Thứ Ba, 28 Tháng Mười, 2025

Một Giáo lý viên người Hmong giữa lòng dân tộc : Paul Thoj Xyooj

Một Giáo lý viên người Hmong giữa lòng dân tộc : Paul Thoj Xyooj

(1941 – 1960)

Bản Phỏng dịch bằng Việt Ngữ

Bản Gốc Pháp Ngữ ở phần dười

“Tiam sis nws hais rau kuv tias : Kuv lub txiaj txaus koj lawm, lub hwj huam nres nroos tus muag luav... 

Ua kuv txaus siab rau kev muag luav, raug tsawm, raug quab yuam,  

raug tsim txom thiab txais kev txhawj xeeb vim Leej Pleev ;  

yog kuv muag luav txawm cuab kub zog loj thaum ntawd.” 

« Le Seigneur m’a déclaré : “Ma grâce te suffit : car la puissance se déploie dans la faiblesse.”  

C’est pourquoi je me complais dans les faiblesses, dans les outrages, dans les détresses,  
dans les persécutions et les angoisses endurées pour le Christ ;  

car, lorsque je suis faible, c’est alors que je suis fort. »  2e épître de S. Paul aux Corinthiens, 12, 9-10 

« Par amour pour le Seigneur, il a consacré toutes ses forces au service de l’Eglise,   assistant les prêtres dans leur mission.  Il persévéra jusqu'au don du sang, pour demeurer fidèle   à l'amour de Celui à qui il s’était donné totalement. » 

Bienheureux Jean-Paul II, homélie pour la béatification d’André de Phú Yên,   catéchiste de 19 ans, protomartyr du Viêt-nam (5 mars 2000).

Vì lòng yêu mến Thiên Chúa, ông đã hiến toàn bộ sức lực để phục vụ Giáo Hội, trợ giúp các linh mục trong sứ mệnh của họ. Ông kiên trì cho đến khi đổ máu, để tồn tại trung thành với tình yêu dành cho Đấng mà ông hoàn toàn tận hiến. 

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bài giảng phong chân phước cho người truyền giáo 19 tuổi Anrê Phú Yên, ngườI tử đạo đầu tiên của Việt Nam (ngày 5 tháng 3 năm 2000).

I - Sự chuẩn bị và những thành công đầu tiên của "Hoàng tử nhỏ của người Hmông"

Công tác truyền giáo của Giáo hội Công giáo tại Lào từ cuối thế kỷ 19 đến quý thứ 3 của thế kỷ 20 vẫn chưa có một công trình lịch sử chính thức hoàn chỉnh1. Ngày nay, Giáo hội Công giáo tại địa phương muốn khôi phục lại ký ức về quá khứ và đặc biệt là về những nhân chứng đã hiến dâng mạng sống mình cho sứ mạng truyền giáo. Trong số những nhân chứng đó, một địa vị đặc biệt được dành cho một giáo lý viên người Hmông trẻ tuổi đã chết tử đạo ở tuổi 19, Thoj Xyooj2._

Cuộc đời của chàng trai trẻ Paul Thoj Xyooj là một tấm gương sáng ngời dưới nhiều khía cạnh: một hành trình của một giáo lý viên đáng chú ý song cũng rất ngắn ngủi, và cái chết anh hùng của anh - sẽ được nói đến trong bài viết tới - đã đưa cuộc đời anh lên tầm cao cả tột đỉnh. Nhiều lời chứng đã lần lượt làm sáng tỏ nhân vật biểu tượng này của công cuộc truyền giáo tại Lào. Những nghiên cứu trong các kho lưu trữ đã giúp đặt cuộc đời của anh, với ánh sáng và bóng tối, trong một bối cảnh lịch sử vững chắc.

Cuộc đời đã kết tinh thành một cuốn tiểu sử kết hợp một cách hấp dẫn cái nhìn của người Âu về Xyooj và cái nhìn của đồng bào anh.

* * *

Thoj Xyooj (hay Thao Shiong3) sinh năm 1941 tại Kiukatiam, tỉnh Luang Prabang. Kiukatiam là một ngôi làng của người Hmông, được gọi bằng tiếng Hmông là Roob Nyuj Qus, nghĩa là "Núi của Gaurs". Ngôi làng nằm ở độ cao 1.000m, trên đỉnh một ngọn núi hơi phía nam đường số 13, về phía tây bắc của núi Phou Khoun, hướng về Luang Prabang, thủ đô vương quốc Lào, cách đó 80km4. Công tác truyền giáo đầu tiên đã được thực hiện tại đây bởi Cha Yves Bertrais, dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm, người đã sống tại đây từ 1950 đến 19585. 

Những năm thơ ấu và thiếu niên

Xyooj trẻ thuộc thế hệ đầu tiên của người dân làng đón nhận đức tin Kitô giáo. Anh mất cha, người là trưởng làng, trước khi lên chín tuổi. Năm 1950, khi Cha Bertrais lần đầu tiên đến với người Hmông ở Kiukatiam, chính mẹ anh đã đón tiếp và chuẩn bị bữa ăn đầu tiên cho ngài6. Xyooj sớm trở thành một giáo hữu tân tòng nhiệt thành, thông minh và tỉnh táo. Anh ngày càng gắn bó với cơ sở truyền giáo và nhà truyền giáo. Một người cháu trai của anh giải thích: 

"Cha tôi nói rằng, từ ngày nhà truyền giáo đến làng, em trai nhỏ Xyooj của cha đã say mê Phúc Âm. Anh ấy rất yêu mến tôn giáo, và vì thế anh ấy đi khắp nơi với cha xứ, để rao giảng và giảng dạy tôn giáo từ làng này sang làng khác, bất cứ nơi nào Cha đến7." 

Khi 16 tuổi, Xyooj đã chia sẻ với Cha Bertrais nguyện vọng trở thành linh mục của mình8. Nhận thấy anh có năng khiếu, nên người ta quyết định gửi anh đi học tập tại Tiểu chủng viện Paksane. Năm trước đó, Phụng vụ đã mở một khóa học mới tại đây, nhằm đào tạo các giáo lý viên tương lai. Xyooj sẽ là học sinh tại đây; còn việc trở thành linh mục thì sẽ cân nhắc sau. Mẹ anh phản đối: bà không muốn nghe nói đến điều mới mẻ này; cuối cùng, một trong hai anh trai lớn của Xyooj, người mà họ đang sống cùng, đã đưa ra quyết định này. 

Vẫn còn một vấn đề: ứng viên chủng sinh này mới chỉ là người tân tòng, và việc rửa tội chỉ được lên kế hoạch cho năm tới. Nhưng điều đó không phải vấn đề: Xyooj đã được Cha Bertrais rửa tội ngay vào Chủ nhật 8 tháng 12 năm 1957. Nhân dịp này, anh nhận được tên thánh Phao-lô, một cái tên mà sau này anh sẽ mang một cách danh dự9. 

Ngày 11 tháng 12, một đoàn thực sự đã lên đường đi Paksane, qua Viêng Chăn, dưới sự hướng dẫn của các Nhà truyền giáo Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đến đón một đội gồm bốn cô gái Hmông sẽ theo học tại đó; hai cậu bé dự tòng cũng đi cùng, trong đó có Xyooj. Không phải không có nỗi buồn khi những thanh niên Hmông này rời khỏi vùng đồng bằng sông Mê Kông, xa dân tộc và núi non của mình10. 

Tại Paksane, một trong những người bạn học cùng lớp với Xyooj là Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, tương lai Giám mục của Paksé, khi đó mới chỉ 11 tuổi nhưng vẫn nhớ rõ người bạn lớn tuổi hơn này, người nói một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ của mình (tiếng Kmhmu'). Tại trường, Xyooj được biết đến với cái tên Lào là "Khamsè". Anh để lại ấn tượng của một thiếu niên sống động, năng động và thân thiện. Tuy nhiên, anh có một vấn đề sức khỏe: một vết loét ở chân, hậu quả của một tai nạn trong thời thơ ấu, không chịu lành và khiến anh bị tàn tật đáng kể11. Đức cha Ling làm chứng: "Trong giờ học và giờ làm việc thủ công, anh ấy luôn ở với chúng tôi, nhưng mỗi khi có hoạt động thể thao, anh phải ngồi và chỉ nhìn chúng tôi. Đối với một chàng trai trẻ tuổi như anh ấy, đó là một thử thách12." Sau này, mẹ anh đã thành công trong việc chữa lành vết thương bằng y học cổ truyền13. 

Xyooj không hoàn tất khóa đào tạo của mình tại Paksane14. Sau một năm, anh đã trở lại Kiukatiam. Tuy nhiên, anh vẫn gắn bó với ơn gọi làm giáo lý viên và sẽ tiếp tục chuẩn bị dưới sự hướng dẫn của các nhà truyền giáo, dần dần bắt tay vào công việc. 

Tại trường làng, anh dạy trẻ em tiếng Lào và tiếng Hmong; với tư cách là một giáo lý viên mới, anh đã được rất đánh giá cao ngay từ đầu. Những nhân chứng trong thời kỳ này miêu tả Xyooj là một chàng trai rất hiền lành, luôn mỉm cười và sẵn sàng giúp đỡ, tràn đầy lòng trắc ẩn với những người gặp khó khăn. Một học sinh của anh nói: "Anh ấy yêu Chúa và công việc vì Chúa. Anh ấy không kiêu ngạo, mà rất khiêm tốn15." 

Một giáo lý viên trẻ được cử đi truyền giáo

Cũng trong năm 1958, phận vụ truyền giáo tại khu vực Luang Prabang (tây bắc Lào) đã được giao phó cho các Nhà truyền giáo Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm người Ý dưới sự lãnh đạo của Cha Leonello Berti16. Các nhà lãnh đạo đã quan tâm đến tỉnh Luang Namtha, giáp biên giới Miến Điện và Trung Quốc. Người Hmong ở ngôi làng lớn Na Vang17 sớm nghe nói về những người đồng bào của họ đã trở thành Kitô hữu; họ cũng muốn tìm hiểu về "những người 'Giê-su' này, những người cho thuốc để chữa bệnh cho người ốm."18 

Ngôi làng đó thuộc huyện Ban La Xeng (Npam Laj Xees theo tiếng Hmong), gần Vieng Poukha và Ban Takeo, cách thị trấn Nam Tha khoảng một ngày rưỡi đi bộ về phía tây nam19. Các nhà truyền giáo được cử đến đó là Alessandro Staccioli và Luigi Sion20, họ chỉ nói tiếng Lào mà người Hmong không hiểu; do đó, họ đã yêu cầu Kiukatiam cho mượn một giáo lý viên người Hmong. Xyooj có sẵn: theo khuyến nghị của Cha Berti, Cha Mario Borzaga21, lúc này phụ trách phận vụ này, đã quyết định cử anh đi22. Anh sẽ làm việc dưới sự chỉ đạo của Cha L. Sion, một nhà truyền giáo trẻ cũng mới vào nghề. 

Một vài ngày sau, anh đã bắt tay vào công việc. Trong nhật ký của Phận vụ Nam Tha, Cha Staccioli ghi lại: 

"Cha Sion... đã được nghe nói rằng mục sư đã đi thăm một số làng của người Hmong và họ dường như rất thiện chí; nên cha đã quyết định cũng đến đó. Mới hôm trước, một giáo lý viên người Hmong từ Kiukacham đã đến để cảm nhận thái độ của người Hmong trong vùng này. Vì vậy, hôm qua họ đã lên đường, Cha Sion, Xyooj (giáo lý viên người Hmong) và Khamphone."24 

Khi Xyooj đến Na Vang cùng với Cha Luigi Sion, dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm, và Khamphone, một giáo viên người Lào theo đạo Chúa tại Paksane, anh đã gây tiếng vang lớn. Đó là một buổi tối thứ Sáu, ngày 1 tháng 5 năm 195925. Theo hồi ức chính xác của một chàng trai trong làng sau này cũng trở thành giáo lý viên, lúc đó đang trong mùa làm rẫy, và các gia đình đang trở về từ đồng ruộng26. Xyooj mặc trang phục truyền thống của người Hmong với chiếc mũ đen có bồng đồng, cùng ba sợi dây chuyền bạc được thừa hưởng từ cha đỡ đầu mà anh rất tự hào. 

Chính Xyooj cũng thích kể lại sự kiện này, như lời một nhân chứng: 

"Người Hmông ở Nam Tha nói: 'Đây là Vua của người Hmông đến, với sợi dây chuyền to bằng cánh tay.' Họ gọi Cha là 'Chúa Giêsu'. Tôi đã trả lời họ: 'Tôi không phải là Vua của người Hmông, tôi chỉ là một cậu bé trẻ đến với Cha. Tôi không phải là một người lãnh đạo, tôi chỉ đến để hoàn thành một nhiệm vụ: rao giảng và dạy Tin Mừng của Thiên Chúa.'"27 

Người ta đã yêu cầu Xyooj giải thích rõ hơn. Xyooj nói với họ rằng Chúa Giêsu là Đấng chiến thắng mọi ma quỷ.   

Đây là lần đầu tiên những người Hmông này nghe nói có một người đàn ông tên Chúa Giêsu không sợ ma quỷ, thậm chí còn đuổi chúng đi. Họ nói với nhau: "Đây là lúc Thần mới sẽ đến."28 Họ cũng muốn biết trong các nghi lễ cưới hỏi, tang lễ, ngày lễ truyền thống, v.v., liệu họ có được phép ăn thịt hay không; bởi trước đó có những người Tin Lành đi qua và nói với họ rằng không được ăn thịt heo hay uống rượu. Xyooj đã trấn an họ về điều này. Sau đó, họ mời Xyooj và Cha ở lại làng và ban đầu đã nhận họ vào gia đình mình29. 

Việc Rao Giảng Đầu Tiên   

Ngày hôm sau 2/5, người dân tiếp tục đến xem và nghe những người lữ hành, bỏ quên công việc canh tác trong hai ngày liền. Họ luân phiên mời các vị khách về nhà dùng bữa theo tập tục đón tiếp của người Hmông. Không chần chừ, Xyooj bắt đầu dạy những kiến thức đầu tiên về giáo lý với tất cả nhiệt huyết và niềm tin. Những ngày đầu, việc dạy học diễn ra ngoài trời, sau đó trong nhà của trưởng làng, dưới ánh sáng của đèn dầu. Vì người nhỏ bé, Xyooj phải đứng trên một chiếc ghế của thầy pháp để mọi người có thể nhìn thấy. Anh sắp xếp trẻ em ngồi phía trước và người lớn ở phía sau. Nhiều nhân chứng nhắc lại những ngày ấy: 

"Những người phụ nữ lớn tuổi đến xem xét những đồ trang sức bạc trên cổ anh ấy, sờ mũ Hmông của anh, vuốt ve đôi bàn tay mịn màng; họ muốn cân những sợi dây chuyền bằng cân. Anh mỉm cười với họ và họ cũng cười...Khi anh cười, người ta có thể nhìn thấy hàm răng trắng muốt. Tất cả im lặng. Rồi Xyooj bắt đầu nói. Anh nói rằng anh đến để dạy sách vở. Anh đến để dạy ca hát cho thanh niên. Anh sẽ dạy Giáo lý Thiên Đàng. Anh đến để nói với họ hãy bỏ thờ phượng tà thần. Suốt ba ngày đêm liền, mọi người đã đến nghe Xyooj."30 

"Khi anh dạy kinh cầu nguyện, mọi người không hiểu lắm, vì đây là điều mới mẻ với họ; Xyooj, một người rất thông minh và khôn ngoan, lấy một miếng vỏ cây mềm và gấp nó lại thành từng khúc để giải thích từng phần của kinh nguyện, và giúp họ hiểu rằng nó bao gồm một số lời kinh. Anh có lối nói rất rõ ràng và dễ hiểu; anh rất kiên nhẫn trong việc dạy dỗ."31 

Tất cả mọi người nhanh chóng học được "Kinh Lạy Cha" và "Kinh Kính Mừng". Nhiều kinh nguyện khác được dạy theo sau; Kinh Tin Kính đã tạo cơ hội để kể về lịch sử cứu rỗi. H. đã ghi nhớ những chi tiết: 

"Xyooj nói về Thiên Chúa và công việc sáu ngày của Ngài để tạo dựng trời đất, và ngày thứ bảy để nghỉ ngơi, mà người Kitô hữu tuân giữ để tưởng nhớ Thiên Chúa. Anh nói về tội lỗi của cặp đôi đầu tiên, Adong và Evà. Anh kể về Môisen, người chăn chiên lớn lòng chăm sóc đàn chiên trong sa mạc, thị kiến của ông về một bụi gai cháy mà không tàn, và tiếng nói bảo ông: 'Hãy đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập'. Anh kể về Đức Trinh Nữ Maria, đã mang thai Hài Nhi Giêsu, và được về Thiên Đàng mà thân xác không hư nát như chúng ta, những kẻ phàm nhân."32 

Đúng vậy, đối với một dân tộc du mục như người Hmông, quen thuộc với cuộc sống lưu vong, câu chuyện về cuộc Xuất Hành thật sự có một sức mạnh phi thường. Với kinh nghiệm di cư liên tục, họ có thể dễ dàng đồng cảm với những gian khổ và thử thách mà dân Do Thái đã trải qua trong hành trình ra khỏi Ai Cập tìm về Đất Hứa. 

Tin Mừng Rơi Trên Đất Tốt

Ngay từ đầu, Xyooj đã được nhìn nhận là một chàng trai khác biệt, tràn đầy tình yêu dành cho mọi người. Anh có tài ăn nói lưu loát. Anh rất vui vẻ và cởi mở với tất cả mọi người không phân biệt. Tất cả đều yêu mến anh; tất cả, từ trẻ em đến người già, đều muốn nghe anh nói về tôn giáo Trên Trời, Tin Mừng về Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, Đấng chiến thắng mọi điều ác trên trần gian và chiến thắng ma quỷ. 

Xyooj cũng dạy các kinh nguyện và bài hát tôn giáo. Anh hát rất hay, với giọng hát truyền cảm khiến mọi người say mê. Anh hát với người già, với thanh niên, và điều đó làm ấm lòng tất cả người dân làng. Một nhân chứng kể lại: 

"Khi anh dạy hát, anh không chỉ hát bằng miệng mà còn bằng tay nữa. Như vậy, mọi người đều cùng hát một lúc. Đích thực là những gì tôi đã chứng kiến và đó là sự thật."33 

Như vậy, giáo lý viên trẻ đã gieo rắc Lời Chúa bằng nhiều cách, và tất cả mọi người đều tràn đầy nhiệt huyết. Nhân chứng, lúc đó còn là một cô gái trẻ, đã kể lại: 

"Điều tôi cảm nhận và nhìn thấy bằng đôi mắt của mình là Xyooj đã làm một công việc tuyệt vời, không ai từng làm được như anh ấy; điều đó đã sưởi ấm tận đáy lòng tôi. Trước đó, những người Tin Lành đã đến hai lần để truyền đạo, nhưng không làm tôi xúc động. Khi Xyooj đến, những gì xảy ra chỉ trong vòng hai ba ngày thật khó tả, trái tim chúng tôi đã bừng cháy và xao động biết bao. Chưa bao giờ chúng tôi nghe ai nói giống như anh ấy. Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng về, tôi lại nghĩ rằng tối đến sẽ được nghe anh dạy dỗ và điều đó thật sự làm ấm lòng tôi biết bao!"34 

Lời Chúa đã bắt đầu nảy mầm trong lòng người nghe. Họ hỏi: "Nếu con đuổi hết những thần linh trong đạo mộc của chúng con, thì chúng con sẽ làm sao? Sẽ không còn thần linh nào canh giữ nhà cửa chúng con nữa."  Xyooj trả lời: 

"Khi các bạn trở thành người tin, chúng tôi sẽ đuổi đi tất cả những thần linh mà các bạn tôn thờ; lúc đó sẽ có linh mục và giáo lý viên ở cùng các bạn. Thiên Chúa là Đấng cao cả nhất và lúc bấy giờ sẽ không còn ma quỷ để gây sợ hãi nữa. Khi các bạn đi qua những nơi hoang dã, gần ao hồ và bụi rậm, các bạn sẽ không còn sợ hãi ma quỷ."35 

Lời nói của Xyooj đã chạm đến cuộc sống và trái tim của thính giả một cách mạnh mẽ. Tất cả nhận ra rằng lời anh nói rất sáng suốt, không phải là lời dối trá. Một nhân chứng kết luận: 

"Nếu không có Xyooj, chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ trở thành Kitô hữu, bởi vì chúng tôi không hiểu được Cha. Ngài không thông thạo ngôn ngữ của chúng tôi nhưng vẫn chăm sóc và yêu thương chúng tôi. Tuy nhiên, Ngài không thể dạy như Xyooj."36 

Từ những Hạt Giống Rơi Xuống Đất, Một Cộng Đoàn Tín Hữu Ra Đời

Ngay từ ngày thứ ba, được xúc động bởi cả sứ giả lẫn sứ điệp, một nửa số gia đình trong làng, tức là 17 nhà, đã xin được nhập tịch để trở thành Kitô hữu37. 

Cũng trong ngày hôm đó, từ trưa đến tối, Xyooj đã đồng hành cùng Cha Sion đuổi các thần linh trong đạo mộc ra khỏi từng ngôi nhà của các người tân tòng, bắt đầu từ nhà của trưởng làng. Chính tay anh đã phá hủy các bàn thờ và miếu thờ dành cho các thần linh gia đình; anh không hề sợ hãi. Anh đã đốt cháy tất cả: khói bốc lên từ mọi ngôi nhà! Chưa bao giờ ai chứng kiến việc như thế: một người đàn ông dám làm một điều như vậy. 

