thể bỏ đi được. Nói rộng ra, nếu nhân loại biết tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, thì không bao giờ có chiến tranh, thế giới hòa đồng sống an hòa trong cái thế quân bình. Một khi đã mất thế quân bình thì phải tái lập thế quân bình. Xét cho cùng, nếu bất đắc dĩ phải lâm chiến thì người ta phải có lý tưởng vì hòa bình, mến hòa bình, cho hòa bình, đồng thời cầu xin Thiên Chúa cứu ta ra khỏi cái gọi là nhu cầu chiến tranh.

 

Thành lập tu viện Augustinô

Ngày 19-7-418, xảy ra nhật thực, lại có động đất, nên thiên hạ xôn xao khiếp đảm, tưởng là tận thế đến nơi rồi. Nhưng, vững tin vào Chúa quan phòng Đức cha Augustinô đi khắp giáo phận giảng dạy, điều hành mọi việc của giáo phận. Công việc đa đoan nặng nhọc như thế mà ngài còn lập được nhiều tu viện. Ngài là tổ phụ của đời sống dòng tu. Khi vừa đến Hippone, ngài đã viết ra bộ luật của dòng Augustinô mà sau này, có nhiều dòng cũng áp dụng bộ luật ấy. Căn bản của bộ luật là đề cao luật yêu Chúa và yêu tha nhân, hoàn toàn sống khó nghèo, vâng lời chóng vánh và vui vẻ.

Trong dòng đối với nhau, anh em tu sĩ phải có tinh thần sống chung trong nhà Chúa, chỉ có một linh hồn và một quả tim kết hợp với Chúa. Kẻ được chọn làm bề trên thì phải kể rằng mình được hạnh phúc, không phải là vì nắm quyền hành trong tay, song là vì được phục vụ anh em mình do lòng bác ái. Trước mặt anh em, người ấy được xem là người đầu đàn, nhưng trước mặt Thiên Chúa, người ấy phải sợ sệt đến nỗi phải quỳ xuống, tự xem là kẻ rốt hèn.

Đức cha ước muốn rằng hàng giáo phẩm cần nêu gương đời sống tu hành; chính ngài cũng chung sống với các linh mục của ngài - nội quy của cộng đoàn là bác ái. Trên vách tường nhà cơm, có treo tấm bảng ghi rằng : Người nào thích nói xấu anh em mình thì không xứng đáng ngồi vào bàn ăn. Tất cả của cải đều là của chung. Ai có báu vật gì thì bán lấy tiền để giúp kẻ nghèo khó. Chính ngài cũng ăn mặc tầm thường, khó nghèo như một linh mục ở một giáo xứ nghèo nàn chốn thôn quê hẻo lánh. Ngài nói : Xin anh em đừng để người ta phê bình rằng trong giáo hội, tôi được ăn mặc sang trọng hơn là khi tôi còn ở trong nhà của song thân tôi. Lương thực hàng ngày chẳng có gì là cao lương mỹ vị. Thịt thì dành cho các anh em đau ốm và cho khách qua đường. Ngài còn tiếc rằng vì mục vụ nặng nề, phải di chuyển thường xuyên; lại còn phải viết sách, nên không còn thì giờ để lao động chân tay. Ngài muốn các tu sĩ phải phối hợp công tác lao động với kinh sách nguyện gẫm. Ngài nói :

- Không lao động thì không được ăn bám vào anh em. Con chim biết bươi móc đất đai để có lương thực, chỉ con chim nào bị giam trong lồng mới cần người ta cho ăn.

Ngài cũng muốn rằng cộng đoàn dân Chúa cũng có quyền được biết cách ăn xài tiêu pha của linh mục hay Giám mục của mình. Thảng hoặc trong quỹ, không còn tiền của gì nữa thì cứ việc bán những đồ thờ quý giá để lấy tiền giúp kẻ khó hoặc để chuộc các tù nhân.

 

Những năm cuối đời

Bản tính của Đức cha Augustinô là thèm muốn được sống đời ẩn tu song đâu đâu cũng kêu cầu mời gọi ngài; họ gọi ngài là khách lữ hành của trời. Năm 418, ngài đi Césarée (phía tây Algérie) để diễn thuyết, chống với tên thủ lãnh phái Donatisme là ông Emérite. Ngài phải vừa giảng vừa đối chất đả phá trong hai ngày liền. Dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Bọn rối đạo này đuối lý, tức giận, xúi dân chúng làm náo loạn. Tuy vậy, ngày 20-9-418, ngài vẫn làm phép nhà thờ Alger.

