Chủ Nhật, 24 Tháng Sáu, 2012

Chuyện Bernadette Lộ Đức (1-12)

Lời Giới Thiệu

 Chúng ta thường nghĩ rằng các thánh là những con người lỗi lạc tài năng xuất chúng... làm những việc phi thường khi còn sống...

 Qua giòng văn đơn sơ dễ hiểu, tác giả cho chúng ta một mẫu gương thánh nhân đơn sơ bình dân sống trong cảnh nghèo khổ khốn cùng... Đó là thánh nữ Bernadette ! Bernadette là ai mà ngày nay danh tiếng vang dội khắp thế giới ?

 Bernadette là cô gái quê mùa, dốt chữ, thuộc gia đình nghèo khổ, có thể nói là nghèo nhất ở làng Lộ Đức thời bấy giờ. Nhưng Bernadette là cô gái thật thà chất phát, khiêm tốn, ngoan ngoãn vâng lời, đầy lòng tin tưởng phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa.

 Đời sống thánh thiện của Bernadette không phải là lối sống của những kẻ thông thái lỗi lạc lừng danh... mà chính là lối sống thánh của kẻ nghèo khổ theo tinh thần đơn sơ bé nhỏ Phúc Âm.

 Chính vì thế mà Mẹ Maria đã chọn Bernadette làm sứ giả của Mẹ và là nhân chứng thực hành sứ điệp Lộ Đức trong suốt đời tận hiến.

 Đọc « CHUYỆN BERNADETTE LỘ ĐỨC» là tiếp tục viết lại lịch sử đời sống Bernadette trong cuộc sống hiện tại hàng ngày của mỗi người chúng ta như là sứ giả, như là chứng nhân của Sứ điệp Lộ Đức : « Thống hối quay về cùng Thiên Chúa Tình yêu để sống trong bình an xác hồn.»

 Đó là phép lạ lớn lao chữa lành bệnh phần hồn xảy ra hàng ngày tại Lộ Đức qúi trọng hơn các phép lạ chữa lành bệnh phần xác.

 Đây chỉ là vài tư tưởng đơn sơ khi đọc bản thảo tác giả gửi đến. Tôi không muốn đi sâu vào chi tiết... vì tôi muốn dành sự khám phá độc đáo này cho các bạn khi các bạn đọc cuốn sách này.

 Chân thành hoan nghênh tác giả đã dày công biên soạn và hân hoan giới thiệu cùng tất cả những ai muốn tìm hiểu Thánh nữ Bernadette và Lộ Đức...

Bruxelles, 25 tháng Ba, 2001

Lễ Truyền Tin

Linh mục Phaolô ĐÀO VĂN THẠNH

 

Lời Nói Đầu

CHUYỆN BERNADETTE LỘ-ĐỨC này không phải là một cuốn tiểu thuyết giả tưởng, cũng không phải là công trình nghiên cứu về phép lạ Lộ Đức như nhiều tác giả đã làm. Nhưng đây là đời sống Thánh nữ Bernadette Soubirous được trình bày dưới hình thức một câu chuyện đầy sống động, đầy màu sắc, đầy sáng chói, trong khung cảnh gia đình, xã hội, tu đức bấy giờ, khi Đức mẹ hiện ra ở MASSABIELLE (Mát-xa-biên) Lộ Đức, năm 1858.

 Chúng tôi đã cố gắng đi sát các tài liệu đáng tin cậy để những phần chính yếu trong trình thuật, ít nữa là trong tinh thần của các biến cố, phản ảnh được những diễn biến xảy ra về Đức mẹ Lộ Đức đã 143 năm qua. Đức Piô XII, năm 1957, đã nói : « (...) Tín thư Đức mẹ Lộ Đức đi liền với con người và đời sống Bernadette. Chị có sứ mạng truyền lại tín thư đó cho thế giới. Chị còn làm chứng cho Sự thật về những gì chị nói và thông lại cho chúng ta... »

 Tín thư đó, thiết tưởng không gì ngoài Tình thương của Thiên Chúa qua lòng từ bi nhân hậu của Mẹ Maria. Trong khi hiện ra lần thứ 8, Người đã nhắc nhở chúng ta phải biết SỐNG THÁNH, ăn năn ĐỀN TỘI và không ngừng CẦU NGUYỆN cho mình và cho kẻ có tội trở lại với Tình thương của Chúa : « Con hãy hôn đất cầu cho kẻ có tội. »

 Bernadette, Sứ giả của Trinh Nữ, đã áp dụng tín thư đó trước tiên cho mình, qua đời sống sạch trong từ thưở niên thiếu, và qua việc kết hiệp khổ đau của mình với khổ nạn của đức Kitô thời ở viện tu NEVERS, để đền tội mình và cầu nguyện cho kẻ có tội trở lại. Chị nói : « Chính trong Trái tim Chúa Giêsu mà tôi muốn học cách chịu đau khổ và mến yêu. »

 Ước mong lời ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC nhắn nhủ còn vang dội trong tâm tư chúng ta là những kẻ hành hương dưới thế.Ước mong đời sống gương mẫu đạo hạnh của Thánh nữ BERNADETTE sẽ giúp chúng ta mạnh bước trên con đường trọn lành...

 Thánh nữ Bernadette còn « hiện diện » tại NEVERS, tại LỘ ĐỨC là để trở nên bạn đồng hành với chúng ta, kẻ dẫn dắc chúng ta và là đấng thánh cầu bàu cho chúng ta trên thiên quốc!

Chúng tôi xin kính dâng những cố gắng để viết cuốn sách này lên Đức mẹ Lộ Đức và Thánh nữ Bernadette. Đó là một vị thánh đức độ rất cao dày, nhưng tâm hồn rất khiêm nhu, rất gần gũi với cảm-nghĩ và nếp sống bình dị, hiếu thảo của người tín hữu VN đối với người Mẹ trên trời.

 Trước thềm Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, chúng tôi xin được hân hạnh giới thiệu CHUYỆN BERNADETTE LỘ ĐỨC cùng qúi bạn độc giả thân yêu xa gần!

Paris 18 Tháng Hai 2001

Lễ kính Thánh nữ Bernadette

Tác giả

NHỮNG SÁCH THAM KHẢO

 1- Bernadette: la Confidente de l’Immaculée của Mère M-T Bordenave (1978)

 2- Bernadette của Marcelle Auclair (1957)

 3- Bernadette d’après ses lettres của Lm. André Ravier (1993)

 4- Bernadette disait... Tủ Sách St-Gildard (1983)

 5- Bernadette: Sur la terre comme au ciel của Robert Serrou ( Hachette 1958)

 6- Carnet de notes intimes của Bernadette (1991)

 7- Đức mẹ Lộ Đức của Phan Đình Ngọc (1995)

 8- Le Chant de Bernadette của Franz Werfel (1942)

 9- Le Corps de Bernadette của Lm A.Ravier

 10- Vie de Bernadette của Lm R. Laurentin (1979)

 

I : Lộ Đức 1844 - 1866

Chương 1 : Nghèo đến rớt mồng tơi

Trời còn tối. Chuông nhà thờ Lộ-Đức chưa vọng lên báo giờ hành lễ 6 giờ sáng, nhưng François Soubirous đã thức giấc. Ông không ngủ được, và nghĩ cũng không cần ngủ nhiều làm gì. Cuộc đời thất nghiệp bấy lâu đã làm cho ông dư thì giờ ngủ ban ngày.Ông ngồi dậy và lắng nghe tiếng thở của gia đình đang yên giấc.

   Hai vợ chồng và bốn đứa con chen chúc trong một căn phòng chật hẹp, hôi tanh và lạnh buốt, bề ngang chỉ 3th72 và bề dài 4th40. Ông và bà vợ, Louise Castérot, còn được nằm trên chiếc giường gỗ cũ kỹ, chứ Bernadette và Marie -Toinette, gọi tắt là Toinette, thì nằm trên nệm cứng, trước lò sưởi. Hai đứa trai út, Jean-Marie và Justin, thì nằm gần cửa sổ, trên bao rơm tối trải ra, ngày cuộn lại. Ông liếc nhìn lò sưởi, lửa đã tắt tự hồi nào. Ông đâu có tiền mua củi để đốt qua đêm. Ông chán nản quá, không đủ can đảm bước xuống châm lửa để sưởi nữa...  

   Nhìn ra ngoài trời qua khung cửa sổ có chấn song sắt làm ông tủi phận như người bị giam giữ. Đêm đã hầu tàn, bầu trời đổi thành màu xám. Quả thật, căn nhà này, trước kia là nhà giam tù phạm, nên người ta vẫn gọi là « nhà tù » (le cachot ). Về sau, tù được giải tỏa lên Baous-Torès, nơi có điều kiện vệ sinh hơn, thì căn nhà bán cho người bà con bên vợ của François là André Sajous. Ông này cho làm thêm cửa sổ thứ hai để thoáng khí hơn. Nhưng hai cửa sổ không đồng đều, nên căn phòng trông lại càng thảm thương!  

Cái sân nhỏ hẹp, bẩn thỉu bên cạnh là nơi chất chứa tất cả phân bón của chủ nhà. Căn phòng, mùa hè thì nóng như thiêu, mùa đông thì lạnh như cắt, chưa kể là nó ẩm ướt, hôi tanh, tẩy uế mãi cũng không sao hết được mùi hôi từ ngoài sân xông vào. Khi gia đình ông dọn đến nơi đây, thì căn phòng đã đầy chấy rận...  

   Trước kia, khi vợ chồng ông François đến ở Nhà máy Boly này từ ngày 9 tháng giêng 1843 đến 24 tháng sáu 1844, thì họ đâu có phải là người cùng cực, túng bấn, để ngày hôm nay gia đình ra thân phận nầy. Nhà máy Boly, trước thời Cách mạng 1789, thuộc về bà Anne de Candebotte. Bà ta có người chồng là bác sĩ người Anh tên là David Boly, nên bà đã lấy tên chồng đặt cho nhà máy. Chính nơi đây, Bernadette ra chào đời ngày 7 tháng giêng 1844.

   Đến năm 1848, bà góa Claire Castérot, mẹ vợ François, tách ra ở riêng để nghĩ đến việc lo kiếm chồng cho hai người con gái còn lại là Bernarde và Lucile, thì bà trao quyền điều khiển nhà máy cho François. Nào ngờ ông lại không làm được bột mì tốt như trước, rồi khi giao hàng lại cho người ta mua chiụ, trả góp, nên nguồn lợi hàng tháng giảm dần. Có người xấu miệng cho rằng ông ta rượu chè, bỏ bê công việc, nhưng thực ra từ khi ông bị một mảnh đá vụn bắn vào mắt trái, khi ông đẽo cối đá, thì ông không trông thấy rõ như trước để kiểm soát công việc. Cho nên, trong bức hình ông chụp, luôn luôn ta thấy ông nheo một con mắt lại !  

   Còn bà vợ thì có tính rộng lượng, dễ dãi với khách hàng, nên bà cũng cho hẹn rầy hẹn mai. Hơn nữa,bà lại có tính « hiếu khách », tiếp chuyện vui vẻ quanh những đĩa bánh mà chính bà ta làm ra. Khách tốt, khách quen thuộc sòng phẵng thì xa dần, còn khách nợ thì bám riết, đeo dai dẵng! Vì vậy, nhà máy làm việc không ngừng, mà cuối tháng, cuối năm thâu hoạch thiếu đầu hở đuôi! Làm ăn như thế không chóng thì chầy, phải dẹp tiệm...

   Quả thực, về sau, hai ông bà sạt nghiệp, không trả nổi thuế địa tô, chưa kể con cái càng đông, càng lớn, càng thêm miệng ăn! Có người nói là vợ chồng François, phần không biết chữ, phần dễ tin người, nên đã bị kẻ gian dối gạt gẫm một số tiền lớn, nên về sau không trả nỗi, phải cấn ngôi nhà! Dẫu sao đi nữa, những gì phải đến đã đến: hai ông bà đành từ giã nhà máy, ra đi với hai bàn tay trắng, khởi đầu cho những ngày ba chìm bảy nổi! Thế là gia đình ông không có nơi ở nhất định. Nay đây mai đó. Cảnh vợ chồng con cái dọn nhà ba lần bảy lượt trong năm, thực đúng cảnh của các nhà nghèo. Bấy giờ, gia đình ông là hạng nghèo nhất Lộ- Đức! Ngay trong giòng họ Soubirous có đến chục người bà con, dâu, rễ...,gia đình François không những nghèo nhất mà còn bị khinh chê hơn cả! Cuối cùng, may nhờ ông André Sajous nói trên, thương hoàn cảnh ông, cho tá túc trong căn nhà tù xưa cũ này! Được thế, ông cũng cho là may mắn, vì André Sajous còn muốn giữ gian phòng này cho nhóm người Tây-ban-nha qua Pháp hàng năm hái nho, tá- túc ban đêm để lấy tiền nhà. Họ vất bao rơm trên nền nhà để ngủ, không cần mền chiếu!

   François buồn rầu nhớ lại hôm dọn nhà đến. Có cái « tủ chè » tử tế thì phải để lại vì bị chủ xiết thay tiền nhà mấy lâu không trả. Hai vợ chồng khệ nệ khiêng đồ đạc lên chiếc xe đẩy tay hai bánh bằng gỗ: cái rương sắt đã cũ, trong đựng ít áo quần; một ít bát đĩa bằng đất sét; hai cái ghế gỗ loại ba chân. Bernadette đi theo sau, xách một cái bị vải nặng hơn người, vừa đi vừa thở mệt... Toinette thì bồng Justin chưa khẳm năm, và dẫn đứa em, Jean Marie, đi bên cạnh.

   Thế là từ đó, 6 mạng người đã có một mái nhà che mưa nắng. « Cũ người mới ta ! » Tối đến cả nhà quay quần trước lò sưởi, chìm đắm tâm hồn trong lời kinh, chuỗi hạt, cảm tạ Chúa đã cho được một mái ấm đúng nghĩa của nó. Dẫu vậy, François cũng không khỏi buồn, vì sau đó, Bernadette, cũng còn ho nhiều, nhất là vào mùa đông lạnh buốt nhất nước Pháp là tháng Hai. Bệnh suyễn bị từ nhỏ, vẫn còn đeo đuổi cô bé 14 tuổi, ăn thiếu bổ dưỡng, mặc không đủ ấm, thêm thay vừa thoát nạn dịch tả đã làm cho bao người trong tỉnh phải thiệt mạng, trong đó có bà ngoại của Bernadette.

   Bấy lâu Bernadette đành ở nhà săn sóc cho mấy đứa em, vì không có tiền đi học. Hoàn cảnh này, thời nào cũng thế, cha mẹ chưa đủ ăn lấy tiền đâu cho con vào trường ! Trường các Bà, nhưng thực ra phải gọi là Cứu tế viện thì đúng hơn, do các Nữ tu Bác ái Nevers thành lập năm 1836 với hai mục đích: đón nhận các cô gái nhà nghèo để giúp cho họ có một nền giáo dục căn bản và đón tiếp các người già không nơi nương tựa. Vì thế trường mới mang tên là «Hospice de Lourdes ». Dẫu vậy, hai chị em Bernadette được nhận vào Cứu tế viện cũng nhờ cha xứ Lộ Đức có đôi lời gởi gắm với Nữ tu giám đốc.

   Trường các Bà, cũng đón tiếp những con nhà khá giả, học phí mỗi tháng là 2 quan, một số tiền không nhỏ bấy giờ. Những đứa con nhà giàu này, học riêng một gian khác biệt với đám con nhà nghèo.

   Nhưng về sau, ta thấy có lẽ đó là thiên ý, vì nhờ những năm tháng tiếp xúc với các Bà Dòng Nevers ở Lộ Đức mà Bernadette có thêm yếu tố để quyết định chọn Dòng tu. Vì các Bà đón tiếp và dạy dỗ Bernadette với tất cả sự tôn trọng con người và ơn gọi của Bernadette trước hay sau khi thấy Đức Mẹ hiện ra. Các Bà để hoàn toàn cho Bernadette lựạ chọn con đường tương lại của mình.

   Bernadette vào Cứu tế viện cuối tháng giêng 1858, một vài ngày trước khi thấy Đức Mẹ. Các Bà dạy cho cô nghề may vá, thêu thùa, và tiếp xúc với kẻ già nua, đau ốm làm cho ơn gọi săn sóc kẻ đau ốm nẩy sinh.

   François khổ sở vô cùng, không còn nghị lực để làm gì nữa, định ngả lưng xuống ngủ lại để quên đi sầu khổ, thì bà vợ thức dậy. Bà mới 36 tuổi, nhưng vì quá lam lũ để nuôi con và sinh đẻ nhiều, lại thiếu ăn, nên bà trông già trước tuổi. Sợ con cái bị lạnh, bà vội vàng xuống giường, vơ vét vài cành củi khô còn sót lại và một ít thông vụn bỏ vào lò sưởi rồi đánh diêm châm lên. Ngọn lửa bùng cháy, reo vui. Bà lấy cái ấm thiếc đã đen màu khói, đổ vào ít nước rồi treo lên bếp lửa. Bà ngồi nhìn đống lửa lách tách mà lòng trí nhớ lại bao cảnh buồn bã đã ập xuống trên gia đình.

   Mùa đông năm 1844, khi Bernadette chưa khẳm năm, trong khi bà đang ngồi nấu ăn, thì ngọn đèn dầu treo trên đầu bỗng dưng rớt xuống làm bà bị phỏng, nhất là ở vú. Cho nên bà không cho Bernadette bú sữa được, bà đành phải đi tìm vú nuôi. Tìm mãi mới thấy ở Bartrès, có bà vợ ông Aravant vừa có đứa con nhỏ tuổi vừa qua đời, nên bà ta chịu nhận Bernadette để cho bú mớm, cho vơi sầu đau của người mẹ mất đứa con còn nằm trong nôi, trong khi bầu sữa hai vú, còn căng đầy mỗi ngày. Bà dì Bernade phải ẵm Bernadette lên ở hai ngày trên đó để cho em quen với người vú mới, trong khi ở nhà, nôi trống đã làm cho François nhớ thương không cùng.

   Nhưng rồi mùa đông năm 1855-1856, lại phải cho Bernadette lên giúp việc cho bà dì Bernarde, vì nhà túng thiếu. Rồi đến tháng Chín 1857, trong nhà không đủ ăn vì bà Louise đi làm thuê giặt mướn lúc có lúc không, nên lại đành phải cho Bernadette đi ở một thời gian với người vú cũ ở Bartrès, cách Lộ Đức ba cây số, để chăn dê, chăn cừu. Tuy thương con, muốn gần con, nhưng tạm xa con như thế, con mới có chỗ ăn, chỗ ngủ ấm, có dịp học giáo lý, như lời vú nuôi đã hứa. Và con có được bầu trời quang đãng thở làn khí trong mát, chứ quanh năm ở nhà thì ngột ngạt thiếu không khí trong lành... Mãi đến ngày 21 tháng giêng 1858, một phần nhớ nhà, một phần không học được giáo lý với người vú nuôi như lòng mong ước, vì Bernadette không học thuộc lòng được, nên em đành bỏ cuộc. Em nhất quyết trở về lại « nhà tù cũ » sống với mẹ cha, dọn mình chịu lễ lần đầu một cách khác... Không ngờ cuộc đời của cô con gái đầu lòng lại cực khổ và long đong từ bé đến thế ! Rồi bà lại nghĩ đến cuộc đời của chồng mình làm bà thêm tủi phận : đã nghèo lại gặp cái eo.

   Vào ngày 27 tháng Ba 1857, ông đang nằm nhà, bỗng dưng cảnh sát ập vào và dẫn ông lên Nha cảnh sát lấy « khẩu cung ». Ông bị tố cáo là ăn cắp hai bao bột mì của tiệm bánh trong làng, chủ cũ của mình trước kia. Lời tố cáo mập mờ của ông chủ tiệm đã được ghi vào sổ, hiện còn giữ tại Hồ sơ Lộ Đức: « Tôi nghĩ rằng ông François nghèo đói, nên có thể đã lấy trộm hai bao bột mì » (C’est l’état de sa misère qui m’a fait croire qu’il pourrait être l’auteur de ce vol). Nhưng khi so dấu giày của kẻ trộm để lại với giày của François thì khác hẳn.

   Nhưng để việc tình nghi có lý, người ta lại buộc ông về tội vác khúc gỗ để ngoài đường về nhà làm củi. Trên đường đi làm việc về, ông có vác nó về thật, nhưng là khúc gỗ người ta vất bỏ ở vệ đường. Cho nên khi ông ở trong tù, và người ta đưa khúc gỗ đó ra ngoài đường, đóng bảng gọi chủ nó, thì cả tháng cũng chả thấy ma nào thèm đến nhận...

   Tuy buồn tủi cho thân phận mình trước công lý của cuộc đời trọng giàu khinh nghèo, và hoàn cảnh thất nghiệp kéo dằng dai bấy lâu, François ngồi dậy, thay áo quần rồi mở cửa ra phố kiếm việc. Bà vợ nghe tiếng động, quay lại. Thấy chồng sửa soạn ra đi khi trời vừa sáng, bà hỏi như mấy lần trước:

   - Ông đến hãng cưa ?

   - Hãng cưa? Không đâu. Tôi đến tiệm bánh mì. Nếu không được gì, tôi đến sở chuyên chở Cazenave.

   Nghe đến tiệm bánh mì làm bà nhớ lại câu chuyện chồng bị bắt giam vô lý vì ông chủ mất hai bao bột. Rồi bà nói nhỏ như để một mình mình nghe:

   - Thì đèn giời đã soi xét.

   Nói xong,bà lấy ấm nước đã sôi, pha cho chồng một cốc cà phê nhạt, để ông uống ấm bụng trước khi ông đẩy cửa ra đi kiếm việc. Bà nhìn theo ra cửa, ngẩng mặt lên trời như cầu xin Chúa giúp đỡ cho chồng hôm nay được may mắn.

   Ngày đã bắt đầu, nhưng bầu trời rất thấp và ảm đạm. Mưa phùn và tuyết trắng như một tấm màn bao phủ cảnh vật. Khắp nơi đều vắng lặng và trơ trọi. Mặc dầu tuyết tan rất mau, nhưng trong thung lũng sông Gave này, gió thổi lạnh buốt, thấu tận xương tủy. Đó là hơi thở của dãy núi Pyrénées cao ngất, có các chóp đỉnh phủ tuyết, mờ lẫn trong những đám mây dày đặc. Đôi tay François tê buốt, bộ râu lâu ngày không cạo, ướt sủng và đầy cánh nụ tuyết. Ông đi ngang tiệm bánh mì, nhưng ông do dự, không muốn bước vào, vì trước kia,chủ tiệm đã nghi oan cho ông. Ông đi tới sở chuyên chở. Tại các vùng chưa có đường xe lửa, thư từ được chuyển đi bằng xe ngựa. Tất cả du khách, kẻ đi nghỉ mát tại các vùng nước thanh-tuyền ở núi Pyrénées, đều phải tới Sở của Cazenave. Ông này trước kia là một Thượng Sĩ trong quân đội, nay đã giải ngũ từ lâu, nhưng ông ta vẫn thích ăn mặc theo lối nhà binh, mang giày ống cưỡi ngựa, tay cầm roi da, thỉnh thoảng quất chơi vào cành cây cao to. Khuôn mặt có bộ râu quai nón, xén tỉa kỹ lưỡng. Mỗi lần có ai thăng chức cho, gọi là « Đại Úy », ông ta rất hãnh diện. François trước kia cũng có đi lính một thời gian, nhưng rồi được giải ngũ. Lấy dáng đi và cung cách nhà binh, ông bước đến :

   - Chào xếp! Ngài có chút việc gì cho tôi làm không?

   Cazenave thổi phào, tỏ vẻ khinh khi:

   - Lại Soubirous nữa! Chú mày luôn luôn ở trong cảnh túng bấn. Phải biết xoay xở chứ, ông bạn già!

   - Thời buổi khó khăn quá, kiếm việc mãi không ra. Con cái thì lại còn nhỏ!

   - Sự may mắn là do Chúa ban. Có thể lắm ! Nhưng thất bại là do ta gây nên.

Nói xong, ông ta lấy roi quất mạnh vào cành cây, và ra lệnh cho tên giữ ngựa cho xe chở thư khởi hành. François cố gắng nài nỉ:

   - Thưa « Đại úy », thực ngài không có chút việc gì cho tôi sao?

   Thấy được thăng chức, ông ta mỉm cười, thông cảm:

   - Tôi muốn giúp đỡ một người lính cũ lắm. Nhưng hôm nay, thực tình chẳng có việc gì...

   François thất vọng, toàn thân rã rời, bắt đầu quay đi. Nhưng bỗng ông ta gọi giật lại:

   - Đợi một chút, anh bạn già. Tôi có việc này, tuy không ngon lành lắm đâu. Mẹ Bề-trên bệnh viện có nhờ tôi cho người mang một đống rác ra khỏi tỉnh và thiêu hủy đi. Đó là những băng cũ, giẻ rách, và bông gòn đầy máu me của các bệnh nhân. Nếu anh muốn, hãy buộc con ngưạ già này vào xe. Tôi cho anh 20 xu.

   - Thưa « Đại Úy », việc này không đáng 30 xu sao?

   Ông chủ im lặng, không trả lời. François buộc con ngựa già vào xe và cho chạy tới bệnh viện do các Nữ tu Nevers điều khiển. Chị gác cổng đã soạn sẵn ba thùng rác chứa đầy những thứ dơ bẩn, thối tha của bệnh tật con người. Chị dặn dò, như người sành sỏi về y-khoa:

   - Xin ông hãy cẩn thận. Tử thần ẩn náu trong các thùng rác này. Hãy đưa đi thật xa, đến tận mãi Massabielle mà đốt tất cả và đổ tro xuống sông Gave !

   Gió và mưa đã tạnh, ông cho xe ngựa chạy theo bờ sông Gave, đến dưới chân một ngọn đồi, dân chúng thường gọi là núi Espéluges, hoặc là núi có nhiều hang động. Ông cho xe dừng lại trước cái hang lớn nhất, có tên là Hang Massabielle. Hang rộng độ 20 bước và sâu độ 12 bước, hang này giống như một cái lò. Cứ mỗi lần sông Gave ngập lụt là mang theo đất phù sa phủ đầy mặt hang. Giữa những hòn đá, các cây tầm-gửi đua chen nhau mọc. Một cây bông hồng dại,bọc quanh miệng hang giống như hình bầu dục. Hang Massabielle có tiếng là ma quái đối với dân chúng Lộ-Đức và dân quê các vùng gần đó. Người ta kể nhiều chuyện rùng rợn về hang này.

   Người ta cho đây là chốn « khỉ ho, cò gáy » không ai muốn bén mãng. Và để tỏ vẻ khinh khi người nào, người ta thường bảo là kẻ đó « xuất thân từ Massabielle. » Những người đánh cá, trẻ chăn cừu, các kẻ đi kiếm củi khô trong rừng Saillet quanh đó, lúc gặp cơn mưa tầm tả, trước khi chạy vào ẩn núp trong hang, đều phải làm dấu Thánh giá. Nhưng François không phải là một bà già yếu bóng vía. Những chuyện ma quái người ta kể, không làm cho ông ta sợ. Ông xuống xe và tính chuyện đưa chiếc xe ngựa băng qua con suối cạn để đôt thùng rác bẩn trong hang. Hang che kín gió, lửa sẽ dễ bốc cháy hơn đốt ngoài trời bị gió tạt. Nhưng ông do dự, sợ chiếc xe ngựa cũ kỹ này sẽ gãy tan tành khi vấp phải các hòn đá nhọn, lúc kéo xe chạy qua suối. Trong khi ông chưa biết tính ra sao, thì có tiếng vang inh ỏi như tiếng heo kêu, chó sủa.

   Đó chính là Samson, một tên chăn heo cho mọi người trong làng. Sáng 9 giờ, anh ta thổi tù-và báo tin thì mọi người thả heo ra khỏi chuồng để anh ta lùa đi cho ăn. Chiều 4 giờ, anh ta lùa heo về, thổi tù-và để mọi người lùa heo của mình vào chuồng. Samson có thân hình thấp bé, đầu to, tóc màu hung hung, lắc lư trên cái cổ có cục bướu lớn. Hình dáng xấu xí, nhưng anh ta lực lưỡng và có bụng dạ tốt. Điều anh ham thích nhất là được dịp tỏ cho người ta thấy mình có khả năng và sẵn sàng giúp đỡ mọi người, bất kỳ cực nhọc đến đâu. Trong khi anh ta chạy dọc theo bờ suối, thì bầy heo lặn lội trong vũng bùn, dưới bờ sông. François kêu lớn tiếng:

   - Ê Samson, đến giúp một tay !