Trong lịch Kitô giáo, ngày 3 tháng 5 là Chủ nhật thứ 5 sau Lễ Phục Sinh, ngay trước Lễ Ngũ Tuần và lễ Đức Chúa Lên Trời. Chủ nhật đó, Thánh lễ Chúa nhật lần đầu tiên được cử hành công khai trong một làng chưa có người Kitô hữu nào, nhưng nay đã có người tân tòng. Phụng vụ mở đầu với một đoạn văn rất thích hợp: 

"Hãy rao truyền cho thiên hạ, hãy loan báo nhứt mực rằng: Đức Chúa đã cứu chuộc tôi tớ của Người! Alleluia, alleluia!"38 

Và Phúc Âm trong ngày đó nhắc lại lời Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly:  

"Quả thật, quả thật, Thầy nói cùng các con, điều gì các con xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người sẽ ban cho các con; các con hãy xin đi, và các con sẽ được, để các con được vui mừng đầy tràn... bởi vì chính Chúa Cha yêu thương các con."39 

Tin tức lan nhanh ra các làng xung quanh, và người dân bắt đầu kéo đến nghe Xyooj giảng dạy. Dù phải đi bộ vài giờ đồng hồ hoặc cả một ngày đường, họ không ngần ngại để đến nghe Tin Mừng về Chúa Giêsu, và họ bắt đầu yêu mến Tin Mừng. Họ ngưỡng mộ công việc giảng dạy và sự tận tâm của Xyooj. Tất nhiên anh không thể làm tất cả, nhưng với lòng kiên nhẫn và thiện chí, anh đã thành công trong việc dạy dỗ tất cả mọi người. 

Số lượng người tân tòng ngày càng tăng lên, đem niềm vui lớn cho vị giáo lý viên: hai mươi mốt gia đình chỉ sau vài ngày, hai mươi lăm gia đình sau hai tuần, và sớm đạt con số ba mươi gia đình; đến cuối năm đã có tổng cộng bốn trăm người40. 

Tin tức này nhanh chóng lan truyền khắp vùng và vượt ra khỏi biên giới. Thực tế, từ ngày 5-6 tháng 5, Đức cha Loosdregt và Đức cha Giuseppe Caprio, người đang điều hành quyền Phái bộ Tông tòa41, đang thăm viếng Nam Tha và đã nghe trực tiếp thông tin từ Cha L. Sion, người vừa hấp tấp trở về từ vùng núi42. 

Ở Kiukatiam, Cha Borzaga cũng đã được cập nhật tình hình và vui mừng với lựa chọn của mình. Vào cuối tháng 5 năm 1959, ngài đã có một đánh giá ban đầu, được đăng trên bản tin của Hiệp Hội Bạn Hữu Lào tại Ý: 

"Người ta cho rằng tốt hơn hết là cử một chàng trai từ Kiukatiam đi làm giáo lý viên, để hỗ trợ các Cha (tại Nam Tha, Na Vang): Paul Xyooj, một người trẻ tuổi có trí thông minh tốt và nhiệt huyết còn lớn hơn nữa, đã rời ruộng vườn và gia đình để đến Nam Tha. Hành động của chàng trai can trường này nhanh chóng chứng tỏ hiệu quả... Vào tháng 5, Cha Sion và Xyooj đã khởi hành một chuyến đi rao giảng đã dấy lên nhiều niềm hy vọng."43 

Và vào tháng 8, ngài sẽ viết cho cùng những người nhận tin: 

"Na Vang... đã trở lại đạo Công giáo. Các Cha Staccioli và Sion đã chờ đợi sự đến của một chàng trai can trường từ Kiukatiam, Paul Xyooj, nhận thấy anh sẽ thích hợp hơn để tiếp cận và nói về tôn giáo Công giáo với người Hmông... Cho đến nay, mọi công việc (tại Nam Tha) đều được thực hiện bằng tiếng Lào. Với sự có mặt của Xyooj tại

Nam Tha, đó là một cuộc diễu hành của người Hmông; suốt nhiều ngày liền, họ đến Cơ sở Truyền giáo Công giáo để nghe từ một người Hmông chính gốc, người nói thứ tiếng của họ, về tôn giáo của Đấng Chúa Tể Trời."44 

Về phần Xyooj, khi ở lại một mình phụ trách từ ngày 5 tháng 5 trong hai tuần với người giáo viên người Lào mà vai trò chỉ còn là hỗ trợ, anh vẫn không sờn lòng. Cộng đồng tín hữu ngày càng lớn mạnh và vững chắc45... Họ sớm cần có một nơi riêng. H. nhận xét: 

"Khi hai mươi mốt gia đình trở thành Kitô hữu, (Xyooj) thực sự rất vui mừng, và anh bảo chúng tôi hãy tập trung lại với nhau để cảm tạ Trời đã cứu rỗi chúng ta. Anh thúc giục chúng tôi xây dựng một nhà thờ nhanh chóng, nơi mọi người có thể đến cầu nguyện và ca hát lòng tin, và một trường học nơi cả làng có thể đến học giáo lý, cũng như đọc và viết tiếng Hmông."46 

Trưởng làng đã đảm nhiệm việc xây dựng; bên cạnh ngôi nhà lớn dùng để giảng dạy, ông xây dựng một căn nhà nhỏ cho Cha ở. Xyooj cùng đi rừng với tất cả mọi người để chặt cây cần thiết và khiêng về làng để xây dựng47. 

Chân dung một Giáo Lý Viên Trẻ

Xyooj có những ưu khuyết điểm tự nhiên của lứa tuổi và nền văn hóa của mình. Nhưng chính những phẩm chất nhân văn, thiêng liêng và tài năng của anh đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng tất cả người dân làng. Không chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa vững chắc, mà anh còn rất thành thật và chăm chỉ lao động. Lời chứng của H., người đã sống cùng Xyooj tại Na Vang và cũng tại Kiukatiam trong những tuần cuối cùng của cuộc đời anh, là lời chứng toàn diện nhất về điều này: 

"Xyooj là một người không khoe khoang, không kiêu ngạo và không nói lời ác ý. Anh ấy làm việc nhanh nhẹn, năng động và kiên nhẫn... Anh ấy vững vàng trong đức tin và nhiệt tình làm việc cho Chúa Giêsu. 

Tôi có thể nói rằng Xyooj yêu mến Thiên Chúa, mọi người, Giáo hội và các tín hữu Cơ đốc. Tôi nói điều này vì tôi đã thấy anh ấy làm việc chăm chỉ cho Thiên Chúa, Giáo hội và các tín hữu. Những công việc tôi đã thấy anh ấy làm bao gồm: (1) dạy giáo lý - anh ấy thích dạy giáo lý cho người Hmong; (2) dạy tiếng Hmong; (3) phân phát thuốc và tiêm cho người bệnh trong làng hoặc những người sống xa; (4) hướng dẫn mọi người cách cầu nguyện tại nhà. 

Về cuộc sống trong làng, già trẻ, nam nữ, trẻ em, người khuyết tật về tinh thần hay người thông minh, Xyooj yêu thương tất cả chúng tôi như nhau. Anh ấy trò chuyện với mọi người. Tôi thấy anh ấy không kiêu ngạo. Anh ấy nói chuyện và cười đùa với tất cả mọi người. Anh ấy rất yêu mến Yeej, người đơn sơ và Kawm, người tàn tật. Chúng tôi ăn cùng nhau và tôi đã cho Xyooj một đùi gà để anh ấy ăn, nhưng thay vì ăn, anh ấy đã đưa nó cho Yeej, người đơn sơ. Anh ấy nói với tôi: "Người đó rất đáng thương. Anh ấy nhìn chúng ta ăn với vẻ thèm thuồng: tại sao chúng ta không cho anh ấy gì cả? Anh ấy cũng là con của Thiên Chúa như tất cả chúng ta." 

Một nhân chứng khác xác nhận: 

"Tình yêu của anh ấy dành cho người khác lớn đến nỗi anh ấy thích nói chuyện với tất cả mọi người: người trẻ, người già, người nghèo và trẻ em, luôn luôn với sự dịu dàng.

Anh ấy rất hay cười và không bao giờ nổi giận. Những gì tôi nói là những gì tôi đã thấy, và đó là sự thật." 

Nhà truyền giáo, người phụ trách trực tiếp của anh ấy, nghĩ gì về điều này? Chắc chắn ông ấy có những tiêu chí đánh giá khác và do đó có cái nhìn phê phán hơn. Sự đào tạo của Xyooj với tư cách là một tân tòng và giáo lý viên dù sao vẫn chưa hoàn thiện. 

Ngày 13 tháng 7, Cha L. Sion viết: "Tôi không có gì phải phàn nàn về cách cư xử của giáo lý viên; thật không may, tôi vẫn chưa thể chuẩn bị bài giáo lý một cách nghiêm túc với anh ấy, vì tôi vừa mới bắt đầu học ngôn ngữ. Tôi phải tự bằng lòng với việc khuyên bảo anh ấy bằng tiếng Lào." Một tháng sau, ông nói thêm: "Trường học vẫn tiếp tục hoạt động tốt, mặc dù nhu cầu về một người có thể đào tạo vững chắc ngày càng cấp bách hơn." Tuy nhiên, nhà truyền giáo buộc phải nhận thấy rằng khi ông vắng mặt, lòng sốt sắng của các dự tòng không nguội lạnh, và họ đã tự học cách cầu nguyện. 

Đức tin lớn mạnh và vững chắc

Nhiều thính giả nhớ rõ lời giảng dạy của Xyooj trong những tuần và tháng sau khi làng chuyển đổi. Một nhân chứng, lúc đó là một cô bé, kể lại: 

"Xyooj có trái tim nồng nhiệt để dạy mọi người. Mỗi ngày anh ấy đánh cồng ba lần để triệu tập cả làng. Vào buổi sáng, rồi lại vào buổi chiều, anh ấy triệu tập những người trẻ tuổi để học chữ. Vào ban đêm, cả làng học Giáo lý Thiên đàng. Khi chúng tôi đến, anh ấy đi vòng quanh để đón tiếp tất cả mọi người. Anh ấy hỏi những phụ nữ trưởng thành về việc đốt rẫy, về lúa đang mọc, về đường đi đến đồng ruộng... Vào các ngày Chủ nhật, tiếng cồng gọi các tín hữu đến tham dự lễ Trời. Xyooj trước tiên dạy Giáo lý Thiên đàng cho tất cả mọi người, sau đó anh ấy cho học các bài hát. Rồi bắt đầu Thánh Lễ trên Trời... Anh ấy chỉ là một thanh niên, nhưng nói với phẩm giá của một bậc thầy đã dạy con đường Đức Tin từ nhiều năm... 

Chúng tôi, những đứa trẻ, học Giáo lý Thiên đàng, và chúng tôi thực hành đọc chữ Hmông. Chúng tôi học 63 bài tóm tắt Giáo lý Thiên đàng, để nó thấm sâu vào trái tim chúng tôi. Chúng tôi nhìn vào các bức tranh minh họa và như vậy chúng tôi hiểu ý nghĩa của nó. Mỗi bài học có một bức tranh. Mỗi tối chúng tôi học một hình ảnh mới và ôn lại hình ảnh của ngày hôm trước." 

Những bức tranh này là "hình ảnh Bernadette", những bản khắc đơn giản bằng đen trắng, do các Nữ tu Bernadette của cộng đoàn Biển Đức ở Thaon-les-Vosges, Pháp sản xuất. 

Việc dạy giáo lý song hành với việc dạy ngôn ngữ và văn hóa Hmông. Về điều này, anh ấy là một môn đệ chăm chú của Cha Bertrais. Một nhân chứng khác nói về điều này: 

"Mỗi tối chữ Hmông được dạy cho người lớn và thanh niên. Khi trời đã khuya, một số người về nhà. Nhưng Xyooj vẫn ở lại, kể chuyện cổ tích và truyền thuyết hoặc chỉ đơn giản trò chuyện với những ai muốn." 

Sau hai tháng, tất cả những người trẻ tuổi đều biết đọc và viết tiếng Hmông. 

Cha René Charrier, người thành thạo ngôn ngữ này, đã được gọi đến để hỗ trợ trong một tháng, nhằm bắt đầu đào tạo các cán bộ tương lai của cộng đoàn Kitô hữu. Đầu tháng 7 năm 1959, ông đưa một cặp vợ chồng trẻ với một em bé và ba thanh niên đến Kiukatiam; ở đó, trong cộng đoàn Kitô hữu Hmông non trẻ được thiết lập vững chắc nhất, họ sẽ hoàn thiện việc học giáo lý và đời sống Kitô giáo, để đến lượt mình trở thành những giáo lý viên. H. và K. là thành viên của nhóm. K., người đã kéo dài thời gian lưu trú thêm sáu tháng theo yêu cầu của Cha Borzaga, sẽ là người dân cuối cùng ở Na Vang nhìn thấy Xyooj còn sống. 

Những vị khách khác đã đến kiểm tra hoặc ngưỡng mộ những gì đang được thực hiện tại Na Vang: như Cha Leonello Berti, người phụ trách các nhà truyền giáo người Ý; từ ngày 12 đến ngày 28 tháng 9, theo yêu cầu của vị này, Mario Borzaga đến đó để trợ giúp, cùng với một hoặc hai giáo lý viên khác. Một trong những dịch vụ đáng chú ý được thực hiện là giảng một số bài học giáo lý cá nhân cho Xyooj, người mà ông viết "có vẻ như hiểu được điều gì đó". 

Vào tháng 1 năm 1960, sau khi Xyooj ra đi, Đức Giám mục Étienne Loosdregt, Giám mục Viêng Chăn, đã đích thân đến kiểm tra sự tiến bộ của đức tin và sự thiết lập Giáo hội tại Na Vang. Các nhân chứng người Hmông vẫn còn nhớ bộ râu dài của ngài. Ngài đã để lại một bức thư chi tiết như một bản báo cáo, ném một ánh sáng độc đáo về hành động của người giáo lý trong khoảng 7 tháng ông ta có mặt, và một lần nữa nêu lên câu hỏi về việc đào tạo: 

Tôi viết thư cho các bạn giữa một nhóm người H’mông đang ngưỡng mộ sự lanh lẹ trong cách tôi viết. […] Cha Sion Luigi có một nơi ở sâu trong núi, đường đi vô cùng khó khăn. Từ nhiều tháng nay, gần một năm kể từ khi ngài đến đây, ngài đã thăm viếng nhiều làng, có một nhà nguyện-trường học rất đơn sơ, và một căn nhà không thể gọi là nhà: một góc dùng làm phòng thuốc-tiểu y viện (rất nhiều, rất nhiều bệnh nhân được chăm sóc), một góc khác đặt giường ngủ của ngài, một góc cho thầy giáo lý viên, và một phòng chung lớn luôn đông người; ngài có 400 giáo dân dự tòng người H’mông; mỗi ngày có khoảng ba mươi người, trong đó có trưởng làng, đại diện từ các làng khác, đến học đạo, tiếng H’mông, tiếng Lào; ngoài ra còn có những người đến học buổi tối. Tất cả những gì Cha Bertrais đã biên soạn về lời cầu nguyện, bài hát, tham dự thánh lễ đều được sử dụng tại đây; mọi người chen chúc quanh bàn thờ để xem và hát vào tai linh mục với rất nhiều nhiệt huyết và lòng thành. Một số thanh niên đang học tại Luang Prabang và hai cặp vợ chồng trẻ ở Kiu Kacham… Tóm lại, nơi đây rất sôi động.

“Bất lợi là Cha chủ yếu dựa vào các thầy giáo lý viên, một người đã học ba năm ở Paksane, người kia ở với các Cha Bertrais và Charrier từ 3 đến 4 năm. Cha đi rất nhiều, rất nhiều lần đến thăm bệnh nhân trong núi, hiểu tiếng H’mông nhưng chưa nói được; nguy cơ là ngài sẽ quen với việc để các thầy giáo lý viên giảng dạy. Dù sao, về mặt sinh hoạt, nơi ở của Cha Sion chẳng có gì: không bếp núc, ăn nhờ ở nhà dân với giờ giấc thất thường và bữa ăn rất đơn sơ.”

Tin Mừng được Xyooj loan báo

Vậy Xyooj đã dạy giáo lý gì cho các dự tòng? H. đã nói rõ nội dung, trong tất cả vẻ đẹp ngây thơ của nó: 

"Những lời Xyooj đã nói với chúng tôi và khiến chúng tôi tin tưởng hoàn toàn là: "Các bạn là những người mang tội tổ tông, vì vậy các bạn là những tội nhân, và chúng ta sẽ chỉ sống một thời gian trên trái đất này vì chúng ta sẽ chết và trở lại thành đất. Tuy nhiên, Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, Ngài đã không bỏ rơi chúng ta; đó là lý do tại sao Ngài đã sai Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, Đấng đã bị đóng đinh để mang tất cả tội lỗi của chúng ta. Ngài chỉ bị chôn ba ngày, và Ngài đã sống lại. Ngài đang ở với Cha của Ngài trên thiên đàng. Chúa Giêsu sẽ trở lại cho những người tin để làm cho họ sống lại như Ngài đã sống lại. Lúc đó tất cả đàn ông sẽ đẹp trai và phụ nữ sẽ xinh đẹp, mọi người đều khỏe mạnh, và họ sẽ có sự sống đời đời. Họ sẽ sống với Thiên Chúa ở Thiên Đàng, với tình yêu thương, như những con chim bay trên bầu trời, không phải làm việc nhưng vẫn có đồ ăn và quần áo để mặc mãi mãi!" 

Một bà cụ không thể hiểu được vấn đề về các linh hồn và ma quỷ. Xyooj đến nhà bà. Những nhân chứng khác nhớ lại những lời của anh: 

"Khi bạn tôn kính các linh hồn, các linh hồn sẽ đói. Vì vậy, họ cắn bạn và bạn trở nên bệnh tật. Nếu bạn không cho họ ăn, họ có thể đưa bạn đến bất cứ nơi nào họ muốn. Nhưng kể từ ngày bạn trở lại và tin vào Chúa Trời, các linh hồn không thể cắn bạn nữa. Khi đến ngày Chúa Trời gọi bạn, bạn chắc chắn sẽ lên Thiên đàng!" 

Những người khác lo lắng về phong trào du kích, đã có mặt trong khu vực và không thích những người theo đạo Thiên Chúa. Lúc đó, Xyooj thường xuyên nói về gương các vị tử đạo Việt Nam, những người đã hiến mạng sống vì đức tin của họ, già và trẻ, các nhà truyền giáo, giáo lý viên và các tín hữu bình thường. Anh chỉ ra làm thế nào người ta có thể chết cho chánh nghĩa của Giáo Lý Thiên Đàng, chịu đựng đau khổ khi những người khác bách hại chúng ta vì đức tin vào Thiên Đàng của chúng ta. Anh cũng nhắc đến các Kitô hữu bị bách hại ở Trung Quốc. Anh nói thêm: 

"Nếu bạn bị ép buộc từ bỏ Giáo Lý Thiên Đàng, và bạn đi đến chối bỏ Thiên Chúa, và nếu họ giết bạn, bạn chắc chắn sẽ xuống địa ngục." 

Với các tín hữu trưởng thành, anh thường xuyên nhắc lại bốn nguyên tắc ứng xử: 

- "Các bạn phải học và được giáo dục đầy đủ để lãnh nhận bí tích rửa tội; khi đó các bạn sẽ là con cái Chúa, và sẽ lên Thiên Đàng. 

- "Cha mẹ phải mặc quần áo cho con cái; dù mặc xấu nhưng ít nhất chúng cũng có cái gì đó để học sự khiêm tốn. 

- "Các tín hữu phải để cho con gái và con trai của mình đi học; đừng chỉ cho con trai học thôi, vì con gái của các bạn là do Chúa Trời ban cho các bạn. 

- "Nếu một cô gái không thể học vào ban ngày, cô ấy phải học vào buổi tối." 

Và Xyooj đưa ra ví dụ về một vài cô gái ở Kiukatiam đã đi học với các nữ tu ở Xieng Khouang. Tất cả những lời này đã chạm sâu vào trái tim của người Hmong; họ nói: "Xyooj nói đúng! Chúng ta phải làm như anh ấy đã nói!" 

Một nhân chứng kết luận: 

"Trong thời gian ngắn, người dân trong làng đã thay đổi; họ trở nên bác ái hơn, dễ mến hơn và họ yêu thương nhau hơn." 

Còn về phần Xyooj, anh không bao giờ nhàn rỗi trong làng; anh đi gặp tất cả mọi người, và khi có dịp anh đến các làng khác xung quanh để nói về Thiên Chúa. 

Người tông đồ của người bệnh và người nghèo

Trong những lúc không bận giảng dạy, Xyooj nhiệt tình giúp đỡ những người đang gặp khó khăn. Anh thăm viếng những người lớn tuổi và điều này chạm đến trái tim họ rất nhiều. 

Vào mùa cấy lúa, anh đi giúp hai bà mẹ trồng lúa. Một gia đình đang lợp mái nhà, anh có mặt ở đó để làm việc với họ. Vào lúc công việc này sắp hoàn thành, có người đến gọi anh lấy thuốc... 

Thực vậy, mỗi ngày những người bệnh đến xin thuốc để chữa bệnh. Chính Xyooj là người tiếp đón họ. Họ sợ đến gặp Cha, một người nước ngoài không hiểu ngôn ngữ của họ, nhưng họ hoàn toàn tin tưởng Xyooj. Sau khi trấn an họ, anh dẫn họ đến gặp Cha. Anh cũng rất can đảm để đến thăm những người bệnh nặng nhất tại nhà của họ. Đôi khi trời đã tối đen, người Hmong vẫn đến tìm anh để thăm bệnh nhân của họ. 

Một người cha trong gia đình đã ngã từ trên tảng đá và bị thương nặng; nhưng ngày hôm đó Xyooj đã đi cầu nguyện với Trời cho một người Hmong bệnh ở một ngôi làng khác. Hai cô bé ra đi tìm anh. Một trong hai cô nhớ lại: 

"Người Hmong bảo tôi và chị gái tôi đi gọi Xyooj. Cả hai chúng tôi chạy, chạy một đoạn đường dài đến Làng Cũ, đến nhà người bệnh. Xyooj đang cầu nguyện cho họ. Họ đang hát 'Mục tử nhân lành giữ đàn chiên của mình'. Chị gái và tôi chờ khá lâu. Xyooj cứ cầu nguyện mãi. Tôi đến nói với anh ấy: 'Chú Xyooj, ông Teem đã ngã từ vách đá vôi, ông ấy bị thương nặng. Họ muốn chú về làng.' Ngay lập tức Xyooj bỏ tất cả và cùng chúng tôi trở về làng." 