 Tại Ý-đại-lợi, loạn lạc nổi lên khi hoàng đế Honorius băng hà. Toàn quyền Boniface bị cáo gian cho nên hoàng hậu, bấy giờ làm phụ chánh (régente) thay cho ấu chúa Valentinien III, định kéo quân sang Bắc Phi trị tội. Boniface tức giận trước thái độ phi ơn bội nghĩa của hoàng triều, nên quyết tâm cầu viện bọn Vandales. Bọn thổ phỉ kiêu binh này từ Tây-ban-nha, vượt eo biển Gibraltar đổ bộ lên, chém giết nhiều giám mục, linh mục. Dân chúng phải chạy lên núi rừng để lánh nạn.

Cái điên rồ của Boniface làm cho Phi châu phải trải qua một thời kỳ ly loạn và thiệt hại không kể xiết. Hơn 80.000 tên kiêu binh tha hồ chém giết, đốt phá nhà cửa mùa màng, hãm hiếp đàn bà con gái, bắt thường dân hầu hạ tạp dịch. Boniface đã cõng rắn cắn gà nhà, rước voi dày mả tổ.

Thời gian này, Đức cha Augustinô đã 72 tuổi. Tuy tay chân không còn sức hoạt động nữa, song tâm hồn ngài vững chãi, không nao núng trước giông tố bão táp. Người ta sánh ngài như chiếc hải đăng trong đêm tối, mặc cho sóng gió cuồn cuộn nổi lên, vẫn soi lối cho tàu bè đi lại, khỏi đâm đầu vào ghềnh đá. Ngài chọn linh mục Héraclius giúp ngài để viết cho xong những pho sách chống với các phái đạo rối. Đêm đêm, với ngọn đèn dầu, ngài làm việc đến khuya mới đi ngủ. Người ta tính ra, ngài đã viết xong 232 cuốn sách.

Ngài viết thơ cho Boniface, đại ý : ... Tướng quân phải nghĩ đến việc tướng quân sẽ phải đối diện với Thiên Chúa để phúc trình. Tướng quân phải hướng về Đức Kitô là Đấng đã làm bao nhiêu điều lành cho mọi hạng người, song Ngài đã phải lãnh bao nhiêu đau khổ đến nỗi phải lãnh án tử hình trên Thập giá. Nếu tướng quân đã được hưởng bao nhiêu phúc lộc của triều đình thì tướng quân đừng làm điều phản phúc dĩ oán báo ân. Dù rằng, thảng hoặc triều đình vì hiểu lầm mà hại tướng quân, tướng quân cũng không nên dĩ oán báo oán...

Thơ này, Đức cha phái một linh mục, liều sống liều chết, xông pha qua rừng cung kiếm hiểm nguy, mang đến cho tướng Boniface ở Carthage, song, Boniface đã lỡ đường, đi quá xa rồi.

Trong khi ấy, tại Rôma, Alype (bạn tâm giao của Augustinô) dẫn một phái đoàn đi Ravenne và được hoàng thái hậu (Reine mère) Placidie tiếp kiến. Alype tâu :

- Muôn tâu thánh thượng! Boniface bị hàm oan, bị hiểu lầm, nên mới ra nông nỗi này. Thánh thượng vẫn còn đủ thì giờ để cứu vãn tình thế. Xin thánh thượng đừng nghĩ đến việc hạch tội Boniface; song, hợp lực với Boniface để bình định và tái thiết Phi châu. Thời gian hẵng còn, xin thánh thượng chuẩn tấu!.

Hoàng thái hậu bằng lòng, triệu hồi tướng Sigisvult, đồng thời phái đặc sứ toàn quyền Darius sang Phi châu. Darius đến Carthage, thương nghị với Boniface.

Hay tin ấy, Đức cha Augustinô viết thư cho đặc sứ Darius, đại ý nói :

- ...Ngài được phái sang Phi châu để ngăn chận những cuộc chém giết đẫm máu. Xin Thiên Chúa đoái thương xác nhận thánh ý của ngài qua tài năng của vị sứ giả lỗi lạc của hoàng triều Rôma...”