   Nghe tiếng kêu, Samson chạy băng qua suối dễ dàng như suối chẳng có nước. Theo sau là con chó. Anh lấy đôi tay vặm vỡ hạ các thùng rác xuống khỏi xe và mang đến cuối mỏm đất mà François vừa chỉ cho anh. Anh đổ các thùng rác thành một đống khá cao, đánh diêm châm lửa. Các cuộn băng bén cháy, bắt đầu xông mùi khét, các miếng vải rách có máu mủ và áo quần bẩn thỉu dần dần cháy to lên...

   François trước kia làm bột làm bánh, tay chân sạch sẽ, không quen với những mùi hôi tanh nôn mửa này, nên vội lấy thuốc châm lửa hút cho dễ chịu hơn. Trong khi đó, thì Samson và con chó vui thích, nhảy múa quanh ngọn lửa như một cuộc tế thần kỳ quái... Nhờ có gió, chẳng mấy chốc, đống rác hôi hám chứa đựng những nỗi đau khổ của bệnh nhân, đã cháy rụi. Thế là xong, ông ta và Samson cùng nhau xúc đống tro đổ xuống sông Gave đang cuồn cuộn chảy vào sông lớn Adour, rồi tuôn ra biển. François trở về gặp chủ thì chưa đến 11 giờ trưa:

   - Thưa « Đại Úy », mệnh lệnh đã thi hành xong.

   Sau một lúc trả giá gắt gao, và nhiều lần nhắc đi nhắc lại « Thưa Đại Úy », ông ta mới nhận được tiền công là 25 xu.

   Trên đường về nhà, đến đầu hẻm con đường Petits-Fossés, François vẫn nhất quyết mang về gia đình đầy đủ 25 xu vừa kiếm được. Nhưng khi đi qua quán rượu, trong lúc rét mướt và bụng đói, ông đã phải đành lòng ghé vào mua một cốc rượu uống cho ấm bụng. Ông tự bàu chữa: « công việc nặng nhọc làm vừa qua, thực ra chỉ đáng có 20 xu, còn 5 xu thêm là do tài mình thương lượng với chủ. Vả lại, cốc rượu nhỏ chỉ có 2 xu, thì mình đâu có hoang phí tiền bạc dành cho vợ con lắm đâu ! »

   Về đến nhà, ông đã ngửi thấy mùi thơm dễ chịu. Quả thật hôm nay, nhờ ơn Chúa, cả nhà không còn phải ăn loại cháo bo bo kinh niên nữa. Bà vợ khéo tay nấu nướng, làm món xúp hành tây béo bổ. Và cũng chính cái « tài nấu nướng » đó mà làm cho François trước kia, mượn cớ để trả lời sao chàng chọn cô em là Louise tóc vàng mắt xanh, hơn cô chị là Bernarde, vào thời kỳ mới quen nhau. Vì thực ra, năm 1841, khi chồng chết, bà Claire Castérot lại muốn gả Bernarde, cô chị 19 tuổi, cho chàng hơn là Louise, cô em chỉ mới 17 xuân xanh. Dẫu sao đi nữa, khi xưa François bị nhà gái hỏi dồn lý do nào thúc đẩy chàng chọn cô em hơn cô chị thì chàng chỉ trả lời cho xong chuyện: « cô em có tài nấu nướng! »

   Lúc đi làm về, François cổi áo, cất mũ rồi vui vẻ đến gần bà vợ và trao cho đồng 20 xu bằng bạc láng bóng. Bà vợ không hết lời khen chồng: « Anh thật là người can đảm. Chúng ta hãy cám ơn Chúa.»

   Bà nhớ đến lời bà cầu nguyện sáng nay, lúc chồng ra đi kiếm việc. Nói xong, bà mời chồng ngồi xuống ăn bát xúp nóng hổi... Ăn xong, không có việc gì để làm, mãn nguyện là đã làm tròn phận sự người cha, người chồng, François lên giường kéo một giấc ngủ say!

Chương 2 : Cô Gái Áo Trắng

Sau một giấc ngủ ngon lành cho đến trưa, François thức dậy, lạnh cóng. Bà vợ thấy thế, liền đến gần lò sưởi. Lửa đã tắt từ lâu. Trong nhà cũng không còn một cọng rơm, hay một nhánh thông. Bà quay lại nói với hai đứa con gái vừa đi học ở Trường các Bà về, lại có cô bạn đồng lớp là Jeanne Abadie đi theo nữa:

   - Trong nhà không còn một khúc củi nhỏ. Các con để cho lửa tàn rụi thế sao?

   - Để chúng con vào rừng kiếm củi cho. Hai cô con gái đồng thanh đáp.

   - Để cháu đi với. Ba người thì kiếm được nhiều củi hơn, Jeanne thêm vào.

   Bà mẹ nghe thế, nói với Bernadette:

   - Thôi con ở nhà. Vào rừng mùa này con sẽ bị cảm,rồi cơn suyễn sẽ tái phát...

   - Thưa mẹ, con lớn hơn và khỏe mạnh hơn Toinette và Jeanne nữa. Trước đây, con chăn cừu ở Bartrès ngoài trời mưa gió, mà có hề gì đâu. Con còn cảm thấy khỏe mạnh nữa là khác.   Vừa lúc ấy, có bà hàng xóm Bouhort đến cầu cứu bà Louise, vì đứa con hai tuổi mà nổi chứng kinh phong. Louise có tài cạo gió, nên người ta thường đến cầu cứu với bà trong những trường hợp khẩn cấp như thế. Vì vội ra đi, nên bà mở rương sắt ra lấy đôi tất len đưa cho Bernadette và nói:

   - Nếu con đi vào rừng thì lấy đôi tất len này đi cho khỏi bị cảm. Và nhớ lấy khăn trùm đầu nữa. Đi mau mà về.

   Đây là loại khăn trùm qua đầu và thả xuống hai bên tới nửa người, thường dân quê vùng Bartrès và Bigorre hay dùng. Khăn trùm đầu thường là màu đỏ; nhưng khăn trùm đầu của Bernadette thì màu trắng, bằng len. Màu trắng đã ngã sang vàng ngà, vì bà mẹ mua cho trong dịp đi chợ trời, tìm trong đống áo quần cũ... Chị em Bernadette có gì là mới đâu.

   Bernadette, Toinette và Jeanne lên đường, nhắm hướng rừng Saillet, rồi tiến đến gần mỏm đất, chỗ con suối nhỏ chảy vào sông Gave. Họ đến ngay nơi mà sáng nay François và Samson đã đốt cháy ba đống rác đầy máu mủ của bệnh nhân, và đổ tro xuống sông Gave. Bên trái là đồi Espéluges và hang Massabielle. Jeanne hăng hái tháo guốc và lội qua con suối nhỏ, rộng độ 7 thước, để vào rừng Saillet, nhưng vừa lội vừa kêu lên, vì nước suối lạnh thấm vào da thịt như dao cắt. Tiếp theo là Toinette, tay cầm guốc, tay vén cao váy lên cho khỏi mặt nứơc, rồi vừa lội vừa la hét khủng khiếp. Đến bờ bên kia, cả hai ngồi trên phiến đá, vừa xoa bóp đôi chân vừa run rẩy.

   Bernadette còn lại một mình bên bờ suối, vội kêu:

   - Còn tao thì sao?

   - Mày cứ lội qua như chúng tao, Jeanne đáp.

   - Không được đâu, Toinette lo ngại, nước suối lạnh sẽ làm cho chị tôi bị cảm. Để tao qua cõng sang.

   - Mày nhỏ quá, Jeanne ngăn cản, nếu cõng Bernadette, chắc chắn hai đứa mày sẽ ngã xuống suối đầy những đá nhọn, nguy hiểm lắm. Còn tao, nếu phải lội trở lại con suối một lần nữa, thuê tao cũng không làm. Cho dù có được ba gói kẹo.

   Rồi hướng qua bên kia bờ, Jeanne nói lớn tiếng:

   - Nếu mày sợ nước như con gà mái, thì hãy ở lại bên ấy. Chúng tao không cần mày giúp sức đâu.

   Bernadette buồn rầu nhìn theo hai người kia đang trèo lên đồi và bóng dáng họ chạy nhảy qua những hòn đá nhỏ và các cành. Có tiếng cô em vọng sang: « Phía trên đồi có rất nhiều cành cây khô. Hãy ngồi đợi ở bên đó. Chúng tôi không cần chị đâu. »

   Ngồi lại một mình bên bờ suối, em cảm thấy tâm hồn êm ả. Chung quanh cảnh vật yên tĩnh. Cũng không có một ngọn gió thổi làm lay động bầu không khí cô-tịch của thiên nhiên. Mặt trời đã lên cao, những tia ánh sáng xuyên qua đám mây, giọi vào hang đá. Hang Massabielle giờ đây bừng sáng lên một màu hồng đẹp khôn tả. Tại cửa hang, hình bầu dục, có một cây bông hồng dại bao quanh. Em lắng tai nghe. Xa xa vọng lại tiếng em gái và cô bạn nói không cần mình giúp một tay đâu. Em nghĩ thầm: « Mình đâu có phải con gà mái sợ nước. Phiền là mẹ bắt phải mang đôi tất len, nên làm sao lội qua được.»

   Thế rồi em ngồi xuống trên hòn đá mà trước có mấy tiếng đồng hồ, cha của em và gã chăn heo thiêu hủy đống rác của bệnh viện. Em bắt đầu tháo đôi tất len ra khỏi chân mặt, để lội qua suối. Nhưng bản tính kín đáo và nết na, em nhìn xung quanh xem sao. Không có gì khác lạ, cũng không có bóng dáng một người. Các đám mây trên trời lúc ẩn lúc hiện. Tiếng sông Gave vọng lên đều đều.

   Bỗng chốc, em nghe một tiếng động nhỏ như một làn gió thổi. Bán tính bán nghi, em nhìn xung quanh, tứ phía. Lần này có vẻ rụt rè. Trên tay vẫn còn nắm chiếc tất vừa cởi ra. Em ngước nhìn lên các ngọn cây tùng-dương để xem có gió lay không. Không một ngọn lá rung rinh. Tất cả vạn vật hình như im hơi lặng tiếng!

   Em đang ở trong một trạng thái lạ lùng, khó hiểu, chưa bao giờ xảy đến, và cũng không thể nào giải thích được. Thế rồi, một tiếng động thứ hai giống như lần trước làm em quay nhìn về phía hang cách đó có 10 thước. Cây bông hồng dại vẫn còn, bám chặt vào đá, chung quanh miệng hang, không buồn lay!

   Cô bé chưa biết được đây không phải là gió làm lay cành, vì vạn vật im hơi lặng tiếng, nhưng là tiếng Thánh Thần lay động trong tâm hồn em, tràn ngập tâm tư em, đem cho em sức mạnh cần thiết để em chu toàn sứ mạng quá cao xa mà em sắp lãnh nhận như các Tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, những sứ giả Tin Mừng đầu tiên!

   Thế rồi, bất chợt em nhìn vào trong hang, em thấy có ánh sáng rất dịu, như là một sự phản chiếu của những tia nắng vàng nhạt của mặt trời chiếu vào. Trong cái hào quang đó, hình như có một kẻ nào vừa hiện ra, đến từ cõi xa xăm của thế giới vô hình. Tuy nhiên không phải là ma quái, cũng không phải là hình ảnh do trí tưởng tượng tạo ra, hay một ảo-tưởng của giấc mơ. Em nghĩ là mình nhìn lầm, nên em mở mắt ra nhắm mắt lại có đến 10 lần liên tiếp. Nhưng cái hình bóng ngay trước mắt em vẫn còn đó. Em chăm chú nhìn, không chớp mắt.

   Đó là một cô gái rất trẻ và thấp, thanh tao và duyên dáng. Cô gái xem rất thoải mái trong vòm hình bầu dục của cái hang. Áo cô màu trắng như tuyết. Chiếc khăn voan trắng, nhẹ nhàng một cách tuyệt vời, thả xuống tận gót chân. Một giây thắt lưng màu xanh da trời quấn nhẹ dưới ngực, và rủ xuống quá đầu gối. Màu xanh đó đẹp làm sao.

   Còn áo dài của cô gái, cho dù chính cô Peyret, tay thợ may nổi tiếng của bà góa Millet, người giàu có nhất Lộ Đức, cũng không thể phân biệt được nó làm bằng thứ vải gì. Đôi khi nó bóng lên như sa-tanh, có lúc lại mờ nhạt như một loại nhung chưa bao giờ thấy, vô cùng mượt-mà và ngời lên như có tuyết trắng để rồi trở thành một loại vải rất mỏng và rất nhẹ, uyển chuyển theo sát mọi cử chỉ của cô gái.

   Nhưng điều ngạc nhiên hơn hết,và em chỉ nhận thấy vào lúc cuối.  Đó là đôi chân cô gái xinh xắn, như làm bằng ngà, hay bằng ngọc thạch. Và điều lạ lùng hơn nữa là có hai bông hồng ở đôi chân. Người ta không hiểu được chúng làm bằng gì, bằng một loại kim-hoàn đặc biệt, hay được chạm nổi lên.

   Trong những giây phút đầu, em cảm thấy bàng hoàng, rồi tiếp theo là sợ hãi kéo dài. Nhưng không phải thứ sợ hãi làm người ta bỏ chạy. Dần dần nỗi sợ hãi đó tan biến đi và trở nên một cảm xúc mới lạ. Em không thể giải thích được, mà chỉ có thể cảm nghiệm và gọi đó là một sự an ủi, một tình yêu thương của một tấm lòng từ bi nhân hậu.

   Trong tuổi niên thiếu, em đã chịu đói khát, sống chật hẹp chen chúc trong một « nhà tù cũ » hôi hám và ẩm thấp, và mỗi đêm phải cố gắng để hít thở không khí, vì bệnh suyễn. Từ trước đến nay, đời sống của em vẫn thế, và mãi mãi sau này, chắc rồi cũng như vậy. Chẳng gì đổi thay, sống mãi trong cảnh nghèo, rồi cũng quen đi. Đó là giòng đời... Nhưng ngay giây phút này đây em cảm thấy được bao trùm bởi một tình thương kỳ lạ, không tên không tuổi, giống như hơi nóng ấm-áp của một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Toàn thân em rung động, trước cảm giác êm ái, mới lạ này.

   Trong lúc tâm hồn dạt dào tình yêu thương, một cảm giác say mê làm rung chuyển trái tim nhỏ bé của em. Em mạnh dạn ngước nhìn khuôn mặt kiều diễm của cô gái. Cô ta cũng đưa mắt nhìn em. Em không phân biệt được từng nét của khuôn mặt, em chỉ biết nhìn với đôi mắt say mê, hình dáng kiều diễm, siêu phàm trước mặt em. Em cũng không có cảm giác là đang đứng trước một nhân vật của thiên giới. Hiện em đang ngồi trên một hòn đá gần sông Gave, trong khung cảnh trơ trụi của tháng Hai, trên tay cầm một chiếc tất len. Em không còn thấy gì hết, không biết gì hết, ngoài cái sắc đẹp mê hồn, đang làm em hoan lạc đến tột độ.

   Bỗng nhiên em nhận ra là cô gái trẻ tuổi đang đứng mà mình lại ngồi, một chân chẳng mang gì hết. Đây quả là một thái độ không chút đoan trang. Phải làm sao đây? Em bèn đứng lên, áy náy, thẹn thuồng. Cô gái mỉm cười, vui vẻ. Nụ cười càng làm cho cô thêm dịu dàng, rực rỡ...

   Em cúi đầu chào cô gái một cách vụng về, như các học trò ở Lộ Đức phải chào cha sở Peyramale, hay cha phó Pomian, khi gặp các ngài ngoài đường. Cô gái cũng đáp lại cái chào ấy, nhưng không phải một cách oai nghiêm, hay ngạo mạn như một vài nhân vật quan trọng trong tỉnh. Cái chào của cô gái thực dịu dàng, thân ái và hết sức trung thực. Cái chào ấy đã tạo nên một sự giao cảm quyến luyến giữa hai người, một mối tình tri-kỷ tưởng chừng như đã có từ lâu, một sự đồng tình hợp ý rất thiết tha.

   Để tỏ lòng kính mến cô gái, em vội quỳ xuống trên những hòn đá của bờ sông, mặt hướng lên hang đá để nhìn. Lần đầu tiên, một ý nghĩ lướt qua trong tâm trí của em: « Cô gái từ đâu đến ? Không lẽ từ lòng đất lên? Những thần-thánh thường từ trời mà xuống trên các đám mây, hay trong các tia ánh sáng mặt trời, như người ta thường thấy các hình ảnh chưng bày trong các giáo đường. Tuy nhiên, cho dù cô từ đâu đến, và cho dù cô là ai, có một điều không thể hiểu được, và cũng không thể nào giải thích được. Đó là tại sao cô gái lại chọn MASSABIELLE, một hang đá bẩn thỉu, tối đen, một hang động thường bị ngập lụt, đầy dẫy những xác thú-vật chết đuối, những heo sình và rắn chết, một nơi mà mọi người đều ghét bỏ và kinh tởm? »

   Làm sao em hiểu được sự chọn lựa cao vời của Cô gái khi Cô chưa xưng tên tuổi. Cô từ trời cao đến, ăn mặc sang trọng từ đầu tới chân như em đã thấy, không lẽ đến nơi sình lầy, xác thú vật chết trôi sình đầy hang để chân Cô lấm bùn, và áo vấy bẩn ? Cô gái cao sang thế, có thể hiện đến trong cung điện vua chúa, hay ít nữa trong dinh Tỉnh trưởng hay giữa công trường Macadale, nơi tụ họp chợ đông người cho mọi người trông thấy, hoan hô. Sao Cô lại chọn nơi tối tăm nếu đó không mang một ý nghĩa thiêng liêng cao siêu nào.

   Phải, Cô gái từ trời cao hiện đến với đất thấp, tỏa chiếu ánh sáng cho hang tối tăm, tương trưng cho nhân trần cần được ơn cứu chuộc, như xưa kia Mẹ ẵm Hài-nhi trong hang bò lừa hôi hám Bê-Lem. Cô đến cảnh tỉnh loài người đừng chìm đắm trong cơn hôn mê, vô thần, vô tín ngưỡng hay đối nghịch với Thiên Chúa tình thương. Cô còn có nhiều điều muốn nói nữa, nhưng em không thể, hay chưa thể lãnh hội được, cho nên Cô sẽ còn hiện ra nhiều lần để dạy dỗ cho em, soi dẫn cho em, nhất là ban ơn sức mạnh đức tin cho em vuông tròn sứ mạng. Cô là nhà mô phạm thiên quốc, sẽ rừ từ hướng dẫn cho em. Cô không gấp gác vội vàng như chúng ta ở trần thế...

   Những điều suy nghĩ cao siêu ấy dĩ nhiên vượt tầm hiểu biết của em, nên làm em băn khoăn thắc mắc. Nhưng rồi Cô gái làm dấu thánh giá, một dấu thánh giá to rộng, trang trọng đến nỗi những băn khoăn, lo âu của Bernadette tan biến đi rất mau. Toàn thân em giờ đây reo mừng, hoan hỉ trước vẻ đẹp của cô gái, một sắc đẹp không phải bằng hình dáng thể xác con người, mà bằng sự rực rỡ, chói lòa của tâm linh, chẳng phụ thuộc gì vào thể chất hữu hình.

   Giờ đây, trong một cử chỉ mới mẻ, hình như có một sức mạnh dịu dàng hướng dẫn bàn tay em, em đưa tay vào túi áo và nhẹ nhàng rút tràng hạt ra. Tất cả phụ nữ Lộ Đức đều có thói quen mang tràng hạt trong túi áo. Việc lần chuỗi đối với họ là một công việc làm bằng tay, như may vá, đan len. Trong khi môi họ thì-thầm lời Thiên Sứ chào mừng Mẹ Maria, tâm hồn họ đôi khi có thể lạc vào những âu lo của công việc làm ăn. Nhưng không sao, họ vẫn được Nữ Vương Mân Côi che chở, hộ phù. Còn em, còn nhỏ, tuy chưa hiểu những mầu nhiệm Mân Côi, nhưng cũng mang trong người tràng hạt như dấu chỉ của sự trưởng thành.

   Bây giờ em hướng nhìn cô gái và giơ cao tràng hạt bằng gỗ màu đen. Cô mỉm cười, vẻ mặt rạng rỡ về ý nghĩ tốt đẹp của em. Để đáp lại, cô lấy tay phải, nâng tràng hạt lên: một xâu chuỗi dài, có những hạt sáng chói như trân châu, và một thánh giá bằng vàng lấp lánh. Chắc chắn, không có một nữ hoàng nào trên trần gian lại có được một tràng hạt đẹp như thế.

   Em ngạc nhiên khi nghe tiếng của chính mình vang lên trong cảnh vật yên tĩnh của núi rừng, như đang lắng nghe lời truyền tin: « Kính chào Maria đầy ơn phước...» Em để ý xem cô gái có cầu nguyện với mình không. Nhưng đôi môi của cô vẫn bất động. Đâu phải việc của cô nhắc lại lời Thiên Sứ năm xưa! Sau mỗi kinh Kính Mừng, ngón tay cô gái chỉ lần một hạt trân châu. Cho đến lúc em đọc kinh Sáng Danh, đôi môi cô mới mấp máy, và mới cầu nguyện cùng em, nhưng trong im lặng.

   Chưa bao giờ em lần hạt chậm rãi và kỹ lưỡng như thế. Chắc chắn cũng là một cách để lưu giữ cô gái ở lại lâu hơn. Em nghĩ và sợ cô gái mệt mỏi khi đứng lâu trong hang chật hẹp, hôi hám, tại một núi hiểm trở, xuôi dốc, mà người ta có thể trượt chân ngã xuống dễ dàng. Nhất là trong thời tiết xấu hôm nay,chắc chắn cô gái sẽ rất khó chịu.

   Ôi chẳng mấy chốc nữa, cô gái sẽ biến đi và để em lại một mình. Nhưng khi đọc đến chục thứ ba, tất cả những âu lo phiền muộn ấy đều tan biến. Em không còn cảm thấy những hòn đá nhọn dứơi đầu gối đang quỳ, cũng không hay biết đến cái lạnh tê buốt như cắt thịt, đang bao trùm cảnh vật chung quanh... Khi em lần hết tràng hạt, thì Cô gái đưa tay vẫy gọi em lại gần một cách âu yếm, nhưng là lần đầu tiên, em sợ sệt, ngại ngùng, không dám lại gần, vì em thấy mình quá thấp hèn. Thế rồi cô gái biến mất lúc nào mà em cũng không hay.

   Sau 20 phút, Jeanne và Toinette mới trở lại con suối. Trong thung lũng, giữa hang đá và rừng Saillet, hai người kiếm được nhiều cành khô và bó lại. Họ vừa kéo các bó củi, vừa thở hổn hển, vừa kêu rêu, và không để ý đến Bernadette. Mãi sau, khi nhìn sang bờ suối bên kia, Toinette mới nhận thấy chị mình đang quỳ trên những hòn đá nhỏ, người cứng đờ. Tay phải đang nắm tràng hạt, một chiếc tất trắng nằm trên mặt đất, bên cạnh. Mặt mày tái xanh như một xác chết. Đôi môi thường tươi thắm, bấy giờ trở nên bạc nhợt. Hai mắt, nhiều trắng hơn đen, đăm đăm hướng nhìn về phía hang đá, bất động.Trên khuôn mặt, không biểu lộ một cảm xúc nào, tưởng chừng như đã hóa thành đá, lại như có một nụ cười thần tiên... Toinette kinh hoảng, vội kêu lên:

   - Bernadette! Bernadette!

   Không có tiếng trả lời. Em đang quỳ như một pho tượng, bên kia bờ, hình như chẳng nghe gì hết. Đến lượt Jeanne gọi:

   - Ê, Bernadette đàng kia! Đừng làm bộ điên khùng!

   Vẫn không có tiếng trả lời. Toinette hốt hoảng, run lẩy bẩy:

   - Ôi! có lẽ Bernadette đã chết rồi. Bệnh suyễn đã làm cho chị tôi nghẹt thở ! « Lạy Giêsu Maria! Xin thương cứu giúp! »

   Jeanne bình tĩnh hơn, vội bảo:

   - Đừng nói nhảm. Có bao giờ người chết mà đang quỳ gối không? Nếu nó chết rồi, thì phải nằm xuống đất chứ! Để chúng mình thức nó dậy. Nó muốn chơi khăm tụi mình đó mà!

   Nói xong, Jeanne lấy vài hòn đá nhỏ ném về phía bên kia bờ. Một hòn trúng ngay vai Bernadette. Tức thì em ngẩng đầu lên và quay nhìn chung quanh. Màu hồng của sự sống từ từ hiện lên nét mặt của em. Em thở rất mạnh và hỏi:

   - Cái gì thế?

   Jeanne ngạc nhiên kêu lên:

   - Cái gì thế? Chính chúng tôi phải đặt câu hỏi chứ? Mày phát khùng rồi phải không? Trong nhà thờ cầu nguyện không đủ sao, lại ra hang Massabielle là nơi bẩn thỉu, nơi người ta dẫn bầy heo vào mà cầu nguyện?

   - Việc này là của tôi, có liên quan gì đến hai người !

Toinette vội can thiệp:

   - Nhưng chị làm em sợ quá, tưởng chị đã chết rồi...

   Bỗng nhiên Bernadette đứng dậy, tháo luôn chiếc tất còn lại khỏi chân trái, rồi nhất quyết băng qua con suối lạnh cóng như nước đá. Đi được nửa con suối, em dừng lại và kêu lên:

   - Thật các người nói dối. Nước suối mát thế này mà kêu lạnh như cắt!

   Jeanne và Toinette sững sốt khi nghe nói thế, nhưng họ lại cho Bernadette như người mất trí, nên cũng không quan tâm. Thế rồi, Bernadette bước lên bờ, phân chia các nhánh củi thành ba bó. Vừa làm, em vừa hỏi:

   - Các người có thấy gì không?

   - Mày thấy gì nào? Thấy ai trong hang? Jeanne hỏi.

   - Không. Không thấy gì hết.

   Nói xong, Bernadette ngồi xuống, mang hai chiếc tất len vào chân, rồi đứng lên lấy bó củi nặng nhất đội lên đầu theo kiểu các dân quê trong làng rồi ra lệnh:   - Chúng mình trở về nhà qua ngả vùng núi, mau hơn là trở lại con suối.

   Nói xong, em tiến lên trước, theo con đường mòn, qua núi Espéluges, không nói thêm lời nào nữa. Em vác bó củi nặng, nhưng trèo lên dốc một cách dễ dàng. Jeanne thấy thế, ngạc nhiên, nói với Toinette:

   - Chuyện gì kỳ lạ vậy. Chính tao mới là người khỏe nhất trong bọn mình. Bernadette hồi nãy sợ nước như con gà mái, thế mà giờ đây, nó vác xách mạnh mẽ và ra lệnh chỉ huy như ông Đội xếp !

   Qua khỏi khu rừng rậm, Bernadette đi rất mau, im lặng không nói một lời, quên cả bệnh suyễn. Em chỉ có một mong ước: Làm sao nói chuyện về cô gái trẻ tuổi, như nói đến một người mình yêu mến nhất... Tự đáy lòng, em cảm nghiệm rằng, nếu phải nói chuyện về cô gái trẻ tuổi, thì sẽ xảy ra một chuyện gì đó rất quan trọng. Em luôn do dự và lẩm bẩm: « Tôi sẽ nói ra...Tôi sẽ không nói ra...»

   Toinette đi sau, vội kêu lên:

   - Có chuyện gì mà lẩm bẩm một mình trong miệng mãi như thế?

   Bernadette không thể giữ lâu hơn được nữa, nên nói với Toinette:

   - Chị có chuyện này muốn nói với em, nhưng em không được nói ra cho ai hết, kể cả cho mẹ nữa. Em có hứa với chị không?

   - Chị biết em giữ mồm giữ miệng lắm, không nói ra cho ai cả đâu. Chị yên tâm.