Mọi người mang rau và gạo cho Xyooj và Cha. Trên giường dành cho việc khám bệnh, người ta để rau, dưa chuột, mía, trái cây hái trong rừng. Xyooj phân phát phần lớn cho các gia đình nghèo. 

Cả làng đều ngưỡng mộ trước cách cư xử của anh. 

Dự định kết hôn

Ở tuổi mười tám, theo phong tục của người Hmong, bạn bè của Xyooj đều đã lập gia đình. Bản thân anh cũng cảm thấy đã đến lúc chuẩn bị cho cuộc sống trưởng thành. Ngày nay, chúng ta có nhiều chứng cứ về những mối quan hệ của anh thời kỳ này. 

Thực vậy, ở Na Vang, trong số các cô gái lớn, nhiều người yêu mến Xyooj. Họ đến, luôn theo nhóm, để làm quen với anh nhiều hơn. Một số bà mẹ cũng muốn có anh làm con rể; một trong số họ đã đến nói với anh về con gái mình... Xyooj thích đùa giỡn với những cô gái trẻ này, nhưng anh không thể ở lâu với họ vì anh muốn sẵn sàng cho tất cả mọi người. 

Hơn nữa, trong lòng Xyooj đã có sự lựa chọn của mình, như những chàng trai Hmông vẫn làm. Điều này diễn ra một cách không xấu hổ, thẳng thắn và cởi mở. Nếu cô gái được chọn đến lớp học sớm hơn một chút so với những người khác, Xyooj sẽ chơi cho cô ấy một điệu dân ca bằng đàn môi chỉ dành riêng cho cô ấy. Đôi khi, đùa giỡn, anh đặt tên cô ấy vào lời một bài hát, khiến các cô gái trẻ khác rất vui thích. 

Kết thúc một cuộc phiêu lưu

Cuộc phiêu lưu tuyệt vời ở Na Vang chỉ kéo dài hơn bảy tháng. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1959, nhật ký của Giáo xứ ghi chép ngắn gọn: "Xyooj đã rời đi Luang Prabang." Các nhà lãnh đạo đã cho anh biết rằng anh phải về Kiukatiam ngay lập tức và không thể quay lại Na Vang nữa. Chuyện gì đã xảy ra? Chúng ta không thể trả lời trực tiếp cho câu hỏi này, vì những người đã đưa ra quyết định không nêu rõ lý do. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có một loạt các chứng cứ gián tiếp cho phép chúng ta hiểu phần nào. 

Trước hết, thành công bất thường và rất nhanh chóng của việc rao giảng của Xyooj khiến các nhà lãnh đạo đặt câu hỏi về nội dung của nó. Trong kinh nghiệm của các nhà truyền giáo, đạo Kitô giáo là một tôn giáo đòi hỏi, mà các xã hội có cấu trúc vững chắc như người Hmong rất khó chấp nhận. Thông thường phải mất nhiều năm để có được kết quả mà ở đây đã đạt được chỉ trong vài tuần... Đặc biệt có cả lĩnh vực đạo đức tình dục, cần phải giải thích lâu dài, mà không có sự đảm bảo thực sự về thành công. Cần phải khẩn cấp đảm bảo cho chàng trai trẻ một nền tảng vững chắc hơn; những bài học riêng mà anh nhận được từ Cha Borzaga vào tháng 9 vẫn chưa đủ. 

Từ đó đến việc nghi ngờ sự thân mật của Xyooj với các cô gái trẻ chỉ là một bước ngắn. Liệu chàng trai trẻ có lợi dụng thành công và uy tín của mình để quyến rũ và lợi dụng họ không? Liệu anh ta có lừa dối họ về vấn đề trinh tiết Kitô giáo không? Người ta thậm chí còn tin rằng vết loét mà anh bị, mà người ta đã nhầm tưởng là dấu hiệu của bệnh giang mai, là bằng chứng cho sự hư hỏng của anh... 

Đoạn văn này đề cập đến một số nghi vấn và quan ngại xung quanh sự thành công nhanh chóng và bất thường của Xyooj trong việc rao giảng Tin Mừng. 

Các nhà truyền giáo, dựa trên kinh nghiệm của họ, thấy khó tin rằng một xã hội có cấu trúc chặt chẽ như người Hmong lại có thể dễ dàng chấp nhận một tôn giáo đòi hỏi như Kitô giáo chỉ trong vài tuần, khi thông thường cần nhiều năm. Điều này khiến họ đặt câu hỏi về nội dung giáo lý mà Xyooj đã truyền đạt, đặc biệt là về các vấn đề đạo đức tình dục, vốn cần nhiều thời gian giải thích và không đảm bảo thành công. 

Mối quan hệ thân thiết của Xyooj với các cô gái trẻ cũng bị đặt dấu hỏi. Có nghi ngờ rằng anh đã lợi dụng uy tín và sự thành công của mình để quyến rũ họ, và có thể đã lừa dối họ về quan điểm trinh tiết của Kitô giáo. Thậm chí, một vết loét mà Xyooj mắc phải đã bị hiểu lầm là dấu hiệu của bệnh giang mai, và được coi là bằng chứng cho sự hư hỏng của anh. 

Khóa học về Mục vụ Thực hành dành cho các nhà truyền giáo của Tòa Giám mục Vientiane đã cảnh báo họ về những điểm này: 

"Nhà truyền giáo không bao giờ được để cho giáo lý viên làm việc mà không có sự kiểm soát, ngay cả khi người này đã được đào tạo về giáo lý trong nhiều năm... Ta phải tuyệt đối tin tưởng vào giáo lý viên của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta nên ngây thơ; đôi khi ta phải nghi ngờ lời dạy mà họ đưa ra, có thể sai lầm, và cũng phải cảnh giác với hạnh kiểm đạo đức của họ... Khi giáo lý viên phạm lỗi công khai với các cô gái, ta phải nghiêm khắc... Đôi khi thật khó để trục xuất giáo lý viên khi công việc thực sự khẩn cấp, nhưng trong một số trường hợp, ta phải quyết tâm với giải pháp này..." 

Trong trường hợp của Xyooj, các nhân chứng người Hmong và những người hiểu rõ nhất về văn hóa Hmong đã mạnh mẽ bác bỏ tất cả những nghi ngờ này, dù là về việc giảng dạy lỏng lẻo hay hành vi sai trái. Theo H., bạn của anh ấy, "về phần các cô gái, anh ấy chỉ cư xử như một chàng trai trẻ, và mọi người đều đánh giá cao cách cư xử của anh ấy." Cha Charrier, người đã ở Na Vang một tháng với Xyooj và đã cống hiến cả cuộc đời mình cho người Hmong, tuyên bố: 

"Lời buộc tội hoàn toàn không phù hợp với thực tế của làng cũng như của người Hmong ở Lào. Các mối quan hệ giữa nam nữ thanh niên đều bị kiểm soát chặt chẽ và được quản lý bởi xã hội Hmong, và các quy tắc đạo đức được áp dụng hiệu quả. Sự giám sát của người lớn là có thật... Không có khóa trên cửa nhưng một chàng trai không thể tự ý vào nhà một cô gái mà không bị trừng phạt. Việc chấp nhận đức tin Kitô giáo chắc chắn không làm nới lỏng những quy tắc truyền thống này." 

Tương tự, Đức ông Tito Banchong Thopanhong, Giám quản Tông tòa Luang Prabang, bản thân cũng là người Hmong và đã trực tiếp điều tra về cuộc đời và cái chết của người giáo lý trẻ tuổi, kết luận: 

"Xyooj luôn cư xử như một chàng trai Hmong ở độ tuổi của anh ấy, theo phong tục và tập quán của dân tộc mình; anh ấy không có lỗi lầm gì." 

Một cách giải thích khác được một số nhân chứng kín đáo đề cập: Xyooj có thể đã là nạn nhân của những lời vu khống do ghen tức gây ra. Người ta biết, rất lâu sau đó, rằng một trong những nhà truyền đạo Tin Lành, đi qua đó mà không có kết quả gì, đã lan truyền những tin đồn ác ý về anh. Những tin đồn này có thể đã được lặp lại, trong số những người khác, bởi một trong những cộng sự viên của giáo xứ, người đã để mắt đến cùng một cô gái trẻ như Xyooj... Liệu đã có một cuộc giải thích dữ dội giữa hai người đàn ông? 

Dù thế nào đi nữa, với sự trôi qua của thời gian, quyết định đã được đưa ra, mặc dù không được dân làng Na Vang ủng hộ, có thể được coi là khôn ngoan. Bất chấp tất cả những phẩm chất tốt đẹp, lòng nhiệt thành và bác ái của mình, Xyooj vẫn chỉ là một thanh niên rất trẻ với ít kinh nghiệm sống. Thành công của anh, sự ngưỡng mộ mà anh nhận được từ mọi người, những món quà anh nhận được, tất cả những điều này có nguy cơ cao là một ngày nào đó sẽ khiến anh lệch lạc khỏi lý tưởng cao đẹp của mình, làm nảy sinh lòng kiêu ngạo hoặc tự mãn trong trái tim anh, và khiến anh đánh giá sai về những người thợ của Tin Mừng kém thành công hơn anh. Tương tự, những tân tòng và dự tòng ở Na Vang cần phải học cách theo Đức Kitô đến cùng, chứ không phải là người mà họ sẵn lòng coi như "hoàng tử Hmông nhỏ" của họ. Sự ra đi vội vã của anh sẽ là một bài kiểm tra cho sự vững chắc trong việc trở lại đạo của họ. 

Lúc ra đi

Những nhân chứng kể lại khúc khải hoàn về lúc ra đi với một niềm xúc động vẫn còn sống động ngay cả sau nhiều năm: 

"Cả làng đều đến chào tạm biệt anh ấy, và mọi người đều khóc. Anh ấy an ủi chúng tôi rằng đã có người khác đến thay thế anh ấy rồi. Chúng tôi nói với anh ấy: "Tạm biệt, hãy nhớ đến chúng tôi, liệu anh có quay lại không?" Những lời cuối cùng của anh ấy là: "Tôi không biết." Anh ấy không bao giờ trở lại! Khi hay tin anh ấy mất tích, người dân làng Na Vang đã khóc và rất buồn. Hoàng tử nhỏ của người Hmong đã biến mất!"79 

"Ngày mà Xyooj rời đi, rất nhiều tín đồ muốn đưa tiễn anh ấy. Tôi ở đó cùng với những cô gái khác và nhảy trên lề đường. Chúng tôi đã đi rất xa rồi thì anh ấy bảo tất cả chúng tôi quay về làng; nhưng không ai quay lại. Những phụ nữ già khóc. Xyooj dừng lại. Anh ấy che mắt bằng đôi bàn tay; anh ấy khóc, và chúng tôi khóc cùng anh ấy, ngay cả đàn ông và phụ nữ. Giữa nước mắt, anh ấy nói với chúng tôi: "Mẹ tôi, các cô, xin hãy quay về! Tôi e rằng tôi sẽ không bao giờ gặp lại các bạn nữa!" Ba cô gái trẻ, trong đó có cô gái anh ấy yêu, đã đưa tiễn anh ấy đến Luang Nam Tha. Anh ấy gắn lên áo mỗi người một huy hiệu Đức Mẹ Đồng Trinh để lưu niệm."80   

Làng đã được cải đạo nhờ nhân vật giáo lý viên Xyooj, liệu có vượt qua được thử thách khi anh ấy vắng mặt? Cú sốc là khá nặng nề, như nhiều nhân chứng đã đồng thuận kể lại: 

"Khi Xyooj quay trở về nhà, có rất ít người Hmong mới theo đạo...Sau một thời gian, chỉ có một gia đình..."81 

"Đã có những giáo lý viên khác đến nhưng không có thêm người cải đạo nào nữa; ngoại trừ khi giáo lý viên H. trở lại Na Vang [sau khi được đào tạo tại Kiukatiam], thì sau đó mới có một vài gia đình cải đạo...Từ đó trở đi, chúng tôi không bao giờ cảm nhận được ở bất kỳ giáo lý viên nào khác một điều gì đó lôi kéo chúng tôi đến với Chúa Giê-su, một điều phát xuất từ Xyooj."82   

"Sau khi Xyooj ra đi, đã có một giáo lý viên mới đến dạy đường đạo, và một thầy giáo dạy chữ viết. Không ai yêu mến họ cả. Chúng tôi ít khi đến học đạo, bởi vì chiếc cồng không thường đượm, và khi đượm thì quá trễ vào buổi sáng và buổi tối. Hai hoặc ba gia đình quay trở lại với tín ngưỡng cũ, những gia đình khác bắt đầu lại các nghi lễ đồng bóng. Đức tin đã nhạt dần cho đến khi có một linh mục mới đến và giáo lý viên H. của chúng tôi, người được đào tạo tại Núi Ngưu, trở về giúp đỡ các tín hữu."83 

Tuy nhiên, với thời gian trôi qua, mọi việc đã xuất hiện dưới một góc nhìn khác. Mặc dù phải đối mặt với vô vàn khó khăn - những cuộc di cư do chiến tranh gây ra, lưu đày và phân tán khắp thế giới - những người Kitô hữu ở Na Vang cũng như những người ở Kiukatiam vẫn gìn giữ đức tin một cách căn bản. Người đưa tin đã ra đi, nhưng sứ điệp vẫn tiếp tục mang lại kết quả. 

II - Lời chứng cuối cùng

Nếu bất chấp tuổi đời trẻ, Giáo hội Công giáo địa phương công nhận Paul Thoj Xyooj là một trong những người cha đồng sáng lập, thì điều đó không phải là nhờ thành công của anh ta trong việc giảng đạo. Trái lại, Giáo hội mong muốn tôn vinh ký ức của anh ta bằng cách công nhận anh là một thánh tử đạo chân chính vì đức tin. Mục đích của vụ việc được khởi xướng tại Roma là thiết lập sự kiện về cái chết bạo lực, những nguyên nhân dẫn đến việc đó và thái độ của chàng trai trẻ trước cái chết. Nhiều nhân chứng đã lên tiếng; do tình hình chung của đất nước và truyền thống im lặng của dân tộc họ, họ đã đòi được giữ kín danh tính, điều này sẽ được tôn trọng84.

Dựa trên những lời chứng này và tài liệu lưu trữ, những dòng dưới đây khơi gợi những tháng cuối đời của giáo lý viên trẻ, cũng như những giây phút cuối cùng của anh ta. Là đối tượng của những phán xét vội vã từ các nhà truyền giáo châu Âu, xa rời khỏi lĩnh vực truyền giáo của mình khiến đồng bào Hmong rất tiếc nuối, Xyooj thể hiện khía cạnh rất con người trong gian khổ thử thách. Anh ta không phải là một siêu nhân. Nhưng thử thách tối thượng đã đến rất nhanh và sẽ một cách dứt khoát đóng dấu giá trị đáng kể của hành trình của một người mới theo đạo và một giáo lý viên tân khởi._

Trở lại Kiukatiam: Dự định kết hôn

Trong cuốn "Khóa Thực hành Mục vụ" được sử dụng vào thời điểm đó tại Lào để đào tạo các nhà truyền giáo, có viết rằng: "Không bao giờ được làm mất mặt những giáo lý viên mới ra trường như thế này85." Trong bối cảnh đó, người ta giải thích rằng giáo lý viên nên được phép kết hôn ngay khi ra trường để tránh mất mặt kiểu này. Xyooj đã đủ tuổi, nhưng anh ấy chưa lập gia đình86. Còn về việc mất mặt, rõ ràng là nó đã đánh trực diện vào anh. Anh ấy sẽ phản ứng ra sao? Tình yêu mà anh đã thể hiện cho đến lúc đó dành cho Chúa Giê-su, cho Phúc Âm, cho Giáo Hội và các đầy tớ của Ngài, liệu có chống chịu được qua cơn bão không? Đó là nơi ta phải tìm kiếm những dấu hiệu tiên khởi thực sự về sự thánh thiện, sự chuẩn bị đích thực cho cuộc tử đạo của anh - một cuộc tử đạo mà anh đã thường nhắc đến trong giáo lý của mình tại Na Vang87. 

Tại Kiukatiam, Cha Yves Bertrais88, người cha đỡ đầu thiêng liêng của Xyooj, đã rời đi từ tháng 12/1958 để đến với những chân trời truyền giáo khác. Người thay thế ông, Cha Mario Borzaga89, Xyooj chỉ mới quen biết trong thời gian ngắn; kiến thức ngôn ngữ và kinh nghiệm của cha vẫn còn hạn chế, nhưng người Hmong đã đặt cho cha biệt danh "Txhiaj Tshaj", nghĩa là "Trái tim chân thành". Xyooj may mắn gặp được một linh mục đã vượt qua những thất vọng nghiêm trọng, một người sẽ không đánh giá anh theo định kiến, quyết tâm đưa anh trở lại vì lời mời gọi của Chúa Giê-su90. Khi gặp nhau, cả hai người đều không ngờ rằng họ sẽ gắn kết mãi mãi trong hành động tối thượng của việc hiến dâng cuộc đời mình. 

Ý định của những người phụ trách là để Xyooj ở lại Luang Prabang, trung tâm truyền giáo, để theo học khóa đào tạo dành cho các giáo lý viên. Nhưng họ đang đối mặt không phải với một người theo đuổi học vấn, mà là một người hành động, bị tổn thương về phẩm giá; những căng thẳng không thể tránh khỏi sẽ nhanh chóng bộc lộ.   

Xyooj trở lại Kiukatiam, ngọn núi Ngưu quý báu của anh ấy91, vào ngày 22 tháng 12, đúng dịp để đón mừng lễ Giáng Sinh, cũng là Tết Nguyên đán của người Hmong92. Những ghi chép của Cha Borzaga trong niên biểu của nhà truyền giáo và nhật ký cá nhân để lộ một số nghi ngờ hoặc sự khó chịu nhất định: 

"Từ ngày 22 tháng 12, Xyooj, giáo lý viên của Cha Sion, đã ở đây tại làng trong kỳ nghỉ ngắn. Anh ấy vẫn quyết tâm làm giáo lý viên. Anh ấy có hai mong muốn: kết hôn, và học giáo lý một cách đàng hoàng hơn. Không có gì để bàn cãi về điều đó: vậy anh ấy hãy tìm một người vợ, và sau đó, ngay khi có thể và chúng ta có thể [làm điều đó], anh ấy chỉ cần học tập, mặc dù trí thông minh của anh ấy khá bình thường. Dù sao, anh ấy cũng chưa mất đi nhiệt huyết trong việc giảng dạy: ngày hôm trước, tôi đã đưa anh ấy đi cùng khi chúng tôi đến thăm người Kmhmu'; anh ấy đã nói rất hay, mặc dù chỉ lặp lại bằng tiếng Lào bốn ý chính mà anh ấy biết diễn đạt bằng tiếng Hmong."93 

"Hôm qua, cùng với Xyooj, chúng tôi đã đến thăm người Kmhmu'. Trong bài giảng của mình anh ấy xuất sắc như mọi khi. [...] Anh ấy đã kể cho tôi nghe một số điều khá thú vị về Na Vang và làm thế nào, trong đó có việc anh ấy muốn lấy vợ. Tôi không có gì phản đối; vậy anh ấy hãy làm theo ý muốn của mình."94 

Quả thực, đối với người Hmong trẻ tuổi, thời điểm Tết Nguyên đán là thời gian thích hợp để tán tỉnh và tìm kiếm tri kỷ. Điều này diễn ra dưới hình thức một trò chơi nghi lễ gọi là pov pob: Những chàng trai và cô gái mặc trang phục đẹp nhất của mình, đối mặt nhau; từng cặp họ ném cho nhau một quả bóng bằng vải, cô gái hát câu hỏi và chàng trai phải hát câu trả lời thích hợp. Nếu cô gái không hài lòng, họ sẽ đổi đối tác khác. Mỗi ngày, trò chơi kéo dài nhiều giờ đồng hồ. Trong trường hợp hai bên đồng ý, các gia đình sẽ bắt đầu đàm phán về hôn nhân, phải diễn ra trong tháng đầu năm; mọi việc phải được giải quyết trước tháng Sáu95. 

Vào ngày 1 tháng Giêng, Cha Borzaga ghi nhận trong nhật ký rằng Xyooj đã tham gia pov pob suốt cả ngày nhưng không có kết quả. Vào ngày 4 và 8 tháng Giêng, cha tiếp tục với chủ đề này: 

"Những lễ hội Tết Nguyên đán của người Hmong vẫn tiếp diễn, điều này có nghĩa là những người trẻ tuổi đang tìm kiếm vợ/chồng; và bởi vì tại nhà truyền giáo chúng ta cũng có những người trẻ tuổi nghĩa là chúng ta phải để mắt đến họ... [Tiếp theo là những hành động của ba thanh niên khác] - Xyooj đã cố gắng hết sức để tìm một người vợ, nhưng có vẻ như anh ấy không thành công. Anh ấy muốn có một người vợ tốt, nhưng trong số những cô gái tốt thì không dễ để tìm một người còn độc thân. Tất cả những ngày này, mặc dù anh ấy đã tỏ ra bụi bậm và hữu hình nhưng anh vẫn tham dự tất cả các nghi lễ được cử hành tại nhà thờ, và gần như mỗi ngày đều rước lễ."96 

"Xyooj sẽ không kết hôn, một điểm chấm hết. Cô gái mà anh ấy chọn thì không đồng ý. [...] Đó là khó khăn lớn trong việc kết hôn với người ngoại đạo: họ không muốn học giáo lý và do đó được rửa tội trước khi cưới. [...] Người ngoại đạo không hiểu gì về tập tục của chúng ta: ngay cả khi các cô gái không có gì phản đối việc trở thành Kitô hữu, họ vẫn bị cha mẹ bắt buộc phải tuân thủ đến phút cuối cùng các tập tục của người ngoại đạo."97 

Thật không ngạc nhiên về những thất bại liên tiếp của Xyooj trong việc tìm kiếm một người vợ. Trái tim của anh vẫn còn ở lại Na Vang; mặc dù anh đã chấp nhận việc không thể gặp lại người con gái mà anh yêu thương ở đó, nhưng bây giờ làm sao anh có thể chọn một người khác? Hơn nữa, anh không sẵn sàng từ bỏ lý tưởng Kitô giáo của mình. Vào tháng 4/1960, khi sắp khởi hành cho chuyến đi cuối cùng, anh đã viết cho các tín hữu tại Na Vang: "Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở lại làng của các bạn để kết hôn98." 