Đặc sứ Darius ký hưu chiến với Genséric, lãnh tụ của quân Vandales. Song lòng tham thường che mắt con người và bao phủ lương tâm con người. Bọn thổ phỉ Vandales, đã đạp chân lên và đóng quân trên lãnh thổ béo bổ Phi châu rồi, một món mồi ngon lành, thì bọn thổ phỉ - đâu là quân lương thiện, biết trọng danh dự - đời nào chịu rút quân đi. Vậy, hưu chiến chỉ trên giấy mực, còn thực tế chúng vẫn chiếm lãnh thổ, ngoại trừ Carthage, Hippone và Cirto. Chúng vẫn gây tang tóc trong dân chúng như chúng đã thường hành động tại các nơi chúng có mặt.

Thấy quân thổ phỉ kiêu binh trắng trợn vi phạm hiệp định hưu chiến, Boniface liền quy tụ quân lực dưới trướng của mình, hùng hổ giao tranh với bọn bội ước. Nhưng, luật đời, mạnh quân chứ không mạnh chi tướng. Đến xế chiều, thấy đạo quân của mình bị chết gần hết, Boniface phải sang Hippone lánh nạn, rồi yết kiến Đức giám mục.

Đức cha Augustinô giang rộng tay, đón Boniface vào lòng rồi nói :

- Con ơi! Cha đợi con từ lâu rồi!.

Boniface lập tức chỉnh đốn lực lượng, sửa sang thành quách, khích lệ ba quân, anh dũng đẩy lui mọi cuộc tấn công của địch. Khi gặp được riêng Đức cha, Boniface tỏ lòng ăn năn hối hận, khóc lóc thảm thiết. Đức cha nói :

- Đấy, con thấy chưa? Do một phút điên rồ của con, mà đã gây ra cho chúng ta phải thiệt hại bao nhiêu sinh mạng và tài sản, tang tóc, than khóc mọi nơi.

Boniface thưa :

- Lạy Đức cha, con làm sao đền bồi được lỗi lầm của con?.

Đức cha an ủi :

- Tất cả chúng sinh đều sai lầm tội lỗi, nhưng chúng sinh vẫn được thứ tha vì Thiên Chúa lòng lành vô cùng.

Mặt trận Hippone kéo dài đến năm 431. Hoàng thái hậu gọi đạo quân Đông phương đến tiếp viện; chẳng bao lâu Genséric phải đầu hàng vô điều kiện, phải ra khỏi Phi châu không còn sót lại một tên lính nào.

Hai năm sau, tại Ý-đại-lợi, tướng Aétius mưu phản. Hoàng thái hậu Placidie triệu Boniface về Ravenne, phong làm thượng tướng, thống lãnh ba quân, dẹp bọn phản loạn. Phen này, Boniface quyết đái công chuộc tội, điều binh khiển tướng một cách tài tình, đánh bại quân phản tặc, đem lại an bình cho xứ sở.

Trở lại phần Đức cha Augustinô. Suốt thời gian Hippone lâm cảnh khói lửa, ngài được 76 tuổi rồi mà vẫn còn viết sách đả phá tà thuyết của Pélage. Công tác dự tính sắp hoàn thành thì ngài bị sốt, kiệt sức, phải liệt giường. Mặc dù quanh ngài, ai cũng biết ngài đang mệt, biết ngài chỉ muốn được yên tĩnh, để đối diện với Thiên Chúa. Song, có một người dẫn đứa con tàn tật đến thưa :

- Thưa Đức cha! Xin ngài chữa lành cho đứa con của con đây!.

Đức cha dịu dàng nói :

- Nếu cha có quyền chữa lành bệnh thì trước tiên, cha tự chữa bệnh cho cha đã.

Người ấy khẩn khoản thưa :

- Lạy Đức cha, con nằm mộng, nghe một tiếng nói bảo rằng : Đem con mày đến gặp Đức cha Augustinô, xin ngài đặt tay trên đầu nó, nó sẽ khỏi tật nguyền ngay!.

Cảm động, Đức cha đặt tay lên trán của thằng bé tàn tật, và thằng bé được lành ngay. Ngày 28-8-430, tất cả giáo dân trong địa phận Hippone họp nhau trong các thánh đường để cầu nguyện cho ngài; trên mọi khuôn mặt, đều tỏ ra một niềm thương tiếc vô biên.

Cái chết của Đức cha Augustinô, người soi đường chỉ lối cho bao nhiêu tâm hồn, người bênh vực kẻ hèn yếu, ngài là một thiên sứ đấu tranh bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo hội. Giáo dân khấn xin : Xin Chúa chữa chúng con khỏi mọi sự dữ. Đức cha, một mình thầm thĩ đọc kinh sám hối, khóc lóc tội mình đã phạm suốt đời, vững tin vào lòng từ bi vô lượng vô biên của Thiên Chúa.