   - Còn Jeanne nữa, có thề giữ kín không? Không nói ra ở Trường không?

   - Tôi hứa là không nói ra cho ai cả, chứ không thề đâu. Thề bậy bạ là một tội. Tôi sắp được chịu lễ lần đầu rồi. Có gì thì cứ nói ra.

   Bernadette hít một hơi dài như lấy sức, rồi với một giọng đầy cảm động, em tiết lộ cái bí mật nửa như muốn giữ cho riêng mình:

   - Tôi thấy một cô gái trẻ tuổi hiện ra trong hang. Cô ta mặc áo trắng, có giây thắt lưng xanh, và hai bông hồng bằng vàng trên đôi chân.

   Toinette ném bó củi xuống đất, bực tức:

   - Ồ, em biết rồi. Chị muốn làm chúng em sợ ma phải không. Vì chúng ta đang ở trong rừng, và trời đã về chiều rồi. Em không sợ cô gái áo trắng của chị đâu.

   Bernadette đã nói ra xong, như người vừa trút được gánh nặng, em giữ im lặng, không trả lời Toinette. Rồi đội bó củi lên đầu, rảo bước nhanh. Hai người kia theo sau. Tiếng guốc rền vang trên đường vắng. Khi xuống dốc bên kia đồi, cả ba đã có thể nhìn thấy con đường dẫn về nhà... 

Chương 3 : Con thổn thức, Mẹ Cha phẫn nộ

Gần bốn giờ chiều rồi mà Bernadette và Toinette chưa về đến nhà. Bà mẹ đang lo lắng. Mãi đến khi bà sửa soạn nấu ăn bữa tối, thì hai chị em mới mang củi và xương khô về đến nhà.

   - Hai đứa chui rúc đâu mà lâu vậy? Các con lớn rồi, thế mà cứ để cho mẹ làm việc một mình? Nhà mình nghèo thì các con đâu có quyền rong chơi?

   Trong nhà im lặng. Ông bố thì đang mệt, nằm trên giường. Hai chị em nhìn nhau, rồi vội vàng ngồi xuống gọt khoai giúp mẹ. Một ít khoai mua được sáng nay, nhờ ông bố đi làm được 20 xu đem về. Về mùa đông, trời mau tối. Thì hôm nay chẳng phải là ngày Thứ năm 11 tháng Hai rồi sao. Lợi dụng chút ánh sáng hoàng-hôn le lói còn lại, bà mẹ nói với Toinette:

   - Ra ngồi gần cửa sổ, để mẹ chải đầu cho hết mấy sợi thông dính tóc.

   Tuy nhà nghèo, nhưng bà Louise luôn nghĩ đến sự sạch sẽ, nhất là tóc tai của hai cô con gái. Toinette ngồi nhìn ra cửa sổ và quay lưng cho mẹ. Tóc rối vì đi rừng về, làm cho cô kêu lên mỗi lần lược chải từ trên xuống. Bà mẹ phải nhẹ tay. Nhưng thỉnh thoảng cô vẫn kêu lên, không phải vì lược làm đau, nhưng như có chuyện gì ậm-ực, làm bà mẹ ngạc nhiên :

   - Con ốm hả? Hay là con có chuyện gì thế?

   - Mẹ ơi, con muốn kể cho mẹ nghe chuyện Bernadette.

   - Bernadette có chuyện gì vậy, nguy hiểm không?

   - Có gì nguy hiểm đâu. Sáng nay lúc đi kiếm củi, chị nói có thấy một cô gái mặc áo trắng nơi hang Massabielle. Chị quỳ cầu nguyện, nhưng mặt tái nhợt như người chết...

   Nói xong, Toinette cảm thấy nhẹ nhàng, dễ thở. Cô không quên là đã hứa giữ im lặng không nói ra, nhưng hình như có cái gì bên trong thúc giục cô nói ra mới yên tâm. Bà mẹ nghe thế, kêu lên: « Khốn cho tôi! Con nói gì kỳ quặc vậy, con? » Vừa lúc ấy, Bernadette ăn xong bánh mì ở hàng hiên, trở vào phòng. Đó là chút bánh mì loại tốt, dành riêng cho em, vì em bị suyễn. Cả nhà chỉ ăn thứ bánh làm bằng sữa pha với bột bắp cho sệt lại rồi cắt ra từng miếng mỏng. Đó là thức ăn của người nghèo. Thấy thái độ lo âu khác thường của mẹ, em nhận biết là Toinette vừa tỏ chuyện ban sáng cho mẹ hay, nên Bernadette rụt rè đến bên mẹ, hồi hộp, nhưng quả quyết:

   - Phải, đúng thế mẹ ơi. Sáng nay con thấy một cô gái áo trắng hiện ra, người thấp nhỏ như con. Cô gái nói chuyện với con như con nói với mẹ đây...

   Bà mẹ không để cho con kể tiếp, vì bà dư biết đó chỉ gây thêm chuyện rắc rối cho gia đình. Sau một ngày vất vả, mệt nhọc, bà không muốn còn phải nghe những chuyện phi lý, dở hơi đến thế. Bà muốn an phận cái nghèo, không có chuyện gì lạ thường gây tai tiếng để hàng xóm cười chê, và chính quyền nhân cơ hội đó, bắt bớ như bao lần trước. Bà cất tiếng lanh lãnh rầy la đến nỗi vợ chồng ông Sajous ở trên gác cũng phải lắng tai nghe.

   - Con thấy cái gì hả? Con không thấy cái gì hết, nghe chưa? Mẹ nói cho con biết: việc con thấy, không phải là sự thật đâu. Đó là một hòn đá lớn, màu trắng mà thôi!

   Nói xong, không cầm được bực tức, bà lấy chiếc gậy dùng để đập bụi nơi gối, chăn mền... ra quất cho hai đứa con gái. Bernadette hứng chịu không kêu la, còn Toinette thì bỏ chạy làm bà rượt đuổi theo. Cô mếu máo :

   - Vì chị mà em bị đòn lây!

   Cô chị nhìn em như thầm trách :

   - Tại em không giữ lời hứa, đem nói ra đó!

   Tiếng chạy đuổi quanh mấy chiếc ghế gỗ mộc mạc trong phòng,rồi tiếng khóc của Toinette làm ông bố nằm nghỉ mệt cũng phải thức dậy: «Tôi nghe hết. Tôi nghe thấy hết! »

   Rồi ông ngồi dậy, nói với cô gái lớn:

   - A bây giờ con bắt đầu làm những chuyện nhảm nhí, vô ý thức phải không? Con đã 14 tuổi rồi. Đối với những đứa khác, 14 tuổi là có thể đi kiếm việc làm giúp đỡ gia đình rồi. Con tưởng ba mẹ có thể nuôi con mãi suốt đời sao? Ồ, ba biết những chuyện đó lắm. Con muốn làm cho mọi người chú ý đến con, nên con bày ra chuyện thấy cô gái áo trắng như tiên trên trời, thắt giây xanh và có bông hồng nơi đôi chân. Rồi con sẽ còn bày ra những trò gì khác nữa đây... Ba trước kia làm chủ nhà máy xay bột, làm ăn lương thiện. Chúa biết rõ ba không làm điều gì sai trái, gian tham để nuôi nấng các con. Còn ai muốn tự đắc, khoe khoang thấy thần tiên trong hang, thì không phải là thuộc hạng người làm ăn cần-cù như ba mẹ. Nếu con muốn làm chuyện lạ lùng, tầy trời, thì xin vào gánh xiếc.

   Ông nói với một giọng trầm tĩnh và sâu xa. Chưa bao giờ Bernadette nghe thấy một bài giảng thuyết dài dòng về giáo dục và khó hiểu như thế. Em nhìn người cha một cách chăm chú, thương cho người suốt đời cần cù để kiếm miếng ăn cho gia đình. Cũng chính người là kẻ hay tìm dịp đi Bartrès đến thăm Bernadette lúc em chăn cừu cho bà vú. Cũng chính người cha già này là kẻ không muốn gửi em xa nhà, mặc dầu trong nhà không đủ ăn. Nhưng thực tình hôm nay, em không hiểu người cha muốn nói điều gì. Tại sao lại nói đến việc làm ăn lương thiện, rồi chuyện đi theo gánh xiếc? Hay cuộc đời nghèo đói, tủi phận bị người đời khinh chê làm cho người cha phải có những cảm nghĩ chua xót như thế ?!

   Em không dám ngắt lời của cha, hay đáp lại bài giảng dài giòng như thế. Em chỉ nhìn cha và như thầm nói: « Ba ạ, điều con nói đó lại là sự thật, để rồi ba xem ! » Nhưng bà mẹ nghe ông chồng nói thế, thì nhân dip đó, hùa thêm vào :

   - Đó con nghe ba nói chưa. Từ đây con không được trở lại hang Massabielle nữa là xong. Sẽ không có chuyện gì phiền phức cho gia đình mình nữa.

   Em buồn bực, vì một đàng muốn vâng lời cha mẹ, một đàng thấy như có động lực bên trong thôi thúc ra hang đá.

   - Thưa mẹ...

   - Thôi, con để yên cho ba kiếm việc nuôi các con. Con đừng ra hang đá nữa!

   - Dạ, thưa mẹ, con xin nghe lời ba mẹ.

   Tối hôm đó gia đình François kết thúc một ngày được xem là may mắn, bằng một bữa cơm thịnh soạn, nhờ 20 xu ông bố kiếm được sáng nay. Ba Louise dọn món xúp khoai tây với chút bánh bột. Mùi thơm của món ăn tỏa khắp căn phòng nhỏ, trộn lẫn với mùi khói cành cây chưa khô hẳn, đang bập bùng cháy trong lò sưởi... làm thành một bầu khí, ít khi thấy được trong nhà. Mọi người ăn uống ngon lành, tuy ít nói trong bữa ăn.

   Ngoài trời, màn đêm đã xuống trên cảnh vật tiêu điều và hoang vắng của mùa Đông. Bà nghĩ đến chồng ngày mai phải thức dậy sớm để đi làm việc tại chuồng ngưạ, nên cũng không muốn kéo dài bữa ăn. Ông được Cazenave cho thay thế người giữ ngựa nghỉ việc, vì bị ngựa đá trọng thương. Mỗi ngày được 2 xu, và ngày mai bắt đầu lúc 5 giờ sáng.

   Tối đến, trước khi đi ngủ, cả gia đình quay quần đọc kinh hôm. Không hiểu sao, bà mẹ chỉ định Bernadette xướng kinh.  Em vâng lời cất kinh và khởi xướng lần hạt. Em lấy tràng hạt trong túi áo ra và không khỏi nhớ đến giây phút hân hoan dâng cao xâu chuỗi lên trước mắt cô gái áo trắng... Đến cuối kinh, bà mẹ kính cẩn thêm lời nguyện: Lạy Mẹ Maria, cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Mẹ.  Mọi ngừơi đồng thanh đáp: Amen. Kinh hôm xong, mọi người đi ngủ.

   Ngọn lửa trong lò sưởi tỏa ra ấm áp, nhưng Bernadette không sao ngủ được. Hình như cuộc gặp gỡ với cô gái áo trắng làm cho em không sao chớp mắt được. Em nằm co mình lại, quay mặt vào lò sưởi để không đụng vào Toinette ngủ chung một chỗ. Điều gì xảy đến cho mình, em cũng không hiểu được. Nhưng em cảm thấy đó là một điều phi thường, sẽ thay đổi cuộc đời của em về sau. Em cảm thấy như em có một nhiệm vụ, một gánh nặng trên toàn thân, không thể từ chối được. Em không tìm kiếm, nhưng cũng không thể lẫn tránh được.

   Em tập trung hết trí óc vào cô gái áo trắng. Em nhắm mắt để hồi tưởng tất cả những chi tiết của buổi gặp gỡ đầy êm ái sáng nay: màu trắng của áo dài, màu xanh của giây thắt lưng,làn tóc bay nhẹ dưới khăn voan, nhất là nụ cười đầy nhân ái và cảm thông không thể nào tả xiết. Sau cùng là xâu chuỗi hạt, với bông hồng bằng vàng nơi bàn chân. Em cố gắng nhắm mắt để ngủ và hy vọng sẽ thấy cô gái áo trắng trong giấc chiêm bao. Đôi khi giấc ngủ đến, rồi em thức dậy không thấy gì. Cô gái như muốn cho em biết mình không phải là một sự thật thông thường, có thể nằm mơ mà thấy được.

   Trằn trọc mãi không ngủ được, em cố nghĩ đến chuyện khác, đến những ngày ở Bartrès, với những cây sao, cây tùng-dương trên đồi Orincles, dưới cơn mưa, phủ đầy tuyết trắng, hay xanh tươi dưới ánh nắng mặt trời. Em tập trung những kỷ niệm của cuộc sống ở nông trại, với đàn cừu mà em đặt tên cho mỗi con vật, con chó mà em rất yêu thương, và giòng suối dưới chân đồi ở Bartrès.

   Đã quá 11 giờ đêm, Toinette bỗng thức dậy, vì bàn tay sờ đụng vào một chỗ ướt trên gối. Người quay sang phía chị và hiểu ngay lý do. Tiếng kêu của Toinette kéo dài, đượm sợ hãi:

   - Mẹ ơi! Mẹ!

   Bà mẹ tỉnh ngủ, giật mình, hỏi to :

   - Ai kêu vậy? Cái gì thế?

   - Mẹ ơi! chị Bernadette khóc.

   - Con nói gì vậy. Bernadette khóc hả?

   Nói xong, bà nhẹ nhàng xuống khỏi giường, đến đặt tay lên mặt Bernadette. Nhận thấy nước mắt chảy nhiều trên gò má của con gái lớn, bà động lòng trắc ẩn, hỏi nhỏ:

   - Có phải bệnh suyễn làm con khó thở lắm không. Con hãy ngồi dậy, ra lò sưởi, hai mẹ con mình nói chuyện cho khuây khỏa. Hay là con có chuyện gì khác không?

   Sau khi bỏ thêm vài cành thông nhỏ vào đống lửa sắp tàn, bà kéo một cái ghế gỗ nhỏ lại gần lò sưởi. Bernadette quỳ bên cạnh, úp mặt vào lòng mẹ. Bà lấy tay vuốt tóc người con gái và không nói gì. Tâm hồn bà vừa chán nản, vừa thương hại đứa con gái lớn. Rồi bà cúi xuống, nho nhỏ hỏi:

   - Có phải cô gái trong hang làm con sợ phải không?

   Em lắc đầu tỏ dấu không phải. Nhưng bà mẹ đâu hiểu thấu tâm tình và nỗi khổ của con gái mình. Bà còn tiếp :

   - Con thấy không, chuyện đó chỉ là ảo mộng!

   Em ngửng đầu lên, mặt đầy nước mắt, nhìn mẹ rồi lắc đầu mạnh hơn nữa. Bà mẹ động lòng trắc ẩn, khi thấy giòng lệ tuôn trào trên má của con, bà lấy lời an ủi:

   - Con ơi! Mẹ đã biết hết những chuyện này rồi, thời mẹ bằng tuổi con. Những người con gái vào lứa tuổi này, đôi khi mộng mơ, nhìn sự vật không có thực. Rồi tất cả sẽ qua đi. Con gắng quên nó đi. Cuộc sống hiện nay quá khó khăn để con còn mất nhiều thì giờ nghĩ đến những chuyện nhảm nhí này. Con đã lớn, sắp thành một thiếu nữ rồi. Trong một vài năm nữa, con sẽ gặp một thanh niên, rồi con sẽ có con cái như mẹ. Những chuyện phù phiếm qua mau lắm con ơi. Mau đến nỗi người ta không nhận thức được nữa.

   Em vẫn úp mặt vào lòng mẹ và không một cử động nào nữa. Em thấy mẹ không thể hiểu nỗi những gì thiêng liêng cao cả đang xảy ra trong tâm hồn mình làm mình xao xuyến. Trong khi mẹ lại nghĩ đến những chao động của tâm hồn một thiếu nữ sắp vào tuổi dậy thì !

   Hai mẹ con mỗi người một ý nghĩ trong khi chung quanh vắng lặng và cô quạnh. Đêm mùa đông lạnh lẽo, trong khung cảnh nghèo nàn của căn phòng nhỏ hẹp, càng làm cho cuộc sống thêm ảm đạm.

   Anh lửa từ trong lò sưởi, lúc mờ lúc tỏ, chiếu lên tường những hình bóng chập chờn, kỳ dị như ma quái. Chưa bao giờ bà Louise cảm thấy chua xót, cho thân phận mình thì ít, cho đứa con gái đầu lòng thì nhiều, bằng giây phút này.

   Mặc dầu ban chiều, Bernadette đã hứa là không ra hang Massabielle nữa, nhưng bà quyết tâm ngày mai sẽ đến cha Sempé, xin ý kiến về chuyện cô gái áo trắng này. Thì đó cũng là ý tưởng thầm kín của Bernadette lúc ấy vậy...

   Bà đứng dậy, dìu Bernadette vào chỗ nằm,khẽ hôn lên trán con như ru giấc ngủ cho đứa con gái đầu lòng mà bà quí mến. Xong, bà nhè nhẹ lên giường ngủ. Ông chồng, không biết có nghe hai mẹ con nói chuyện không, đang vùi trong giấc ngủ...

Chương 4 : Mẹ tủi hổ, Con mừng vui

Ngày Thứ sáu,khi đến trường, Jeanne Abadie, nữ sinh thông minh và hăng hái, đã họp bạn bè lại và tuyên bố :

   - Nếu các bạn biết việc gì xảy ra trưa hôm qua thì chắc cạc bạn sẽ trố mắt ngạc nhiên lắm. Nhưng tôi không được nói ra!

   - Tại sao chị làm tụi em nóng ruột, cả bọn học trò nhao lên. Chắc là hôm qua có anh chàng nào lẻo đẻo theo chị ngoài đường phải không?

   - Không phải chuyện của chị, mà là chuyện của Bernadette.

   - Bernadette thì làm gì có chuyện nào hay-ho đâu?

   Phải, Bernadette vào học Trường các Bà mới có một tháng, và vừa lớn tuổi vừa học kém, nên không mấy đứa học trò chú ý. Vả lại, hai chị em thuộc vào loại con nhà nghèo, được miễn học phí. Ngay đến cả nữ tu dạy học, hay cha Pomian,cũng không mảy may để ý đến Bernadette, vì em rất kín đáo và sống ẩn mình. Vì thế, khi nghe Jeanne nói đến chuyện lạ về Bernadette, thì cả bọn học trò đều ngạc nhiên. Nhất là khi Jeanne thuật lại việc Bernadette kể cho mình nghe về cô gái hiện ra nơi hang đá, thì cả lớp và cả trường không mấy ai tin là chuyện thật. Có đứa còn cho là Bernadette lừa dối, bịa ra để cho mọi người chú ý đến mình. Nhưng Jeanne nói:

   - Nó khờ dại lắm, không đủ thông minh để đánh lừa tụi mình đâu. Tại sao chúng mình không đi kiểm soát xem sao?

   Tất cả đều đồng ý. Ngày mai sẽ đi Massabielle để tìm kiếm dấu vết của cô gái áo trắng. Có đứa nói:

   - Nếu nó thấy được, thì tụi mình cũng thấy được ! Tốt hơn là rủ nó cùng đi.

   Vừa lúc ấy thì Bernadette và cô em đến trường. Cả bọn ào tới vây quanh hỏi:

   - A! kể cho tụi tôi nghe chuyện cô gái áo trắng hôm qua với. Cô hiện ra ở đâu?

   Bernadette nhìn Jeanne và trách nhẹ:

   - Tại sao lại nói ra, đã hứa là không nói ra lúc ở Trường mà !

   Dẫu vậy, em cũng không trách cô bạn học đã lỗi lời hứa, vì chính em nhiều khi cũng muốn cho tin tức đó được mọi người biết. Có lẽ Jeanne đoán thế, nên đã đáp :

   - Tôi đâu có thề là không nói ra đâu. Thôi, ngày mai cả lớp định kéo nhau ra hang Massabielle gặp cô gái áo trắng đó.Bernadette đi với chúng tôi nghe?

   - Không được,Toinette đáp ngay. Mẹ đã cấm Bernadette ra hang đá rồi. Hôm qua, cả hai chị em tôi đã bị một trận đòn nên thân, vì chuyện cô gái áo trắng đó.

   Vào giờ ra chơi, Nữ tu Damien cũng không chú trọng gì đến chuyện hiện ra này, nhưng thấy Bernadette cũng đơn sơ thật thà và hiền lành, nên đem em ra một chỗ khác rồi dịu dàng hỏi :

   - Em nói cho Soeur nghe em thấy chuyện gì nào?

   Bernadette cứ thật thà và hồn nhiên kể lại những gì em đã thấy và đã nói nhiều lần, trước sau như nhất. Nữ tu Damien mỉm cười, rồi nói với Bernadette:

   - Thôi đi em, đừng nói chuyện đó nữa. Chúng bạn cười em thôi. Đi chơi đi, rồi vào lớp...

   Lúc tan học, bà Sophie Paihasson, hoa hậu địa phương, chủ tiệm bánh ngọt và phòng trà, đứng chực sẵn ở ngoài cổng trường. Bà ta nhờ nữ tu Anastasie, người dạy học khó chịu nhất trường, chỉ cho thấy con bé nào làm « trò hề » ở hang đá. Bà ta sùng đạo quá đáng, muốn cho Bernadette một bài học luân lý. Sau khi được Soeur chỉ cho, bà ta đến gần Bernadette phát cho em một bạt tai nảy lửa và nói:

   - Mày mà còn ra hang đá thì sẽ bị nhốt !

   Bernadette mặt đỏ bừng, cam phận nghèo hèn, không nói gì, nhưng em nghĩ không ai có thể cấm em ra hang đá được!

   Sáng Chúa nhật, chuông nhà thờ đổ hồi. Thánh lễ lúc 9 giờ đã chấm dứt. Hai chị em Bernadette và các cô bạn học cùng lớp đều tham dự lễ đó. Còn bà mẹ thì đi lễ lúc 7 giờ, để về trông nhà, khi ông chồng đã phải dậy lúc 5 giờ sáng để đi nhận việc tại chuồng ngựa ông Cazenave. Bắt buộc đi lễ 7 giờ sáng, quả là một sự hy sinh cho bà, không phải vì dậy sớm, nhưng vì lễ lúc 9 giờ sáng mới có hát lễ và đại phong cầm vang dội trong thánh lễ làm cho người dự như được sưởi ấm tâm hồn. Bổn đạo chúc « bình an » cho nhau, áp má nhau trong thánh lễ, gây thêm tình làng, tình quê. Thánh lễ lại do cha sở giảng nữa. Ngài giảng hùng hồn nổi tiếng và vang dội vào trong tim người nghe. Lễ xong, mọi người còn nán lại nơi sân nhà thờ hỏi han nhau một vài chuyện trong tuần qua, nhất là các bà, trong tuần, chỉ quanh quẩn trong bếp...

   Khi ở nhà một mình, trong căn phòng nhỏ hẹp, bà mẹ cảm thấy yên ổn trong cảnh cô tịch. Hai đứa nhỏ thì chơi lêu lỗng ngoài đường. Các món nợ đã thanh toán, nhờ số tiền 10 quan chủ ứng trước tiền lương cho chồng. Sau nhiều tháng thiếu hụt, bây giờ mới mua nổi một miếng thịt và một ít rau thơm. Tâm linh bà cũng cảm thấy thoải mái, sau khi đã hỏi ý kiến cha Sempé về chuyện Bernadette thấy cô gái áo trắng. Ngài nói: « Đó là những chuyện trẻ con, bà không nên lo lắng và nghĩ đến. »

   Còn Bernadette thì chiều hôm qua, thứ Bảy, em nói với mẹ là em đi nhà thờ xưng tội. Bà mẹ đáp : « Phải đó con, con nên nói với cha Pomian cho xong chuyện đó. Thế là yên khỏi phải nghĩ tới nữa »

   Bernadette vào tòa xưng tội với cha phó như các đứa bé gái khác. Nhưng chính cô bé tầm thường này đã cho ngài biết là sáng Thứ năm vừa qua, em đã thấy một cô gái áo trắng hiện ra, sau khi nghe như một luồng gió thổi, nhưng không làm lung lay các cây tùng tại Massabielle...

   Ngài tính tình dễ chịu, hiền hòa, không chú ý gì lắm về chuyện cô bé kể, tuy ngài cũng hơi ngạc nhiên khi nghe em nói đến một luồng gió thổi. Nên ngài nghĩ : thì để cho em kể hết đi thì hơn. Con nít có gì thì cứ để cho nó nói ra hết. Nhưng rồi ngài phải chú ý khi em xin:

   - Cha có cho phép con trở lại hang đá Massabielle nữa không?

   Ngài do dự, không biết nên cho hay không. Nhưng ngài nghĩ thà cho phép em trở lại hang đá thì hơn. Nếu không thấy gì nữa, em thất bại, hổ thẹn rồi sẽ thôi. Nếu cấm đoán thì bao nhiêu ấm ức dồn trong tâm hồn cô bé, không tốt.

   - Cha cho phép con trở lại hang đá, ngài đáp.

   - Ngày mai, Chúa nhật?

   - Tùy con, ngày nào cũng được.

   Trước khi để em ra khỏi tòa, ngài nghĩ là nên xin phép em cho ngài nói chuyện này với cha sở. Tuy không hẳn là điều phải giữ kín của ấn tòa giải tội, vì đây là một chuyện tâm sự thì phải hơn. Nhưng nếu em đồng ý thì ngài yên tâm hơn. Bernadette chấp nhận một cách nghiêm trang lời ngài xin.

   Chiều đó, ngài thưa lại vơí cha sở, và lưu ý ngài về câu « như một luồng gió thổi. » Nhưng cha sở nhún vai, cho là chuyện trẻ con. Rồi ngài nói qua chuyện nghiêm trang khác. Sau đó, độ nửa tiếng đồng hồ, một toán học trò vừa tham dự thánh lễ xong kéo đến nhà Bernadette để xin bà mẹ cho em đi ra hang đá. Chỉ một mình Jeanne vào, vì phòng chật hẹp. Bernadette nhẹ nhàng thưa với mẹ. Nhưng bà mẹ nhất định không cho Bernadette đi, vì nhớ lại lời cha Sempé nói. Trong khi đó thì Bernadette lại thưa:

   - Thưa mẹ, cha Pomian đã cho phép con ra hang đá.

   - Cha cho, nhưng mẹ đâu có nói là « cho ».

   Nghe thế, Jeanne, vốn là đứa trẻ khôn ngoan, ăn nói lễ phép và hợp lý:

   - Thưa bà, chúng con chỉ muốn đi để kiểm chứng hư thực thế nào thôi.

   Nghe vậy, bà Louise nghĩ rằng có lẽ nó nói có lý. Nếu chúng bạn đi với Bernadette mà chúng nó không thấy gì, thì Bernadette sẽ hổ thẹn mà bỏ ý tưởng trở lại hang đá lần sau. Nhưng bà còn ngần ngừ, và tốt hơn hết là để chồng quyết định:

   - Thôi được, nếu chúng con không biết làm gì ngày Chúa nhật thì đi được. Nhưng trước hết phải đi xin phép bố của nó đã.

   Cả đám học trò mừng rỡ, chạy đến sở chuyên chở như một đàn chim vỡ tổ. Ông chủ sở mang giày ống, đội nón kết có lưỡi trai đang bận tâm vì con ngựa bị thương, và ra lệnh cho người làm, thì bọn học trò gần 10 đứa, vừa chạy tới. Chúng hớt ha hớt hãi chạy đi tìm ông François để xin cho Bernadette ra hang đá với chúng.

   Nghe thế, François rất tức giận vì Bernadette sẽ làm ông xấu hổ trước mặt mọi người về chuyện cô gái áo trắng. Vừa kiếm được một việc làm tốt, có lương tháng bảo đảm, thoát được nạn thất nghiệp, thế mà bây giờ đứa con gái lớn lại còn muốn làm một việc ngu xuẩn. Ông sẽ mất thể diện trước mặt các người làm việc, nhất là trước mặt người chủ mới. Biết đâu vì thế, ông còn có thể mất việc nữa thì lấy gì mà sống để ra hang hay không ra hang! Không cần nói với mấy đứa khác, ông chỉ nói với hai đứa con của ông:

   - Hai đứa tới đây làm gì. Về nhà ngay. Ba không muốn nghe chuyện đó nữa.