Khóa Thực hành Mục vụ có đưa ra khuyến cáo sau: "Nhà truyền giáo nên khuyên giáo lý viên của mình nên kết hôn, đặc biệt khi người thanh niên bị cám dỗ bởi những cô gái trẻ, nhưng người ấy cũng phải cẩn thận đừng gây áp lực thiếu tế nhị để thúc đẩy một cuộc hôn nhân cụ thể nào99..." Vì vậy, Cha Borzaga quyết định đến Luang Prabang để thảo luận với các nhà lãnh đạo của Nhà Truyền Giáo về vấn đề này: Liệu Xyooj sẽ được cho phép quay trở lại Na Vang để kết hôn ở đó100? 

Cha xuống thành phố một mình vào ngày 7 tháng Giêng; ngày 13, nhân dịp tĩnh tâm, ngài có Xyooj đi cùng. Câu trả lời là một lần nữa từ chối thẳng thừng. Các nhà lãnh đạo quyết định giữ chàng trai trẻ lại Luang Prabang, như đã dự định, với mục đích để anh tiếp tục đào tạo và dạy học cho các trẻ em người Hmong tị nạn tại thành phố, trong khi một giáo lý viên khác sẽ được cử đến Na Vang101.   

Một thiếu niên đang khủng hoảng

Đó là lúc Xyooj thực sự rơi vào khủng hoảng, một cuộc khủng hoảng mà nhật ký của Cha Borzaga và niên biểu của Nhà Truyền Giáo vẫn còn vài dấu vết. Anh không muốn ở lại thành phố, xa các làng Hmong; hơn nữa, anh nói, ở đó quá nóng. Một trong những người bạn đồng hành của anh thêm vào, không thiếu châm chọc: "Ở thành phố thì không có cô gái nào cả", nghĩa là không có cô gái Hmong để cưới. Mặc dù bị bỏ lại đó, Xyooj bắt đầu viết thư cho những người ở làng của anh; anh phàn nàn về mọi thứ, ngay cả thiếu thốn lương thực. Vài ngày sau, trong một bản tổng kết hoạt động của Nhà Truyền Giáo cho tháng Một, Cha Borzaga ghi lại: 

"Y. đã đi đến Na Vang, nơi anh ta sẽ thay thế Xyooj, người mà Cha Sion từ chối nhận lại. Y. ra đi với tâm trạng thoải mái, nhưng Xyooj, người phải ở lại, thì hoàn toàn trái ngược. Chúng tôi đã bố trí anh ấy ở Luang Prabang để dạy lớp nhỏ và chăm sóc các người tân tòng; nhưng anh ấy đã cho chúng tôi biết rằng anh ấy tuyệt đối không muốn ở lại đó và sẽ quay trở lại làng. Thật khó biết phải xử lý Xyooj như thế nào."102 

Vào ngày 23 tháng Giêng, Cha Borzaga ghi trong nhật ký: 

"Tôi đã viết thư cho [Cha] Marchiol yêu cầu gửi Xyooj trở lại với tôi; tôi chịu trách nhiệm nguy hiểm này, bởi vì không ai muốn nhận trách nhiệm đó."103 

Sau khi trở về làng, chàng trai trẻ đã nghĩ ra một ý tưởng khác: Bởi vì cuộc đời giáo lý viên đã đi vào ngõ cụt, vậy thì anh ta sẽ trở thành cảnh sát; như vậy ít ra anh cũng có thể kiếm được tiền để lập gia đình. Anh chia sẻ điều này với Cha Borzaga, điều này khiến cha rất sốc; sau đó anh công khai nói về nó với mọi người xung quanh. 

Không nên nghĩ rằng Xyooj là một trường hợp cá biệt. Trên thực tế, Khóa Thực hành Mục vụ đã dự đoán tình huống này. Về sự bền bỉ của các giáo lý viên được đào tạo tại các trường, nó cảnh báo: "...cần nghĩ đến cám dỗ lớn mà họ gặp phải ngay khi họ rời khỏi làng của mình một chút là gia nhập vào hành chính, cảnh sát hoặc quân đội, hoặc các cơ quan dân sự nơi họ nhận được những khoản lương không thể tưởng tượng nổi104..." 

Dưới tro vẫn còn ngọn lửa âm ỉ

Mặc dù có những dự định mới, Xyooj không bao giờ thực sự từ bỏ sứ mạng của mình. Tình yêu dành cho Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện trong trái tim anh. Tuy nhiên, trong số các nhà truyền giáo người Châu Âu, chỉ có Cha Mario Borzaga là người tin tưởng ở anh; vào ngày 5 tháng Hai, ngài ghi trong nhật ký: 

"Xyooj đang ở đây; anh ta đi lang thang khắp nơi và không giấu ai ý định trở thành cảnh sát của mình. Một số người thông cảm với anh ta. Dù sao đi nữa, phần tôi, tôi vẫn tiếp tục yêu mến anh ấy."105 

Ngày 7 tháng Hai, ngài viết: "Xyooj bắt đầu xa lánh hơn, tôi không biết phải làm thế nào nữa106." Nhưng ngày hôm sau, ngài nói rằng mình đã "kéo anh ấy lại gần phần nào107". 

Việc Xyooj tỏ ra xa cách, thiếu nhiệt tình không ngăn cản anh dâng mình phục vụ khi Cha yêu cầu. Vào ngày 1 và 2 tháng Hai, anh đã đồng hành cùng Cha trong một chuyến thăm truyền giáo ngắn, đến thăm một đạo trường bị đe dọa vây hãm bởi du kích quân tại Long Vai trên ngọn núi Pha Thoeng108. Do không có giáo lý viên, anh đảm nhận vai trò thay thế dạy lớp tối cho những thanh niên lớn và người lớn tuổi. Công việc của anh ở mức trung bình, theo lời ghi nhận của người viết biên niên sử109. Anh sẵn sàng giảng dạy giáo lý cho một số phụ nữ lớn tuổi, nhưng cuối cùng người khác sẽ được chọn vì vào cùng giờ đó anh phải dạy học cho trẻ em110. Nhận xét tổng quát của nhà truyền giáo vẫn tích cực: "Hành vi của anh ở làng rất tốt, anh thường xuyên rước lễ111." 

Tuy nhiên, vẫn có một điểm tối: anh được giao nhiệm vụ dạy tiếng Hmong cho một nhà truyền giáo trẻ người Ý đang thực tập, Cha Zanoni – một công việc quan trọng vì cha này đánh máy các bài học để gửi cho Cha L. Sion tại Na Vang112. Thỉnh thoảng Xyooj lại lơ là nhiệm vụ này113. Anh, người từng bị các nhà truyền giáo châu Âu đánh giá quá thấp, dường như một lần nữa đang duy trì khoảng cách. 

May mắn thay, cũng có một số thanh niên Kitô hữu ở đó. Trong số họ, có những người tương lai sẽ trở thành giáo lý viên và đang trong quá trình học nghề, họ ở trong một ngôi nhà nhỏ gần nhà của nhà truyền giáo. Xyooj, người vẫn ở cùng mẹ trong ngôi nhà gia đình, rất gần gũi và thường xuyên đến thăm họ. Một trong những chàng trai trẻ này nhớ lại rằng họ thường cùng nhau đi chặt tre để làm hệ thống tưới tiêu hoặc đốn củi đun nấu và hái cỏ cho lợn - những dịp thuận tiện để nói chuyện cởi mở, tâm sự với nhau114. Xyooj kết bạn với H. và K., những người theo đạo mới từ Na Vang đã đến đây học tập vào tháng 7/1959; K. cũng mồ côi cha như anh115. Cùng với họ, Xyooj có thể nhắc lại những kỷ niệm đẹp về những giờ phút tuyệt vời nhất đã trải qua ở đó. Nhưng chính anh, người anh cả mà tất cả họ ngưỡng mộ, người thích kể cho họ nghe về những chiến tích của Phúc Âm giữa đồng bào Hmong, liệu có thể làm thất vọng họ không? 

Phải nói công bằng rằng Xyooj không bao giờ trực tiếp phàn nàn với những người trẻ khác tại Nhà Truyền Giáo về những người đã đuổi anh ra khỏi Na Vang. Khi vừa đến Kiukatiam, H. đã hỏi anh tại sao anh không ở lại với người dân trong làng, tại sao anh lại đi khỏi họ. Anh chỉ đơn giản trả lời: "Cha xứ đã bảo tôi đi truyền giáo và dạy giáo lý tại một làng khác; vì thế tôi phải đi."116 

Tình bạn của những đồng hành này đã cứu vãn ơn gọi của Xyooj. Khi cuối tháng 4, Cha Borzaga quyết định lên đường để đáp lại lời kêu cứu từ một ngôi làng, ban đầu ngài đã chọn một giáo lý viên lâu năm của Kiukatiam để đồng hành. Nhưng vì người này đã lập gia đình, nên ngài tiếp đó liền tìm đến H., rồi đến K., bởi K. sẽ ở lại làm việc như một giáo lý viên tại Kiukatiam thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên, chàng trai trẻ cảm thấy mình ít kinh nghiệm hơn nhiều so với người bạn Xyooj trong việc truyền giáo tại một làng Hmong: anh đã hỏi Xyooj liệu có thể đi thay vì anh không. Xyooj trả lời có, nhưng nói thêm: "Tôi không biết liệu Cha có đồng ý hay không." K. đã nói với Cha Borzaga về điều này và ngài đã chấp thuận đề nghị117. Và đó là lúc Xyooj viết lá thư cuối cùng mà người ta nhận được từ anh, gửi cho các tín hữu của ngôi làng thân yêu: "Tôi sẽ đi dạy Giáo lý Thiên Đàng cho người Hmong ở làng Phuaj Xuab118." Vâng, ngọn lửa đã được nhóm lên trở lại. 

Chuyến đi cuối cùng

Không cần thiết phải đề cập đến ở đây những lý do thúc đẩy Cha Mario Borzaga khởi hành cho chuyến đi cuối cùng của mình: các nhà viết tiểu sử đã làm điều đó rồi, và đủ những chi tiết trong nhật ký của Nhà Truyền Giáo Kiukatiam do chính Cha Zanoni ghi lại119. Sự thật là cuối cùng ngài đã chấp nhận đưa Xyooj đi cùng trong hành trình này. Đối với Xyooj, điều quan trọng là lời kêu gọi ngần ngại từ một ngôi làng sẵn sàng xua đuổi những ác thần để đón nhận hiện diện của Đức Kitô, nơi có những người đau ốm đang chờ đợi một bàn tay đầy lòng trắc ẩn. Theo tập tục của người Hmong, nếu ai đó lặp lại lời yêu cầu bạn một dịch vụ lần thứ hai hoặc thứ ba, bạn phải đáp ứng và nỗ lực hết sức để hoàn thành điều đó. 

Trong số những người đã khẩn thiết yêu cầu Cha Borzaga thực hiện cuộc thăm viếng truyền giáo này, cần kể đến N.: cô là người lớn tuổi đầu tiên được cha rửa tội trực tiếp. Sau khi được rửa tội, cô đã đến Xieng Khouang cùng với một số cô gái khác từ Kiukatiam, để học tập với các Nữ Tu Dòng Kính Mến Thánh Giêrađô120. Cô đã muốn lưu lại lời chứng bằng văn bản về những gì đã xảy ra tại ngôi làng vào cuối tháng 4/1960, cùng với người anh trai P. của mình, người từng là một trong những người đồng hành của Cha Borzaga trong giai đoạn đầu của chuyến đi121. 

Vào ngày 25 tháng 4 năm 1960, cùng với Cha Borzaga và những người sứ giả đến mời họ, Xyooj lên đường và không bao giờ trở lại nữa. Ngày hôm đó, anh mặc trang phục truyền thống của người Hmong và đeo ba sợi dây chuyền bạc. Anh mang theo hai bộ quần áo thay và con dao đa năng của người Hmong, dùng để mở đường đi trong rừng rậm. 

Phần còn lại của câu chuyện chủ yếu dựa trên lời khai của K., người đã từng nhập ngũ vào quân đội hoàng gia. Trong khoảng năm 1962-1963, anh đã có thể tiến hành một cuộc điều tra cá nhân tại khu vực đó; tuy nhiên, báo cáo bằng miệng với giám mục chưa được lưu giữ. Nguồn tin chính của anh là hai người lính Hmong khác, một người gốc từ Ban Phoua Xua (tên tiếng Hmong là Phuaj Xuab), làng nơi nhà truyền giáo được mời đến thăm, và người kia từ một ngôi làng lân cận122. Những đồng đội này đã chuyển cho anh những thông tin sơ cấp về cuộc phiêu lưu của hai người lữ khách và những giây phút cuối cùng của họ.   

Tại Ban Phoua Xua, Cha Borzaga và Xyooj đã ở lại qua đêm trong hai đêm. Nhiều người dân làng đã đến gặp họ, trò chuyện với Cha; họ đã nói về tôn giáo Kitô giáo. Đây chắc chắn không phải là sự say mê của lần đầu tiên tiếp xúc với Na Vang, nhưng những nền tảng đã được đặt ra cho tương lai. Một số người đã yêu cầu được học giáo lý để theo đạo. Cha đã ghi lại tên của họ và hứa sẽ cử người đến dạy123. Còn Xyooj, có vẻ như anh đã khiêm tốn ở trong bóng tối của nhà truyền giáo. 

Ngày thứ ba, hai người lữ khách lại lên đường theo một lối đi khác. Họ tiếp tục được hai người dẫn đường trẻ tuổi từ làng đó đồng hành. Lý do khả dĩ nhất cho việc thay đổi lộ trình là rất đơn giản: Cha Mario Borzaga đã bị thương ở bàn chân - họ đã mất ba ngày để đến nơi124. Vì vậy, họ sẽ đi đường tắt để tới đường số 13 tại Muang Kasi, với hy vọng sẽ tìm được phương tiện di chuyển để trực tiếp trở về làng.   

Khỏi hành vào ngày đầu tiên trên đường về, họ đến Muang Met, một ngôi làng nằm trên hai sườn của một thung lũng nhỏ. Đây là một làng có người Kmhmu' và người Lào sinh sống hỗn hợp, người Kmhmu' nghèo hơn ở một bên và người Lào đông hơn ở bên kia. Người Hmong không có bất kỳ quan hệ nào với người Lào. Con đường đi đến từ phía làng Kmhmu': những người này đã quan tâm đến hai người lữ khách và thông điệp của họ. Họ mời hai người dừng chân qua đêm tại làng để có thể trò chuyện kỹ hơn và gặp gỡ mọi người. Cha hứa sẽ quay lại trong một chuyến đi lần sau. 

Sau đó, người Kmhmu' khuyên họ nên quay đầu lại, bởi vì du kích đã lọt vào bên kia, tại làng lớn của người Lào. Xyooj ngay lập tức hiểu ra tình hình: "Thưa Cha, chúng ta hãy nhanh lên, rất nguy hiểm." Cha trả lời: "Đừng sợ, tôi không phải là người Mỹ." Vì vậy, theo tập tục, họ đã đi ngủ tại nhà của trưởng làng người Lào. Ông này đã trấn an họ: con đường đi không có vấn đề gì cho đến Ban Nam Lik, giữa những cánh đồng lúa trong thung lũng, và từ đó họ có thể dễ dàng đến Muang Kasi. Sáng hôm sau, Cha và Xyooj đã đưa những người dẫn đường Hmong từ Phoua Xua quay trở lại và lên đường, mang theo một ít lương khô do trưởng làng cung cấp125. 

Giờ phút quyết định

Ngay sau khi rời khỏi làng, hai người lữ khách đã gặp phải một nhóm du kích. Liệu đó có phải là một cuộc phục kích, hay họ đã bị phản bội? Những câu hỏi này vẫn chưa có lời giải đáp cho đến ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải đặt ra, bởi vì tên của Xyooj và những người dẫn đường Hmong đã được nhắc đến liên quan đến cuộc gặp gỡ bất hạnh này. Nhưng trước hết, chúng ta hãy xem xét những sự việc đã được tái hiện một cách kiên nhẫn thông qua các lời khai gián tiếp và không trọn vẹn, đến từ chính những người lính nổi loạn cũ, những người vẫn bị ám ảnh bởi sự kiện này sau hàng chục năm. Về phần trưởng làng và những người dân, họ luôn khẳng định không nghe thấy tin tức gì sau khi khách của họ ra đi. 

Sau đây là lời khai của một người Hmong có liên hệ mật thiết với các sự kiện, một lời khai ẩn danh nhưng rất quan trọng, được cung cấp sau hơn 40 năm cho những người vẫn đang tìm kiếm sự thật: 

"Đừng tìm kiếm thêm nữa: Cha Borzaga và giáo lý viên Xyooj đã chết, họ đã bị giết. Những người nổi dậy Lào đã bắt giữ, tại làng Muang Met, nằm giữa làng Phoua Xua nơi Cha đã đến với Xyooj và làng Muang Kasi nơi Cha muốn đến, một người Mỹ có một chàng trai Lào đi cùng. Bởi vì họ căm ghét bất cứ thứ gì, trong mắt họ, là người Mỹ hoặc thậm chí là người da trắng, nên họ đã quyết định giết người đàn ông này, nói với chàng trai Lào: "Này cậu, cậu là người cùng đất nước với chúng tôi, hãy chạy trốn, về nhà đi, chúng tôi sẽ không giết cậu." Chàng trai Lào nói: "Đừng giết ông ấy, vì ông ấy không phải là người Mỹ mà là người Ý, và ông ấy là một linh mục rất tốt, rất hiền lành với mọi người; ông ấy chỉ làm những điều tốt!" Nhưng họ không muốn tin. Anh ta liền nói: "Tôi sẽ không bỏ đi, tôi sẽ ở lại với ông ấy; nếu các người giết ông ấy, thì cũng hãy giết tôi luôn. Nơi nào ông ấy chết, tôi cũng sẽ chết ở đó, và nơi nào ông ấy sống, tôi cũng sẽ sống." Những người nổi loạn đáp lại: "Cậu thực sự rất bướng bỉnh, vậy cậu cũng muốn chết sao?" Anh ta trả lời "Vâng!", và như thế họ đã giết cả hai người."126  

K. cũng đưa ra một số chi tiết khác, nghe được trực tiếp từ miệng của những người lính. Họ đã trói tay và khuỷu tay của Cha Borzaga ra sau lưng, đồng thời nhiếc móc ngài bằng những lời lẽ khiếm nhã, trong khi ngài vẫn im lặng. Nhưng Xyooj thì không yên lặng: anh tranh cãi với họ và cố gắng ngăn cản họ. Vô cùng tức giận, họ đã đánh đập anh bằng cán súng một cách dữ dội đến nỗi một bên tai của anh bị xé rách và rơi xuống đất. Họ nói với anh: "Mi không muốn chuồn đi để cứu lấy mạng sống, mi quá bướng bỉnh, mi cãi lộn với chúng tao, chúng tao sẽ giết luôn mi cùng với tên da trắng này127." Họ đã lấy những sợi dây chuyền bạc của vị hoàng tử nhỏ người Hmong để bán ở chợ128. 

Sau đó, họ dẫn hai người đi xa hơn trên con đường mòn dọc theo sườn núi Phou Mun, rồi vào trong rừng, bên cạnh một cái hố. Đó là thói quen của chúng: không được để lộ ra những gì không cẩn thận. Họ đã buộc những người bị kết án phải đào sâu thêm cái hố. Khi những phát súng vang lên, Cha hét lên: "Tại sao các người lại bắn vào cha, Cha ơi?" ; còn Xyooj đã chết ngay tại chỗ. Sau đó, những người lính đã đẩy xác xuống hố và ném đất lấp lên129. 

Xyooj, "Hoàng tử nhỏ" hay đúng hơn là tông đồ của người Hmong, người yêu mến Phúc Âm, đã chuộc lại những khiếm khuyết nhỏ nhoi của mình - và hoàn tất hành động tối thượng của tình yêu thương. 

Ngôi mộ của anh chưa bao giờ được tìm thấy. Nó vẫn nằm trong khu vực nguy hiểm, nơi không ai dám đến gần. Sau vài năm, mọi hy vọng đều vô ích. Tuy nhiên, một số đồ vật thuộc về nạn nhân giúp xác định danh tính của họ một cách chắc chắn. Mẹ của Xyooj đã nhận ra rõ ràng những sợi dây chuyền bạc của con trai mình; nhưng gia đình từ chối nhận lại chúng, vì theo truyền thống, đó là tài sản không thể trao đổi của người con trai quá cố130. Hơn nữa, lời khai của một người lính, được ghi lại một cách gián tiếp bởi Đức cha Tito Banchong, đã nói rõ: 

"Chúng tôi đã lục soát chiếc ba lô của người Mỹ, nhưng không có nhiều thứ: một số hạt chuỗi có hai mảnh sắt bằng giao nhau, những hình ảnh về một phụ nữ toả sáng, một số hình chỉ có một mình, một số khác có thêm một đứa trẻ, và một người đàn ông với trái tim lồi ra ngoài..."131 

Đó là những kho báu của nhà truyền giáo: tràng chuỗi của ngài, và hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ Đồng Trinh.   

Những nguyên nhân của một bi kịch

Nhiều lý do đã được đưa ra để giải thích cho việc hành quyết tức tưởi đối với Thoj Xyooj và Cha Mario Borzaga; ngay cả tên của Xyooj cũng bị ném bùn. Vì vậy, chúng ta cần xem xét sơ lược các lý do này để có thể làm sáng tỏ số phận đặc biệt này một cách trọn vẹn nhất. 