Nhiệm vụ của ngài trên trần thế đã hoàn tất. Trước sự hiện diện của các bạn thân tình như Alype, ngài từ giã mọi người, ngài từ giã tất cả để về hưởng hạnh phúc trên Thiên quốc; gặp lại mẹ dấu yêu, gặp lại đứa con mà, thuở thanh niên trẻ trung ngài đã tạo ra phần xác, và sinh lại trong đức tin Công giáo.

Trí khôn ngài vẫn sáng suốt, trối lại cho một linh mục tín cẩn tất cả tài sản của giáo phận để bố thí cho người nghèo khó, trối lại tất cả những phẩm phục dùng vào việc phụng thờ Thiên Chúa. Ngài không cần lập di chúc vì ngài không có gì gọi là của riêng. Ngài không có một đồng xu dính túi.

Trong hai thế kỷ IV và V, Giáo hội Công giáo có 8 vị thánh tổ phụ : bốn vị ở đông phương, thuộc nền văn minh cổ Hy-lạp là : Athanase, Basile, Grégoire de Nazianze và Jean Chrysostôme (gọi là Gioan kim khẩu); bốn vị ở tây phương, thuộc nền văn minh La-tinh là : Ambroise, Augustinô, Jérôme, và Grégoire le Grand.

Đức cha Augustinô có trí thông minh xuất chúng, trí nhớ sắc bén, thần đồng về học thức, có lợi khẩu, ăn nói lưu loát, hùng biện tài tình; ngài có khả năng viết thơ tín, viết nhiều pho sách về triết học, thần học lưu lại cho hậu thế.

Ngài là một chủ chăn lỗi lạc thời bấy giờ, ngài là một tiến sĩ của Hội thánh. Từ khi ngài gặp được Thiên Chúa là đấng Khôn ngoan và Chân lý duy nhất, tuyệt đối, thì đức tin của ngài vững như đồng trụ, không gì lung lạc được nữa và cũng không hề khô cạn, ngài tin vào sự toàn thắng của Đức Kitô.

Suốt đời, ngài đã thực thi những điều ngài dạy cho con chiên : Sống khó nghèo, yêu tha nhân, ăn ở khiêm nhượng. Ngài thường nói : Chính vì kiêu ngạo mà Luxiphe hóa thành quỷ dữ; vì kiêu ngạo mà Adam mất phúc lộc. Nếu anh chị em hỏi tôi đường lối của Thiên Chúa là gì thì tôi sẽ đáp : đường lối thứ nhất là khiêm nhượng, đường lối thứ hai là khiêm nhượng, đường lối thứ ba là khiêm nhượng, khiêm nhượng và khiêm nhượng.

 Nhắc đến Giáo hội Phi châu thời xa xưa, ta phải ngậm ngùi đau lòng thương tiếc vì là một Giáo hội rất phồn thịnh với 600 tòa giám mục. Song than ôi! Ngày nay không còn được bao lăm nữa. Vài năm sau ngày Đức cha Augustinô qua đời. Quân Vandales lại tràn sang xâm chiếm phá hoại cả miền Bắc Phi.

Năm 695, cả vùng Carthage bị quân Ả-rập chiếm cứ, truyền bá Hồi giáo, triệt hạ các thánh đường và các cơ sở Công giáo, làm cỏ giáo dân; chúng vượt Địa-trung-hải đổ bộ lên Tây-ban-nha, vượt dãy núi Pyrénées tiến đến Poitiers. Tuy cả miền Maghreb, ngày nay số giáo dân không còn bao nhiêu nữa, song vẫn được người Algériens trọng nể; họ xác nhận Đức cha Augustinô là bậc tiền nhân khả kính khả ái. Các đường phố có mang tên Augustinô đều không bị thay thế bằng một tên nào khác.

Đức cha Augustinô sống trong thời kỳ Giáo hội gặp phải nhiều phái tà giáo nổi lên, gây khủng hoảng. Ngài là Thiên sứ đấu tranh cho sự hiệp nhất của Hội thánh. Ngót hai ngàn năm, có nhiều thời kỳ, con thuyền Hội thánh tròng trành, song trong thuyền có Thần linh Chúa Giêsu soi sáng hướng dẫn, vì Chúa Giêsu đã phán : Thầy ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. (Matthêo đoạn 28 câu 20). Bởi vậy, người Công giáo long trọng tuyên xưng : “Tôi tin có Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền...!”.

Gioan Baotixita Hồ Đắc Hóa.

Bài viết khác