   Ông chủ thấy ông François tức giận với chúng, thì vừa cười vừa nói:

   - Tại sao làm cho chúng nó mất vui trong ngày Chúa nhật như thế. Nếu chúng muốn đi thăm cô gái áo trắng thì để chúng đi. Có hại gì đâu. Chúng là con nít mà!

   Rồi quay sang Bernadette, ông hỏi đùa một câu:

   - Cô gái đẹp cuả cháu mang gì trong tay? Có một tràng hạt phải không?

   - Dạ phải. Một tràng hạt đẹp lắm ông ơi.

   Ông ta đắc chí cười lớn và nói với François:

   - Anh thấy chưa. Cô ta cũng mang tràng hạt như các phụ nữ trong tỉnh. Anh có thể cho nó đi thăm được lắm.

   Nghe thế, François lúng túng không biết nói làm sao. Không lẽ lại làm mất lòng chủ, vào ngày đầu vừa nhận việc? Ông đành nhường bộ, nhưng cũng vớt vát thể diện bằng cách ra điều kiện:

   - Đi đi, nhưng phải về trước Kinh Chiều mới được.

   Bọn học trò mừng rỡ, dạ vang lên, rồi đem nhau chạy biến như đàn chim sẻ ! Bernadette đi rất mau, bước rất dài, làm cho các đứa kia theo không kịp. Hình như có cơn gió lốc đang cuốn em về hướng Massabielle. Toinette muốn kéo chị đi chậm lại, nhưng không được. Em nóng lòng sốt ruột cho rằng cô gái đang đợi trong vòm của hang. Có lẽ cô ta bồn chồn lắm, vì trời sáng nay rất lạnh và sương mù dày đặc đang bao phủ khắp thung lũng.

   Cô gái sẽ hiện ra với các bạn bè không? Em không quan tâm đến các điều đó. Em bay bổng một mình, lướt về hang đá mau không thể tưởng tượng được. Em phóng nhanh trên con đường mòn của dãy núi Espéluges, và đi dọc theo vách đá, mà không hề dừng lại. Em nhảy từ hòn này sang hòn kia, và kìa em đã đến đích. Đến trước hang, em dừng lại chốc lát, đặt hai tay lên trái tim như trầm mặc. Rồi đưa tay vào túi áo, lấy cỗ tràng hạt. Em hướng đôi mắt chăm chú lên hang. Bỗng em vui mừng reo lớn:

   - Bà kìa! Bà kìa!Tay Bà đeo cỗ tràng hạt!... (Từ đây em gọi cô gái là « Bà » để tỏ lòng tôn kính).

   Những đứa bạn đến gần, hỏi nhỏ vào tai em:

   - Bà ở đâu? Chị có thấy không?

   - Trên kia, em đáp, Bà đang hiện ra đó, không thấy sao? Bà đang mỉm cười chào bọn mình đó.

   - Bọn tao chỉ thấy có một lỗ đen, phía sau là tảng đá lớn.

   Lần này, Bà đẹp tuyệt trần. Em chỉ cần leo lên một vài hòn đá là đến chân Bà, với những bông hồng trên chân. Nhưng em không dám đến gần, sợ làm phiền Bà. Điều lạ lùng là Bà không tỏ vẻ khó chịu khi thấy mấy đứa khác cũng có mặt, và đang nói chuyện ồn ào. Trái lại, Bà âu-yếm giang tay ra như muốn ôm choàng lấy hết. Em cảm thấy vui mừng khôn tả, hoan lạc vô biên...

   Vừa lúc đó, nhóm thứ hai, từ con đường mòn chạy đến. Chúng trông thấy Bernadette hoàn toàn biến đổi. Nét mặt em đầy hoan hỉ, đôi mắt mở to, đôi mi không hề nhấp nháy... Không còn là khuôn mặt của một trẻ em, cũng không phải là của một cô con gái trẻ tuổi. Nhưng đó là sắc diện của một kẻ sắp đi vào trong chốn cực lạc, đang gồm thâu tất cả những đau khổ của con người trước khi lìa đời.

   Điều làm cho Toinette kinh hoàng là nét mặt xanh xao của chị mình, vừa kinh-dị, vừa khủng khiếp. Bọn học trò thì run lẩy-bẩy, đứng vây chung quanh, nhưng không đứa nào dám đến gần. Ai cũng cho là em mất hồn, mất trí. Tưởng là chị sắp chết, Toinette hoảng sợ, vội chạy về nhà báo tin cho mẹ. Các đứa khác thì chạy tán loạn kêu cứu. Antoine Nicolau, chủ cối xay bột Savy, đấn bộ áo quần ngày lễ, đang đi với bà mẹ trên con đường mòn để xuống Lộ Đức vì có hẹn, thì gặp một vài đứa trẻ chạy đến cầu cứu.

   Đến nơi, họ thấy Bernadette như người sắp chết. Antoine không biết làm gì hơn là lấy đôi cánh tay lực lưỡng của mình bồng hẳn Bernadette về nhà máy mình để tìm cách cứu chữa. Nhưng em trở nên nặng vô kể, làm cho bà mẹ và mấy đứa học trò xúm lại lôi kéo giúp nữa mới được. Mấy đứa học trò khác chạy theo sau. Về đến nhà, Antoine đặt Bernadette ngồi trên cái ghế bành, bà mẹ lấy mấy củ hành thái nhỏ, đặt dứơi mũi Bernadette cho em bớt ngất đi. Rồi bà đem lên một chén sữa nóng để em uống lấy lại sức. Nhưng em đâu có mất trí. Em đang tập trung tất cả tâm hồn vào hiện tượng siêu phàm tại hang. Những tiếng cười nói bên ngoài đối với em chỉ là những dư âm xa xôi.

   Bỗng nhiên tình trạng xuất thần chấm dứt. Nét mặt lạ lùng trước kia, như chứa đựng tất cả khổ đau của thế giới, thì nay vụt có sắc thái hiền lành của một đứa trẻ, với đôi mắt hôn nhiên. Tức thì, mọi người chung quanh dồn dâp hỏi:

   - Em bị gì vậy? Chuyện gì xảy ra. Em thấy gì trong hang?

   Em cho biết là em thấy một Bà rất đẹp, có cỗ tràng hạt nơi tay với cây thánh giá bằng vàng óng ánh. Rồi Bà lần hạt vơí em...

   Bà Louise và Toinette vội vã tiến về hướng Massabielle. Gần đến nơi, bà gặp một người quen cho biết là Bernadette, sau khi ngất trí vì thấy cô gái hiện ra, lại để cho Antoine, một chàng đẹp trai lực lưỡng, mới 29 tuổi, bồng ẵm về nhà. Nghe thế, bà Louise giận dữ đến tái mặt. Giận thì ít, nhưng xấu hổ thì nhiều. Toinette khi chạy về nhà cho bà biết Bernadette như đã chết hay như hấp hối, thế mà giờ đây lại được tin lối cư xử đầy hổ thẹn của con mình như thế! Đến trước nhà Antoine, thấy có người quen, bà càng xấu hổ. Bước vào, bà thấy Bernadette ngồi trên ghế bành, bao quanh nào là học trò, nào là những kẻ quen thuộc, hay người lạ tò mò đến xem. Bà không dằn nổi cơn giận, hét lớn:

   - Tại sao lại làm phiền cho mọi người như thế, con nhỏ làm trò hề?

   - Thì con đâu có bảo ai chạy theo con đâu?

   Nghe thế, bà càng tức giận, định giơ tay đánh con. Nhưng bà mẹ của Antoine vội can:

   - Chúa ơi ! Tại sao lại đánh con bé này. Hãy nhìn xem, nó như một thiên thần.

   - Một thiên thần! Một thiên thần! Tốt đẹp quá phải không ! bà Louise nói với giọng đầy cay đắng.

   Rồi bà ngồi xuống ghế, ôm mặt khóc. Bà rên rỉ:

   - Lạy Chúa nhân từ, xin để lại đứa con gái cho con!

   Trước cảnh tượng của một bà mẹ với đôi giòng lệ, với những lời khẩn cầu tha thiết, mọi người đều xúc động. Không ai nói đựơc lời nào, và cũng không biết phải nói làm sao. Thì ngay lúc ấy, Bernadette bình tĩnh lạ thường. Em đứng lên, đến nắm tay mẹ và nói rất thản nhiên:

   - Mẹ ơi, thôi đi về nhà đi. Chúng con có hứa với Ba là sẽ về trước Kinh Chiều.

   Bà không khỏi ngạc nhiên khi thấy cô con gái bình thản và tự nhiên như trước. Nhưng bà không khỏi nhớ đến việc em đã làm cho bà lo sợ, nên bà nói:

   - Mẹ không trở về nhà, nếu con không hứa ở đây, trước mặt moị người, là con sẽ không trở lại hang đá nữa.  Không bao giờ nữa, con nghe chưa?

   - Dạ, con xin hứa với mẹ như thế.

   Nhưng, như được sự thúc đẩy bên trong, và vẫn còn mang dư âm của những giây phút hân hoan tột độ khi Bà hiện ra, Bernadette nhẹ nhàng thêm:

   - Trừ phi... ba hay mẹ cho phép.

   Bà Louise không lưu ý đến lời nói cuối cùng đó. Bà vui mừng vì Bernadette đã hứa với bà trước mặt mọi người.

   Còn Antoine, sau khi đem Bernadette về nhà, chàng đi thẳng về Lộ Đức. Chàng tạt qua tiệm của bà dì Bernarde, vú đỡ đầu của Bernadette, kể cho bà ta biêt hết những chuyện đã xảy ra. Nghe thế, bà ta không khỏi kêu ca than phiền:

   - Trời ơi! Con nhỏ nghĩ thế nào mà đi ra nơi đó. Còn dì em tôi nghĩ làm sao, lại cho phép nó đi ra hang đá? Để rồi, tôi sẽ đến hỏi cho ra sự thể.

   Antoine gật đầu. Và suốt ngày, chàng ta không thể nghĩ gì được ngoài sắc diện siêu phàm trên khuôn mặt biến hình của Bernadette làm chàng như đứng tim và hoa cả mắt. Anh rùng mình nói như để chính mình nghe : « Thế mà hồi nãy, mình dám đụng đến con người xuất thần và đang ngất trí ấy. Chắc là mình sẽ không bao giờ được hạnh phúc nhìn thấy vẻ đẹp phi thường này lần thứ hai trong đời mình nữa.»

   Chiều đến, bà Louise chỉ nói với chồng là Bernadette lại thấy Bà áo trắng, nhưng không thêm bớt gì nữa, để ông khỏi tức giận. Ông đã quá khổ cực với những gì đã xảy ra bấy lâu. Nói xong, bà đi làm cơm. Cả nhà đang ăn, ai nấy im lặng,thì bất chợt, bà dì Basile đột ngột đẩy cửa vào nhà. Mấy lâu không hề thấy bà ta đến nhà. Mặt bà ta đỏ lên vì chạy vội vàng đến và cũng vì tức bực:

   - Louise! chuyện gì vậy? Người ta đồn về con nhỏ Bernadette như thế có tốt đẹp không? Việc hiện ra ở Massabielle là chuyện gì? Rồi chàng trai bồng nó về nhà máy Savy? Còn con nhỏ kia, mày làm cho chúng tao nhức đầu, vì nghe người ta bàn tán mãi về mày! Louise, giữ con nhỏ ở nhà! François, ít nữa là một lần trong đời, hãy tỏ ra mình là người chồng có uy tín ! Chỉ còn thiếu một điều là vì câu chuyện này, mà người ta sẽ cho dượng vào tù nữa là đầy đủ!   François hổ thẹn, ngẩng mặt lên nói:

   - Tôi hứa với dì là Bernadette sẽ không bao giờ trở ra hang đá nữa.

   Nhưng khắp Lộ Đức, chiều Chúa nhật đó, người ta đã bàn tán: « Con nhỏ nhà nghèo ở nhà tù cũ kia, đã thấy Đức Mẹ hiện ra ở Massabielle », hoặc : «Đức Mẹ mà hiện ra ở Massabielle, nơi người ta chăn heo!» 

Chương 5 : Cô gái áo trắng

Sau khi Bernadette đã hứa long trọng trước mặt mọi người tại nhà Antoine Nicolau, và nhất là việc dì Basile đến nhà rầy la, thì câu chuyện Bernadette và Bà hiện ra, đối với gia đình François thì được xem như chấm dứt, và mãi mãi chôn vùi trong quên lãng. Riêng Bernadette thì cảm thấy khổ sở và đắng cay như một người con gái bị cha mẹ cấm không cho gặp người yêu.

   Nhưng em vẫn nuôi hy vọng Bà biết hết mọi sự xảy ra, và lý do tại sao em vắng mặt lâu ngày không ra hang đá. Nhờ thế, biết đâu Bà sẽ quên em đi, để em trở về đời sống bình thường. Nhưng nghĩ thế là không thấy được đường lối Chúa quan phòng vì có hai người hình như được Chúa giao phó sứ mạng đem Bernadette trở lại hang đá. Đó là bà góa phụ Millet, người giàu có nhất Lộ Đức và cô thợ may Antoinette Peyret của bà ta.

   Chiều hôm đó, sau khi đi xa trở về, bà Millet được cô thợ may của mình tường thuật lại việc Bernadette thấy cô gái áo trắng hiện ra trong hang... Bernadette ngất trí và mặt mày tái xanh, nhưng trông như một vị thánh. Tin này làm bà Millet suốt đêm không ngủ được. Bà thấy như có một sự liên hệ giữa việc hiện ra và cái chết thánh thiện của cháu gái của bà là Elisa Latapie. Bà đã nuôi nấng Elisa trong nhà như đứa con ruột, nhưng tiếc thay nó đã không sống để hưởng gia tài của bà, và đã qua đời lúc 28 tuổi. Kể từ ngày Elisa chết đi, ngôi nhà rộng rãi, đường bệ, mà bà đã xây cất cách đây 40 năm, với hy vọng có một gia đình đông con, nhiều cháu, thì nay trở nên vắng vẻ, hiu quạnh. Chỉ có một mình bà sống trơ trọi !

   Bà Millet lưu giữ một cách thành kính, tất cả những kỷ vật và kỷ niệm của Elisa qua đời một cách thánh thiện. Những đồ dùng, đồ chơi, sách vở, giỏ đồ thêu, tủ áo quần, giày dép, hình ảnh... đều được sắp xếp một cách ngăn nắp và tỉ mỉ. Đêm hôm đó, bà ra khỏi giường, khoác chiếc áo choàng lông thú trên bộ đồ ngủ, sang phòng Elisa, và ở lại đó suốt một tiếng đồng hồ. Bà hi-vọng liên lạc trực tiếp với đứa cháu nuôi qua đời như người ta thường cầu cơ bằng miếng gỗ của quan tài người chết. Trong đêm thanh vắng, bà hồi tưởng lại một cách rõ ràng hình dáng Elisa, trong chiếc áo dài trắng tuyệt đẹp, trong các ngày lễ taị nhà thờ, với tư cách là Hội trưởng Hội Con Đức Mẹ.

   Đó là một áo dài bằng xa- tanh trắng, lấp lánh như có ánh tuyết, với giây thắt lưng màu xanh da trời. Ao dài này do cô thợ may riêng nổi tiếng của bà là Peyret, cắt may theo kiểu mẫu từ Paris gửi về, với giá tiền công phải chăng, vì cũng là người trong Hội với nhau. Lại thêm một điều trùng hợp lạ lùng khác nữa, là Peyret cũng có một ý nghĩ như bà Millet. Rồi sáng thứ Hai, cô ta vội vàng chạy đến nhà bà Millet, là người ân nhân của mình. Peyret là con của một nhân viên tòa án. Còn trẻ tuổi, và tuy xấu xí, mặt ốm và xanh xao, nhưng cô lại lanh lợi và khéo léo, biết lợi dụng thời cơ. Cô thấu rõ những bí ẩn thấp hèn của người đời. Cô đoán đúng ý nghĩ của bà Millet, va như đã sẵn sàng các câu trả lời cho mọi vấn đề người ta thắc mắc. Lập luận và câu giải đáp của cô Peyret như sau:

   - Tại sao Bà hiện ra trong hang đen, nơi chốn bẩn thỉu, lại đi chân không? Bởi vì Bà đang ở trong tình trạng đền tội. Trong luyện hình, người ta không mang giày hay guốc. Elisa cần nhiều lời cầu nguyện của nhiều người, đặc biệt là cha mẹ, bà con để rút ngắn thời gian đền tội. Vì thế Elisa hiện ra tại Massabielle, nơi mọi người khiếp sợ vì như có ma quái, mà miệng hang giống như vòm cung của luyện ngục. Chắc chắn Elisa có một tin đặc biệt muốn chuyển đến cho bà dì Millet, va các thân hữu của cô !

   Đêm ấy, bà Millet và cô Peyret thảo luận về một chương trình hành động rất kín đáo, ngay tại phòng của người cháu gái, Elisa. Bí mật đến nỗi người quản gia làm việc cho Bà đã mười năm, cũng không hay biết gì về chương trình tối mật này. Ngày Thứ tư, lúc bốn giờ chiều, trong nhà chỉ có hai mẹ con Bernadette. Bất ngờ có khách qúy đến thăm. Đó là bà quả phụ Millet, với bộ ngực đồ sộ, trang nghiêm, bước vào. Theo sau, như hình với bóng, là cô Peyret, người cố vấn của Bà. Thấy hai người khách sang trọng bước vào, bà Louise không khỏi ngạc nhiên nghĩ bụng: Thực « rồng vàng đến viếng nhà tôm ! » Bà Millet nghẹn ngào khi nhìn thấy cảnh sống quá nghèo khó và đáng thương tại căn nhà tù cũ này.

   Với lời lẽ dịu dàng, bà mở đầu câu chuyện:

   -Bà Louise thân mến, tôi luôn luôn có ý tưởng đến thăm bà. Nhưng tôi bận công chuyện làm ăn quá, nên cứ hẹn rày hẹn mai. Nhất là khi tôi thấy bà làm việc cho tôi quá tận tâm và luôn chu đáo. Hôm nay, tôi muốn nói để bà rõ là tôi cần bà đến giúp giặt áo quần cho tôi thêm một ngày trong tuần nữa là hai ngày một tuần, với số tiền 5 quan. Như vậy là 20 quan một tháng.

   Đó là cả một gia tài cho bà Louise, một số tiền vào đều đều hàng tháng vẫn hơn là ngày làm được ngày không. Nhưng bà Louise nghĩ rằng: chắc bà Millet muốn gì mình nữa đây. Không lẽ tự nhiên bà ta đến thăm và tỏ ra « hào hoa phong nhã » thế. Rồi với tất cả nghi ngờ đề phòng, bà lấy khăn lau bụi trên ghế và mời người khách quý ngồi. Trong khi đó, thì Bernadette đang đứng gần cửa sổ, trong ánh chiều hôm, mái tóc nhuộm màu vàng của tia ánh mặt trời sắp tàn. Quả thật, bà Louise đã đoán không sai, khi nghe bà Millet nhìn Bernadette và nói:

   - Bà đừng ngại ngùng khi thấy tôi đề nghị tăng thêm ngày làm việc cho bà, so với trước kia. Vì thực ra, tôi thấy bà có đứa con đầu rất khả ái, có nhiều tài năng thiên bẩm. Chắc cháu làm cho bà vui sướng và mãn nguyện lắm.

   - Bernadette, con hãy đến chào các bà đi con.

   Nghe mẹ nói, em đến chào hai bà, rồi im lặng về lại gần cửa sổ như nghe ngóng. Bà Millet rút ra một khăn tay, có thêu ren chung quanh, rồi đưa lên mắt như để thấm lệ:

   - Tôi cũng có một đứa con gái như tuổi cháu đây. Nó không phải là của tôi, như bà đã biết. Nhưng đối với tôi, nó còn hơn con ruột nữa. Đó là cháu Elisa Latapie đã qua đời một cách thánh thiện. Cha sở đã tự tay viết một bức thư lên cho ĐGM ở Tarbes, trình rằng một cái chết như thế, đáng được làm gương mẫu cho mọi người.

   Cô Peyret, tiếp lời bà chủ, vì bà Millet lúc ấy nước mắt tuôn trào, làm cho bà nghẹn ngào không nói thêm được nữa:

   - Cũng chính vì thế mà bà Millet và tôi đến thăm bà. Và cũng để thưa bà rõ là Bà áo trắng mà em Bernadette thấy đó, ăn mặc in hệt áo của Elisa. Vì chính tôi là người cắt may y phục đó nên tôi biết rõ. Elisa đã chọn em Bernadette làm môi giới giữa thế giới vô hình và thế giới hữu hình, để thông đạt một ý nguyện cho Dì của cô ta là bà Millet. Cho nên tôi xin kết luận: « xin bà vui lòng cho cháu được phép trở laị hang đá để nhận những lời nhắn gởi của Elisa, có lẽ đang ở luyện ngục, xin lời cầu nguyện.»

   Bà Louise hoàn toàn thất vọng, như bị đốn ngã, tuy bà cũng nghĩ đến mối lợi được thêm một ngày làm việc cho bà Millet. Nhưng bà phải nói như kêu lên:

   - Tất cả những chuyện đó làm tôi điên lên được. Chính ông chồng tôi và tôi cũng đã cấm cháu không được ra hang đá nữa rồi !

   Bà Millet, với giọng từng trải việc đời:

   - Việc này không liên hệ gì đến người đàn ông trong nhà. Họ không hiểu gì hết đâu!

   - Thưa hai bà, thật tình xin hai bà hiểu cho lòng người mẹ thương con. Không lẽ hai bà lại muốn cho con gái tôi trở nên bệnh hoạn, bị chê cười khắp nơi sao?

   Nhân dịp bà Louise nhắc đến người con gái, bà Millet quay về phía Bernadette:

   - Còn Bernadette, cô gái áo trắng của em là ai?

   - Cháu không biết.

   - Có phải là một linh hồn trong Luyện tội không?

   - Cháu không biết.

   - Em có trở lại hang đá không?

   - Mẹ cháu cấm. Nữ tu Giám đốc cũng cấm và nói người ta nhạo cười cháu.

   - Em lớn rồi, nên Bà ta mới hiện ra. Thì em cũng đủ sức lớn để trở lại hang đá chứ?

   - Cháu muốn vâng lời cha mẹ cháu.

   - Còn cha sở, ngài có cấm không?

   - Cha phó không cấm cháu trở lại hang đá.

   - Em thấy chưa, không phải ai cũng cấm em đâu. Nếu cha mẹ em cho phép, em có trở ra hang đá không?

   - Ồ, cháu muốn lắm.

   Bà Millet quay lại nói với bà Louise :

   - Bà thấy chưa, cha Pomian đâu có ngăn cản. Vả lại, Bernadette đi ra hang đá với chúng tôi là người lớn, thì đâu có giống như nó đi với mấy đứa bạn con nít. Hư thực thế nào, chúng tôi về sẽ nói lại. Hiện ra hay không hiện ra, bà sẽ biết một cách dứt khoát.

   Bà Louise nghe thấy có lý. Thì để cho nó đi với những người lớn như bà Millet thì có hay không có, là yên chuyện, sẽ không nói gì về sau nữa. Hai bên thỏa thuận là sáng mai, Thứ năm 18, bà Millet và cô Peyret đến thật sớm, đưa Bernadette đi cho kín đáo.

   Tối ấy, em ngủ ngon giấc hơn những ngày vừa qua bị cha mẹ và nhiều người ngăn cấm. Tuy rằng trong thâm tâm em bấy lâu vẫn cảm thấy là không có một ai có thể cản ngăn mình ra hang đá, nhưng em không muốn tự ý đi, khi trái ý cha mẹ.

   Hôm sau, Thứ năm 18/2/1858. Trời còn mờ tối, nhưng bà Millet và cô Peyret đã nhẹ nhàng tiến đến nhà Bernadette. Hai nhà cách nhau không bao xa. Họ gõ cửa. Không ai trả lời. Họ đẩy nhẹ cửa vào. Bà Louise và ông chồng đã dậy sớm, đi rồi. Bà đi giặt chăn mền thuê cho người ta, còn ông chồng thì đi săn sóc con ngựa đau của ông Cazenave. Toinette và mấy đứa em đang ngáy o o. Họ đánh thức Bernadette. Cô bé tỉnh ngủ, dậy ngay, rửa mặt sơ qua rồi lên đường. Cả ba người đi dự lễ sáng ở nhà thờ một cách kín đáo. Bổn đạo dự lễ, không ai có thể ngờ được. Rồi em dẫn họ theo mình ra hang đá.

   Bernadette phấn khởi và hăng hái lướt nhanh như có sức gì thúc đẩy bên trong, nên chẳng mấy chốc đã đến trước hang đá. Trong khi hai bà kia, còn lận đận mãi đằng xa, vì con đường gồ ghề, uốn khúc, nếu không ý tứ có thể trượt ngã trên đồi xuống.

   Em đã quỳ ngay ngắn nơi hòn đá bằng phẳng, trong tâm tư như muốn nói với Bà:

   - Hôm nay con được đến đây vì mẹ con đã cho phép, vì có hai người đến xin. Và cha phó cũng không cản ngăn. Con biết mấy lâu nay Bà đợi con lắm, nhưng con không muốn làm trái ý cha mẹ ngăn cấm. Vì thế, có hai bà đó tới với con nữa, là bà Millet và cô Peyret.

   Vừa nghĩ như thế, thì hai người kia đến. Cô Peyret thắp một cây nến đưa cho Bernadette và em quỳ xuống lần hạt. Bà Millet cũng gắng quỳ xuống khấn thầm: «Ôi Elisa quý mến, có phải con hiện về nhắn gởi điều gì với Dì phải không? Nếu thế, thì con cho Dì trông thấy con. Hay ít nữa, cho Dì nghe được tiếng con. Chỉ một tiếng thôi ! »

   Khi lần được ba chục, thì em vội kêu lên:

   - Bà đó kìa.

   Hai người nghe thế, hồi hộp, gần như đứng tim. Nhưng cả hai đều trấn tĩnh, đợi chờ. Cô Peyret, nhanh nhẹn và có kế hoạch hơn, đã chuẩn bị giấy bút sẵn sàng trước khi đi, nên đem ra cho em và nói:

   - Bernadette, mày hãy tiến vào hang đá, hỏi Bà ta muốn gì thì viết ra đây. Muốn xin bao nhiêu lễ cầu hồn thì bà Millet cũng sẽ sẵn sàng xin cho hết.

   Em ngoan ngoãn vâng lời, cầm giấy bút rồi gần như bò sát vào hang, đưa giấy lên cho Bà và nói:

   - Xin Bà làm ơn viết tên của Bà ra trên tờ giấy này.

   Bà tiến tới Bernadette, « từ trong lỗ hổng mà ra », như Bernadette cho biết sau này. Nhưng Bà không viết gì hết, lại mỉm cười và nói: « Cái đó không cần thiết.» Bernadette trở ra, thì hai người xúm lại, lấy tờ giấy mà xem. Tờ giấy vẫn trinh bạch như trước.

   Cô Peyret thắc mắc:

   - Sao mày không đưa cho Bà ta viết và hỏi tên ?

   - Có chứ, em có đưa và hỏi to tiếng. Các người không nghe sao?

   - Không. Thế thì Bà nói những gì?

   - Bà lắc đầu và nói: « Điều đó không cần thiết. »

   Bà Millet buồn rầu, thất vọng. Bao nhiêu mộng tưởng là Elisa hiện về cho bà đều tiêu tan như mây khói.

   - Thế thì Bà nói bằng tiếng gì?

   - Bằng tiếng địa phương như cháu thường nói.

   - Bà còn nói gì nữa không,

   - Có chứ. Bà đã nói với cháu một cách rất trịnh trọng và đầy kính cẩn: « Con có vui lòng đến đây trong vòng 15 ngày không? »

   - Cháu đáp lại thế nào?