1. Cha Borzaga có bị phản bội hoặc bị loại bỏ bởi những người hướng dẫn Hmong đã rời khỏi họ ngay vào sáng hôm đó không? Đây là giả thuyết được chấp nhận ban đầu bởi các cơ quan dân sự tại Luang Prabang, nhưng bị giám mục từ chối, và hiện nay bị người Hmong bác bỏ một cách mạnh mẽ132. Người Hmong luôn bảo vệ và ủng hộ các nhà truyền giáo sống giữa họ, trừ khi họ bị tuyển mộ vào lực lượng du kích. 

2. Cha Borzaga có phải là nạn nhân của một hành động trả thù từ những người cha không hài lòng với hoạt động của ngài liên quan đến việc kết hôn của các cô gái trẻ không? Như trong giả thuyết trước, cái chết của Xyooj sẽ là một tổn thất phụ. Giả thuyết này bị những người từng quen biết Cha và những người hiểu rõ môi trường của người Hmong bác bỏ. Nó cũng bị những lời khai của chính những kẻ đã giết ngài bác bỏ. 

3. Liệu Xyooj có đồng lõa với những kẻ muốn giết Cha, và sau đó anh bị loại bỏ vì là một nhân chứng khó chịu? Giả thuyết này đã được đưa ra133. Những người từng tiếp xúc với lòng trung thành và đức tin Kitô của anh cho rằng giả thuyết này là vô lý134; nó hoàn toàn không thể đứng vững trước những lời khai nhất quán từ những kẻ đã giết anh. 

Liên quan đến ba giả thuyết về sự phản bội này, Đức cha Louis-Marie Ling, Giám mục Paksé muốn làm chứng: 

"Người Hmong không bao giờ phản bội một người bạn. Họ thẳng thắn và trực tiếp, và nếu họ muốn hãm hại ai đó, họ sẽ nói thẳng vào mặt người đó, chứ không hành động bằng cách che giấu hay lừa dối."135 

4. Liệu mục tiêu đã nhằm vào những người đi đường đến từ làng Kiukatiam, một làng có phần là người Kitô hữu? Toàn bộ làng đã được biết là trung thành với chính phủ hợp pháp của đất nước và trước đây đã từng tự vệ trước một cuộc tấn công của lực lượng du kích. Người ta đã tìm cách - nhưng không thành công - để trang bị cho người dân làng một số vũ khí phòng thủ. Có lẽ đây là một nguyên nhân đủ, nhưng rất khó tin rằng, cách xa làng đến vậy, lực lượng du kích lại tốn công gắng gỏng để tiến hành một cuộc trả đũa nhằm vào hai con người ôn hòa và không mang vũ khí136. 

Ngược lại, sự hiện diện của Giáo hội Công giáo hoàn toàn có thể là mục tiêu chung trong hành động nhằm vào hai người này. Nhiều lời khai và sự kiện thực tế cho thấy rằng, trong thời kỳ đó, lực lượng du kích muốn triệt để xóa sổ sự hiện diện của đạo Kitô tại đất nước này. 

Đối với những người quen biết Xyooj, điều đó rõ ràng: anh yêu mến tôn giáo và muốn giúp đỡ các nhà truyền giáo trong công cuộc truyền giáo; và đó là lý do khiến anh bị giết. Như lời rao giảng của anh tại Na Vang đã chứng minh, chính anh cũng nhận thức rằng khi lựa chọn đạo Kitô, và càng hơn thế nữa là đặt bản thân vào vai trò phục vụ công cuộc truyền giáo, anh đang đặt mạng sống của mình vào tình thế nguy hiểm137. 

Một nhân chứng gốc từ Na Vang nhớ lại một câu nói đã để lại dấu ấn trong anh: "Khi Xyooj dạy đạo Trời, anh ấy nói với chúng tôi rằng nếu một người bạn của anh ấy gặp nguy hiểm đến tính mạng, anh sẽ không bỏ rơi người ấy, mà sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình để cứu người ấy138." Đó cũng chính là lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: "Không có tình yêu nào lớn hơn là tính mạng người hy sinh vì bạn hữu mình" (Ga 15,13). 

Một cuộc đời nêu gương, một cái chết là dấu chỉ hy vọng

Một nhân chứng từ Na Vang, người là một cô gái 17 tuổi khi Xyooj đến, bày tỏ tâm trạng chung: sau gần nửa thế kỷ, cô vẫn ghi nhớ rõ nét vóc dáng, khuôn mặt, nụ cười của anh, "và đặc biệt là những lời của anh vẫn còn vang vọng trong tôi139". Tin tức về cái chết của anh đã làm xáo trộn ngôi làng mà anh đã truyền giáo, gây ra nhiều buồn đau và nước mắt; nhưng nó không làm lung lay đức tin nơi Chúa Giêsu, Đấng chiến thắng mọi điều ác trên trần gian, Đấng mà họ đã tin theo lời chứng của anh. 

Còn đối với những người cùng làng với anh, những người đã biết anh trước khi anh trở lại đạo và khi anh, lúc còn thiếu niên, đang chuẩn bị lãnh nhận Phép Rửa Tội, họ đã nói về anh với cảm xúc dạt dào và nêu gương anh là người đã mang Tin Mừng đến cho các làng Hmong khác trong vùng. Cha Umberto Nespolo, dòng Đa Minh, người đã là nhà truyền giáo tại Kiukatiam và hiến dâng cuộc đời cho công cuộc truyền giáo giữa cộng đồng người Hmong tại Lào và trong cộng đồng di dân, đã khẳng định: 

  "Cho đến ngày hôm nay, tôi có thể quả quyết rằng những ngôi làng này vẫn trung thành với Đức Kitô và Hội Thánh của Ngài."140 

* * * * * * *

Khi kết thúc câu chuyện này, hoàn toàn dựa trên những lời tuyên bố của những người đã trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến và trên những nghiên cứu sâu rộng tại chính hiện trường và kho lưu trữ, chỉ cần trích dẫn một vài lời chứng nhân có tư cách. 

"Xyooj chỉ ở với chúng tôi trong vòng một năm; nhưng những việc làm của anh dành cho chúng tôi thật rất nhiều. Những người Hmong đã lãnh nhận đức tin vẫn nhớ những điều tốt đẹp mà anh đã làm... Xyooj là tấm gương về một con người nhiệt thành để giới thiệu Chúa Trời với người Hmong. Anh là một tấm gương mà tôi đã nỗ lực noi theo suốt cuộc đời mình [...]. Xyooj thường nói với chúng tôi rằng anh sẽ hiến dâng cuộc đời mình cho việc dạy đạo, và điều đó đã xảy ra với anh."141 

"Đây là điều mà tôi luôn mong muốn nói ra từ lâu: Giáo lý viên Xyooj, người đã bị giết cùng với Cha Mario, cũng là một thánh tử đạo chân chính vì Tin Mừng."142   

"Tôi tin tưởng và tin rằng Xyooj và Cha Borzaga hiện đang ở bên Đức Chúa Trời, bởi vì hai người này đã trải qua một con đường quá khó khăn. Xyooj và Cha chắc chắn là những vị thánh trên trần gian và sẽ như thế mãi mãi trên Thiên Đàng."143 

Những ai đã từng quen biết giáo lý viên trẻ Thoj Xyooj ngày xưa, và những người ngày nay được nghe nói về anh, đều vui mừng khi nghe những lời này. Họ tin tưởng rằng Giáo Hội Công Giáo sẽ chính thức công nhận những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời và cái chết của anh, và đề cử anh làm gương mẫu cho tất cả các tín hữu. 

Dưới đây bản gốc Pháp Ngữ

Một Giáo lý viên người Hmong giữa lòng dân tộc : Paul Thoj Xyooj

(1941 – 1960)

 

 

“Tiam sis nws hais rau kuv tias : Kuv lub txiaj txaus koj lawm, lub hwj huam nres nroos tus muag luav... 

Ua kuv txaus siab rau kev muag luav, raug tsawm, raug quab yuam,  

raug tsim txom thiab txais kev txhawj xeeb vim Leej Pleev ;  

yog kuv muag luav txawm cuab kub zog loj thaum ntawd.” 

« Le Seigneur m’a déclaré : “Ma grâce te suffit : car la puissance se déploie dans la faiblesse.”  C’est pourquoi je me complais dans les faiblesses, dans les outrages, dans les détresses,   dans les persécutions et les angoisses endurées pour le Christ ;  car, lorsque je suis faible, c’est alors que je suis fort. »  2e épître de S. Paul aux Corinthiens, 12, 9-10  

« Par amour pour le Seigneur, il a consacré toutes ses forces au service de l’Eglise,   assistant les prêtres dans leur mission.   Il persévéra jusqu'au don du sang, pour demeurer fidèle   à l'amour de Celui à qui il s’était donné totalement. » 

Bienheureux Jean-Paul II, homélie pour la béatification d’André de Phú Yên,  
catéchiste de 19 ans, protomartyr du Viêt-nam (5 mars 2000).

       

I – Préparation et premiers succès du « petit prince des Hmong »

L’évangélisation du Laos dans le cadre des missions catholiques, depuis la fin du xixe siècle jusqu’au troisième quart du xxe, attend encore son historiographie définitive1. Aujourd’hui, l’Église catholique locale souhaite faire revivre la mémoire de son passé et surtout celle des témoins qui ont donné leur vie pour la mission. Parmi eux, une place privilégiée revient à un jeune catéchiste hmong mort à 19 ans, Thoj Xyooj2.

La vie du jeune Paul Thoj Xyooj est exemplaire à plus d’un titre : un parcours de catéchiste aussi remarquable que bref, auquel sa mort héroïque – objet d’un prochain article – a donné sa grandeur définitive. De nombreux témoignages sont venus éclairer par touches successives cette figure emblématique de la mission au Laos. Des recherches dans les archives ont permis de resituer sa vie, avec ses lumières et ses ombres, dans un cadre historique solide.

La biographie qui en résulte juxtapose, dans un contrepoint fascinant, le regard des Européens sur Xyooj et celui de ses compatriotes. 

* * *

 Thoj Xyooj (ou Thao Shiong3) est né en 1941 à Kiukatiam, dans la province de Louang Prabang. Kiukatiam était un village hmong, appelé dans cette langue Roob Nyuj Qus, c’est-à-dire la « Montagne des Gaurs ». Le village était situé à 1 000 m d’altitude, au sommet d’une montagne un peu au sud de la route n° 13, au nord-ouest du mont Phou Khoun en direction de Louang Prabang, la capitale royale du Laos, distante de 80 kilomètres4. La première évangélisation y avait été entreprise par le Père Yves Bertrais, o.m.i., qui y demeura de 1950 à 19585

 Les années d’enfance et d’adolescence

Le jeune Xyooj fait partie de la première génération des villageois qui embrassa la foi chrétienne. Il avait perdu son père, qui était le chef du village, avant l’âge de neuf ans. En 1950, lorsque le Père Bertrais arriva pour la première fois chez les Hmong de Kiukatiam, c’est sa mère qui le reçut et lui prépara son premier repas6. Xyooj fut bientôt un jeune catéchumène convaincu, intelligent et éveillé. Il s’attacha de plus en plus à la mission et au missionnaire. Un de ses neveux explique :  

« Mon père m’a dit que, du jour où le missionnaire était venu au village, son petit frère Xyooj était tombé amoureux de l’Évangile. Il aimait fortement la religion, et c’est pour cela qu’il allait partout avec le prêtre, pour annoncer et enseigner la religion dans un village après l’autre, partout où allait le Père7. »   

À 16 ans, Xyooj s’ouvrit au Père Bertrais de son désir d’être prêtre8. Jugeant qu’il en avait les aptitudes, on décida donc de l’envoyer en formation au Petit Séminaire de Paksane. L’année précédente, la Mission avait ouvert là une nouvelle section, destinée à former des futurs catéchistes. Xyooj y serait élève ; pour le sacerdoce, on verrait plus tard. La maman résista : elle ne voulait pas entendre parler de cette nouveauté ; c’est finalement un des deux grands frères de Xyooj, chez qui ils habitaient, qui emporta la décision. 

Il restait bien un problème : le candidat séminariste n’était que catéchumène, et les baptêmes n’étaient prévus que pour l’année suivante. Qu’à cela ne tienne : Xyooj fut baptisé dès le dimanche 8 décembre 1957, de la main du Père Bertrais. À cette occasion il reçut le nom de l’apôtre Paul, un nom qu’il allait porter avec honneur9

Le 11 décembre, une véritable expédition se mit en route vers Paksane, via Vientiane, sous la conduite des Oblates missionnaires de Marie Immaculée venues chercher une équipe de quatre filles hmong qui devaient étudier chez elles ; deux garçons destinés au séminaire s’y ajoutaient, dont Xyooj. Ce n’est pas sans un pincement de cœur que ces jeunes Hmong partaient pour la plaine du Mékong, si loin de leur peuple et de leurs montagnes10

À Paksane, un des compagnons d’études de Xyooj fut Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, futur évêque de Paksé, qui n’avait alors que 11 ans mais se souvient bien de ce compagnon plus âgé, qui parlait une langue si différente de la sienne (le kmhmu’). À l’école, Xyooj était connu sous son nom laotien de « Khamsè ». Il a laissé le souvenir d’un adolescent vif, dynamique et sympathique. Il avait, toutefois, un problème de santé : une plaie ulcéreuse à la jambe, consécutive à un accident de son enfance, qui ne guérissait pas et le handicapait passablement11. Mgr Ling témoigne : « Dans les heures de classe et de bricolage, il était toujours avec nous, mais dès qu’il s’agissait de faire du sport, il devait s’asseoir et se contenter de nous regarder. Pour un jeune homme de son âge c’était une épreuve12. » Plus tard, sa mère réussira à guérir la plaie par les ressources de la médecine traditionnelle13

Xyooj ne compléta pas sa formation à Paksane14. Au bout d’un an il était de retour à Kiukatiam. Il restait toutefois attaché à sa vocation de catéchiste et allait poursuivre sa préparation sous la direction des missionnaires, en mettant peu à peu la main à la tâche.  

À l’école du village, il enseignait aux enfants les langues lao et hmong ; comme catéchiste, il était débutant mais déjà fort apprécié. Les témoins de cette période décrivent unanimement un jeune homme d’une grande gentillesse, souriant et disponible, toujours prêt à rendre service et rempli de compassion pour les personnes en difficulté. Un de ses élèves précise : « Il aimait Dieu et le travail pour Dieu. Ce n’était pas un orgueilleux, il était humble15. »  

Un jeune catéchiste est envoyé en mission

Cette même année 1958, la mission dans la région de Louang Prabang (nord-ouest du Laos) avait été confiée aux Oblats italiens sous la direction du Père Leonello Berti16. Les responsables s’intéressèrent à la province de Louang Nam Tha, aux confins de la Birmanie et de la Chine. Les Hmong du gros village de Na Vang17 entendirent bientôt parler de leurs frères devenus chrétiens ; ils voulurent connaître à leur tour « ces ‘Jésus’ qui donnaient des médicaments pour soigner les malades. »18  

Le village se trouvait dans le district de Ban La Xeng (Npam Laj Xees en hmong), proche de Vieng Poukha et de Ban Takeo, à une journée et demie de marche au sud-ouest du chef-lieu de Nam Tha19. Les missionnaires envoyés là, Alessandro Staccioli et Luigi Sion20, ne parlaient que le lao, que les Hmong ne comprenaient pas ; aussi demandèrent-ils à Kiukatiam de leur prêter un catéchiste hmong. Xyooj était disponible : sur recommandation du Père Berti, c’est lui que le Père Mario Borzaga21, désormais en charge de cette mission, décida d’envoyer22. Il serait placé sous la responsabilité du Père L. Sion, jeune missionnaire tout aussi débutant. 

Le départ fut donné le mardi 21 avril 1959 ; pour le jeune homme c’était une grande aventure au service de l’Évangile, il était « plein d’enthousiasme et de courage »23

Quelques jours plus tard, il était à pied d’œuvre. Dans le journal de la Mission de Nam Tha, le Père Staccioli note : 

« Le Père Sion… a entendu que le pasteur était allé visiter quelques villages hmong qui semblent bien disposés ; il a décidé d’y aller lui aussi. Justement, avant-hier un catéchiste hmong de Kiukacham arrivait pour sonder les dispositions des Hmong de cette région. Ils sont donc partis hier, le P. Sion, Xyooj (le catéchiste hmong) et Khamphone. »24

Lorsqu’il arriva à Na Vang avec le Père Luigi Sion, o.m.i., et Khamphone, un instituteur lao chrétien de Paksane, Xyooj fit sensation. C’était un vendredi soir, le 1er mai 195925. Selon les souvenirs précis d’un jeune homme du village qui plus tard sera catéchiste à son tour, on était en pleine saison de l’essartage, et les familles rentraient des champs26. Xyooj portait son costume hmong avec un chapeau noir à pompon, ainsi que les trois colliers d’argent reçus de son père, dont il était fier.  

Lui-même aimera raconter plus tard cet épisode, comme le rapporte un témoin : 

« Les Hmong de Nam Tha disaient : “Voici le Roi hmong qui arrive, avec son collier gros comme le bras.” Ils appelaient le Père ‘Jésus’. Je leur ai répondu : “Je ne suis pas un roi hmong, je suis seulement un jeune garçon venu avec le Père. Je ne suis pas un chef, je suis venu seulement pour accomplir un devoir : annoncer et enseigner la Bonne Nouvelle de Dieu.” »27  

On lui demanda des précisions. Xyooj leur dit que Jésus était vainqueur de tous les démons.  

C’était la première fois que ces Hmong entendaient dire qu’un homme, Jésus, n’avait pas peur des démons et même les chassait. Ils se dirent entre eux : « Voilà que le Dieu nouveau va venir. »28 Ils voulurent également savoir si, dans les cérémonies de mariage, les rites pour les morts, les fêtes traditionnelles, etc., on pouvait manger de la viande ; en effet, des protestants étaient passés par là et leur avaient dit qu’il ne fallait pas manger de viande de porc ni boire d’alcool. Xyooj les rassura à ce sujet. Ils l’invitèrent alors à rester avec le Père dans leur village et les logèrent tout d’abord dans des familles29.  

La toute première annonce

Le lendemain 2 mai, les gens continuaient à venir voir et entendre les voyageurs, oubliant leurs cultures pendant deux jours entiers. Ils les invitaient, à tour de rôle, à venir manger chez eux, selon la coutume d’accueil hmong. Sans plus tarder, Xyooj commença, avec ardeur et foi, l’enseignement des premiers rudiments de catéchisme. Les premiers jours ce fut en plein air, puis dans la maison du chef du village, à la lumière de lampes à pétrole. Comme il était petit de taille, il devait se jucher sur un banc de chamane afin d’être vu de tous. Il mettait les enfants devant et les plus grands derrière. Plusieurs témoins évoquent ces journées :  

« Les femmes âgées venaient soupeser les pendentifs de son collier d’argent, tâter sa calotte hmong, palper ses doigts lisses ; elles voulurent peser à la balance ses colliers. Il leur souriait et elles riaient… Quand il souriait on voyait ses dents toutes blanches. Tous firent silence. Alors Xyooj commença à parler. Il dit qu’il venait enseigner des livres. Il venait faire apprendre aux jeunes des chants. Il allait enseigner la Doctrine du Ciel. Il venait dire de rejeter le culte des esprits. Trois jours et trois nuits de suite, tout le monde est venu écouter Xyooj. »30

« Quand il enseignait les prières, les gens ne comprenaient pas bien, car c’était nouveau pour eux ; Xyooj, qui était très intelligent et malin, prenait une écorce souple de roseau et la pliait en accordéon pour expliquer chaque partie de la prière, et faire comprendre qu’elle comprenait un certain nombre de mots. Il avait une manière de parler très nette et claire ; il était très patient pour enseigner. »31

Tous eurent vite fait d’apprendre le « Notre Père » et le « Je vous salue Marie ». D’autres prières suivirent ; le Credo offrit l’occasion de raconter l’histoire du salut. H. en a conservé des souvenirs détaillés :  

« Xyooj parlait de Dieu et de son travail de six jours pour créer le ciel et la terre, et du repos du septième jour, que les chrétiens observent pour se rappeler Dieu. Il exposait le péché du premier couple, Adam et Ève. Il évoquait Moïse, le berger au grand cœur qui surveillait ses moutons dans le désert, sa vision d’un buisson en feu qui ne se consumait point, et la voix qui lui dit : « Fais sortir d’Égypte mon peuple d’Israël. » Il narrait l’histoire de la Vierge Marie, devenue enceinte de l’enfant Jésus, et partie au Paradis sans que son corps ne change comme c’est le cas pour nous, pauvres mortels. »32

Pour un peuple migrant comme les Hmong, familiers de l’exil, l’histoire de l’Exode avait, bien entendu, une puissance extraordinaire. 

Đúng vậy, đối với một dân tộc du mục như người Hmông, quen thuộc với cuộc sống lưu vong, câu chuyện về cuộc Xuất Hành thật sự có một sức mạnh phi thường. Với kinh nghiệm di cư liên tục, họ có thể dễ dàng đồng cảm với những gian khổ và thử thách mà dân Do Thái đã trải qua trong hành trình ra khỏi Ai Cập tìm về Đất Hứa. 

La Bonne Nouvelle tombe dans une bonne terre

D’emblée Xyooj fut perçu comme un garçon différent des autres, plein d’amour pour les personnes. Il avait le don de la parole. Il était très gai et ouvert à tous sans exception. Tous l’aimaient ; tous, des enfants jusqu’aux plus âgés, voulaient l’entendre parler de la religion du Ciel, la Bonne Nouvelle de Jésus mort et ressuscité, vainqueur de tout le mal sur terre et vainqueur des démons.  

Xyooj enseignait aussi les prières et les chants religieux. Il chantait très bien, avec une belle voix qui attirait les gens. Il chantait avec les personnes âgées, avec les jeunes, et cela réchauffait le cœur de tous les villageois. Un témoin raconte :  

« Quand il enseignait les chants, il ne le faisait pas qu’avec la bouche, mais aussi avec ses mains. Comme cela, tout le monde chantait en même temps. C’est bien là ce que j’ai vu, et c’est la vérité. »33  

Ainsi le jeune catéchiste semait la Parole de Jésus de plusieurs façons, et tous étaient remplis d’enthousiasme. Le témoin, qui n’était encore à l’époque qu’une jeune fille, relate :  

« Ce que j’ai senti et vu de mes yeux, c’est que Xyooj a fait un travail fantastique, que personne n’a jamais pu faire comme lui ; cela m’a profondément réchauffé le cœur. Des protestants étaient passés deux fois pour faire leur propagande, mais cela ne nous avait pas touchés. Quand Xyooj est arrivé, ce qui s’est fait en deux ou trois jours est inexplicable, tant notre cœur était brûlant et bousculé. On n’avait jamais entendu personne parler comme lui. Chaque jour, j’allais travailler aux champs et je pensais tout le temps que le soir, après le travail, j’irais l’écouter enseigner et cela me faisait tellement chaud au cœur ! »34

La Parole reçue commençait à germer dans les cœurs. Ils demandaient : « Si tu chasses tous nos esprits chamaniques, comment ferons-nous ? Il n’y aura plus d’esprit pour veiller dans nos maisons. » Il répondait :  

« Quand vous serez croyants, on chassera tous les esprits que vous honorez ; il y aura le prêtre et le catéchiste avec vous. Dieu est le plus grand de tous et, à ce moment là, il n’y aura plus de démons pour faire peur. Quand vous passerez dans des lieux sauvages, près des étangs et des fourrés de broussailles, vous n’aurez plus peur des démons. »35  

Les paroles de Xyooj touchaient avec force la vie et le cœur de ses auditeurs. Tous virent que ses paroles étaient sages : ce n’était pas du mensonge. Un témoin conclut : 

« Sans Xyooj, nous pensons que nous ne serions jamais devenus chrétiens, car nous ne comprenions pas le Père. Il ne connaissait pas bien notre langue et cependant nous soignait et nous aimait bien, mais il ne pouvait pas enseigner comme Xyooj. »36

De la semence tombée en terre naît une communauté de croyants

Dès le troisième jour, impressionnées à la fois par le messager et sa prédication, la moitié des familles du village, soit dix-sept maisons, avaient demandé à entrer en catéchuménat pour être chrétiennes37.

*Ce même jour, depuis midi jusqu’au soir, Xyooj accompagna le Père Sion pour chasser les esprits chamaniques dans chacune des maisons des catéchumènes, à commencer par celle du chef du village. C’est lui qui détruisit de ses mains les autels chamaniques et les édicules dédiés aux esprits domestiques ; il n’avait pas peur. Il fit brûler le tout : toutes les maisons fumaient ! On n’avait jamais vu cela auparavant : un homme ayant le courage de faire une telle chose. 

Dans le calendrier chrétien, ce 3 mai était le cinquième dimanche après Pâques, juste avant les Rogations où l’on bénit les semailles et la fête de l’Ascension. Ce dimanche-là, la messe dominicale allait être célébrée publiquement pour la première fois dans un village encore dépourvu de toute présence chrétienne, mais désormais catéchumène. La liturgie s’ouvrait sur un texte très approprié :  

« Avec des cris de joie, annoncez-le, et qu’on l’entende ! Répandez-le jusqu’aux extrémités de la terre : le Seigneur a libéré son peuple ! Alléluia, alléluia ! »38  

Et l’Évangile du jour reprenait les paroles de Jésus à la dernière Cène :  

« En vérité, en vérité, je vous le dis, ce que vous demanderez au Père, il vous le donnera en mon nom ; demandez et vous recevrez, pour que votre joie soit complète… car le Père lui-même vous aime. »39

Très vite, la nouvelle se répandit dans les villages des alentours, et les gens commencèrent à venir écouter Xyooj. Deux ou trois heures et jusqu’à une journée de marche ne leur faisaient pas peur pour venir entendre la Bonne Nouvelle de Jésus, et ils se mirent à l’aimer. Ils admiraient le travail d’enseignement de Xyooj et son dévouement. Lui ne pouvait certes pas tout faire, mais avec sa patience et sa bonne volonté il réussit à enseigner à tout le monde.  

Le nombre des catéchumènes ne cessa d’augmenter, pour la plus grande joie du catéchiste : vingt-et-une familles au bout de quelque jours, vingt-cinq en deux semaines, bientôt trente ; cela fit au bout de l’année un total de quatre cents personnes40.  

La nouvelle fit rapidement le tour du pays et se répandit hors des frontières. En effet, les 5-6 mai Mgr Loosdregt et Mgr Giuseppe Caprio, qui assurait l’intérim de la Délégation apostolique41, étaient en visite à Nam Tha et purent recueillir les informations de la bouche même du Père L. Sion, redescendu en toute hâte de la montagne42.  

Le Père Borzaga, à Kiukatiam, se tenait au courant et se félicitait de son choix. Fin mai 1959 il faisait un premier bilan, paru en Italie dans le bulletin de l’Association des Amis du Laos : 

« On a cru bon d’envoyer comme catéchiste, pour seconder les Pères [à Nam Tha, Na Vang] un jeune homme de Kiukatiam : Paul Xyooj, doté d’une belle intelligence et d’un enthousiasme plus grand encore, a laissé ses champs et sa famille pour se rendre à Nam Tha. L’action de ce brave garçon s’est bien vite révélée efficace… En mai, le Père Sion et Xyooj ont entrepris une tournée qui a éveillé bien des espoirs. »43

En août, il écrira à l’intention des mêmes destinataires : 

« Na Vang… s’est converti à la religion catholique. Les Pères Staccioli et Sion ont attendu l’arrivée d’un brave jeune homme de Kiukatiam, Paul Xyooj, estimant qu’il serait plus à même de contacter les Hmong et de leur parler de la religion catholique… Jusqu’à présent, tout le travail [à Nam Tha] s’était fait en laotien. Avec l’arrivée à Nam Tha de notre Xyooj, ce fut un défilé de Hmong ; durant des journées entières, ils venaient à la Mission catholique pour entendre de la bouche d’un authentique Hmong, qui parlait leur langue, ce que c’était que la religion du Seigneur du Ciel. »44

Quant à Xyooj, resté seul en charge dès le 5 mai pour deux semaines, avec l’instituteur lao dont le rôle restait muet par la force des choses, il ne faiblissait pas. La communauté des croyants grandissait et se fortifiait45… Elle eut bientôt besoin d’un lieu à elle. H. commente : 

« Lorsque les vingt-et-une familles sont devenues chrétiennes, [Xyooj] était vraiment heureux, et il nous disait de venir nous rassembler tous ensemble pour remercier le Ciel de nous avoir sauvés. Il nous a pressés de construire rapidement une église, où tout le monde pourrait venir prier et chanter la foi, et une école où tout le village pourrait venir apprendre le catéchisme, et à lire et à écrire le hmong. »46

Le chef de village prit la direction du chantier de construction ; à côté de la grande maison pour l’enseignement il fit bâtir une maisonnette pour le Père. Xyooj partait avec tous en forêt pour couper les arbres nécessaires et les monter au village pour la construction47

Trưởng làng đã đảm nhiệm việc xây dựng; bên cạnh ngôi nhà lớn dùng để giảng dạy, ông xây dựng một căn nhà nhỏ cho Cha ở. Xyooj cùng đi rừng với tất cả mọi người để chặt cây cần thiết và khiêng về làng để xây dựng47. 

Portrait d’un jeune catéchiste

Xyooj avait les qualités et les défauts propres à son âge et à sa culture. Mais ce sont bien ses qualités humaines et spirituelles et ses talents qui firent une impression durable sur tous les villageois. Non seulement il croyait en Dieu d’une foi solide, mais il était honnête et travailleur.  Le témoignage de H., qui a vécu avec Xyooj à Na Vang mais aussi à Kiukatiam dans les dernières semaines de sa vie, est à ce sujet le plus complet : 

« Xyooj était quelqu’un qui ne se vantait pas, n’était pas hautain et ne disait pas de méchanceté. Il était rapide à la tâche, actif et patient… Il était solide dans sa religion, et dynamique dans le travail pour Jésus. 

« Je peux dire que Xyooj aimait Dieu, les personnes, l’Église et les chrétiens. Je dis cela parce que je l’ai vu travailler dur pour Dieu, pour l’Église et les chrétiens. Les travaux que je l’ai vu accomplir sont les suivants : (1) enseigner le catéchisme – il adorait enseigner le catéchisme au peuple hmong ; (2) enseigner la langue hmong ; (3) distribuer les médicaments et faire les piqûres aux malades du village ou à ceux qui habitaient loin ; (4) montrer aux gens comment prier chez eux. 

« En ce qui concerne la vie au village, jeunes ou vieux, hommes ou femmes, enfants, handicapés mentaux ou personnes intelligentes, Xyooj nous aimait tous de la même façon. Il discutait avec tous. J’ai vu qu’il n’était pas hautain. Il parlait et riait avec tout le monde. Il aimait beaucoup Yeej le simple d’esprit et Kawm l’infirme. Nous mangions ensemble et j’avais donné une cuisse de poulet à Xyooj pour qu’il la mange, mais au lieu de la manger il la donna à Yeej le simple d’esprit. Il me dit : “Celui-là est très malheureux. Il nous regarde manger avec envie : pourquoi ne lui donnons-nous rien ? Lui aussi est un enfant de Dieu comme nous tous.” »48

Un autre témoin confirme : 

« Son amour envers les autres était si grand qu’il aimait bien parler avec tout le monde : jeunes gens, personnes âgées, les pauvres et les enfants, toujours avec tendresse. Il était très souriant et ne se mettait jamais en colère. Ce que je dis, c’est ce que j’ai vu, et c’est la vérité. »49  

Qu’en pensait le missionnaire, son responsable direct ? Il avait nécessairement d’autres critères d’appréciation et donc un regard plus critique. La formation de Xyooj comme néophyte et comme catéchiste était somme toute restée inachevée.  

Le 13 juillet, le Père L. Sion écrit : « Je n’ai pas à me plaindre de la conduite du catéchiste ; malheureusement, je ne suis pas encore en mesure de préparer sérieusement le catéchisme avec lui, car j’ai à peine commencé à étudier la langue. Je dois me contenter de lui adresser quelque exhortation en laotien50. » Un mois plus tard, il ajoute : « L’école continue à bien marcher, même si le besoin se fait plus urgent de quelqu’un qui puisse donner une formation solide51. » Le missionnaire est cependant obligé de constater qu’en son absence la ferveur des catéchumènes ne tiédit pas, et qu’ils ont appris à prier par eux-mêmes52.  

La foi grandit et s’affermit

De nombreux auditeurs se souviennent avec précision de l’enseignement donné par Xyooj dans les semaines et les mois qui suivirent la conversion du village. Un témoin, qui à l’époque était une fillette, raconte : 

« Xyooj a le cœur brûlant d’enseigner tout le monde. Tous les jours il frappe le gong trois fois pour convoquer le village. Dans la matinée, puis de nouveau l’après-midi, il convoque les jeunes pour étudier l’écriture. À la nuit, tout le village étudie la Doctrine du Ciel. Quand nous arrivons, il fait le tour pour recevoir tout le monde. Il interroge les femmes adultes sur leurs essartages, sur le riz qui pousse, sur le trajet pour aller aux champs… Les dimanches, le gong appelle les croyants à venir faire le culte du Ciel. Xyooj enseigne d’abord la Doctrine du Ciel à tous, puis il fait étudier les chants. Alors commence le Sacrifice au Ciel… Il n’est qu’un jeune homme, mais il parle avec la dignité d’un maître qui enseigne le chemin de la Foi depuis de nombreuses années53… 

« Nous, les enfants, nous étudions la Doctrine du Ciel, et nous nous exerçons à lire l’écriture hmong. Nous étudions soixante-trois résumés de la Doctrine du Ciel, pour qu’elle entre bien dans notre cœur. Nous regardons les tableaux dessinés et ainsi nous en comprenons le sens. Chaque leçon avait son tableau. Chaque soir nous étudions une image nouvelle et revoyons celle de la veille. »54

Ces tableaux étaient les « images Bernadette », des gravures toutes simples en noir et blanc, produites par les Sœurs Bernadettes de la communauté bénédictine de Thaon-les-Vosges en France55.  

L’enseignement du catéchisme allait de pair avec celui de la langue et de la culture hmong. En cela, il était un disciple attentif du Père Bertrais. Un autre témoin s’exprime là-dessus :  

« Tous les soirs l’écriture hmong est enseignée aux adultes et aux jeunes. Quand il se fait tard, une partie repart chez soi. Mais Xyooj reste encore, racontant des contes et légendes ou bavardant simplement avec ceux qui le désirent. »56

Au bout de deux mois, tous les jeunes surent lire et écrire le hmong.  

Le Père René Charrier, qui pratiquait cette langue, avait été appelé en renfort pour un mois, afin de commencer à former les futurs cadres de la communauté chrétienne57. Début juillet 1959, il emmenait vers Kiukatiam un jeune couple avec un bébé et trois jeunes gens ; là, dans la jeune chrétienté hmong la mieux établie, ils allaient parfaire leur apprentissage de la doctrine et de la vie chrétienne, en vue d’être catéchistes à leur tour58. H. et K. faisaient partie du groupe. K., qui prolongea de six mois son séjour à la demande du Père Borzaga, sera le dernier habitant de Na Vang à voir Xyooj vivant59

D’autres visiteurs vinrent inspecter ou admirer ce qui se faisait à Na Vang : ainsi le Père Leonello Berti, responsable des missionnaires italiens ; du 12 au 28 septembre, à la demande de ce dernier, Mario Borzaga vint là à son tour pour donner un coup de main, accompagné de l’un ou l’autre catéchiste60. Un des services notables rendus fut de donner quelques leçons particulières de catéchisme à Xyooj, « qui a l’air d’y comprendre quelque chose », écrit-il61

En janvier 1960, après le départ de Xyooj, Mgr Étienne Loosdregt, évêque de Vientiane, viendra vérifier en personne l’avancée de la foi et l’implantation de l’Église à Na Vang. Les témoins hmong se souviennent encore de sa longue barbe. Il a laissé, en guise de rapport, une lettre détaillée qui jette une lumière originale sur l’action du catéchiste durant les quelque sept mois de sa présence, et soulève à nouveau la question de la formation : 

« Je vous écris au milieu d’une bande de méos qui admirent l’agilité avec laquelle j’écris. […] Le P. Sion Luigi a dans la montagne un coin bien rude d’accès. Depuis plusieurs mois, presque un an qu’il est ici, il a visité beaucoup de villages, possède une très modeste chapelle école, et une maison qui n’en est pas une ; un recoin sert de pharmacie-dispensaire (beaucoup, beaucoup de soins aux malades), un autre avec son lit, un autre coin pour son catéchiste, et une grande pièce commune toujours pleine de monde ; il compte 400 catéchumènes méots [sic] ; une trentaine de personnes chaque jour, dont un chef de village, des délégués d’autres villages, qui apprennent la religion, le méo, le laotien ; en plus ceux qui viennent le soir étudier. Tout ce qu’a produit le P. Bertrais en prières, chants, participation à la messe, est utilisé ici ; les gens se pressent autour de l’autel pour voir et vous chantent dans les oreilles du prêtre avec beaucoup de conviction et d’ardeur. Des jeunes gens étudient à Louang Prabang et deux jeunes ménages à Kiou Kacham… Bref, il y a de l’entrain. 

« L’inconvénient est que le père se sert surtout de catéchistes, l’un qui a étudié trois ans à Paksane, l’autre qui est resté 3 ou 4 ans avec les Pères Bertrais et Charrier. Le Père va beaucoup, beaucoup aux malades dans la montagne, comprend le méo, ne le parle pas encore ; le danger est qu’il prenne l’habitude de laisser faire l’instruction par les catéchistes. En tout cas, comme confort chez le P. Sion, zéro ; pas de cuisine, mange chez l’habitant à des heures très variables et des repas très peu compliqués. »62  

« Je vous écris au milieu d’une bande de méos qui admirent l’agilité avec laquelle j’écris. […] Le P. Sion Luigi a dans la montagne un coin bien rude d’accès. Depuis plusieurs mois, presque un an qu’il est ici, il a visité beaucoup de villages, possède une très modeste chapelle école, et une maison qui n’en est pas une ; un recoin sert de pharmacie-dispensaire (beaucoup, beaucoup de soins aux malades), un autre avec son lit, un autre coin pour son catéchiste, et une grande pièce commune toujours pleine de monde ; il compte 400 catéchumènes méots [sic] ; une trentaine de personnes chaque jour, dont un chef de village, des délégués d’autres villages, qui apprennent la religion, le méo, le laotien ; en plus ceux qui viennent le soir étudier. Tout ce qu’a produit le P. Bertrais en prières, chants, participation à la messe, est utilisé ici ; les gens se pressent autour de l’autel pour voir et vous chantent dans les oreilles du prêtre avec beaucoup de conviction et d’ardeur. Des jeunes gens étudient à Louang Prabang et deux jeunes ménages à Kiou Kacham… Bref, il y a de l’entrain. 

« L’inconvénient est que le père se sert surtout de catéchistes, l’un qui a étudié trois ans à Paksane, l’autre qui est resté 3 ou 4 ans avec les Pères Bertrais et Charrier. Le Père va beaucoup, beaucoup aux malades dans la montagne, comprend le méo, ne le parle pas encore ; le danger est qu’il prenne l’habitude de laisser faire l’instruction par les catéchistes. En tout cas, comme confort chez le P. Sion, zéro ; pas de cuisine, mange chez l’habitant à des heures très variables et des repas très peu compliqués. »63  

 La Bonne Nouvelle annoncée par Xyooj

Quelle sorte de catéchèse Xyooj donnait-il donc aux catéchumènes ? H. en précise le contenu, dans toute sa beauté naïve : 

« Les paroles que Xyooj nous a dit et qui nous ont fait croire pleinement sont les suivantes : “Vous êtes des personnes ayant le péché originel, alors vous êtes des pécheurs, et nous allons vivre seulement un temps sur cette terre car nous allons mourir et redevenir terre. Cependant, Dieu nous aime beaucoup, il ne nous a pas abandonnés ; c’est pourquoi il nous a envoyé son Fils unique Jésus, qui a été crucifié pour porter tous nos péchés. Il a été enterré trois jours seulement, et il est ressuscité. Il est avec son Père au ciel. Jésus va revenir pour les croyants afin de les ressusciter comme il a été ressuscité. Alors tous les hommes seront beaux et les femmes belles, tout le monde en bonne santé, et ils auront la vie éternelle. Ils vivront avec Dieu au Paradis, avec amour, comme les oiseaux qui volent dans le ciel, sans avoir à travailler mais en ayant à manger et de quoi se vêtir pour l’éternité !” »64

Une vieille grand-mère ne pouvait comprendre la question des esprits et des démons. Xyooj alla chez elle. D’autres témoins se souviennent de ses paroles : 

« Quand vous honorez les esprits, les esprits ont faim. Alors ils vous mordent, et vous devenez malades. Si vous ne leur donnez pas à manger, ils peuvent vous emmener où ils veulent. Mais à partir du jour où vous vous convertissez et croyez au Seigneur du Ciel, les esprits ne peuvent plus vous mordre. Quand arrive le jour où le Seigneur du Ciel vous appelle, vous allez au Ciel, c’est sûr ! »65

D’autres s’inquiétaient de la guérilla, déjà présente dans la région et qui n’aimait pas les chrétiens. Xyooj parlait alors fréquemment de l’exemple des martyrs du Viêt-nam, qui avaient donné leur vie pour leur foi, jeunes et vieux, missionnaires, catéchistes et simples fidèles. Il montrait comment on pouvait mourir pour la cause de la Doctrine du Ciel, endurer des souffrances quand les autres nous persécutent à cause de notre foi au Ciel. Il évoquait aussi les chrétiens persécutés de Chine. Il ajoutait :  

« Si l’on vous force à abandonner la Doctrine du Ciel, et que vous en veniez à renier Dieu, et si on vous tue, vous irez en enfer, c’est sûr. »66

Aux croyants adultes, il répétait fréquemment quatre principes de conduite :  

  • « Vous devez étudier et être suffisamment instruits pour recevoir le baptême ; vous serez alors enfants de Dieu, et vous monterez au Ciel. 
  • « Les parents doivent habiller leurs enfants ; même s’ils sont mal habillés, qu’ils aient au moins quelque chose pour apprendre la modestie.  
  • « Les croyants doivent laisser étudier leurs filles et leurs garçons ; ne laissez pas étudier les garçons seulement, car vos filles, c’est le Seigneur du Ciel qui vous les a données. 
  • « Si une fille ne peut pas étudier pendant le jour, elle doit étudier dans la soirée. »67

Et Xyooj leur citait en exemple les quelques filles de Kiukatiam qui étaient parties étudier chez les sœurs à Xieng Khouang. 

Toutes ces paroles touchaient vivement le cœur des Hmong ; ils disaient : « Xyooj a raison ! Nous devons faire comme il a dit68 ! »  

Un témoin conclut :  

« En peu de temps, les villageois ont été transformés ; ils sont devenus plus charitables, plus aimables et ils s’aimaient entre eux. »69

Quant à Xyooj, il ne restait jamais inactif dans le village ; il allait voir tout le monde, et à l’occasion il se rendait dans d’autres villages aux alentours pour parler de Dieu. 

L’apôtre des malades et des pauvres

Dans les moments où il n’était pas pris par l’enseignement, Xyooj était plein d’ardeur pour aider ceux qui étaient dans le besoin. Il rendait visite aux plus âgés et cela les touchait beaucoup.  

Au temps où l’on plantait le riz, il s’en alla aider deux mères de famille à faire leur plantation. Une famille couvrait sa maison, il était là pour besogner avec eux. Au moment où ce travail allait finir, quelqu’un est venu l’appeler pour des médicaments… 

En effet, tous les jours les malades venaient demander des médicaments pour soigner leurs maux. C’est Xyooj qui les recevait. Ils avaient peur d’aller trouver le Père, un étranger qui ne comprenait pas leur langue, mais ils avaient pleinement confiance en Xyooj. Après les avoir rassurés il les conduisait au Père. Il avait beaucoup de courage aussi pour aller visiter chez eux les plus gravement atteints. Parfois il faisait déjà nuit noire, et les Hmong venaient encore le chercher pour visiter leurs malades. 