   - Dạ có, nếu người ta cho phép con đến. Không hiểu sao cháu đáp ngay như thế! Rồi, trước khi Bà ta biến đi trong vòng hào quang chói lòa, Bà còn thêm: « Mẹ không hứa là con sẽ được hạnh phúc ở đời này, mà ở đời sau! » (Je ne vous promets pas que vous serez heureuse en ce monde; mais dans l’autre)

   Nghe thế, em nghĩ ngay rằng em sẽ khổ sở ở đời này, đời sau mới đươc sung sướng. Cho nên khi ở trong Dòng, gặp thánh giá đớn đau, em thường nghĩ lại lời này của Bà áo trắng. Nhưng quả thực bà có ý nói như thế không? Vì thực ra nếu Đức mẹ nói thế thì có lẽ có dư thừa. Hiện ra để hứa một sự thực mà ai cũng đoán được (Bernadette sẽ được về trời là điều chănc) thì lời của Đức Mẹ hóa ra dư thừa sao? Vả lại bà hiện ra nói với Bernadette không có lời nào chỉ dành cho cuộc đời của riêng em (trừ ba điều bí mật mà em nói là chỉ dành cho riêng em, nên em phải giữ kín), còn đây là nói cho chúng ta hết thảy. Thành thử thiết tưởng nên dịch lại như sau: en ce monde/dans l’autre monde, thiết tưởng có thể dịch là: thế giới tội lỗi này với thế giới hướng về chúa, thế giới của tình thương tha nhân, lòng bác ái đối với người nghèo, thế giới thống hối quay về với thiên chúa, khác nào ba lời thống hối Bà kêu gọi. L’autre monde không phải là đời sau mà ở đời này, nhưng trong một thế giới khác thế giới vũ lực, đàn áp, chống Chúa, không tin Chúa... Bà biến mất, nên họ bắt đầu trở về nhà. Bernadette nói với Peyret:

   - Em để cây nến cháy sáng ở hang đá được không?

   - Sao lại xin tôi?

   - Vì nến đó không phải của em.

   Đó là đoàn người hành hương đầu tiên đi theo Bernadette đến hang đá. Và ngọn nến thắp sáng đầu tiên của lữ hành Lộ Đức đặt trước lỗ hổng, nơi cô gái áo trắng từ đó xuất hiện, theo lời Bernadette. Họ đã đi trước cả lời Đức mẹ yêu cầu xây cất Nhà thờ và đoàn người đến đó hành hương! Trong khi ấy, thì không hiểu sao, tiếng phao đồn khắp nơi là Bernadette đã trở lại hang đá, và « cô gái » hiện ra, làm cho bà Louise cũng chột dạ. Trong khi bà đang giặt thuê cho mẹ của Antoine Nicolau, thì bà này chạy đến trách :

   - Tại sao chị lại để cho con nhỏ đó ra hang đá nữa. Rồi chị sẽ có chuyện rắc rối với cảnh sát cho mà xem!

   Làm việc xong, bà Louise chạy gấp về nhà, thì cũng là lúc Bernadette và hai người kia vừa về tới. Bà Louise không để cho bà Millet nói gì, vội òa lên khóc, thở than:

   - Bà Millet ơi! không hiểu sao tôi lại cho phép bà đem nó đi. Tôi chết mất.

   Nhưng bà Millet để cho bà Louise lắng dịu cơn sợ hãi vì nghe lời đồn thổi, rồi bà lấy giọng ôn tồn và như bình đẳng, nói với bà Louise:

   - Bà Louise tốt lành của tôi ơi. Tôi cám ơn Chúa đã gởi đến cho chúng ta cháu Bernadette. Tôi sẽ đi bộ với cháu, làm cuộc hành hương đến hang đá, trong suốt 15 ngày như Bà hiện ra yêu cầu. Đó là một việc đền tội của tôi... với đôi chân sưng vù.

   Bà Louise chưa định thần được, thì bà Millet đã thêm:

   - Tôi cũng xin bà giao phó Bernadette cho tôi trong thời gian ấy. Tôi sẽ để cho cháu một nơi ăn ở và nghỉ ngơi xứng đáng và tốt lành nhất cho cháu.

   Bà Louise không hiểu được những gì xảy ra dồn dập và xem như trái ngược nhau như thế. Kẻ thì tâng bốc con gái mình, người thì chê bai nó. Cho nên, bà tìm kế hoãn binh, để có giờ suy nghĩ. Và dẫu sao, Millet cũng là chủ của mình:

   - Thì xin bà để tôi suy nghĩ đã. Hiện thời tinh thần tôi chưa ổn định. Tôi sẽ nói lại với nhà tôi...

   - Đúng vậy. Bà hãy tham khảo ý kiến mọi người trong gia đình trước đi đã. Rồi bà sẽ cho tôi hay...

   Cả hai người, không ngờ rằng, ngay chiều hôm sau, bà chị đầu là Bernarde, vú đỡ đầu Bernadette, sẽ đến và giải quyết vấn đề gay cấn này cho họ một cách dứt khoát, rõ ràng. Bà chị được cả nhà đón tiếp niềm nở. Trong số ba chị em, Bernarde, Louise và Basile, thì Bernarde là người thông minh và có nghị lực hơn hết. Chẳng những bà có thể giữ được tài sản của chồng để lại, mà còn biết gia tăng hơn nữa, bằng những cuộc mua bán khéo léo. Bà sống một mình kể từ ngày chồng qua đời. Bà thường nói, đàn ông, tính tình bốc đồng, nhưng nhẹ dạ. Thế rồi, vào năm 1853, thì bà lại tái gía với ông chủ quầy rượu. Bước vào nhà, bà đưa mắt quan sát nhà cửa một cách đầy nghi ngờ :

   - Bernadette đâu rồi?

   - Cháu hiện giờ ở tại nhà bà Millet. Bà ta mời nó ở lại nhà bà 15 ngày.

   - Trời đất ôi! thế là chết rồi.

   - Chết cái gì, chị?

   - Chết, vì Dì không nhìn xa thấy rộng!

   François nghe thế, cũng lên tiếng trách móc vợ:

   - Thì tôi cũng đã nói mà người ta đâu có nghe lời tôi. Để rồi thiên hạ cười cho!

   - Phải, bà Bernarde chêm vào, thiên hạ sẽ mỉa mai Dì Dượng và cả chúng tôi nữa là bày chuyện phép lạ ra để kiếm tiền. Thế nào người ta cũng nói cho nó đi ở nơi nhà bà Millet biết đâu rồi bà sẽ để gia tài lại cho nó!

   Hai vợ chồng bà Louise ngồi im lặng, không biết nói gì nữa. Bà Bernarde, đứng giữa, với hình dáng vặm vỡ của một người đàn bà dân quê, bà để nguyên y-phục, không cởi áo choàng, cũng không lấy khăn trùm xuống khỏi đầu. Bà thao thao thuyết giảng một cách hùng hồn:

   - Trước khi đến đây, tôi đã đắn đo suy nghĩ kỹ lưỡng rồi, Dì Dượng để cho tôi nói cho hết, đừng ngắt lời tôi. Bernadette là một đứa con gái tốt lành, thật thà, mặc dầu nó không thông minh. Tôi đã nhiều lần quan sát nó, khi nó lên giúp việc cho tôi ở cửa hàng rượu. Tôi chắc chắn là nó không bịa chuyện « cô gái áo trắng » ra đâu.

   Nó đâu có thông minh quỷ quyệt để bịa ra một câu chuyện như thế được. Có thể là nó trông thấy mà những đứa khác không thấy mà thôi. Chỉ có thế. Cô gái có thể từ Trời xuống mà cũng có thể từ Luyện ngục lên, vì cô ta hiện ra nơi Massabielle là chốn tối tăm bẩn thỉu. Nhưng nay cô gái áo trắng yêu cầu nó ra đó trong vòng 15 ngày. Nó đã hứa với cô ta, thì cứ để cho nó đi xem sao. Nhưng vì để sự thể ra cho rõ ràng, và để không ai có thể chê cười nó, hay gia đình mình, thì bắt đầu từ ngày mai, vợ chồng Dì Dượng phải đi theo nó. Con cái đâu thì cha mẹ đó, có cha mẹ đỡ nâng thì làm sao ai có thể cười chê được. Còn tôi và dì Basile rồi cũng sẽ ra hang đá. Đó là ý kiến của chị. Còn hai vợ chồng em muốn quyết định ra sao thì tùy ý. Chị không ngăn cản.  Nhưng trước hết, bắt đầu ngày mai là phải đem Bernadette về lại nhà.

   Làm sao François và Louise lại có thể đi ngược ý kiến của bà chị. Ý kiến của người con cả, dù trai hay gái, đối với dân chúng miền Bigorre là phải theo. Vả lại, bà chị nói cũng có lý. Có cha có mẹ thì ai có thể chê cười con cái mình được. Ngày mai, lúc 6 giờ sáng, chuông nhà thờ Lộ Đức đổ dồn vang dội trong bầu khí tĩnh mịch lạnh lẽo, báo tin giờ hành lễ sắp bắt đầu. Bà Millet và cô Peyret vào phòng em để đánh thức em dậy. Nhưng hai người ngạc nhiên thấy em đã thức dậy và ăn mặc xong xuôi rồi. Bà Millet lấy làm lạ, hỏi em:

   - Tại sao cháu không mặc áo trắng đẹp cô Peyret may riêng cho cháu?

   - Thưa bà, cháu cám ơn lòng tốt của bà; nhưng cháu muốn mặc bộ đồ cũ của cháu hơn. Và cháu đi về nhà ba mẹ cháu đây.

   - Chúa ơi! thế là cháu chê nhà của bà rồi. Nhà bà không tốt đẹp sao?

   - Nhà của bà sang trọng lắm. Nhưng cháu muốn về nhà ba mẹ cháu cơ !

   - Thôi cháu muốn thế thì biết làm sao. Thì hẹn cháu ở ngoài hang đá vậy!

   Khi Bernadette về tới nhà thì đã có hàng trăm người đang đứng đợi trước nhà. Có cả bà dì Bernarde nữa. Bà Louise ái ngại đến gần con gái. Bà xem nó như thể không phải con của mình nữa, mà như một người đã được Chúa ủy cho một sứ mạng gì cao cả. Trong khi đó thì bà Bernarde lại đến đứng ngay sau lưng Bernadette như muốn an ủi chở che đứa cháu của mình trước đám đông... Rồi bà mạnh dạn lớn tiếng:

   - Thôi đừng để mất thì giờ nữa. Chúng ta hãy đi ra hang đá với Bernadette.

   Đoàn người lên đường. Người ta thấy nào là các bà hàng xóm, bọn học trò con gái, theo sau là nhóm bà Millet. Nhiều người đem theo sẵn nến sáp. Bernadette im lặng, rảo bước. Em đi rất nhanh, không để ý đến những người đang đi theo sau. Em nóng lòng muốn đến cho nhanh, trước mọi người, sợ Bà phiền lòng khi thấy mình đến với đám đông xô bồ náo-nhiệt này. Và kìa, em phóng lên trước đám đông, leo lên con đường mòn của sườn núi một cách lẹ làng. Bà Millet, béo mập, phải ngừng lại để thở hổn hển. Khi đám đông đến được trước hang đá thì họ thắp nến họ đem theo.

   Bernadette đang quỳ lần hạt và mắt hướng lên hang đá. Bỗng chốc Bernadette biến sắc. Mọi người đồng thanh kêu lên: «Em thấy Bà hiện ra! » Lần này Bà tỏ ra khoan dung và nhân hậu với em. Bà đến gần em hơn, bằng cách gần như bước ra khỏi hang, và cúi xuống thật thấp, đến nỗi những ngón tay thanh nhã của Bà gần như chạm đến cô bé. Tâm hồn em, mặc dầu được hưởng một niềm cực lạc vô biên, cũng không khỏi ngây ngất tột độ, toàn thân như cứng đờ, xanh xao, như linh hồn đã phiêu diêu vào nơi vĩnh cửu muôn đời! Cảnh tượng thật hãi hùng, đến nỗi bà Bernarde, được xem là người có tinh thần vững mạnh nhất, cũng phải la hoảng: «Bernadette chết rồi! Xin cứu giúp ! »

   Còn bà Louise thì hốt hoảng nhìn đứa con gái mình. Nó là đứa con gái đầu lòng, ruột thịt của mình, bà thương hết sức. Thế mà giờ đây nó giống như một kẻ hấp hối, lâm chung, để bước sang một thế giới phúc lạc, vĩnh hằng khác... Bà lắc đầu qua đầu lại và mặt mày nhợt-nhạt, bà nói không ra tiếng: « Đó không thể là Bernadette được. Tôi không nhận ra con tôi nữa! » Trước cảnh tượng phi thường của Bernadette đang « hồn siêu phách lạc », tất cả đám đông, rung chuyển bởi một cảm xúc kỳ diệu và sâu xa, vội vàng quỳ xuống dọc theo sông Savy và sông Gave.

   Quần chúng có một nhân cách và một giây thần kinh bén nhậy hơn và dễ rung cảm hơn một cá nhân. Sự hiện diện của một nhân vật siêu phàm trong hang đá, đã in dấu trên khuôn mặt của cô gái đang xuất thần và phản chiếu, như một tấm gương, những gì cô ta trông thấy: nụ cười khả ái của Bà, những dấu hiệu hay cử chỉ của Bà. Trong số đông dân chúng có mặt hôm đó, có những tâm hồn thiện chí tin vào phép lạ, thì cũng có những tay khôi hài, chế riễu. Một số khác thì vì tò mò, thích xem những gì lạ lùng, kỳ dị. Nhưng tin hay không tin, tất cả đều đưa mắt hướng lên hang đá, rồi quay nhìn cô bé đang xuất thần. Rồi từ cô bé đang xuất thần, họ lại nhìn lên hang đá...

   Quang cảnh lạ thường này, mà trí óc con người không thể mơ-tưởng được, đã khơi động trong lòng họ, không phải một cảm-giác tuyệt vời từ Trời ban xuống, nhưng là một mối bàng hoàng, lo sợ, không sao giải thích được trước sự hiện hữu của một sức mạnh huyền-bí, mà con người không sao cưỡng chống lại được. Chính những kẻ không tin lại là những kẻ bị xao-xuyến nhất. Mọi người sinh ra, sống trong thế giới hữu hình, đều cảm thấy sự cần thiết của sự Siêu-phàm.

   Bất ngờ, có người xướng lên: « Kính mừng Maria đầy ơn phước... » Ngay tức khắc, mọi người đồng thanh cất vang lên, như một bản hợp ca giữa núi rừng âm u chập chờn ánh đèn nến: « Đức Chúa Trời ở cùng Bà... »

   Bỗng nhiên Bernadette trở lại như trước. Em nhìn thấy mẹ như đầy tuyệt vọng, em bước tới ôm chầm lấy mẹ. Nhiều người thấy thế, đã rơi lệ... 

Chương 6 : Bernadette trước chính quyền

Ông Thị-trưởng đứng ngồi không yên, đi bách bộ trong văn phòng. Lý do là sáng nay, người thư ký đệ trình lên ông một bức thư hỏa-tốc, do chính tay ông Phó Đốc-lý phê chuẩn. Lời lẽ vắn tắt, nhưng rất khẩn thiết: « Yêu cầu ông Thị-trưởng gửi ngay tức khắc một bản Phúc trình về những vụ rắc rối xảy ra tại Lộ Đức, và cho biết những biện pháp đã được áp dụng để chấm dứt các sự náo loạn đó ». Anh thư ký đã từng có mặt tại hang đá, trình bày quan điểm:

- Thưa ông Thị-trưởng, chúng ta không thể nào khoanh tay đứng nhìn được.

 - Tôi biết rõ hơn ai hết, ông Thị trưởng đáp lại, báo chí địa phương chỉ trích chúng ta. Rồi đây chắc chắn, các tờ nhật báo Paris sẽ còn ồn ào hơn nữa. Không lẽ tôi bỏ tù Đức Trinh Nữ hay sao? Tôi không có thẩm quyền. Việc này thuộc thẩm quyền ngài Biện-lý. Ông ta có thể ra lệnh cho cảnh sát bắt giam. Nhà nước là Nhà nước. Thị-xã là Thị-xã,ông Phó Đốc-lý hình như không muốn phân biệt sự khác biệt này...

   Có tiếng gõ cửa. Anh thư ký vội thưa:

   - Thưa ông Thị-trưởng, quan khách đã đến.

   - Mời họ vào. Đây là một cuộc họp mật! Nhưng anh hãy ngồi đợi ở phòng ngoài, trong trường hợp tôi cần một người làm chứng.

   Ông Thị-trưởng vừa tham dự một buổi lễ chính thức, nên vẫn còn mặc áo đuôi tôm, có băng tam-tài (chức vụ Thị-trưởng ) đeo chéo qua ngực, phù hiệu Bắc Đẩu Bội Tinh sáng rực ở khuy áo. Ông bắt tay chào đón ông Biện-lý và ông Cò:

   - Tôi làm phiền các ngài quá! Nhất hôm nay lại là Chúa nhật, ngày nghỉ. Với tư-cách là người đứng đầu tỉnh, tôi không thể không nhờ đến sự cộng tác quý báu của chính quyền dân sự. Đây là một vấn đề gai góc. Trong Văn-thư, ông Phó Đốc-lý nói đến những « biến loạn », cũng như tất cả báo chí phe tả. Thú thực, chẳng thà là một cuộc nổi dậy của bọn đập đá làm đường xe lửa, hay bọn tiều phu đốn cây trong rừng, còn ít khó xử hơn vụ rắc rối này. Một vụ chẳng có đầu cũng chẳng có đuôi !

   Phần tôi, tôi đã hy-sinh tất cả thì giờ và nghị lực để hiện-đại-hóa tỉnh Lộ Đức của chúng ta.  Nay các chương trình ấy có thể sụp đổ. Quốc-hội có bỏ phiếu chấp thuận cho nối đường xe lửa với Lộ Đức không, sau khi chuyện quái dị xảy ra tại hang đá Massabielle? Có khách du lịch nào từ Paris dám đặt chân đến tỉnh này nữa, nơi mà chỉ nghe nói đến các hang động, ở đó hình ma, bóng quỷ hiện ra và nhảy múa?!

   Ông Biện-lý và ông Cò bàn qua tính lại:

   - Tôi đề nghị là trước hết chúng ta hãy cứu xét vấn đề về phương diện pháp lý. Những sự kiện rõ ràng và chính xác đã xảy ra như sau:

   Một con bé 14 tuổi, trí óc rất kém, cho rằng đã có những thị kiến siêu-nhiên. Điều này, đối với Hình Luật, không phải là một vi-phạm, cũng không phải là một trọng tội. Cho dù đứa bé gọi đó là « Đức Trinh-Nữ », hay là « Mẹ Thiên Chúa », người ta khó mà quy vào tội xúc phạm đến đạo lý tôn giáo. Theo chỗ tôi biết, con bé Bernadette chỉ gọi là « cô gái áo trắng », hay là « Bà ». Các danh từ không bị xem là bất kính về phương diện luật pháp. Vì thế, không phải là nguyên nhân, hay lý do để truy-tố.

   - Thưa ông Biện-lý, nếu người ta có thể chứng minh được có phỉnh gạt, có ý-đồ bịp bợm, hay dấu hiệu mắc chứng điên thì cũng đủ để bắt giam con bé.

   - Tôi đã nhận được bản phúc trình của bác sĩ Douzous xác nhận là không có phỉnh gạt và mắc chứng điên. Bây giờ tôi không nói với tư cách luật gia, nhưng với quan điểm thực tế của một người dân. Theo lý lẽ thông thường, chúng ta sẽ không hành động để ngăn cản những cuộc hiện ra. Nhưng chỉ can thiệp khi thấy có nguy-cơ khích động quần chúng, hoặc nguy hại hơn nữa, khi thấy có xu hướng chính trị muốn khuynh đảo chính phủ.

   - Chúng ta hãy phân tích những cuộc họp ngoài đường, về phương diện luật pháp. Tất cả những người đó làm gì? Họ kéo nhau đến nhà con bé Bernadette. Và từ đó, họ hành hương đến chân núi Espéluges. Họ đến quỳ trước hang Massabielle, tay cầm nến thắp sáng. Họ đọc kinh lần hạt rồi giải tán.

   - Thưa ông Tỉnh-trưởng, làm sao cảnh sát có thể ngăn cản họ được? Có điều luật nào cho phép cảnh sát ngăn cản họ không? Nếu chúng ta cấm họ đến đó, người công giáo sẽ bảo chúng ta sợ Đức Trinh Nữ. Những người không có đạo cũng sẽ nói như thế. Nếu cấm đường mòn bên này, họ còn có hai ba đường nhỏ khác. Chúng ta không thể ngăn cản tất cả đường mòn ấy, viện lý do là đường nguy hiểm. Chắc chắn chúng ta sẽ làm trò cười cho thiên hạ.

   Vừa lúc ấy, cửa phòng hé mở, anh thư ký thò đầu vào:

   - Thưa ông Thị-trưởng, hôm nay ông có mời ai tham dự nữa không?

   - Tại sao lại hỏi tôi. Anh biết chương trình còn hơn tôi nữa. Có ai muốn gặp tôi ?

   - Dạ thưa, có cha sở Peyramale muốn gặp ngài.

   Ông Thị-trưởng vội vàng bước nhanh ra ngoài phòng, đón qúy khách. Cha Peyramale mới 47 tuổi, nhưng khuôn mặt đầy nhiệt tình, đã có nếp nhăn. Tầm vóc to lớn, lực lưỡng, với chiếc áo choàng bằng lông và cái mũ chỏm bằng lông cừu, ngài trông có vẻ một lữ khách hăng nồng, trên đường thiên ly, hơn là cha sở một họ đạo.

   Tại miền Nam nước Pháp bấy giờ, giới giáo sĩ và chính quyền dân sự thường xung khắc với nhau. Dân chúng miền này rất sùng đạo và không bị chủ thuyết «Hư-Vô » của văn hào Voltaire chống đạo, khuynh đảo... Bởi vậy, chính phủ thường bổ nhiệm những đệ tử của Voltaire vào những chức vụ quan trọng, để có thể có sự quân bình quyền lực trong nước, và để cân bằng lực lượng hai phe.

   Cha sở không phải là người sợ hãi các đệ tử của Voltaire. Bằng chứng là những lúc đi thăm các Họ đạo ở vùng quê trở về, lạnh thấu xương, ngài không ngần ngại bước vào quán Café du Progrès (Cà-phê Tiến Bộ), nơi được xem là sào huyệt của nhóm « Chủ Nghĩa Tự Do », nhóm « Vô-thần Luận », để uống một cốc rượu Calvados cho ấm bụng. Ngài rất rộng lượng và khoan dung với con chiên, bổn đạo. Tuy nhiên, ngài rất dễ trở thành một thùng thuốc súng, có thể bùng nổ bất ky lúc nào, nhất là lúc có kẻ dám can thiệp vào việc quản trị Họ đạo, hay các công việc từ thiện của ngài.

   Ngài nói mạnh mẽ, nhưng hơi khàn khàn:

   - Thưa các ông, những gì tôi muốn nói thì rất vắn tắt. Tôi biết các ông đang đứng trước một vấn đề khó khăn và nan giải. Tôi đến để nói các ông rõ là nếu các ông cho rằng tôi và các bạn đồng sự của tôi đã tăng thêm một chút quan trọng nào về mặt tôn-giáo cho những lần hiện ra tại Massabielle, thì thật là các ông đã lầm.

   Ông Thị trưởng vội hỏi:

   - Như vậy Cha phủ nhận việc có thể đó là một hiện tượng siêu nhiên ?

   - Xin ông lưu ý ! Tôi không nói là tôi phủ nhận sự có thể đó là một hiện tượng siêu nhiên. Dẫu vậy,tôi có cảm tưởng là Thiên Chúa không ban cho chúng ta những phép lạ dễ dàng. Để hiểu được một mạc-khải siêu nhiên, các linh hồn cần được chuẩn bị trước. Chúng ta hiện nay còn rất xa đối với sự chuẩn bị ấy. Tôi cũng không dám dùng danh từ « phép lạ » trong những trường hợp hiện nay của chúng ta.

   - Thưa ảnh hưởng của Cha đối với dân chúng thật lớn lao. Cha là chủ chăn. Nếu Cha tuyên bố một lời thì...

   - Thưa ông Thị-trưởng! Tôi không có một chút ý muốn nào tham dự vào hội giả trang này. Tôi đã cấm đoán tất cả linh mục của giáo xứ tôi không được đặt chân đến Hang đá, hay bàn bạc đến chuyện này. Tôi đã gởi một bản phúc trình lên Giám mục. Hơn nữa, tôi đã yêu cầu các nữ tu dạy học, đặc biệt là nữ tu Vauzous, cô giáo của con bé, dùng tất cả mọi ảnh hưởng, nếu cần thì cả những biện pháp rất nghiêm khắc, để chấm dứt mọi chuyện này. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm, nếu không phải là tôi đã đi quá quyền hạn của tôi rồi.

   Nói xong, cha Peyramale đội mũ ba khế lên đầu: « Chúc các ông một ngày Chúa nhật tươi sáng!»

   Ông Thị-trưởng rầu rỉ, ta thán:

   - Thật là mâu thuẫn! Mặc dầu cha sở đứng về phía chúng ta, nhưng mọi trách nhiệm lại đổ lên đầu, lên cổ chúng ta! Hôm nay có hai ngàn người, ngày mai sẽ có ba ngàn, ngày mốt năm ngàn. Trong khi chúng ta chỉ có trong tay, vài cảnh sát viên thôi.

   Ông Cò Jacomet xin phép được lên tiếng:

   - Thưa ông, tôi không biết gì hết về chính trị. Nhưng nếu tôi thành công trong việc hăm doạ con bé, làm cho nó rụt rè, e sợ, không dám đến hang đá nữa, thế là chuyện này sẽ chấm dứt ngay vào ngày mai. Bởi vậy, tôi xin ông Thị- trưởng và ông Biện-lý trao tất cả việc này cho tôi.

   Ông Biện-lý lấy làm sung sướng, phấn khởi, lên tiếng hoan nghênh:

   - Đó là một ý kiến hay! Ông Cò của tôi ơi! Những nhận xét của ông rất thích đáng và tài tình. Đề nghị của ông rất chính xác và đúng với lý luận-học!

   - Nhưng tôi muốn có thẩm định trước, do chính tôi thi hành. Ngay hôm nay tôi sẽ thẩm vấn con bé tại văn phòng của tôi. Ông Thị-trưởng đồng ý chứ?

   - Xin hai ông hành động càng mau, càng tốt. Mọi sự đều tùy thuộc hai ông, để tỉnh Lộ Đức, trong tương lai, có được một đường xe lửa.

 

   Sau khi đi lễ sáng Chúa nhật về, gia đình François sắp ngồi vào bàn ăn, thì ông cảnh sát Callet bước vào:

   - Yêu cầu cho con bé Bernadette đi vơí tôi. Ông Biện-lý muốn kêu nó lên Văn phòng « làm việc ». Xin yên tâm, đừng sợ. Tôi chưa có lệnh bắt giam đâu!

   Bà mẹ khẩn khoản van nài: « Xin để cho em nó ăn xong bữa đã. »

   Viên cảnh sát, miệng vẫn ngậm ống điếu, cười đùa:

   - Xin đừng vội, hãy ăn uống tự nhiên. Cơ quan luật pháp biết chờ đợi...

   Ông bố lẩm bẩm : « Tôi biết trước mà! Chuyện này kết thúc là sẽ bị bắt và ngồi tù! »

   Trong khi đó thì chính Bernadette lại ăn uống rất tự nhiên như không chút gì nao núng.

   Ông Biện-lý Vital Dutour bị cúm nặng, chỉ ăn một ít xúp. Khi được báo tin là Bernadette tới, ông ngừng ngay bữa ăn trưa và bước vào văn phòng. Trong phòng,ánh sáng lờ mờ. Ngọn lửa trong lò sưởi leo lét. Ông Biện-lý kéo ghế ra gần cửa sổ để nhìn Bernadette cho rõ.

   Cảm tưởng đầu tiên của ông là: mọi sự việc sẽ ra dễ dàng. Vì đây là một đứa bé con nhà lao động, nghèo nàn như trăm ngàn đứa trẻ khác. Áo quần thì cũ kỹ, quá mòn, áo choàng thì dài đến gót, đôi guốc thì nhỏ xíu... Nhưng hai con mắt thì thật đẹp, một cặp mắt lớn, đen nháy, tia nhìn sáng, hoàn hảo.

   Ở tòa án, ông Biện-lý thường gặp những cặp mắt như thế của những người phụ nữ tình tứ, say mê, quyết tâm bảo vệ và gìn giữ mối tình của trái tim mình.

   - Con có biết ta là ai không? Ông Biện-lý khởi đầu.