Un père de famille était tombé d’un rocher et s’était gravement blessé ; mais ce jour-là Xyooj était allé prier le Ciel pour un Hmong malade dans un autre village. Deux fillettes s’en allèrent à sa recherche. L’une d’elles se souvient :  

« Les Hmong me dirent à moi et à ma grande sœur d’aller appeler Xyooj. Toutes deux nous courons, nous courons un long bout de chemin jusqu’au Village Ancien, à la maison du malade. Xyooj était en train de prier pour eux. Ils étaient en train de chanter ‘Le Bon Pasteur garde ses brebis’. Ma grande sœur et moi attendons assez longtemps. Xyooj n’en finissait pas de prier. Je vais alors lui dire : “Oncle Xyooj, grand-oncle Teem est tombé de la falaise calcaire, il est gravement blessé. Ils veulent que tu reviennes au village.” Aussitôt Xyooj laissa tout et s’en retourna avec nous au village. »70

Tout le monde apportait des légumes et du riz pour Xyooj et le Père. Sur le lit prévu pour l’auscultation des malades on déposait légumes, concombres, cannes à sucre, fruits cueillis dans la forêt. Xyooj en distribuait une grande part aux familles pauvres.  

Tout le village était admiratif devant son comportement.  

Projets de mariage

À dix-huit ans, selon la coutume hmong, les amis de Xyooj étaient tous mariés. Lui-même sentait le temps venu de préparer sa vie d’adulte. Aujourd’hui, on a de nombreux témoignages sur ses fréquentations de cette époque.  

À Na Vang, en effet, parmi les grandes filles, nombreuses étaient celles qui aimaient Xyooj. Elles venaient, toujours en groupe, pour faire davantage connaissance avec lui. Plusieurs mères de famille souhaitaient aussi l’avoir pour gendre ; l’une d’entre elles alla lui parler de sa fille… Xyooj aimait plaisanter avec ces jeunes filles, mais il ne pouvait pas rester longtemps avec elles parce qu’il voulait être disponible pour tous. 

D’ailleurs, dans son cœur Xyooj avait fait son choix, comme le font les garçons hmong. Cela se passa sans honte, de façon franche et ouverte. Si l’élue arrivait pour la classe un peu avant les autres, Xyooj lui jouait un air de guimbarde rien que pour elle. Parfois, en plaisantant, il mettait son nom dans les paroles d’un chant, pour la plus grande joie des autres jeunes filles. 

La fin d’une aventure

La belle aventure de Na Vang ne dura qu’un peu plus de sept mois. À la date du 12 décembre 1959, le journal de la Mission note laconiquement : « Xyooj est parti pour Louang Prabang71. » Les responsables lui avaient fait savoir en particulier qu’il devait rentrer sans délai à Kiukatiam et ne pourrait plus revenir à Na Vang. Que s’était-il passé ? On ne peut répondre directement à cette question, car ceux qui ont pris la décision n’en ont pas donné clairement les motifs. Aujourd’hui, on a toutefois un faisceau de témoignages indirects qui permettent de s’y retrouver un peu. 

Tout d’abord, le succès inhabituel et très rapide de la prédication de Xyooj amenait les responsables à se poser des questions sur son contenu. Dans l’expérience des missionnaires, la religion chrétienne est une religion exigeante, que des sociétés bien structurées comme les Hmong ont beaucoup de peine à accepter. Il faut normalement des années pour avoir le résultat qu’on avait obtenu ici en quelques semaines… Il y a notamment tout le domaine de la morale sexuelle, qu’il faut longuement expliquer, sans réelle garantie de succès. Il fallait assurer d’urgence au jeune homme une formation plus solide ; les leçons particulières reçues du Père Borzaga en septembre restaient insuffisantes. 

De là à soupçonner la familiarité que Xyooj avait envers les jeunes filles il n’y avait qu’un pas. Le jeune homme profitait-il de son succès, de son aura, pour les séduire et profiter d’elles ? Les avait-il trompées sur la question de la chasteté chrétienne72 ? On a même cru que la plaie ulcéreuse dont il souffrait, et dans laquelle on avait a cru à tort voir un signe de la syphilis, était une preuve de son inconduite73… 

Le Cours de pastorale pratique à l’usage des missionnaires du Vicariat de Vientiane les mettait en garde sur ces points :  

« Le missionnaire ne doit jamais laisser le catéchiste travailler sans contrôle même si ce dernier a reçu une formation catéchistique de plusieurs années… On doit faire confiance absolue à son catéchiste, mais ça ne veut pas dire qu’il faille être naïf ; on doit se défier parfois de l’enseignement qu’ils donnent et qui peut être erroné, et aussi se méfier de leur conduite morale… Quand le catéchiste a fait des fautes publiques avec les filles, il faut sévir… Parfois il est difficile d’expulser le catéchiste quand le travail urge vraiment, mais dans certains cas il faut se résoudre à cette solution… »74

Dans le cas de Xyooj, les témoins hmong et ceux qui connaissent le mieux la culture hmong rejettent avec force tous ces soupçons, qu’il s’agisse d’enseignement laxiste ou de mauvaise conduite. Selon son ami H., « en ce qui concerne les filles, il se comportait comme un jeune homme seulement, et tout le monde appréciait son comportement75. » Le Père Charrier, qui avait passé un mois à Na Vang avec Xyooj et qui a consacré toute sa vie aux Hmong, déclare : 

« L’accusation ne cadre pas du tout avec la réalité du village ni celle des Hmong du Laos. Les relations entre les jeunes gens des deux sexes étaient strictement réglementées et régies par la société hmong, et les règles morales efficacement appliquées. La surveillance des adultes était réelle… Il n’y avait pas de clé sur les portes mais un garçon ne pouvait pas entrer impunément dans la maison d’une jeune fille. L’adoption de la foi chrétienne n’a certes pas assoupli ces règles traditionnelles. »76

De même Mgr Tito Banchong Thopanhong, administrateur apostolique de Louang Prabang, qui est lui-même Hmong et a personnellement enquêté sur la vie et la mort du jeune catéchiste, conclut :  

« Xyooj s’est toujours comporté comme un garçon hmong de son âge, selon les coutumes et les usages de son peuple ; il n’a fait aucune faute. »77

Une autre interprétation est évoquée discrètement par plusieurs témoins : Xyooj aura été la victime de calomnies provoquées par la jalousie. On a su, bien plus tard, que l’un des propagandistes protestants, passés par là sans aucun succès, avait répandu sur son compte des bruits malveillants. Ces bruits ont pu être repris, entre autres, par un des collaborateurs de la mission, qui avait jeté les yeux sur la même jeune fille que Xyooj… Y avait-il eu une explication orageuse entre les deux hommes78 ? 

Quoi qu’il en soit, avec le recul des années la décision prise, si impopulaire qu’elle fût chez les villageois de Na Vang, peut apparaître sage. Malgré toutes ses belles qualités, son zèle et sa charité, Xyooj restait un tout jeune homme avec peu d’expérience de la vie. Son succès, l’admiration unanime dont il était entouré, les cadeaux qu’il recevait, tout cela risquait fort un jour ou l’autre de le faire dévier de son bel idéal, de faire naître en son cœur l’orgueil ou la suffisance, et de lui faire juger mal les ouvriers de l’Évangile qui avaient moins de succès que lui. De même, les néophytes et les catéchumènes de Na Vang devaient apprendre à suivre jusqu’au bout le Christ lui-même, et non pas celui qu’ils considéraient volontiers comme leur « petit prince hmong ». Son départ précipité allait être un test pour la solidité de leur conversion. 

Le départ

Les témoins rapportent l’épisode du départ avec une émotion qui reste vive même après tant d’années : 

« Tout le village est venu lui dire au revoir, et tout le monde pleurait. Il nous a consolés en disant que quelqu’un était déjà là pour le remplacer. On lui disait : “Au revoir, pense à nous, est-ce que tu reviendras ?” Ses dernières paroles ont été : “Je ne sais pas.” Il n’est jamais revenu ! Quand ils ont su sa disparition, les villageois de Na Vang ont pleuré et ont été très tristes. Le petit prince des Hmong avait disparu ! »79

« Le jour où Xyooj repartit, les croyants très nombreux ont voulu l’accompagner. J’étais là avec les autres filles et je sautais sur le bord du chemin. Nous étions déjà arrivés très loin quand il nous dit à tous de rentrer au village ; mais personne ne repartait. Les femmes âgées pleuraient. Xyooj s’est arrêté. Il a couvert ses yeux avec ses mains ; il pleurait, et nous pleurions avec lui, même les hommes et les femmes. Dans ses larmes il nous dit : “Ma mère, mes tantes, retournez, je vous en prie ! Je crains bien que je ne vous reverrai plus jamais !” Trois jeunes filles, dont celle qu’il aimait, l’ont reconduit jusqu’à Louang Nam Tha. Il a accroché à la veste de chacune, en souvenir, une médaille de la Sainte Vierge. »80

Le village converti par l’intermédiaire du catéchiste Xyooj allait-il passer le test de son absence ? Le choc fut rude, comme le relatent unanimement de nombreux témoins : 

« Quand Xyooj fut reparti chez lui, il y eut peu de Hmong à venir nouvellement à la foi… À la longue, ce fut une seule famille… »81

« D’autres catéchistes sont venus mais, il n’y a pas eu d’autres conversions ; sauf  quand le catéchiste H. est revenu à Na Vang [après sa formation à la Kiukatiam], il y a eu plus tard quelques familles converties… Par la suite, nous n’avons jamais ressenti, chez d’autres catéchistes, une chose qui nous attirait vers Jésus et qui émanait de Xyooj. »82

« Après le départ de Xyooj, il y eut un nouveau catéchiste pour enseigner le chemin de la foi, et un instituteur pour enseigner l’écriture. Personne ne les aimait. Nous n’allions pas souvent étudier l’enseignement de la foi, parce que le gong ne sonnait pas très souvent, et quand il sonnait c’était très tard le matin et tard le soir. Deux ou trois familles retournèrent à l’ancien culte, d’autres reprirent des séances chamaniques. La foi s’est affadie jusqu’à ce qu’arrive un nouveau prêtre et que notre catéchiste H., formé à la Montagne des Gaurs, en revienne pour aider les croyants. »83

Avec le recul du temps, les choses apparaissent toutefois sous un autre jour. Malgré d’innombrables difficultés – les divers exodes provoqués par la guerre, l’exil et la dispersion à travers le monde –, les chrétiens de Na Vang tout comme ceux de Kiukatiam sont restés foncièrement fidèles à leur foi. Le messager avait disparu, mais le message continuait à porter ses fruits.  

 

II – Le témoignage suprême

Si en dépit de son jeune âge l’Église catholique locale reconnaît en Paul Thoj Xyooj l’un de ses pères fondateurs, cela n’est pas dû à ses succès comme prédicateur. Au contraire, elle souhaite perpétuer sa mémoire en le faisant reconnaître comme un authentique martyr de la foi. L’objet de la cause introduite à Rome est d’établir le fait de la mort violente, les motifs qui y ont conduit et l’attitude du jeune homme en face de sa mort. De nombreux témoins se sont exprimés ; en raison de la situation générale du pays et des traditions d’omertà de leur peuple, ils ont réclamé l’anonymat, qui sera respecté84.

Sur la base de ces témoignages et de documents d’archives, les lignes ci-dessous évoquent les derniers mois de la vie du jeune catéchiste, ainsi que ses derniers instants. Objet de jugements hâtifs de la part des missionnaires européens, éloigné de son champ d’apostolat au grand regret des Hmong, Xyooj révèle dans l’épreuve son côté très humain. Il n’a rien d’un surhomme. Mais l’épreuve suprême arrive très vite et scellera de façon définitive la valeur exemplaire de son parcours de néophyte et de catéchiste débutant.  

Retour à Kiukatiam : projets de mariage

Dans le Cours de pastorale pratique utilisé alors au Laos pour l’instruction des missionnaires, il est dit : « Il ne faut jamais faire perdre la face à ces nouveaux catéchistes tout nouveaux sortis de l’école85. » Dans le contexte, on explique que le catéchiste devrait pouvoir se marier dès la sortie de l’école afin d’éviter tout faux pas de ce genre. Xyooj avait l’âge, mais il n’était pas marié86. Quant à la perte de face, de toute évidence elle était cinglante pour lui. Comment allait-il réagir ? L’amour qu’il avait montré jusqu’alors pour Jésus Christ, pour l’Évangile, pour l’Église et ses ministres, allait-il résister dans la tempête ? C’est là qu’il faut chercher les véritables signes précurseurs de la sainteté, la véritable préparation à son martyre – un martyre qu’il avait si souvent évoqué dans sa catéchèse à Na Vang87

À Kiukatiam, le Père Yves Bertrais88, son père spirituel, était parti depuis décembre 1958 pour d’autres horizons missionnaires. Son remplaçant, le Père Mario Borzaga89, Xyooj ne l’avait connu que bien peu de temps ; ses connaissances linguistiques et son expérience restaient limitées, mais les Hmong l’avaient déjà surnommé Txhiaj Tshaj, « Cœur sincère ». Xyooj eut la chance de trouver dans ce prêtre quelqu’un qui avait lui-même surmonté de graves désillusions, quelqu’un qui allait l’accepter sans a priori, décidé à lui redonner sa chance au nom de l’appel de Jésus Christ90. En se retrouvant, les deux hommes ne se doutaient pas à quel point ils allaient être liés pour toujours dans l’acte suprême du don de leur vie. 

L’intention des responsables était que Xyooj reste à Louang Prabang, au centre de la mission, pour y suivre la formation organisée pour les catéchistes. Mais ils avaient affaire non à un homme d’études, mais à un homme d’action, blessé dans sa dignité ; les tensions inévitables allaient se révéler rapidement.  

Xyooj reparut à Kiukatiam, sa chère Montagne des Gaurs91, le 22 décembre, à temps pour fêter la Naissance de Jésus Sauveur, mais aussi le Nouvel An hmong92. Les notes du Père Borzaga dans la chronique de la mission et dans son journal laissent transparaître quelques doutes ou un certain agacement : 

« Depuis le 22 décembre Xyooj, le catéchiste du Père Sion, est ici au village pour de brèves vacances. Il est toujours décidé à être catéchiste. Il a deux désirs : se marier, et étudier un peu mieux le catéchisme. Il n’y a rien à redire à cela : qu’il se cherche donc une femme, et puis, dès qu’il pourra et qu’on pourra le [faire], il n’a qu’à étudier, bien que son intelligence soit assez plate. De toute façon, il n’a pas perdu son enthousiasme pour l’enseignement : l’autre jour je l’ai pris avec moi quand nous sommes allés chez les Kmhmu’ ; il a très bien parlé, même s’il s’est borné à répéter en laotien les quatre idées qu’il sait exprimer en hmong. »93  

« Hier, ensemble avec Xyooj nous sommes allés chez les Kmhmu’. Dans son exposé il a été brillant comme toujours. […] Il m’a raconté des choses assez intéressantes sur Na Vang et comment, entre autres, il voudrait prendre femme. Je n’ai rien contre ; qu’il fasse donc comme il veut. »94

En effet, pour les jeunes Hmong l’époque du Nouvel An est le temps propice pour faire sa cour et trouver l’âme sœur. Cela se passe sous la forme d’un jeu rituel appelé pov pob : vêtus de leurs plus beaux atours, les garçons et les filles se font face ; deux à deux il se lancent une balle d’étoffe, la fille chante les questions et le garçon doit chanter les réponses appropriées. Si elle n’est pas satisfaite, on change de partenaire. Chaque jour, le jeu dure des heures. En cas d’accord, on entamera entre familles les négociations en vue du mariage, qui doivent avoir lieu au premier mois de l’année ; tout doit être réglé avant le mois de juin95.  

Le 1er janvier, le Père Borzaga note dans son journal que Xyooj avait participé au pov pob toute la journée, sans résultat. Le 4 et le 8 janvier, il poursuit sur le même thème :  

« Les fêtes du Nouvel An hmong se poursuivent, ce qui signifie que les jeunes gens cherchent femme ; et du fait qu’à la mission aussi nous avons des jeunes gens veut dire que nous devons les tenir à l’œil… [Suivent les faits et gestes de trois autres des jeunes célibataires] – Xyooj s’est mis en quatre pour se trouver une femme, mais il semble qu’il n’y ait pas réussi. Il veut quelqu’un de bien, mais parmi les filles bien il n’est pas facile d’en trouver une [qui soit libre]. Tous ces jours-ci, bien qu’il ait joué les jeunes beaux et les m’as-tu-vu, il a été présent à toutes les liturgies célébrées à l’église, et il a communié presque tous les jours. »96

« Xyooj ne se mariera pas, un point c’est tout. La jeune fille qu’il a choisie n’est pas d’accord. […] Voilà la grande difficulté pour les mariages avec les païennes : elles ne veulent pas apprendre le catéchisme et donc être baptisées avant de se marier. [...] Les païens ne comprennent rien à nos coutumes chrétiennes : les jeunes filles, même si elles n’ont rien contre le fait de devenir chrétiennes, sont contraintes par leurs parents à suivre jusqu’à la dernière minute les coutumes païennes. »97

Faut-il s’étonner de ces échecs répétés de Xyooj à trouver une épouse ? Il avait laissé son cœur à Na Vang ; même s’il s’était déjà résigné à ne plus retrouver celle qu’il aimait là-bas, comment maintenant en choisir une autre ? En outre, il n’était pas prêt à transiger sur son idéal chrétien. En avril 1960, au moment de partir pour son dernier voyage, il écrira aux chrétiens de Na Vang : « D’ici peu je reviendrai prendre femme dans votre village98. »  

Le Cours de pastorale pratique a la recommandation suivante : « Le missionnaire doit exhorter son catéchiste à se marier surtout quand le jeune homme est tenté par les jeunes filles, mais qu’il se garde bien de faire pression indiscrète pour faire contracter tel ou tel mariage99… » Le Père Borzaga décida donc de se rendre jusqu’à Louang Prabang pour discuter avec les responsables de la Mission de cette question : Xyooj serait-il autorisé à retourner à Na Vang pour s’y marier100 ?  

Le Père descendit seul en ville le 7 janvier ; le 13, à l’occasion de la retraite, il était accompagné de Xyooj. La réponse fut fermement négative. Les responsables décidèrent de garder le jeune homme à Louang Prabang, comme prévu, dans la perspective d’y parfaire sa formation tout en lui faisant faire la classe aux enfants hmong réfugiés en ville, tandis qu’un autre catéchiste partirait pour Na Vang101

Un adolescent en crise

C’est alors que Xyooj entra vraiment en crise, une crise dont le journal du Père Borzaga et la chronique de la Mission gardent quelques échos. Il ne voulait pas rester à la ville, loin des villages hmong ; d’ailleurs, disait-il, il y fait trop chaud. Un de ses compagnons ajouta, non sans un brin de malice : « C’est qu’à la ville il n’y a pas de filles », c’est-à-dire de filles hmong à marier. Laissé là malgré tout, Xyooj se mit à écrire des lettres à des personnes de son village ; il se plaignait de tout, même du manque de nourriture. Le Père Borzaga note quelques jours plus tard, dans un bilan de la Mission pour le mois de janvier : 

« Y. est parti pour Na Vang où il devra remplacer Xyooj, que le Père Sion a refusé de reprendre. Y. est parti satisfait, mais Xyooj, qui est resté, est loin de l’être. Nous l’avons placé à Louang Prabang pour faire la classe aux petits et s’occuper des catéchumènes ; mais il a déjà fait savoir qu’il ne veut absolument pas rester là et qu’il retournera au village. Ce Xyooj, on ne sait vraiment pas comment le prendre. »102    

Le 23 janvier, le Père Borzaga note dans son journal :  

« J’ai écrit à [Père] Marchiol de renvoyer Xyooj chez moi ; j’en assume la dangereuse responsabilité, puisque personne ne veut la prendre. »103   

Rentré au village, le jeune homme s’était mis en tête une autre idée : puisque la vie de catéchiste avait abouti à une impasse, eh bien, il allait devenir policier ; ainsi il pourrait au moins gagner de l’argent pour fonder sa famille. Il s’en ouvrit au Père Borzaga, qui fut choqué ; puis il en parla ouvertement autour de lui.   

Il ne faut pas penser que Xyooj représente en l’occurrence un cas isolé. En effet, le Cours de pastorale pratique avait prévu le scénario. À propos de la persévérance des catéchistes formés dans les écoles, il avertit : « … penser à la grande tentation qu’ils ont dès qu’ils sont un peu sortis de leur village d’entrer dans l’administration, la police ou l’armée, ou les administrations civiles où il reçoivent des salaires invraisemblables104… »   

Sous la cendre le feu couve

Malgré ces nouveaux projets, Xyooj n’a jamais vraiment abandonné la mission. L’amour du Christ était toujours présent dans son cœur. Parmi les missionnaires européens, toutefois, le Père Mario Borzaga est le seul qui y ait cru ; le 5 février il note dans son journal :  

« Xyooj est ici ; il se promène partout et ne cache à personne son intention d’être policier. Certains compatissent avec lui. Quoi qu’il en soit, pour ma part je continue à l’aimer. »105  

Le 7 février, il écrit : « Xyooj commence à s’éloigner davantage, je ne savais plus comment m’y prendre106. » Mais le lendemain il dit l’avoir « raccroché un peu107 ». 

Son éloignement, son manque d’entrain, n’empêchent pas Xyooj de rendre service lorsque le Père le lui demande. Le 1er et le 2 février, il l’accompagne dans une brève tournée missionnaire, pour visiter un poste missionnaire isolé menacé d’encerclement par la guérilla, Long Vai sur la montagne du Pha Thoeng108. En l’absence d’un catéchiste, il assure son remplacement pour les cours du soir aux grands jeunes gens et aux adultes. Il s’en tire moyennement, aux dires du chroniqueur109. Il est disponible pour le catéchuménat de quelques femmes âgées, mais c’est un autre qui sera finalement choisi parce que lui doit faire la classe aux enfants à la même heure110. Le jugement du missionnaire reste globalement positif : « Sa conduite au village est bonne, il fréquente les sacrements111. » 

Il y a toutefois un point d’ombre : il est chargé d’enseigner la langue hmong à un jeune missionnaire italien en stage, le Père Zanoni – tâche importante car ce dernier tape à la machine les cours pour les transmettre au Père L. Sion à Na Vang112. Or il arrive à Xyooj de négliger cette tâche113. Lui qui avait été très mal jugé par les Européens, il paraît de nouveau marquer ses distances. 