   - Dạ, có. Ông cảnh sát có nói ông là Biện Lý.

   - Đúng thế. Hoàng-đế nước Pháp đặt ta ở đây để chăm lo giữ gìn trật tự, để phát giác và trừng trị tất cả những ai dối trá, lường gạt, bịp bợm, lừa đảo...

   - Dạ phải. Ông cũng như ông Jacomet.

   - Ta lớn hơn ông Jacomet nhiều. Ta là thượng cấp của ông ta. Ông Jacomet bắt những tên tội phạm và đưa đến tòa án để ta xét xử, và tống chúng nó vào tù. Hôm nay ta cho gọi con đến đây vì ta muốn giúp đỡ con. Nếu con là đứa bé ngoan, biết lẽ phải, nói hết tất cả sự thật, thì ta tránh cho con khỏi bị ông Cò thẩm vấn, hỏi cung. Hiện nay, khắp tỉnh Lộ Đức người ta bàn tán rất nhiều về con. Như thế không làm cho con lo lắng sao? Này Bernadette, ta phải hỏi con một câu rất quan trọng, hết sức nghiêm túc: « Con có ý định sáng mai ra hang đá không? »

   Đôi mắt của cô bé nhìn thẳng vào ông Biện-lý, không chớp mắt, đôi mắt quyết tâm bảo vệ tâm tình thiết tha của mình:

   - Dĩ nhiên là con phải đến đó cho đủ 15 ngày. Con đã hứa với Bà rồi !

   Ông Biện-lý thất vọng:

   - Con hãy suy nghĩ điều này. Trong lớp học, con là đứa đứng chót, thua bàn bè về tập đọc, về toán học và về cả giáo-lý nữa. Những người thông thái hơn con, ví như cha sở và cả ta đây nữa, đều nói Bà đẹp mà con đã trông thấy tại Massabielle, chỉ là một chuyện bịa của trẻ con, một giấc mơ lố bịch!

   - Thưa ông, lần đầu tiên con trông thấy Bà, con cũng tưởng đó là con mơ. Một lần thì nói mơ được, nhưng không thể mơ khi con đã trông thấy Bà đến sáu lần rồi!

   Ông Biện-lý lắng tai nghe. Câu trả lời của con bé như kéo ông vào lãnh vực siêu nhiên mà ông thấy mình yếu thế, nên ông đứng lên như lấy nghị lực dùng biện pháp áp đảo tinh thần:

   - Con hãy coi chừng. Bộ Tư-pháp biết hết mọi chuyện, biết hết những món quà người ta mang đến cho gia đình con. Con được mời đến nhà bà Millet, người đàn bà giàu có nhất Lộ Đức. Nếu không có chuyện bà hiện ra ở Massabielle, thì không bao giờ con được mời đến nhà đó. Nhưng ta muốn cứu giúp con, muốn tránh cho con khỏi bị ông Cảnh sát trưởng hỏi khẩu cung, vì đó là bước đầu dẫn vào nhà tù. Con chỉ hứa với ta một điều thôi. Con hãy nghe ta, vì ta đại diện cho Công lý. Lời hứa đó là: « Con sẽ không bao giờ trở lại hang đá nữa. »

   Bernadette bình tĩnh trả lời, không chút nao núng:

   - Thưa ông, điều đó thì tôi không thể hứa với ông được. Tôi đã hứa với Bà là tôi sẽ đến hang đá...

   Ông Biện-lý rất ngạc nhiên, và không thể cầm chế được cơn tức giận:

   - Như vậy là con đã từ chối bàn tay cứu giúp của ta sao? Hãy nghĩ kỹ lại đi. Ta cảnh-cáo con lần cuối cùng đó.

   Bernadette cúi đầu, nhưng không lộ vẻ sợ hãi, lại tỏ ra một ý chí không lay chuyển. Thấy thế, ông Biện-lý nổi giận la lớn:

   - Thế là hết. Ta không cần dùng đến mày nữa. Hãy đi đi và rước lấy tai họa, không còn oán trách ai được nữa!

   Ngồi lại một mình trong phòng, ông Biện-lý cảm thấy xấu hổ. Tại tòa-án, ông đã quen thắng-thế một cách dễ dàng. Phần đông các tội phạm van lạy, xin ông ân-xá hay giảm án. Chỉ cần một câu nói: « Nếu anh khai sự thật, thì tôi sẽ đưa bàn tay để cứu vớt anh... » thế là các bị can động lòng, khóc sướt mướt và van lạy, rồi khai hết, thú nhận tất cả để mong được ngài Biện lý « cứu vớt! ».Trái lại, con bé nhà quê, nghèo nàn này lại không tỏ ra sợ sệt, van xin gì cả. Những lời ngon ngọt, hay những lời dọa nạt giam tù của ta, trước kia đã bao lần có hiệu nghiệm đối với những tên côn đồ, cướp giật cứng đầu cứng cổ.., thế mà giờ đây lại không có kết quả gì đối với một con bé!

   Sau cùng, ông tự an ủi: ta hãy giao việc này cho ông Cảnh sát trưởng Jacomet. Ông ta cứng cỏi và có biện pháp mạnh hơn để quật ngã con bé này.

   Sau cuộc đụng độ với ông Biện-lý, Bernadette thường lánh mặt mọi người. Em vào nhà thờ, ngồi đọc kinh ở một góc thì thấy yên ổn hơn ở nhà. Một hôm, sau buổi Kinh Chiều, em vừa ra khỏi nhà thờ với các bổn đạo, thì ông cảnh sát trưởng đến gần, vỗ nhẹ lên vai em:

   - Tôi muốn gặp em một chốc lát. Hãy đến sở tôi, nói chuyện. Không xa đâu.

   Nghe thế, bổn đạo vây quanh hai người, nhưng không ai dám nói năng gì, tuy rằng ai nấy cũng thương tình cho cô bé.

   Văn phòng ông Cảnh sát trưởng rất hẹp. Chỉ có một cái bàn và hai cái ghế. Hôm đó có người bạn ông Cò là ông Estrade, Giám đốc Quan thuế đến thăm. Ông ta có khuynh hướng về kinh tế và văn hóa hơn là thích nghe những chuyện hoang đường, hay huyền bí. Nhưng ông muốn tham dự buổi lấy khẩu cung cô bé, vì ông ta đã biết bác sĩ Dozous xác nhận là cô bé không mắc bệnh loạn trí, cũng không thấy có sự phỉnh phờ lường gạt ai...

   Ông Jacomet lấy một tờ giấy trắng để viết biên bản, rồi vừa gọt bút chì vừa hỏi như thường lệ, làm như không quan tâm cho lắm:

   - Em tên gì, Họ gì ?

   - Ông biết tên tôi rồi mà. Tôi là Bernadette Soubirous.

   Ông lấy giọng điệu nghiêm trọng khi vừa đặt bút chì xuống bàn và nói:

   - Bernadette, hình như em chưa ý thức cho đủ, những gì sẽ xảy ra cho em. Với cây bút chì này, ta sẽ ghi hết trên giấy những gì em nói ra, mà người ta thường gọi là lời « cung khai » Ngay đêm nay, ta sẽ gửi bản phúc trình này lên ngài Đốc-lý, một người có quyền thế và rất nghiêm khắc. Ta hy vọng là em hiểu rồi, và em sẽ nói hết sự thật. Em bao nhiêu tuổi?

   - Thưa ông, 14 tuổi.

   - Em biết Bà đó không?

   - Ồ không, em đâu có biết Bà ta.

   - Bà ta độ bao nhiêu tuổi?

   - Dạ, độ 16 hay 17 tuổi.

   - Em nói rằng: Bà ta đẹp lắm phải không?

   - Bà rất đẹp.

   - Đẹp như bà Paillasson, hoa hậu của tỉnh?

   - Ồ thưa ông, đẹp gấp trăm lần bà hoa hậu đó!

   - Nhưng Bà của em đứng như một pho tượng trong nhà thờ phải không?

   - Ồ không. Hoàn toàn trái lại. Bà đến gần tôi, nói chuyện với tôi...

   - Người ta nói Bà trao cho em một điều bí mật phải không?

   - Thưa ông, phải. Có một điều Bà nói mà em đã hứa là sẽ giữ kín.

   - Em không nói với tôi, với ông Biện-lý. Nhưng nếu Cha Phó hỏi thì sao?

   - Em không thể nói với ai hết.

   - Nếu đức Giáo-hoàng ở Rôma hỏi em thì sao?

   - Em cũng không nói. Nhưng đức Giáo-hoàng sẽ không hỏi em đâu.

   Ông Cò bỗng cười lớn tiếng và liếc nhìn ông bạn Estrade, từ nãy vẫn ngồi im lặng lắng nghe, mũ để trên đầu gối, và cây gậy để bên cạnh ghế. Rồi ông hỏi tiếp :

   - Cha mẹ em nghĩ thế nào về chuyện này. Có tin việc hiện ra không?

   - Em nghĩ là cha mẹ em không tin.

   - Đúng thế. Nếu Bà đẹp của em có hiện ra thực, thì ai cũng thấy chứ. Nếu không, ai cũng có thể dựng đứng chuyện hoang đường phép lạ hết.

   - Thưa ông, thực tôi đã thấy Bà áo trắng.

   Thấy Bernadette không nao núng, ông ta liền dùng biện pháp tinh-khôn cạm bẫy như thường lệ trong nghề:

   - Bây giờ ta đọc lại Biên bản để em xác nhận, rồi ta sẽ gửi Bản đó lên ông Đô -trưởng.

   Nhưng Bernadette đã cải chính hết những điều ông Cò ghi, vì ông ta đã cố tình xuyên tạc lời khai của em:

   -Tôi đâu có nói... Tôi nói là...

   Thấy không lừa được cô bé, ông Cò đứng dậy đập bàn, hét lớn để dọa nạt như ơ các cuộc lấy cung mà ông thường khôn ngoan tinh xảo áp dụng:

   - Đừng tưởng là em có thể đùa giỡn với ta. Sự thật đầy đủ, đang nằm trong ngăn kéo của ta kia rồi. Hãy coi chừng, nếu em nói dối! Em phải thú nhận hoàn toàn mới thoát khỏi tù tội. Hãy nói cho ta biết những ai chủ mưu trong vụ này? Thật ra, ta đã biết hết tên tuổi của những người đó rồi.

   Bernadette không sợ hãi trước lời dọa nạt, nhưng không trả lời. Thấy thế, ông Cò bèn áp dụng biện pháp cấp ba. Ông tăng thêm phẫn nộ và hét lớn:

   - Nếu mày không hiểu, thì tao sẽ giải thích cho mày nghe. Có nhiều người đã xúi giục mày, tập luyện cho mày bày ra trò « phép lạ » ở Massabielle. Cảnh sát đã biết hết tên tuổi của những người này rồi. Nếu mày không khai ra, thì mày sẽ vào tù. Đâu phải là hết. Ta sẽ bắt giam cha mẹ mày và các em mày. Các em mày sẽ chết đói, mặc xác chúng nó!

   Nói xong, ông Cò kéo tay Bernadette ra gần cửa sổ:

   - Mày thấy gì ngoài kia không ?

   - Tôi thấy nhiều người ở trước nhà của ông.

   - Không có một người nào trong số đông đó, có thể cứu vớt mày. Bởi vì có ba ông cảnh sát đứng canh gác đầu kia, đợi lệnh của tao là bắt giam mày. Bởi vậy đừng làm khổ cha mẹ mày và làm khổ chính mày. Ông Biện-lý đã yêu cầu mày đừng ra hang đá nữa. Giờ đây, trước mặt ông Estrade là kẻ làm chứng, mày chỉ hứa là sẽ không ra hang đá nữa là yên chuyện.

   Nghe thế, ông Estrade lên tiếng khuyên cô bé:

   - Con ơi! Ong Cò muốn điều tốt cho con. Vậy con hãy nghe lời mà hứa với ông ta đừng ra hang đá nữa.

   Em nhìn vội người khách lạ, biết rằng ông này không dính dấp gì với chuyện này, nên em không trả lời.

   Ông Cò gầm gừ:

   - Mày muốn tao gọi cảnh sát bắt giam mày không?

   Cô bé cúi đầu rất thấp. Yên lặng kéo dài... Trong khi đó, thì có tiếng gõ cửa một lần, rồi hai lần, làm ông Cò bực tức nói lớn:

   - Ai đó, vô đi !

   Cửa hé mở. Đó là François. Ông ta đứng dừng nơi cửa, do dự không dám bước tới, tay mân mê cái mũ xám đã bạc màu. Ông ta có vẻ sợ hãi, đưa mắt liếc nhìn ông Cò.

   - Quỹ thần ơi! Anh đến đây làm gì Soubirous? Ông Cò lên tiếng.

   Người cha nghẹn ngào, đáp như cầu khẩn:

   - Tôi là cha của con bé này.

   Ông Cò được thể, lạnh lùng như băng, lên giọng:

   - Nghe đây Soubirous. Câu chuyện hài hước ở hang đá phải chấm dứt. Nghe rõ chưa? Tôi sẽ không khoan dung, không tha thứ nữa đâu. Phải chấm dứt ngay ngày mai.

   François như muốn thề hứa:

   - Có Chúa làm chứng cho tôi, thưa ngài cảnh sát trưởng. Tôi chỉ mong ước và chỉ xin có một điều: là những chuyện hiện ra này hãy chấm dứt.

   Ông Cò nói tiếp, bớt hung hăng, giả vờ thông cảm:

   - Con bé này còn trong tuổi vị thành niên. Anh là cha nó. Anh phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Anh cho nó đến trường, nhưng nó không được đi tới chỗ nào khác. Nếu không, tôi sẽ bắt giam cả gia đình anh. Tôi lấy danh dự mà thề và tôi sẽ làm như đã thề quyết. Bây giờ thì anh đem con bé này về đi.

   Ông bố vội vã đem con gái ra về. Ông đi cúi đầu xuống không dám nhìn ai. Đám đông thấy hai người ra khỏi phòng, chạy đến vây chặt hai cha con, hỏi thăm tin tức. Nhưng em chẳng còn nghe thấy gì hết, ngoài tiếng than trách của thân sinh: « Con thấy chưa! Con đã làm cho cha mẹ khốn đốn thế này. Thật là một điều xấu-xa,nhục-nhã! » Em cắn răng lại. Nước mắt như muốn tuôn trào. Em không muốn khóc trước mặt đám đông...

   Còn lại một mình trong văn phòng với ông Estrade, người bạn thân đã có mặt suốt buổi thẩm vấn, ông Cò liền hỏi:

   - Anh nghĩ thế nào về con bé này?

   - Tôi nghĩ rằng con bé này không có nói dối.

   Ông Cò cười lớn:

   - Nó là con bé, nhưng đã thắng chúng ta là người lớn. Tôi nhớ lại không có một tên bị cáo nào, cho dù đứa bị bắt nhiều lần, lại có đủ can đảm đối đầu với tôi như thế. Và con bé không sa vào bẫy nào của tôi giăng ra. Nếu cha nó không đến đúng lúc, thiết tưởng tôi cũng không biết « ca bài con cá » rút lui ra sao!

   Hôm sau cuộc thẩm vấn, em đến trường, lòng buồn bã. Em đi một mình, tránh các bạn bè, kể cả em gái. Trước khi ra em ra cửa, bà mẹ không ngớt nhắc đi nhắc lại: «Đi đến trường mà thôi, không được lệch hướng đi đâu cả nghe không? » Bernadette tuân lời mẹ dặn,nhưng trong lòng không thấy vui.

   Buổi trưa, khi trở lại trường, em đi theo con đường ban sáng, nhưng khi gần đến cầu, hình như có vật gì cản lối đi, không cho em đi thẳng đến trường. Có một sức mạnh gì lôi kéo em về phía Massabielle. Tức thì cảnh sát có nhiệm vụ canh chừng, đi theo bén gót. Thấy em ra phía hang đá, lại có cảnh sát ra theo, nên dân chúng ùn ùn keó theo.  Ngay tức khắc, em quỳ xuống, đọc kinh chờ đợi. Nhưng hang đá đen ngòm và lỗ hỗng trống rỗng. Cành hồng dại ở nơi miệng hang, thờ ơ ngã theo chiều gió. Sương mù của ngày Thứ hai 22 tháng 2 giá buốt, phủ xuống cảnh vật càng làm cho hang đá thêm lạnh lẽo!

   Em thầm thỉ với Bà: « Thưa Bà, Bà có biết là ông Jacomet, cảnh sát trưởng, dọa nạt con là sẽ bỏ tù gia đình và cả con nữa, nếu con trở lại đây. Nhưng con không hiểu sao, hình như có sức gì thu hút con tới đây. Nhưng Bà đã đi rồi,không trở lại nữa. Bà không thể đợi con một thời gian nữa, trước khi Bà từ biệt con sao? »

   Vào lúc ấy, Louise và Bernarde cùng những người quen đến và đưa em về. Đến gần Nhà cối xay Savy, bỗng nhiên em không thể đi được nữa, mặt mày tái xanh. Người ta vội vàng đưa em vào trong nhà nằm nghỉ mệt. Đôi mắt của em nhắm lại, hơi thở rất khó, nét mặt nhợt nhạt, xanh xao. Người ta vội báo tin cho ông thân sinh.

   Đây là lần thứ hai ông đến hang đá. Lần đầu khi ông chở ba thùng rác đầy băng giẻ máu mủ của bệnh nhân đến thiêu hủy và đổ tro xuống sông Gave. Lần này thì để nhìn thấy cảnh bi thảm của đứa con gái đầu lòng mà ông rất thương mến, đang nằm bất động. Ông rất đau lòng trước nỗi khổ của con ông mà ông không hiểu được lý do. Lần đầu tiên, ông rơi lệ:

   - Chuyện gì xảy đến cho con vậy? Hãy nói cho ba biết, điều gì đã làm cho con đau khổ thế này. Nói cho ba biết, con muốn gì cũng được...

   Bernadette nói nhỏ tiếng như phát ra tự đáy lòng:

   - Hãy cho phép con ra hang đá. Nếu con không gặp được Bà...

   Nghe thế, ông bố quá xúc động. Và vì quá thương con, ông âu yếm nắm lấy tay con gái, và nói với một giọng đầy cương quyết:

   - Tưởng gì, chứ điều con ước mơ đó thì ba sẽ cho phép con trở lại hang đá, dù người ta có bỏ tù ba đi nữa!

Chương 7 : Bernadette và sứ mạng lãnh nhận

Suốt ngày Thứ hai bi thảm, nhưng nhờ đó mà Bernadette được thân sinh cho phép trở lại Massabielle; nên hôm nay, em đã trở lại hang đá.

   Đó là ngày Thứ ba 23 tháng 2, 1858 một ngày đáng ghi nhớ trong số 15 ngày mà em đã hứa với Bà. Cuộc tái ngộ thật tuyệt vời! Chỉ vắng mặt có một ngày, thế mà em tưởng chừng như xa cách Bà trong một thời gian vô tận, với những đau khổ và nhẫn nhục cam chịu những đối xử bất công.

 Hình như Bà cũng xúc động khi gặp lại kẻ mà Bà yêu mến. Tuy vẫn mặc áo choàng đẹp như các lần khác, nhưng lần này Bà rất lộng lẫy và rất đáng mến hơn bao giờ hết. Nét mặt rạng rỡ, mái tóc dưới khăn choàng càng sáng chói, đôi bông hồng bằng vàng nơi bàn chân càng lấp lánh. Đôi mắt Bà xanh biếc, tia nhìn vừa mãnh liệt thiết tha, vừa êm ái dịu dàng, đến nỗi Bernadette vội quỳ xuống và ngây ngất trong một trạng thái xuất thần, kéo dài trong một tiếng đồng hồ. Hôm nay chỉ độ hai trăm người đến, phần đông là những người quen biết, trong số này, có bà Millet và cô Peyret đã nhất quyết là không vắng mặt ngày nào. Lực lượng cảnh sát thì có một Đội-trưởng đại diện. Nhưng lần này có cả bác sĩ Dozous và ông Estrade, đến quan sát nữa.

   Trong lúc xuất thần, nét mặt em sáng chói, em làm các nghi thức như giang tay, đi bằng hai đầu gối, hoặc làm dấu Thánh giá. Những người quỳ chung quanh có cảm giác như đang ở trong một thế giới huyền bí... Rồi họ thấy em đứng lên, lắng tai nghe, mỉm cười, miệng hé mở như trong một cuộc đối thoại say mê với người yêu vô hình. Hôm nay Bà yêu cầu dân chúng hãy thống hối ăn năn. Đôi mắt đẵm lệ, em quay lại nói với mọi người ba lần THỐNG HỐI, THỐNG HỐI,THỐNG HỐI.  Đây là biến cố thứ nhất của ngày đáng ghi nhớ này. Biến cố thứ hai càng quan trọng hơn nữa. Bà ra hiệu cho Bernadette đến gần, và với một giọng nghiêm trang và trọng đại, Bà giao cho em một Sứ mạng:

   - Con hãy đi đến các Linh mục và nói với họ là một nhà nguyện phải được xây cất tại đây. Người ta hãy đến đây rước kiệu. »

   Từ trước tới nay, mỗi lần gặp Bà, em đều nhận được một hạnh phúc vô biên. Nhưng hôm nay, em phải thi hành một nhiệm vụ làm em phải lo lắng. Lần đầu tiên, Bà giao phó cho em một sứ mạng quan trọng càng làm cho em lo sợ hơn là đến trước mặt ông Biện-lý hay ông Cò. Trong khi đó, những diễn biến vừa qua tại hang đá đã làm rung chuyển tâm hồn ông Estrade, và làm tiêu tan tất cả tác phong và tư tưởng tư-sản của ông. Chúa Nhật vừa qua, có mặt trong buổi ông Cảnh sát trưởng thẩm vấn Bernadette, niềm tin không lay chuyển của cô bé này đã làm ông như bị thôi miên.

   Cô bé này có một lối lý luận vững chắc, một sức mạnh thuyết phục phi thường, đến nỗi hôm nay cùng với người chị, ông đã đích thân đến tham dự buổi hành hương này. Khi nhìn thấy Bernadette lúc ngất trí, làm dấu thánh giá nhiều lần, rất chậm rãi, rất trịnh trọng, ông không thể hiểu nổi mãnh lực siêu nhiên nào đã giúp cô bé giản dị, môc mạc của vùng núi Pyrénées này, trong mỗi cử chỉ, mỗi bước đi, mỗi tia mắt nhìn, đã chuyển đổi thành sự thực, những gì mà mọi người cho là ảo mộng.

   Thái độ và phong cách lúc em muốn hỏi Bà, rồi vì không hiểu, lắng tai nghe trong thất vọng; rồi sau đó, với niềm vui sướng, mừng rỡ của tuổi thơ, vì đã hiểu, vội vàng cúi xuống hôn đất. Tất cả những lễ nghi ấy làm cho thấy những gì gọi là thiên-giới, thiên-tính, rất gần gũi chúng ta...

   Điều gì đã xảy đến cho ông Estrade hôm nay? Một ảnh hưởng huyền bí, vô phương giải thích, đã làm rung chuyển tâm hồn ông và đem lại cho ông một niềm tin tưởng vào đời sống vĩnh cửu? Ông rời hang đá một cách âm thầm, không từ giã người chị, để dễ dàng suy tư. Đôi mắt ông mờ đi vì rớm lệ.

   Hôm đó là một buổi sáng trời đẹp, gần như một ngày đầu Xuân. Chỉ còn hai hay ba tuần lễ nữa là mùa Đông sẽ qua đi. Vườn hoa của cha Peyramale được dọn dẹp, sửa soạn rất chu đáo. Lá vàng được quét sạch và vun thành từng đống. Bãi cỏ được cắt xén thật sát. Những bụi hoa soan được cắt tỉa. Một lớp đá sỏi trắng được trải trên các lối đi. Tuy vậy, những cây bông hồng vẫn còn ở trong các bao rơm, vì là loại hoa rất mỏng manh dễ gãy. Cha sở đưa tay vuốt ve một vài cánh hoa hồng, nhưng tay kia vẫn nắm một bức thư rất quan trọng do chính Đức cha Bertrand-Sévère LAURENCE,Giám mục địa phận Tarbes, gửi đến.

   Cha sở lấy tay bẻ dấu ấn bằng khằng đỏ, dùng để niêm-phong bức thư của Tòa Giám mục. Đúng như ngài dự đoán, đây là văn-thư trả lời cho bản Phúc trình của ngài về các diễn biến vừa xảy ra tại Lộ-Đức. Đức cha chấp nhận quan điểm của cha sở, tức là những cái gọi là « phép lạ » hiện hình tại Massabielle, trong lúc này, không bắt buộc các vị lãnh đạo Giáo hội phải tỏ thái độ, và càng không bắt buộc họ phải chấp nhận hay bác bỏ gì hết. Luật Giáo hội cho phép can thiệp, chỉ trong những trường hợp hiển nhiên là tà-thuyết, hay dị đoan rõ ràng có độc hại cho giáo dân...

   Còn đây, tại hang đá, không có một trường hợp nào như kể trên. Đây chỉ là chuyện, chưa được kiểm chứng rõ rệt, của một em bé 14 tuổi, cho rằng đã thấy một bà rất đẹp, không rõ tên tuổi, cũng không ai thấy mặt, mà cô bé nói là đã hiện ra với cô. Cuối thư, ĐGM kết luận: «Phải hết sức dè dặt. Phải cầu nguyện thật nhiều để nhận được ánh sáng từ Trời, và tránh khỏi những phán quyết vội vàng thiên lệch!»

   Cha Peyramale cúi xuống nhìn một cây bông hồng ủ rũ hình như không chịu nổi thời tiết khắc nghiệt của mùa Đông... thì có tiếng ồn ào của một nhóm người từ ngoài đường, làm ngài chú ý. Tiếng ồn ào càng đến gần, ngài nhìn thấy đoàn người đi theo ủng hộ con bé Bernadette đang tiến về phía Nhà Xứ.

   Để khỏi bị chi phối bởi tiếng náo nhiệt của đoàn người đó, ngài lấy Sách Nhật Tụng ra đọc. Ngài bước đi trên con đường nhỏ trong vườn, xem như mãi mê với kinh nguyện, không để ý đến tiếng động bên ngoài! Dì Bernarde Soubirous luôn luôn sáng suốt, đã giải thích lời của Bà: « Hãy đi đến các linh mục... », như là một lệnh bảo đến gặp cha sở Lộ Đức chứ không phải đến các cha như Pomian, Pènes, hay Sempé chỉ là những cha phụ tá.

   Trong thâm tâm, Bernadette muốn dì Bernarde chỉ- định một trong ba cha phụ tá hơn là cha Peyramale. Vì cha sở con người vặm vỡ, nét mặt đầy giông tố, tiếng nói oang oang, tính tình nóng nảy làm em sợ hãi, nhất là rất ít khi em có dịp gặp ngài, chỉ thấy ngài « hùng hồn » trên tòa giảng, hay đôi khi đi ngoài đường. Trong khi đó thì cha phó Pomian lại hiền hòa, thư thái, dáng đi khoan thai, gương mặt bầu bĩnh hiền dịu... Chính vì thế mà về sau, ngài trở nên Cha linh hướng cho Bernadette thời em ở Lộ Đức.

   Nhưng chính với con người hung hăng của cha sở mà hôm nay, Bernadette phải đi với dì Bernade đến trình diện với tư cách là « sứ giả » của Bà! Em thấy chân tay bủn rủn, và muốn thối lui. Nhưng với dì Bernarde không thể đùa giỡn. Dì là người cương nghị, nói là làm và làm cho đến cùng. Dì tin tưởng hơn mẹ của Bernadette, nên Dì lo lắng chăm sóc cho mệnh lệnh của Bà được thi hành,thực hiện. Thấy đứa cháu gái của mình muốn thối lui, quay lưng chạy trốn, nên Dì đẩy nó vào cổng Nhà Xứ, mạnh đến nỗi Bernadette suýt vấp ngã trên bậc thang.

   Từ xa, em nhìn thấy hình bóng cha sở đang vừa đi bách bộ vừa đọc kinh, làm em bước nhẹ, tiến vào vườn không làm một tiếng động trên con đường trãi đá. Nhưng thật khổ, với đôi guốc bằng gỗ này, làm sao khỏi kêu sột soạt. Phải chi đi chân không thì hay quá.Sau cùng, em dừng lại cách cha sở khá xa, tim đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

   Bỗng nhiên, cha sở quay lại. Đến gần, trông ngài càng to lớn, càng khủng khiếp hơn nữa. Với một giọng oang oang, ngài cất tiếng hỏi:

   - Con là ai? Đến đây có việc gì?

   - Dạ thưa, con là Bernadette.

   - A! Đây là cô gái nhỏ của những kỳ diệu, phi thường! Mỗi lần con đi đâu là cả « triều đình » đi theo hầu như vậy sao?

   Bernadette cúi đầu, sợ hãi, không dám trả lời. Sau đó, cha sở đi thẳng vào nhà trong, không nói lời gì với Bernadette đang lẽo đẽo theo sau, mặt tái xanh. Phòng khách rộng rãi, rất lạnh, mặc dầu trong lò sưởi đang cháy. Người « khổng lồ» không cảm thấy lạnh lẽo gì hết, quay lại Bernadette và nói:

   - Tại sao con đến đây? Con muốn cái gì?

   - Thưa cha... Bà ấy nói với con...

   - Con muốn nói Bà nào?

   - Dạ thưa, Bà ở Massabielle.

   - Con có hỏi Bà tên gì không?

   - Dạ. Con đã hỏi nhiều lần, nhưng Bà chỉ cười.

   - Có lẽ Bà muốn chế nhạo con đó.

   Cha sở nẩy ra một ý kiến, nên hỏi Bernadette:

   - Bà nói gì với con?

   Bernadette nghĩ đây là cơ hội thuận tiện nhất, nên em lấy can đảm,vội vàng nói:

   - Bà bảo con: « Hãy đi đến các Linh Mục và nói với họ là một Nhà nguyện phải được xây cất tại đây. »

   Nói xong em mừng, cho sứ mạng đã hoàn thành!

   Cha sở kéo ghế ngồi xuống, đôi mắt mở to, tự hỏi: Các Linh mục? Xây cất Nhà nguyện ? Rồi ngài nói một cách như khôi hài:

   - Con có tiền để xây nhà thờ không?

   - Thưa cha, con chẳng có một xu nào hết.

   - Như vậy thì con hãy nói với Bà ấy nên kiếm đủ tiền trước đã. Nghe chưa?

   - Dạ, con sẽ trình lại với Bà như vậy.

   Giọng nói đứng đắn, trả lời nghiêm túc và rất ngây thơ của em làm cho cha sở ngạc nhiên. Ngài đứng lên:

   - Cha nói đùa vậy thôi. Con hãy nói với Bà rằng nếu Bà muốn có Nhà nguyện, thì Bà cho biết tên tuổi, và làm cho cây hoa hồng dại nơi hang đá nở hoa. Nếu được thế, thì Cha sẽ làm cho một Nhà nguyện không phải nhỏ nhoi đâu, mà sẽ to lớn. Con đi nói đi.

   Giọng nói đầy hoài nghi và cứng mạnh làm cho Bernadette rất ái ngại... Em muốn khóc và chạy trốn.

   Hôm ấy, cha sở vừa phát hiện là các cây hồng lâu đời nhất của ngài bị tuyết làm cho đông cứng lại, chứ đừng nói đến hé nụ. Nhưng không phải bụi hồng gây phiền nhiễu cho ngài, mà chính là cách ngài xử sự với Bernadette. Cho dù nó là con bé nói dối, hay là một dụng cụ vô tình hoặc vô ý thức của một vài phụ nữ đầy tham vọng cá nhân đi nữa, thì cũng không phải là lý do để gắt gỏng với nó như thế. Khi thấy nó sợ hãi ra về, ngài muốn nắm giữ nó lại và cho nó một cái ảnh thánh, vì nó là đứa nghèo nhất trong giáo xứ của ngài.

   Nhưng có những điều khác làm ngài bứt rứt, băn khoăn hơn. Kể từ lúc con bé đến thăm, ngài cảm thấy lòng tự tin, ý chí cương quyết của ngài bỗng nhiên bị lung lay. Hình như Bà đã len lỏi, thâm nhập vào trí óc của ngài.

   Ngài nghĩ đến những lần hiện ra của Đức Trinh Nữ trong quá khứ có khác gì với Bernadette hôm nay đâu. Như lần hiện ra với Catherine Labouré vào 1830 để cổ võ lòng tôn kính Ảnh Vảy, với Mélanie và Maximin năm 1846 tại đồi Planeau, nhìn xuống làng La Salette, để kêu gọi linh mục sống sạch trong...

   Đức cha có dặn dò khuyên bảo phải khôn ngoan, thận trọng tối đa, nên ngài quyết định, sáng mai trong thánh lễ, ngài sẽ xin ơn soi sáng để tìm biết sự thật...

   Về phần Bernadette lại càng khổ sở hơn nữa. Ra khỏi nhà cha sở, đi được vài chục bước bên cạnh dì Bernarde, thì em hốt hoảng sực nhớ, là đã quên chuyển đạt phần thứ hai của « sứ điệp » Bà dặn: « Ngừơi ta hãy đến đây rước kiệu » Dì Bernarde cho rằng cha sở đã bác bỏ một cách mỉa mai việc xây cất nhà nguyện thì nhắc đến phần rước kiệu cũng vô ích. Nhưng em không nghĩ như thế. Em cho rằng Bà đã muốn có rước kiệu là Bà có lý do của Bà. Lời yêu cầu đó phải được chuyển đạt ngay hôm nay, nếu muốn cho em ngày mai trở lại với Bà, tâm hồn em được nhẹ nhỏm và vui mừng. Việc quay trở lại nhà cha sở, chỉ cách vài giờ sau khi như bị tống ra cửa, thật là khổ cực cho em.   

   Nhưng dù sao đi nữa, em phải trở lại đó, em nài xin Dì hãy cùng đi cho dù Dì đứng ở đàng xa. Hai dì cháu thảo luận xong, bèn quyết định là sẽ trở lại vào lúc chiều, giờ của hoàng hôn, làm cho con người có nóng tính đến đâu cũng dịu dần xuống.

   Thấy Bernadette bất ngờ trở lại trước mặt ngài với vẻ sợ hãi, trong khi dì Bernarde đứng phía sau xa, cha sở lên tiếng:

   - Thật tình con là đứa can đảm.

   - Dạ, xin lỗi cha, con quên một điều...

   Không đợi ngài trả lời,em đã lấy hết can đảm nói ngay:

   - Bà còn nói: « Người ta phải đến đây rước kiệu. »

   - Rước kiệu? Thế là quá lắm rồi. Rước kiệu! Tại sao lại phải rước kiệu nữa? Nếu con muốn, thì cha trao cho con một bó đuốc và con tổ chức những cuộc rước kiệu đi. Tại sao lại nhờ đến Cha?

   Bernadette không dám trả lời, cho rằng mình đã làm tròn sứ mạng khi chuyển đạt đầy đủ các điều Bà yêu cầu lên cha sở. Em tìm đường rút lui một cách rất thận trọng: 

   - Con xin lỗi cha.  Bây giờ con đã nói hết rồi 

Chương 8 : Phép lạ hoa hồng nở mùa đông

Dư luận trong tỉnh Lộ Đức bàn tán xôn xao về lời cha sở yêu cầu Bà làm phép lạ cho hoa hồng nở trong mùa đông này. Những kẻ chống đạo thì cho rằng lời yêu cầu đó là trò thách đố bậc thầy. Trong khi ấy, các tín hữu có lòng sốt sắng thì nghĩ rằng nếu Bà làm phép lạ đó thì quả thực là một bằng chứng hùng hồn của thiên quốc, làm cho đức tin người công giáo thêm mạnh, và bịt miệng những kẻ chống đối. Họ trầm trồ với nhau: « ông cha sở này quả thực tinh khôn! »

  Bà hiện ra lần đầu tiên với Bernadette vào ngày THỨ NĂM (11 Tháng hai). Bà hiện ra lần thứ ba cũng là ngày THỨ NĂM (18 Tháng hai), và hôm nay lại cũng là THỨ NĂM. Họ tin chắc rằng, hôm nay chứ không phải ngày nào khác, phải là một biến cố phi thường và kỳ diệu.Nhưng người duy nhất trong cuộc, không quan tâm chút nào về « phép lạ hoa hồng », đó là Bernadette. Em đến trước hang đá và nhớ đến lời cha sở yêu cầu. Em không quan tâm đến những lời yêu cầu đó có thể thực hiện hay không. Em chỉ biết trình lên Bà những gì ngài yêu cầu:  

   1- Bà phải cung cấp tiền bạc để xây Nhà nguyện, nếu Bà muốn.

   2- Ngài không quen nhận lệnh của các bà xa lạ mà ngài không biết.

   3- Ngài muốn người ta đừng quấy rầy ngài.

   4- Ngài muốn Bà làm cho hoa hồng nơi hang, nở vào mùa đông này.

   Bà lắng nghe một cách bình tĩnh tất cả những lời yêu cầu thiếu tôn kính kia. Thỉnh thoảng Bà mỉm cười và xem như không để ý đến các lời yêu cầu đó. Đôi mắt xanh thủy- tinh của Bà lơ đãng nhìn ra xa, có vẻ đau buồn.

   Em hiểu ngay là Bà đang buồn và chán nản. Em không ngớt hôn đất, và lôi kéo mọi người trong việc ăn năn, đền tội. Nhưng dân chúng thì mong được xem phép lạ hoa hồng, tin chắc rằng ngày THỨ NĂM, 25 tháng Hai này, sẽ có điều kỳ diệu xảy ra.

   Từ sáng sớm THỨ NĂM này, ông Jacomet đã huy động tất cả lực lượng cảnh sát của Lộ Đức, và xin thêm một số Hiến binh của trại Argelès. Vào lúc 6 giờ sáng thì đã có trên 10 cảnh sát và hiến binh, súng ống đầy đủ, trải rộng ra trước hang đá. Ông Jacomet tiên liêụ chỉ có độ 5.000 người sẽ đến hang đá trong ngày « phép lạ Hoa hồng » này. Nào ngờ đâu, dân chúng từ khắp nơi tuôn đến rất đông, theo ngả đường mòn dưới chân núi Espéluges,hoặc băng qua rừng Saillet, và đảo Chalet.

   Hôm qua, đã có những cuộc tranh luận dữ dội giữa ông Thị trưởng và ông Biện lý. Họ đổ lỗi cho nhau là phải chịu trách nhiệm về tình hình ngày càng khó kiểm soát ở hang đá. Báo chí Paris được dịp khuấy động dư luận, nắm lấy cơ hội để công kích chế độ chuyên chế và độc đoán của Hoàng Đế Nã-phá-Luân III:

   - Những vụ rắc rối ở Lộ Đức giống như một ánh chớp lóe ra, cho ta thấy những sự thấp hèn, về vật chất lẫn tinh thần, mà dân chúng tại các tỉnh miền Nam phải sống. Trong mười năm qua,người ta đã làm gì để mang lại cho họ những ích lợi của sự tiến bộ hiện đại? Chẳng có gì hết. »

   Báo chí của phe tả càng đi xa hơn nữa:

   - Việc giáo dục dân chúng thường phó thác vào tay các cha sở, nữ tu, thì thử hỏi đám dân chúng ấy đến bao giờ mới cất đầu lên ngang hàng với những tư tưởng của Tự do phóng khoáng? Như vậy có nghĩa là phải chấm dứt mọi chuyên chế và bạo ngược! Cũng vì thế mà sự khích động một sự cuồng tín tôn giáo là phương pháp tốt nhất để đánh lạc hướng con người khỏi những mục đích cao siêu,như là công việc chinh phục và quản trị trái đất chúng ta đang ở. Bởi vậy, xin ngài Roulland, Bộ-trưởng Tôn giáo và Giáo dục hãy nhớ nằm lòng những ý nghĩa »

   Trong lúc đó tại hang đá, dân chúng quỳ thành hình bán nguyệt, và hát thánh ca về Đức Trinh Nữ. Trong khi mọi ngừơi hát,và chung quanh có cảnh sát và hiến binh giữ trật tự, thì Bà hiện ra với em...

   Chưa bao giờ Bà có vẻ trang trọng như thế. Khuôn mặt kiều diễm có một cái gì nghiêm khắc và kiên quyết. Nụ cười và các cử chỉ cũng như những dấu hiệu tuyệt vời của các lần gặp gỡ trước, nay có cái gì rất trịnh trọng. Em đang quỳ trước một Bà hoàn toàn mới lạ. Bà làm dấu thánh giá, em làm theo. Bà đưa tay tỏ ý mời laị gần. Em leo lên tảng đá một cách dễ dàng, mặt gần đụng bụi hoa hồng.Chỉ còn chút nữa là đầu của em đụng đến chân Bà. Nếu Bà không bày tỏ ý muốn, thì em không bao giờ dám đến gần như thế.

   Trong một cử chỉ đầy âu yếm, đồng thời cũng là một sự hiến dâng việc thống hối ăn năn, em chui đầu vào bụi gai, và hôn các hoa hồng. Có hai hoặc ba giọt máu chảy trên má em bị gai làm trầy da. Ngay lúc ấy, có tiếng hoan hô của đám đông vang dậy. Họ cho rằng giây phút cực kỳ linh thiêng này khởi sự cho phép lạ hoa hồng nở giữa mùa Đông. Nhiều người hăng hái đến nỗi nhìn những giọt máu trên mặt cô bé là những nụ hoa vừa chớm nở!

   Nhưng đối với Bà thì cử chỉ của cô bé chẳng có gì quan trọng đặc biệt nào. Bà có mục đích khác quan trọng hơn. Với một giọng trong sáng, rõ ràng, nhấn mạnh từng chữ như ngươì ta thường làm khi muốn trao cho một đứa bé một mệnh lệnh quan trọng. Bà nói với Bernadette bằng thổ ngữ rất chính xác, hoàn hảo:

  « Annat heoue en a houn by laoua! »

 (Hãy đi đến suối nước, uống và rửa)

   Em nhảy xuống khỏi các hòn đá, mắt vẫn nhìn Bà. Suối nước? Có một suối nước gần đây sao? Em lúng túng và tự hỏi. Rồi em nghĩ rằng Bà không am tường thổ ngữ và có thể lầm lẫn suối nước và rạch nước. Em liền quì xuống và bò về phía rạch nước Savy. Đi được một quãng, em nhìn lên Bà. Bà lắc đầu. A! có lẽ Bà muốn cho ta uống nước sông Gave. Em bèn đổi hướng và quay về phía con sông nhỏ, chỉ cách độ ba mươi bước.Nhưng có tiếng Bà gọi lại: « Đừng đi đến sông Gave! » Rồi Bà nhắc lại những lời về suối nước, và nói thêm:

   «Annat minguia aquero hierbo que trouberet  

   (Hãy đi ăn những cây cỏ mà con thấy đầu kia)

   Cô bé tìm kiếm rất lâu, trước khi phát hiện, tại một góc về phía tay phải, một đám cỏ và những cây rất nhỏ. Em đi về hướng đó, rồi thực hiện lời Bà, ngắt vài cọng cỏ đưa lên miệng nhai và nuốt xuống.Nhưng nhiệm vụ khó khăn và quan trọng hơn cả là mệnh lệnh: « Hãy đi đến suối nước, uống và rửa. »

   Nếu Bà nói đến một suối nước, thì chắc chắn phải có một suối nước, chắc chắn như vậy. Nếu suối nước không ở trên đất thì nó phải ở dưới đất. Nghĩ như vậy, em bắt đầu cào đất với hai tay như con chuột chù. Em cào đất một cách hăng say, sợ rằng Bà phải đợi lâu. Sau khi cào được một lỗ nhỏ, em ngửi mùi đất ẩm ướt.Rồi với đôi tay, em cào nữa, nghỉ mệt chốc lát lấy sức rồi tiếp tục. Vừa lúc ấy, ở đáy lỗ nhỏ có một ít nước, không quá nửa ly, vừa đủ để thấm đôi môi, và thoa lên trán và hai bên gò má.

   Thế rồi, nghĩ rằng nếu không thực sự uống và không rửa mặt hoàn toàn, thì sẽ phạm một lỗi gian dối đối với Bà, nên em cào tiếp, đến nỗi vũng nước trộn lẫn với đất, biến thành một đống bùn. Không còn cách nào nữa, em lấy nắm bùn thoa lên mặt, rồi lấy nắm thứ hai bỏ vào miệng. Nhưng mặc dù gắng hết sức, em không nuốt được, lại còn muốn nôn mửa ra nữa.

   Mãi đến lần thứ tư, em mới nuốt được một ít. Cử chỉ đó đã làm cho hàng ngàn người có mặt sững sờ nhìn cô bé.Mẹ và Bà dì hoảng sợ, vội vàng chạy lấy nước ở sông Gave rửa tay rửa mặt và lau chùi áo quần cho cô con gái. Mọi người cảm thấy xấu hổ thay cho gia đình em. Em nằm yên trong tay mẹ, không còn đủ sức để nhận ra Bà đã từ giã. ...

   Đám đông dân chúng trông thấy gì trong ngày Thứ năm hôm nay mà họ tin là ngày của Phép lạ Hoa hồng? Họ thấy một cô gái bị rách mặt lúc trèo lên bụi hoa hồng dại. Rồi thay vì những điều kỳ diệu, họ lại thấy em như bò trên mặt đất, cào đất, thấm ướt trán và hai má bằng một thứ bùn bẩn thỉu và sau cùng ăn bùn và một nắm cỏ, trước khi mửa ra hết. Đó là tất cả những gì đám đông trung thành đã được chứng kiến! Hàng ngàn người đã tuôn đến hang đá, say sưa với hy vọng sẽ được chứng kiến một biến chuyển siêu phàm, sẽ mang lại cho đời sống tối tăm của họ một ánh sáng, một lẽ sống và một Đức tin.

   Bây giờ phép lạ hoa hồng đã không xảy ra, Bernadette chỉ là con bé điên khùng và chuyện Bà hiện ra chỉ là sản phẩm của một trí óc bệnh hoạn. Trái lại, ông cảnh sát trưởng lại vui mừng vì cảm thấy giờ vinh quang của mình đã đến. Ngày hôm nay, hay sẽ không bao giờ nữa, phải dập tắt ngọn lửa mê tín dị đoan đang leo lét cháy trong lòng dân chúng. Ông sẽ được cấp trên khen ngợi, toàn thể nước Pháp cấp tiến sẽ nâng ông lên đến tận mây xanh, báo chí thiên tả Paris sẽ chạy những hàng tít lớn như thế này: « MỘT CẢNH-SÁT TRƯỞNG TẦM THƯỜNG TẠI LỘ-ĐỨC ĐÃ ĐẬP NÁT CON RẮN BẢY ĐẦU CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN. » 

   Họ muốn gợi đến thần thoại Hy lạp về chuyện con rắn bảy đầu. Chém đầu này, nó mọc đầu khác. Sau cùng, Hercule chém một nhát đứt luôn bảy đầu.

   Ông Jacomet, đứng trên một gò đất cao,như một cái bệ, lên tiếng hiệu triệu dân chúng và tín đồ:

   « Hỡi các bạn công dân thân mến,

   Bây giờ các bạn đã thấy tận mắt, một vài tên bịp bợm, lừa đảo đã khinh thường và chế riễu các bạn và muốn khích động những cuộc biến loạn. Chẳng bao lâu chúng sẽ bị công an cảnh sát chúng tôi nắm đầu!

   Các bạn cũng có thể nhận thấy con nhỏ Bernadette là một con điên khùng, phải đem nhốt vào tù. Lần này Trinh Nữ cũng sẽ không hiện ra với các bạn đâu. Trời ơi! Ngài có những việc khác quan trọng hơn chứ, thay vì đến đây trong ngày Thứ năm của Tháng hai lạnh lẽo thế này, để làm cho các bạn bỏ công ăn việc làm.

   Đức Trinh Nữ không muốn làm cho các bạn phải mất thì giờ và tiền bạc! Ngài chỉ muốn các bạn lần hạt, và cha sở và các linh mục khác cũng đồng ý như vậy. Đức Trinh Nữ cũng không muốn làm cho công an cảnh sát phải thêm lo lắng và bận tâm trong lúc chúng tôi đã có nhiều công việc khẩn cấp quan trọng, ngày cũng như đêm. Xin các bạn hãy biết điều ngay lẽ phải. Đừng chờ mong một phép lạ, bất cứ ngày nào, kể cả ngày Chúa nhật. Tôi hy vọng các bạn hiểu rõ tôi, và kể từ ngày mai, mọi việc sẽ trở lại bình thường, yên ổn! »

   Sau khi nghe bài diễn văn hăng say, có thêm những nét hóm hỉnh bình dân, đám đông vừa thất vọng vừa bị hăm dọa, liền từ từ giải tán...

   Nhưng cách cư xử của em sau sự thất bại não nề tại hang đá vừa rồi, lại một lần nữa, làm cho mọi người ngạc nhiên. Thay vì buồn phiền, chán nản, em lại bình tĩnh thản nhiên và vẫn tin tưởng vào những gì Bà truyền dạy. Dân chúng thì không thể nào hiểu nổi. Vì lớn hay nhỏ, mọi người đều đánh giá đời sống con người bằng sự thành công hay thất bại. Từ trước đến nay, em đã trở thành trung tâm của mọi câu chuyện trong tỉnh và tại các vùng quê. Em đã trở thành như một ngôi sao sáng chói, một kẻ chinh phục lòng người, một vị vương, một người anh hùng,một nghệ sĩ tài ba, mà sự thành công đã quá rõ.

   Nhưng lạ thay! Trước hàng trăm cặp mắt ngưỡng mộ em, thì em vẫn ngây thơ, vẫn không hiểu gì hết. Em tự nghĩ: « Tại sao đám đông dân chúng đến theo dõi cuộc gặp gỡ giữa mình với Bà đẹp làm gì? Thật là tốt biết bao, nếu chẳng có ai đến cả. Cha sở, ông Biện lý, ông Cảnh sát trưởng đáng lẽ để cho mình yên thân, thì hay biết mấy! Tất cả những phấn khởi, nhiệt tình của dân chúng, chỉ làm cho mình thêm buồn phiền. »

   Đối với em, điều quan trọng là« TÌNH YÊU !» Người quan trọng là Bà đẹp! Tự đáy lòng, em không thấy có sự cần thiết để thuyết phục bất cứ một ai là Bà thực sự đã hiện ra. Chỉ khi nào bị bắt buộc như lúc bị cha sở hay ngài Biện lý tra vấn, thì em chẳng còn cách nào hơn là phải nói sự thật mà thôi. Không lẽ vì muốn được yên thân mà em lại từ chối không chịu công nhận Bà hay sao?

   Em chẳng hiểu chút gì về tâm lý và ý muốn của dân chúng, cũng như Trinh Nữ, nhưng đối với em thì chỉ là « Bà đẹp. » Nếu Bà chỉ nói riêng với em, những chuyện chỉ liên quan đến riêng mình em, thì mọi việc sẽ dễ dàng. Nhưng Bà đã ban những mệnh lệnh, đã truyền những Sứ điệp chẳng hạn như chuyện « Suối nước » sáng nay, thì dù có làm cho em phải bối rối đến đâu, em cũng phải thi hành mệnh lệnh của Bà.

   Suốt ngày, cánh cửa gỗ nặng nề của căn nhà chật hẹp, liên tiếp mở rồi đóng. Khách đến, kẻ ra người vào không ngớt. Nhưng hôm nay, người ta không nói với cha mẹ Bernadette là: « ông bà thật có phúc, thật là may mắn có được đứa con quý hóa như thế. Có ai ngờ một thiên thần đã sống tại nơi đây!» Trái lại, hôm nay, mọi người đều não lòng và đầy lời trách móc, xem như căn nhà này đã nảy sinh ra một người con quái gỡ, và gia đình phải chịu trách nhiệm...

   Vừa lúc ấy, cô Peyret bước vào than thở:

   - Bà Millet bị đau đầu nhức óc đến độ chưa từng thấy! Phải cho mời hai bác sĩ đến. Em ơi, tại sao em hành động như thế? Nhai cỏ, nuốt bùn, rồi nôn mửa...

   Em lắng tai nghe rất bình tĩnh và trả lời:

   - Em biết làm gì hơn là vâng theo lệnh của Bà mà đi tìm cho ra suối nước... Không còn cách nào khác.

   Ông già Sajous hít một hơi thuốc ống điếu, rồi với một giọng khàn khàn:

   - Suối nước? Và bởi không có suối nước nào hết, như vậy là Bà nói dối!

   Anh thợ giày Barringue lý luận:

   -Trong vùng núi này, suối nước thì trên cao chảy xuống, chứ có bao giờ dưới đất chảy lên. Trẻ con đứa nào lại không biết như vậy!

   Câu chuyện Suối Nước không làm cho Bernadette băn khoăn chút nào. Với những câu trả lời rất chân thật, căn cứ vào sức mạnh của Tình yêu, em nói đến Bà như một người thật, và những điều Bà yêu cầu chẳng có gì là lạ thường và vô lý chút nào. Cho nên phải thực hiện cho kỳ được những điều Bà ước muốn, cho dù không dễ dàng đi nữa. Trong lúc nói chuyện, mặt em xem ra tươi mát hơn cách đây 15 ngày.

   Một người từ sáng tới giờ chưa nói một tiếng nào, chính là ông thân sinh của em. Vốn là người có tính do dự, luôn luôn tùy thuộc vào những nhận xét của kẻ khác, thế mà giờ đây, ông dám có hành động không ai ngờ được.

   Ông vái chào mọi người, rồi dõng dạc tuyên bố:

   - Tôi là một kẻ nghèo, xấu số, và như thế xem ra chưa đủ. Thượng đế lại gửi cho tôi thêm một thử thách gian nan này nữa. Tôi không biết điều gì đã xảy ra cho đứa con gái của tôi. Tôi không biết nó có mất trí không, nhưng tôi chắc chắn một điều là nó thành thật, không nói dối, không có ý định lường gạt ai. Vậy phải làm sao đây. Phải tiếp tục sống! Vậy tôi xin quý ông quý bà hãy vui lòng ra về, vì trong phòng này chật hẹp, thiếu không khí. Và đừng bao giờ trở lại đây nữa để chúng tôi yên mà sống!

   Lời nói chân thành vừa biểu lộ một nỗi niềm đau khổ chịu đựng, vừa thật thà chất phát làm cho ai nấy ra về, mà không chút phật lòng. Chỉ còn lại một người. Đó là Louis Bouriette, người làm việc với François,nên ông nhờ anh ta nói với Cazenave là mình bị bệnh, nên phải nghỉ việc một ngày...

Chương 9 : Mạch nước thiêng xuất hiện

Thiên Chúa thường dùng những kẻ có tâm hồn bé mọn để biểu lộ hành động lớn lao của Người. Bouriette là một phu sửa đường, không hoàn toàn bị mù con mắt bên phải. Nếu hoàn toàn bị mù, có lẽ anh ít băn khoăn thắc mắc hơn về bệnh tình của mình. Con mắt bên phải luôn luôn nhức nhối, ngứa ngáy. Giữa con mắt, có một áng mây mờ, màu xám đục, làm trở ngại cho con mắt bên trái nữa. Tật nguyền này đã trở thành nhược điểm của đời anh. Nó làm cho anh biết thương hại kẻ khác, và nhất là thương hại chính mình. Anh luôn nói : « Người ta có thể đòi hỏi, trông chờ gì nơi một kẻ đui mù? » Đó là một trong những từ ngữ anh quen dùng.  

   Anh là người cuối cùng ra khỏi nhà Bernadette. Trên đường đi đến Cazenave, chỗ làm việc, anh bỗng nảy ra một ý tưởng rất lạ lùng, gần như một niềm tin sắt đá. Anh bèn trở về nhà. Gặp đứa con gái 6 tuổi đang ngồi trước cửa, anh bảo nó:

   - Này nghe đây! Con có biết Massabielle không, nơi Bernadette nói có thấy một bà hiện ra đó?

   - Ồ thưa ba, con có đến đó hai lần với cô ta rồi.

   - Tốt lắm.Con hãy nói với mẹ đưa cho con một cái bao tay nhỏ. Rồi con đến Massabielle mang về cho ba một ít đất ướt mà Bernadette đào lên ở góc phải hang đá. Con nghe rõ chưa? Rồi mang đến cho ba ở sở Cazenave, ba làm việc nơi đó.