Heureusement, il y avait là aussi des jeunes chrétiens. Parmi eux, les futurs catéchistes en apprentissage habitaient la petite maison près de celle du missionnaire. Xyooj, qui restait avec sa mère dans la maison familiale, était proche d’eux et les visitait souvent. Un de ces jeunes gens se souvient qu’ils allaient ensemble couper des bambous pour le système d’irrigation ou du bois pour le feu et ramasser de l’herbe pour les cochons – des occasions propices pour parler librement, cœur à cœur114. Xyooj se lia d’amitié avec H. et K., les jeunes convertis de Na Vang venus ici étudier en juillet 1959 ; K. était comme lui orphelin de père115. Avec eux Xyooj put évoquer le souvenir des meilleures heures passées là-bas. Mais lui-même, le grand frère qu’ils admiraient tous, qui aimait leur raconter les hauts faits de l’Évangile chez les Hmong, pouvait-il les décevoir ? 

Il faut dire à son honneur que Xyooj ne s’est jamais plaint directement devant les autres jeunes de la Mission de ceux qui l’avaient renvoyé de Na Vang. À son arrivée à Kiukatiam, H. lui demanda pourquoi il n’était pas resté avec les gens de son village, pourquoi il les avait quittés. Il lui répondit simplement :  

« C’est le prêtre qui m’a dit de partir évangéliser et enseigner le catéchisme dans un autre village ; c’est pourquoi j’ai dû partir. »116

L’amitié de ces compagnons de route fut ce qui sauva la vocation de Xyooj. Quand le Père Borzaga décida fin avril de partir pour répondre à l’appel au secours d’un village, il avait choisi tout d’abord pour l’accompagner un catéchiste vétéran de Kiukatiam. Mais comme celui-ci était marié, il s’adressa ensuite à H., puis à K., puisque celui-ci allait prolonger son séjour comme catéchiste à Kiukatiam. Le jeune homme se sentait toutefois bien moins expérimenté que son ami Xyooj pour évangéliser un village hmong : il lui demanda s’il pouvait y aller à sa place. Xyooj répondit oui, mais ajouta : « Je ne sais pas si le Père acceptera. » K. en parla au Père Borzaga, qui accepta la proposition117. C’est alors que Xyooj écrivit, pour les chrétiens du village bien-aimé, la dernière lettre que l’on ait reçue de lui : « Je vais aller enseigner la doctrine du Ciel aux Hmong du village de Phuaj Xuab118 ». Oui, la flamme était bien rallumée. 

Il n’est pas nécessaire d’évoquer ici les raisons qui poussèrent le Père Mario Borzaga à entreprendre son dernier voyage : ses biographes l’ont fait, et des indications suffisantes existent dans le journal de la Mission de Kiukatiam sous la plume du Père Zanoni119. Le fait est qu’il accepta en fin de compte de prendre Xyooj comme compagnon de route. Pour ce dernier, ce qui importait, c’était l’appel insistant d’un village disposé à chasser les esprits pour s’ouvrir à la présence du Christ, et où des malades attendaient une main compatissante. Dans la coutume hmong, si quelqu’un te demande un service pour la deuxième ou troisième fois, tu dois absolument lui répondre et faire ton possible pour lui. 

Parmi les personnes qui ont insisté pour que le Père Borzaga entreprenne cette tournée missionnaire, il faut citer N. : elle avait été la première adulte baptisée de sa main. Après son baptême, elle était partie pour Xieng Khouang avec d’autres jeunes filles de Kiukatiam, pour étudier chez les Sœurs de la Charité de Sainte Jeanne-Antide Thouret120. Elle a voulu témoigner par écrit sur ce qui s’était passé au village fin avril 1960, avec son frère P., qui fut un des compagnons de route du Père Borzaga pour la première étape du voyage121

Le 25 avril 1960, avec le père Borzaga et les messagers venus les inviter, Xyooj partit pour ne jamais plus revenir. Ce jour-là, il avait mis son costume hmong et portait son triple collier d’argent. Il avait deux habits de rechange et le couteau hmong tous usages, qui servait à débroussailler le chemin. 

La suite du récit s’appuie en grande partie sur le témoignage de K., qui fut un temps enrôlé dans l’armée royale. En 1962-1963, il a pu faire une enquête personnelle dans la région ; mais son rapport verbal à l’évêque n’a pas été conservé. Ses sources principales étaient deux autres soldats hmong, l’un était originaire de Ban Phoua Xua (Phuaj Xuab en hmong), le village où l’on avait invité le missionnaire à se rendre, et le second d’un village voisin122. Ces compagnons lui avaient transmis des renseignements de première main sur l’odyssée des deux voyageurs et leurs derniers moments. 

À Ban Phoua Xua, le Père Borzaga et Xyooj passèrent deux nuits. Beaucoup de villageois vinrent les voir, converser avec le Père ; on parla de la religion chrétienne. Ce ne fut sans doute pas l’enchantement du premier contact avec Na Vang, mais des bases furent posées pour l’avenir. Plusieurs demandèrent d’être instruits pour se convertir. Le Père prit leurs noms et promit d’envoyer quelqu’un pour l’enseignement123. Quant à Xyooj, il semble bien qu’il soit resté discret, dans l’ombre du missionnaire. 

Le troisième jour, les deux voyageurs repartirent par un chemin différent. Ils étaient de nouveau accompagnés de deux jeunes guides du village. La raison la plus vraisemblable pour ce changement d’itinéraire est toute simple : le Père Mario Borzaga s’était blessé aux pieds – ils avaient déjà mis trois jours pour arriver là124. On couperait donc au plus court pour rejoindre la grand-route n° 13 à Muang Kasi, avec l’espoir d’y trouver un véhicule pour rentrer directement au village. 

La première étape du retour les menait à Muang Met, un village situé sur les deux flancs d’une petite vallée. C’était un village mixte, un côté kmhmu’ plus modeste et un côté lao plus important. Les Hmong n’avaient pas de relations avec ce dernier. Le chemin arrivait du côté des Kmhmu’ : ceux-ci s’intéressèrent aux voyageurs et à leur message. Ils les invitèrent à passer chez eux la nuit afin de parler plus longuement et de rencontrer tout le monde. Le Père promit seulement de revenir à l’occasion d’un prochain voyage.  

Alors les Kmhmu’ leur conseillèrent de rebrousser chemin, car la guérilla était déjà infiltrée de l’autre côté, dans le gros village lao. Xyooj comprit d’emblée la situation : « Père, faisons vite, c’est très dangereux. » Le Père répondit : « N’aie pas peur, je ne suis pas un Américain. » Ils s’en allèrent donc, selon la coutume, loger chez le chef du village lao. Celui-ci les rassura : la piste ne présentait pas de difficultés jusqu’à Ban Nam Lik, au milieu des rizières de la vallée, et de là ils pourraient aisément rejoindre Muang Kasi. Le lendemain matin, le Père et Xyooj renvoyèrent donc les guides hmong venus de Phoua Xua et se mirent en route, munis d’un casse-croûte offert par le chef de village125

L’heure décisive

Peu après la sortie du village, les deux voyageurs rencontrèrent un groupe de la guérilla. Était-ce une embuscade, avaient-ils été trahis ? Ces questions restent aujourd’hui sans réponse. Il faut pourtant les poser, puisque le nom de Xyooj et des guides hmong a été évoqué en lien avec cette mauvaise rencontre. Mais il faut voir d’abord les faits, tels qu’ils ont été patiemment reconstitués à travers des témoignages partiels et indirects, venus des ex-soldats rebelles eux-mêmes, que cet épisode hante encore des dizaines d’années plus tard. Quant au chef de village et à ses administrés, ils ont toujours dit n’avoir plus rien entendu après le départ de leurs hôtes. 

Voici le témoignage d’un Hmong qui fut lié de près aux événements ; témoignage anonyme mais capital, accordé à plus de quarante ans de distance à ceux qui cherchaient encore à savoir : 

« Ne cherchez pas plus : le Père Borzaga et le catéchiste Xyooj sont morts, ils ont été tués. Les rebelles laotiens ont arrêté, au village de Muang Met, qui se trouvait entre le village de Phoua Xua où le Père avait été avec Xyooj et celui de Muang Kasi où le Père voulait aller, un Américain accompagné d’un jeune Laotien. Comme ils haïssaient tout ce qui, à leurs yeux, était américain ou même blanc, ils ont décidé de le tuer, disant au jeune Laotien : “Toi, tu es de notre pays, fuis, va chez toi, on ne te tue pas.” Le jeune Laotien a dit : “Ne le tuez pas, car ce n’est pas un Américain mais un Italien, et il est un très bon prêtre, très gentil pour tout le monde ; il ne fait que de bonnes choses !” Mais eux n’ont pas voulu le croire. Il a dit alors : “Je ne pars pas, je reste avec lui ; si vous le tuez, tuez moi aussi. Là où il sera mort, je serai mort, et là où il vivra, je vivrai.” Les rebelles ont répondu : “Tu es vraiment têtu, tu veux donc mourir aussi ? ” Il a répondu “Oui !”, et c’est ainsi qu’ils les ont tués tous les deux. »126  

K. rapporte d’autres détails, entendus de la bouche même des soldats. Ceux-ci avaient lié les poignets et les coudes du Père Borzaga derrière son dos, non sans de copieuses injures, tandis que lui restait silencieux. Mais Xyooj ne se calmait pas : il se disputait avec eux et tentait de les en empêcher. Fort en colère, ils l’ont alors frappé à coups de crosse de fusil, avec une telle violence qu’une de ses oreilles, arrachée, est tombée à terre. Ils lui disaient : « Tu ne veux pas te sauver, tu es têtu, tu te disputes, on va te tuer aussi avec le blanc127. » Ils avaient déjà pris les colliers d’argent du petit prince hmong pour les vendre au marché128

Alors ils les emmenèrent plus loin sur la piste qui longe la dorsale du Mont Phou Mun, puis dans la forêt, au bord d’un fossé. C’était leur habitude : il ne fallait pas risquer des regards indiscrets. Ils forcèrent les condamnés à creuser davantage la fosse. Quand les coups de feu sont partis, le Père criait : « Pourquoi avez-vous tiré sur moi, le Père ? » ; Xyooj mourut sur le coup. Puis les soldats poussèrent les corps dans le fossé et jetèrent de la terre pour les couvrir129.  

Xyooj, le « petit prince » ou plutôt l’apôtre des Hmong, amoureux de l’Évangile, avait racheté ses faiblesses – bien limitées – et consommé son suprême geste d’amour. 

La tombe elle-même n’a jamais été retrouvée. Elle est restée dans la zone d’insécurité, où personne ne pouvait se risquer. Au bout de quelques années, tout espoir était vain. Par contre, quelques objets appartenant aux victimes permettent de les identifier avec certitude. La maman de Xyooj reconnut formellement ses colliers d’argent ; mais la famille refusa de les récupérer, car selon la tradition ils étaient propriété inaliénable de son fils mort130. En outre, le témoignage d’un soldat, recueilli – indirectement – par Mgr Tito Banchong, précise :  

« On a fouillé le sac à dos de l’Américain, il n’y avait pas grand chose : des cordes granulées avec deux morceaux de fer croisés, des images d’une femme rayonnante, quelques-unes toute seule, quelques-unes avec un enfant, et d’un homme avec le cœur dehors… »131

C’étaient les trésors du missionnaire : son chapelet, et des images du Sacré Cœur de Jésus et de la Sainte Vierge.  

Les motifs d’une tragédie 

Beaucoup de raisons ont été alléguées pour l’exécution sommaire de Thoj Xyooj et du Père Mario Borzaga ; le nom même de Xyooj a été terni. Il convient donc de les examiner brièvement, afin de faire le plus complètement possible la lumière sur ce destin hors pair. 

1. Le Père Borzaga a-t-il été trahi ou éliminé par les guides hmong qui les avaient quittés le matin même ? Ce fut l’hypothèse adoptée en un premier temps par les autorités civiles de Louang Prabang, mais refusée par l’évêque, et rejetée aujourd’hui avec force par les Hmong132. Ceux-ci ont toujours protégé et défendu les missionnaires qui vivaient parmi eux, sauf lorsqu’ils étaient enrôlés dans la guérilla. 

2. Le Père Borzaga a-t-il été victime d’une vengeance de pères de famille mécontents de son action concernant le mariage des jeunes filles ? Comme dans l’hypothèse précédente la mort de Xyooj serait alors un dommage collatéral. Cette hypothèse est rejetée à la fois par ceux qui ont connu le Père et ceux qui connaissent bien le milieu hmong. Elle est contredite par les témoignages de ceux-là même qui l’ont tué. 

3. Xyooj s’était-il fait le complice de ceux qui en voulaient à la vie du Père, et a-t-il été éliminé ensuite comme un témoin gênant ? Cette hypothèse a été avancée133. Ceux qui ont été en contact avec sa loyauté et sa foi chrétienne la tiennent pour absurde134 ; elle ne peut absolument pas tenir devant les témoignages concordants recueillis de ceux qui l’ont tué. 

Concernant ces trois hypothèses de trahison, Mgr Louis-Marie Ling, évêque de Paksé, a voulu témoigner :  

« Les Hmong ne trahissent jamais un ami. Ils sont francs et directs, et s’ils en veulent à la vie de quelqu’un, ils le lui font savoir en face, plutôt que d’agir par dissimulation ou par ruse. »135

4.  A-t-on visé spécifiquement des voyageurs venant du village de Kiukatiam, en partie chrétien ? Le village tout entier était notoirement fidèle au gouvernement légitime du pays et s’était défendu naguère contre une attaque de la guérilla. On avait cherché – en vain – à procurer aux villageois quelques armes défensives. C’était peut-être là un motif suffisant, mais il est invraisemblable que, si loin de ce village, la guérilla ait pris la peine de monter une opération punitive contre deux hommes pacifiques et sans armes136.  

Par contre, la présence de l’Église catholique a fort bien pu être visée de façon générique dans leurs personnes. De nombreux témoignages et épisodes réels indiquent que, à cette période, la guérilla voulait éliminer radicalement la présence chrétienne dans le pays. 

Pour ceux qui connaissaient Xyooj, c’est clair : il aimait la religion et voulait aider les missionnaires dans leur apostolat ; c’est pour ce motif qu’on l’a éliminé. Comme sa prédication à Na Vang en témoigne, lui-même savait bien qu’en faisant l’option de la foi chrétienne, et plus encore en se mettant personnellement au service de l’œuvre missionnaire, il mettait sa vie en danger137

Un témoin originaire de Na Vang se souvient d’une phrase qui l’a marqué : « Quant Xyooj enseignait la religion du Ciel, il nous disait que si l’un de ses amis était en danger de mort, il ne l’abandonnerait pas, mais se tiendrait prêt à sacrifier sa vie pour le sauver138. » C’étaient aussi les paroles de Jésus à la dernière Cène : « Il n’y a pas de plus grand amour que de donner sa vie pour ses amis » (Jn 15, 13). 

Une vie exemplaire, une mort qui est un signe d’espérance 

Un témoin de Na Vang, qui à l’arrivée de Xyooj était une jeune fille de dix-sept ans, exprime le sentiment commun : après presque un demi-siècle elle garde vive dans sa mémoire sa stature, sa figure, son sourire, « et surtout ses paroles qui résonnent encore en moi139 ». La nouvelle de sa mort a bouleversé le village qu’il avait évangélisé, provoquant beaucoup de tristesse et de pleurs ; mais elle n’a pas affecté la foi en Jésus, vainqueur de tout le mal sur terre, en qui ils avaient cru sur son témoignage. 

Quant à ceux de son propre village, qui l’ont connu avant sa conversion et quand, tout jeune préadolescent, il se préparait au baptême, ils parlent avec émotion de lui et de l’exemple qu’il leur a laissé en portant l’Évangile aux autres villages hmong de la région. Le Père Umberto Nespolo, o.m.i., qui fut missionnaire à Kiukatiam et a consacré sa vie à l’apostolat auprès des Hmong au Laos et dans l’émigration, est formel :  

« Jusqu’au jour d’aujourd’hui, je peux assurer que ces villages sont restés fidèles au Christ et à son Église. »140

* * * * * * * 

En conclusion de ce récit, entièrement fondé sur les déclarations de ceux qui en furent acteurs ou témoins et sur des recherches approfondies sur place et dans les archives, il suffira de citer quelques témoignages qualifiés. 

« Xyooj a été avec nous un an seulement ; mais les travaux qu’il a fait pour nous ont été très nombreux. Les Hmong qui ont reçu la foi se souviennent des belles choses qu’il a faites… Xyooj est un modèle de l’homme zélé pour faire connaître aux Hmong le Seigneur du Ciel. Il est un modèle que je me suis exercée à imiter toute ma vie […]. Xyooj nous disait souvent qu’il donnerait sa vie pour l’enseignement de la foi, et c’est ce qui lui est arrivé. »141

« Voilà quelque chose qui me tient à cœur et que je voulais dire depuis longtemps : le catéchiste Xyooj, tué avec le Père Mario, est lui aussi un véritable martyr de l’Évangile. »142

« Je suis sûr et j’ai confiance que Xyooj et le Père Borzaga sont avec le bon Dieu, parce que ces deux-là ont eu un chemin trop dur. Xyooj et le Père sont sûrement des saints sur terre et au ciel éternellement. »143

Ceux qui ont connu le jeune catéchiste Thoj Xyooj autrefois, et ceux qui aujourd’hui entendent parler de lui, se réjouissent d’entendre ces paroles. Ils ont confiance que l’Église catholique va reconnaître officiellement ce que Dieu a accompli dans sa vie et dans sa mort, et le proposer comme modèle à tous les croyants. 

   

Sources et Bibliographie 

 

 

Déclarations de témoins

Par prudence, les noms des témoins laotiens, sauf ceux qui occupent des fonctions officielles, ont été remplacés dans le texte par une désignation neutre : A, B, C, selon l’ordre de leur apparition dans ce récit, à la suite de l’article précédent. Plusieurs d’entre eux ont été appelés comme témoins au procès diocésain, mais il s’agit ici de déclarations extrajudiciaires.  

Les lettres X et Y désignent deux autres personnes, dont il a également semblé préférable de taire le nom pour respecter leur vie privée.  

 

 

 

Autres sources inédites

  1. Postulation générale des Missionnaires Oblats de Marie Immaculée, Rome : Dossiers « Laos », « Mario Borzaga », etc. 
  2. Postulation pour la cause de Mario Borzaga, o.m.i. et Thoj Xyooj, Rome : témoignages, déclarations et documents divers. 
  3. Archives générales des Missionnaires Oblats de Marie Immaculée, Rome : Dossiers « Mario Borzaga », et fonds divers sur la Mission du Laos. 
  4. Archives générales des Missionnaires Oblats de Marie Immaculée, Rome : Jean Subra, o.m.i., Cours de pastorale pratique (dactylographié), [Keng Sadok, Laos], 1959. 
  5. Archives générales des Missionnaires Oblats de Marie Immaculée, Rome : « Codex historicus » di Kiukatiam, Luang Prabang, Na Vang (Ha 52, 55, 60) 

 

Sources publiées

  1. Lettera agli Amici del Laos (Bulletin de l’Association Amici del Laos), Naples, mars 1959 - septembre 1960. 
  2. M. Borzaga, Diario di un uomo felice [éd. complète, 1956-1960], Trente, Vita Trentina Editrice, 2005. 

 

Bibliographie

  1. Vincenzo Bordo, o.m.i, Laos, Storia di una Missione (Quaderni di Vermicino), Frascati, 1987. 
  2. Lucia Borzaga, Être un homme heureux : Mario Borzaga, o.m.i. 1932-1960 (Série « Héritage oblat » n° 4), Rome, 1992 
  3. Giuseppe Cellucci, o.m.i. (coord.), P. Mario Borzaga missionario oblato di Maria Immacolata, martire nel Laos : Testimonianze, Roma, MGM, 1995. 
  4. Pierre Chevroulet, o.m.i., Oblats au bord du Mékong, (Série « Héritage oblat » n° 14), Rome, 1998. 
  5. Fabio Ciardi, Il Sogno e la realtà – Mario Borzaga, martire, Milan, Àncora, 2000. 
  6. Gaetano Drago, o.m.i., Un eroe del Laos : dalle lettere del p. Mario Borzaga, O.M.I., Rome, Missioni O.M.I., 1965. 
  7. Nicola Ferrara, o.m.i., Mario Borzaga, O.M.I., Sentinella sugli avamposti, 2006 (à paraître). 
  8. Roland Jacques, o.m.i., Le Père Mario Borzaga, o.m.i. (1932-1960) : Note biographique (manuscrit). 
  9. Antonio Zanoni, o.m.i., Piste senza ritorno : vent’anni tra i Hmong del Laos, Rome, Missioni O.M.I., 1965. 
  10. Antonio Zanoni, o.m.i., Addio, monti del Laos ! Note di vita missionaria nel Laos settentrionale, Francesco Trusso, o.m.i., ed., Naples, Rome, LER, 1986. 
  11. Notiziario Borzaga – Thoj Xyooj (Rome). 

Indications bibliographiques complémentaires: digilander.libero.it/marioborzaga/bibliografia.htm. 

 

 

 

Bài viết khác

5 lợi ích sức khỏe ít ai biết của muối nở (baking soda)

5 lợi ích sức khỏe ít ai biết của muối nở (baking soda)

14/09/2025

Muối nở (baking soda) là một nguyên liệu quen thuộc trong bếp, nhưng giá trị của nó không
dừng lại ở việc làm bánh. Từ kinh nghiệm dân gian đến bằng chứng khoa học hiện đại, muối
nở đã chứng minh được hiệu quả trong việc giảm ợ nóng, làm dịu ngứa da, c

Art