   Nửa giờ sau, anh vào ẩn núp trong chuồng ngưạ tối tăm nhất của Cazenave, với cái bao tay nhúng bùn. Anh ngồi trên một đống rơm, lưng dựa vào tường, lấy tay áp vải ướt vào con mắt bên phải. Nước bùn bắt đầu chảy xuống mặt. Anh tin chắc là hiệu quả chỉ phát hiện sau một thời gian dài, nên cứ ngồi lì trong đó và áp đất bùn vào con mắt phải. Một lúc sau, anh bước ra, nhưng vội vàng lùi lại, vì ánh sáng đập mạnh vào mắt. Anh bèn nhắm con mắt bên trái lại, con mắt ấy còn tốt. Anh nhìn bằng con mắt bên phải. Anh nhận thấy cái áng mây đục màu xám từ trước, nay đổi thành một lớp sương đục màu sữa,và có những tia sáng. Qua lớp sương lấp lánh đó, anh có thể phân biệt được những đồ vật chung quanh.

   Kích thích đến cực độ, không phải vì con mắt, nhưng vì sự phát giác của mình, anh vội băng qua công trường Marcadale,và chạy bay đến phòng mạch bác sĩ Douzous. Lúc ấy đang giờ khám bệnh, nên phòng chờ đợi đầy các bệnh nhân. Anh chạy xông vào. Bác sĩ bực tức:

   - Chuyện gì thế ? Hãy ra ngoài chờ đợi đến phiên mình.

   - Tôi không thể chờ đợi được, thưa bác sĩ. Bất thình lình tôi nhìn thấy với con mắt bên phải. Tôi đã đắp bùn ướt của hang đá... Đây là một phép lạ hiển nhiên rồi !

   - Các anh thì người nào cũng vội tuyên bố là phép lạ.

   Nói xong, bác sĩ khám nghiệm con mắt của Bouriette.

   - Có bốn cái sẹo trên giác mạc của con mắt bên phải. Con ngươi được bóc ra một phần. Dù sao anh cũng trông thấy một chút với mắt này. Lúc thì khá hơn, lúc thì không rõ lắm, phải không?

   -Thưa vâng,lúc thì rõ lúc thì không, anh nhắc lại lời bác sĩ, vì kẻ đau mắt thường không thể tin chắc chắn về tình trạng con mắt của mình.

   - Và hôm nay thì anh trông thấy rõ hơn trước phải không?

   - Ồ, nhiều hơn lắm. Giống như có một quãng trống làm tôi trông thấy được hết.

   - Một quãng trống? Không phải hoàn toàn là thị giác, là nhãn quang đâu,ông bạn ơi! Anh đã ấn mạnh trên con ngươi hàng giờ, và làm kích thích gân của mắt. Thế thôi.

   Nói xong, bác sĩ mở cửa ra và nói: « Ngày mai anh hãy trở lại đây, lúc anh bình tĩnh hơn. »

   Bouriette ra khỏi phòng, vui sướng cuồng nhiệt: « Dù sao đó cũng là một phép lạ ! »

   Màng trong con mắt của anh đã trở nên áng mây sáng. Anh có thể nhìn và phân biệt các đồ vật chung quanh. Anh tin chắc chính là đất ướt của hang Massabielle đã làm nên phép lạ này. Chắc chắn rồi còn gì nữa! Anh sẽ không trở lại bác sĩ Douzous nữa, vì bác sĩ sẽ làm cho anh mất tin tưởng vào phép lạ. Và có thể ngăn cản không cho phép lạ hoàn thành. Anh quyết tâm tiếp tục dùng đất ướt của hang đá. Một vài người nghe kể laị việc được lành mắt đã chế riễu và nhạo báng anh. Nhưng toàn thể Nghiệp đoàn công nhân làm đường đã biểu lộ một sự đoàn kết lớn lao. Khi một người được phép lạ, thì mọi người cũng được chia sẻ sự may mắn và thành công đó. Các bạn cũ của anh cảm thấy hãnh diện lúc nghe anh kể lại chuyện may mắn của mình.

   Vào khoảng ba giờ chiều, anh ta lại đến Hang đá để lấy ít đất bùn nữa. Lúc đến hang đá, anh trông thấy một nhóm các bà nhà quê đang cúi xuống nhìn một giòng nước nhỏ, chảy từ nơi mà Bernadette đã đào. Giòng nước đó chảy xuyên qua lớp cát cho đến con sông nhỏ Savy. Nó không lớn hơn một cái rãnh,nhưng chảy mau, hình như luồng nước rất liên tục.

   - Cái gì đó các bà?

   - Chúng tôi đã lần hạt thì thình lình nước bắt đầu chảy. Trước kia chẳng có gì hết.

   - Chúa ơi! Xem nó có vẻ là một cái lạch nước nhỏ.

   Bà già Omex kêu lên, đôi mắt rực rỡ: Đức Trinh nữ đã nói với Bernadette: « Hãy đi đến suối nước,uống và rửa. » Đây chính là suối nước, còn nghi ngờ gì nữa !

   Bouriette thét lớn: « Nom de Dieu ! Quả thật! Quả thật! Giòng nứơc này đâu có phải chảy từ một cái giếng đâu! » Ông bèn chạy báo tin mừng cho Nicolau, một chủ cối xay bột. Thông thường một chủ cối xay rành nghề, phải biết ba điều: bột mì, con ngưạ và con nước. Lúc cần thì cũng phải biết đắp bờ, ngăn chặn một con lạch. Nicolau vội chạy đến, cúi xuống nhìn cái rãnh, với đôi mắt nhà nghề,thông thạo. Ông liền nhúng tay xuống nước, lấy một ngón tìm kiếm chỗ nước phát xuất và giải thích: « Lúc Bernadette nói một điều gì, thì phải có một lý do... Đây rồi! Tôi tìm thấy một mạch nước phát xuất từ lớp đá. »

   Một bà cụ vội kêu lên:

   - Như vậy là Đức Trinh Nữ đã làm một phép lạ!

   Nicolau với giọng sành nghề, cắt nghĩa:

   - Không phải dễ dàng chận bắt một mạch nước đâu!Vì thông thừơng có nhiều mạch từ khe đá phun ra, và phải quy tụ chúng lại. Có khi vô tình làm nó tắt nghẽn, và sẽ không bao giờ tìm nó lại được nữa. Nicolau và Bouriette bèn thảo luận với nhau.Họ đồng ý là phải nhờ các công nhân làm đường và các phu đập đá gần đó là những bạn đồng nghiệp cũ. Khi được hỏi đến, mọi công nhân đều sẵn sàng tham dự vào công việc để cảm tạ Đức Trinh nữ. Ngay buổi chiều đó, sau khi công việc xong, họ đến Massabielle và bắt đầu sửa chữa con đường mòn, dốc đứng, chạy dọc theo hang đá rất nguy hiểm, và làm một tay vịn.

   Trước khi trời tối hẳn, Nicolau mang mấy bó đuốc từ nhà tới.Dưới ánh sáng chập chờn, anh bắt đầu một công viêc hết sức tỉ mỉ. Kết quả là anh đã thành công ngoài mọi mong ước. Sau khi lấy ngón tay dò theo mạch nước sâu xuống chân đá, bỗng nhiên một tia nước lớn rất mạnh, phun vọt lên. Cái hố sâu bỗng chốc ngập đầy nước đến miệng.Các người thợ bèn lấy đá gần bờ sông, đắp chung quanh thành một cái bể cạn tròn, rồi lấy ximăng trét lại. Họ cũng lấy đá lát đáy hồ, chỉ để lại mạch nước mà Nicolau đã tìm ra được.

   Và kìa! nước từ dưới tuôn lên đến nỗi chảy tràn ra ngoài. Mọi người đều múc nước để giải khát. Đó là một thứ nước suối trong, chẳng có hương vị gì khác thường.  Để khai thông cho luồng nước chảy mạnh, hai người còn về nhà mang đến những ống dẫn nước bằng gỗ,mà tất cả các chủ cối xay đều có, để làm cho suối nước chảy dễ dàng hơn. Sau đó, hai người chạy đến báo tin mừng cho Bernadette.  

   Việc phát hiện ra suối nước tại Massabielle không phải chỉ là sự thành công rực rỡ cho Bernadette, mà còn là một sự chiến thắng quyết liệt của toàn thể dân chúng miền Bigorre, đối với Hoàng-đế và Giáo-hội. Chẳng những ban ngày mà cả ban đêm nữa, đoàn người rất đông, nối đuôi nhau đến hang đá, tay cầm đuốc hay nến, để làm tròn ước nguyền của Bà đã yêu cầu có những đám rước tại đây.

   Mọi người đều nói đến phép lạ, mặc dầu các thần học- gia không nhìn nhận việc một suối nước đột nhiên phun lên là một phép lạ.Trái lại, hôm Thứ năm vừa rồi, nhiều người xem Bernadette là một con bé điên, thì nay họ nhiệt thành và phấn khởi khen ngợi. Ví như cô Peyret,ngày nào cũng đến trước nhà Bernadette, vào lúc 6 giờ sáng và quỳ ngoài đường. Cô muốn bày tỏ và xác nhận lòng ái mộ của bà chủ Millet đối với Bernadette. Còn bà Piguno thì hạ mình một cách quá mức,là van nài,năn nỉ bà Louise cho phép con gái ban phép lành cho tràng hạt của bà.

   Còn Jeanne Abadie, bạn đồng lớp, thì kiếm cách để hôn tay Bernadette mà không được. Còn dân chúng và cái đám dân nghèo ở vùng núi Pyrénées suốt đời sống trong khổ cực thì sao? Họ cảm thấy như được đưa vào trong một thế giới siêu phàm,mà trước kia chỉ có trong thời Trung-cổ mà thôi. Thực vậy, người dân miền Pyrénées sống trong cảnh nghèo khó quá mức. Họ ở trong những túp lều lụp xụp... Một đồng tiền 20 xu họ xem như là một kho tàng, và chút nỉ mỏng để may thành một cái mũ trùm đầu luôn ám ảnh tâm trí.

   Bernadette đã thành công đối với đám dân nghèo đó, nhờ sự trợ giúp của những quyền lực siêu nhiên hơn là việc phát hiện ra một mạch nước. Qua Bernadette, họ cảm thấy có một sự gần gũi,khăng khít với thế giới cao siêu và có một cảm giác thanh thản tuyệt vời từ trời cao ban xuống. Nỗi thống khổ không còn là một tảng đá mà con người lao động đeo vào cổ, từ lúc sinh ra cho đến lúc qua đời.

   Tất cả những buổi sáng Bà hiện ra để chứng tỏ rằng ngoài sự thực phủ phàng của trần gian, còn có những chân lý cao siêu, cuộc đời tốt đẹp bên kia thế giới. Con người không phải chỉ biết đầu tắt mặt tối, vất vả khó nhọc suốt ngày, để có được miếng cơm ăn. Mỗi con tim đều tràn ngập một ước vọng duy nhất: Ngày mai ! Ngày mai ! tại hang đá, sẽ xảy ra nhiều điêù mới lạ tốt đẹp hơn nữa!

Chương 10 : Ngày thứ năm trọng đại

Hôm nay là ngày THỨ NĂM 25 tháng Ba, một ngày Thứ năm rất quan trọng vì là ngày cuối cùng trong vòng 15 ngày Bà hiện ra với Bernadette. Ông Phó Đô-trưởng, đến Lộ Đức một cách đặc biệt, để chuẩn bị việc bố trí cuối cùng. Nhà chức trách hết sức lo lắng, bận tâm. Làn sóng người đến hang đá sẽ tăng gấp đôi, gấp ba, sau khi một em bé mới hai tuổi, tên là Bouhorts, sắp chết vì bệnh kinh phong, được cải tử hoàn sinh, nhờ suối nước.

   Ngay từ đêm Thứ tư, công an, cảnh sát các vùng lân cận như Bigorre, Pierrefite, Eaux-Bonnes, Bagnères... cấp báo về Bộ Chỉ-huy Trung-ương là toàn thể dân trong miền đã lên đường về Lộ Đức hành hương. Trong tình hình khẩn trương như thế, việc giữ gìn an ninh trật tự sẽ trở thành vấn đề lớn lao. Vị chỉ-huy đồn lính của Lộ Đức ra lệnh cho quân đội phải cắm trại 24 gìờ/ 24, và sẵn sàng can thiệp, nếu có những biến cố quan trọng. Báo chí tại thủ đô Paris đợi chờ, trong những lần hiện ra sắp tới, những sự bất ngờ hết sức điên cuồng và lố lăng. Họ cho rằng một âm mưu đã sẵn sàng, chưa bao giờ táo bạo đến thế, kể từ đời La-mã cổ sơ, trong các ngôi đền của các thấy tế-lễ Isis... Một vở kịch vô tiền khoáng hậu đã được soạn sẵn cho ngày THỨ NĂM phi thường sắp đến.

   Người ta sẽ cho dân quê ngu dốt các miền núi thấy những phép lạ nhân tạo, do những tay phù thủy bày ra. Một máy phát điện phóng ra những tia lửa ăn nhịp với một Cây đèn thần, dấu kín một cách khéo léo, làm cho việc hiện ra được mọi người trông thấy, đặc biệt cho đám đông ngu ngốc mà ngày nào cũng đi theo con bé. Chính những mánh khóe thô bạo này đã chứng tỏ sự bất lực của các viên chức tại Lộ Đức. Ông Bộ-trưởng Tư-pháp lo ngại trước các tin tức báo chí, cấp tốc truyền lệnh: « phải tịch thâu kịp thời những dụng cụ kỷ thuật của phép lạ nhân tạo.  »

   Tờ báo Amsterdam Courant thì cho rằng: con bé là một phát minh mới mẻ và độc đáo để tuyên truyền cho tổ chức truyền giáo. Nó không phải là một con bé nhà quê, nhưng là một dân thị-thành rất táo tợn, và giỏi xoay xở. Nó thuộc giai cấp hạ lưu, xuất thân từ cặn bã của xã hội là nơi đầy dẫy các tội ác phản luân lý và đạo đức. Ông Đô trưởng ban hành một mệnh lệnh mới: hang đá phải được phong tỏa, xem xét kỹ lưỡng, lục soát tỉ mỉ, ngày lẫn đêm, do Cảnh sát và các nhân viên tòa Đô-chánh.

   Kể từ 12 giờ khuya Thứ tư, rạng ngày Thứ năm, dân chúng các đồng quê bắt đầu tuôn đến hang đá. Trời lạnh khủng khiếp. Các nông dân phải cắm lều trại nhiều giờ giữa cảnh núi rừng rét mướt, đã lượm củi khô và đốt thành những bếp lửa lớn. Chẳng bao lâu khắp thung lũng rộng lớn bao quanh núi Espéluges và hai bên bờ sông Gave, đều có ánh lửa rải rác, giống như một đạo quân đóng ngoài trời. Riêng hang đá thì tối đen. Theo lệnh của Đô -trưởng, cảnh sát đã tịch thâu hết những cây nến mà dân chúng thắp sáng ngày đêm trong hang. Ông Jacomet cũng tịch thâu bàn thờ với ảnh tượng cùng lễ vật, mà bà Millet đặt trước hang. Những ánh sáng duy nhất còn lại là những đèn bảo của hiến binh đang canh phòng cẩn mât để đừng có một kẻ nào mang máy móc, hay lồng đèn vào hang.

   Hôm nay cũng như Thứ năm trước, dân chúng trông chờ phép lạ và những sự phi thường. Một vài người còn ước mong rằng trong ngày trọng đại này, Bà sẽ hiện ra một cách huy hoàng, lộng lẫy với toàn thể dân chúng.Mọi người có thể nhìn ngắm Bà trong niềm hoan hỉ cho thế hệ hiện nay, và như là một dấu chỉ cho muôn đời bất diệt cho những thế hệ mai sau. Những người khác, trái lại, nghĩ rằng hôm nay chính là ngày giã-từ và nếu không có gì vĩ đại phi thường xảy ra, thì ít nhất người ta cũng sẽ thấy, như là món quà vĩnh biệt của Bà, cây bông hồng dại nở hoa.

   Lúc những tia ánh sáng mặt trời rạng đông ló dạng, vào lúc năm giờ sáng, thì ông Jacomet đếm được từ bảy đến tám ngàn người. Đến sáu giờ, con số tăng lên đến hơn hai mươi ngàn người. Khắp nơi tràn ngập người, ăn mặc đủ màu sắc. Họ đến từ các ấp vùng Pyrénées. Đó là những dân miền núi, những kẻ chăn cừu, quấn người bằng những áo lá không có tay, màu đen. Họ rất già yếu, tay chống gậy, vừa đi vừa run rẩy.Những cô gái từ vùng Provence đến, thì yên lặng và nghiêm trang như những trinh nữ thời La mã. Nhiều cô đội trên đầu những cái vò bằng đất nung, để múc nước suối đã được giáng phúc ở Massabielle.

   Và đây là những người làm ruộng của miền Bigorre, đầu tròn và dáng đi nặng nề. Các nông dân từ Bearn, hình dáng nhanh nhẹn và đầy sức sống. Đây là dân Basque đứng yên lặng, nét mặt nghiêm nghị, cằm đưa lên cao, đôi mắt nhìn thẳng không chút cử động; còn dân Tây-ban-nha cũng băng qua biên giới, đi thành từng nhóm, mình quấn trong các áo choàng bằng loại len màu xanh. Một số người đi ngựa, hay bằng xe. Họ cho ngựa đi theo dọc bờ sông Gave, để được gần hang đá hơn. Có những kẻ trèo lên cây, lên các mỏm đá, với hy vọng trông thấy rõ hơn.

   Lúc Bernadette đến, những tràng pháo tay vang dậy như sấm.Chỉ có thể so sánh với những hoan hô của dân chúng đón mừng Hoàng-đé thắng trân trở về. Đi hai bên cô bé là các đội Hiến binh, do Đội trưởng Anglas chỉ huy. Viên cảnh sát trưởng cảm thấy hổ thẹn, khi thấy lực lượng cảnh sát và hiến binh trở thành hàng rào danh dự cho một con bé quê mùa. Và còn bé quê mùa ấy lại càng « quê » hơn nữa khi không lấy làm hãnh diện về danh tiếng của mình.

   Thấy em đi ngang qua, nhiều kẻ kêu lên: Ôi! Người được đầy ơn phước! Rồi họ quỳ xuống dưới chân em, lấy tay sờ vào đôi guốc, tìm cách nắm lấy đuôi áo choàng đã bạc màu của em. Nhưng quả tim của em, quá xao xuyến với bao mối lo âu, để dành một chỗ cho các xúc cảm khác.

   Có phải ngày THỨ NĂM hôm nay là buổi gặp gỡ cuối cùng?Phải chăng ngay từ hôm nay, ân sủng của tình yêu sẽ chấm dứt ?

   Em đến trước hang cùng với một ít người mà cảnh sát cho phép đến gần. Đó là người trong gia đình, những viên chức chính phủ, như Bác sĩ Douzous, ông Giám đốc thuế vụ Estrade... Độ mười lăm người. Còn những người khác thì bị đẩy ra ngoài. Em bắt đầu quỳ xuống, lấy xâu chuỗi ra lần hạt. Tức thì hai mươi ngàn người có mặt đều làm theo. Các hiến binh, ban đầu do dự, cũng kẻ trước người sau, từ từ quỳ xuống. Em chào Bà, rồi mỉm cười và làm dấu thánh giá. Nhưng không có điều gì phi thường xảy ra để đáp lại sự mong đợi của đám đông. 

   Sau nửa tiếng đồng hồ,mọi sự chấm dứt. Tất cả đã xong. Hai mươi ngàn người vỗ tay như sấm nổ. Em đứng lên, vẻ mặt sáng chói vì sung sướng hạnh phúc. Bà mẹ, bà Dì, bà Millet, cô Peyret, Jeanne Abadie đến vây quanh và hỏi dồn dập:

   - Bà nói gì không? Đây là lần hiện ra sau hết?

   Em trả lời qua loa cho yên chuyện:

   - Ồ, Bà sẽ trở lại. Nhưng em không đến hang đá nữa.

   - Thế thì khi nào em phải trở lại hang đá?

   - Lúc nào thì Bà sẽ cho em biết.

   Niềm vui cực lạc của em thực là hoàn toàn, viên-mãn. Trên đường về nhà, em vẫn được toán hiến binh bảo vệ.Nếu không, sẽ bị đám dân quê miền Bigorre đến bao vây, vì quá mộ mến. Người nào cũng muốn ôm lấy cô bé vào lòng. Công viên Marcadale và những con đường nhỏ hẹp của Lộ Đức bị đám đông tràn ngập, trong niềm vui sướng của một ngày hội, do hai mươi ngàn người mang lại.Thức ăn thức uống thiếu hụt. Cazenave nắm giữ các phương tiện chuyên chở, đã gởi một xe chở hàng đến Tarbes để mua thêm mấy thùng rượu vang và các thực phẩm khác.

   Trước các tiệm ăn, các quán cà phê, những người vừa đói, vừa khát, đứng nối đuôi dài. Về đến nhà, không làm sao chen chân vào lọt. Một căn phòng quá nhỏ hẹp cho một số người quá đông. Nhưng chính tại căn nhà nhỏ hẹp này, đã diễn ra một sự kiện lớn lao nhất của Ngày THỨ NĂM hôm nay.Còn riêng Bernadette thì em chẳng có gì là quan trọng cho lắm. Bà mẹ của Nicolau hỏi em:

   - Bà không bao giờ cho con biết tên của Bà sao?

   - Có chứ. Con có hỏi Bà đến ba lần, nhưng lần nào Bà cũng chỉ có cười. Rồi con lấy hết can đảm hỏi lần thứ tư: Thưa Bà, xin Bà vui lòng cho con biết tên Bà?

   Bấy giờ, Bà không cười nữa. Bà đưa xâu chuỗi qua tay phải, hai tay trước kia chắp lại, nay thả xuống. Rồi Bà chắp tay lại trước ngực, ngước mắt lên trời. Với một giọng đầy nghiêm trang, khiêm tốn, Bà nói:

   QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU

    (Ta là Vô Nhiễm Nguyên Tội)

   Bà mẹ của Nicolau, kinh ngạc, vội vàng rút lui, ra khỏi phòng không ai hay biết. Trên đường hối hả về nhà, bà gặp cô bạn Germaine đang loay hoay giặt áo. Cô này vội vàng chạy đến kể chuyện cho người bạn Joséphine đang đập bụi tấm nệm. Cô này bỏ ngay công việc, chạy bay đến kể chuyện cho Rosalie, bồi phòng của bà Baup, một mệnh phụ phu-nhân của giới thượng lưu trong tỉnh. Bà này vội chạy đến nhà bà Millet, vừa lúc bà này từ nhà Bernadette trở về. Hai bà thảo luận với nhau,và quyết định đi gặp cha Pomian.

   Nghe xong, ngài ý thức tầm quan trọng của vấn đề và trách nhiệm của mình, nên vội vàng đến trình cha Peyramale. Lúc ấy mới 5 giờ chiều,nhưng hoàng hôn ảm đạm bao trùm cảnh vật rất sớm về mùa Đông ở Pháp. Trong phòng làm việc của cha sở, đèn đã thắp sáng.Ngài đi qua đi lại, xem có vẻ thư thái, trong khi cha phó đang ngồi bên lò sưởi ấm áp. Cha sở nói chậm rãi, giọng thâm trầm:

   - Thưa cha phó, một vài phút nữa, con bé Bernadette sẽ đến đây. Xin cha vui lòng ở lại cho đến lúc tôi ra dấu để cha rút lui.

   Bernadette chưa bao giờ đè nén được cơn sợ hãi khi phải gặp cha sở. Đôi tay em lạnh cóng, toàn thân em run rẩy khi người ta đưa em vào phòng ngài. Nhưng khi thấy có cha Pomian ngồi đó, thì tim của em bớt đập mạnh. Thấy cô bé có phần sợ hãi, cha sở lấy giọng dịu dàng, âu yếm nói:

   - Đến đây con. Đến gần lò sưởi cho ấm. Con có muốn cha bảo người ta đem đồ ăn thức uống cho con không?

   - Dạ thưa không.Cám ơn cha.

   - Con hãy ngồi xuống ghế này cho thoải mái. Cha và cha phó đây có một vài điều muốn hỏi con. Con có muốn trả lời một cách thành thật không?

   - Thưa cha, con xin vâng.

   Cha sở kéo ghế ngồi cạnh Bernadette đang ngồi yên bên lò sưởi. Ngài quan sát cô bé rất kỹ, như bác sĩ khám xét một bệnh nhân. Rồi cố làm ra vẻ thản nhiên, như chẳng có gì quan trọng, ngài hỏi:

   - Hôm nay Bà đã nói gì với con tại hang Massabielle?

   - Thưa cha sở, Bà đã nói với con: « Que soy era Immaculada Counceptiou. »

   - Con có biết là gì không? Cha sở sững sốt hỏi.

   - Dạ con không hiểu gì.

   - Đó là: Ta là Vô Nhiễm Nguyên Tội.

   Cha sở quay qua cha phó:

   - Thế thì trong giờ Giáo lý, cha có đề cập đến tín điều Vô Nhiễm không?

   - Thưa cha sở, tôi tin chắc là không. Vì tín điều này quá cao vời cho một lớp Giáo lý vỡ lòng.

   - Hay là Nữ tu Vauzous, cô giáo của nó, có đề cập đến?

   - Không thể được.

   Rồi quay qua Bernadette, ngài giải thích:

   - Con có hiểu tín điều Đức mẹ Vô Nhiễm là ngay từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, Maria đã được đặc ân là khỏi tội nguyên thủy mà loài người ai cũng mắc phải ?

   - Con làm sao hiểu được những điều như thế.

   Thế rồi, cha sở ra hiệu cho cha phó. Trong phòng giờ đây, chỉ còn cha sở, nên làm cho em sợ hãi.

   Cha sở nhìn Bernadette hồi lâu rồi nói một cách nghiêm trọng:

   - Con có biết là vài tuần nữa, con sẽ chịu lễ lần đầu, nên cha khuyên con đừng nói dối nữa, mà hãy nói sự thật đi. Hay là chính bà Millet, bà Baup đã rỉ tai con về Đức Mẹ Vô nhiễm để làm cho con được hãnh diện với mọi người ?

   - Thưa cha, không một ai rỉ tai con về chuyện gì hết.

   Rồi như để cho tâm tư ngài bớt căng thẳng, ngài nói qua chuyện khác:

   - Này con ơi! con có nghĩ đến cuộc đời tương lai của con sau này không? Con có muốn lập gia đình không? Con có thể kết hôn với một anh chủ cối xay, rồi sinh con cái như bà mẹ của con...

   Bernadette im lặng, không đáp lời ngài. Vì trong thâm tâm, em đã biết là sẽ không chọn con đường như phần đông bạn gái của mình. Tuy chưa có gì rõ ràng, nhưng em cảm thấy đời sống tận hiến cho Chúa sẽ là con đường em đi sau này.

   Thấy em ngồi yên lặng, cha sở đứng dậy nói như bực tức để được câu trả lời chân thành chăng:

   - Con lừa dối cha sở đó. Thực sự là con không hiểu lời nói kia sao?

   Bernadette thành thật lắc đầu.

   - Nếu con không hiểu nghĩa lời Bà nói, làm sao con nói lại được?

   - Dạ,thì con vừa chạy tới đây, vừa lặp đi lặp lại lời con đã nghe, kẻo sợ quên.

   Cha sở thấy không còn biết nói làm sao trước thái độ đơn sơ thật thà, nhưng cương quyết của cô bé nữa.Ngài nói lớn tiếng như để vớt vát thể diện:

   - Thôi về đi. Ngày khác, cha sẽ kêu. Thực con đang đùa với lửa!

   Mấy hôm sau, cha sở được Đức cha Laurence, GM địa phận Tarbes, mời đến dùng cơm. Ngoài ra, còn có hai vị linh mục khác nữa: một vị cố vấn của Tòa Giám mục và một linh mục trẻ tuổi, Bí thư của Đức cha. Sau khi ăn cơm xong, hai vị này, xin phép ra về, để Đức cha có giờ bàn chuyện riêng với cha Peyramale. Đây là một ưu ái Đức cha dành cho cha sở Lộ Đức.

   Cha Peyramale đã gần 50 tuổi, tính tình bộc trực, lúc gặp chuyện gì không vừa ý, thì ngài nói thẳng, không chút kiêng dè. Ngài chẳng bao giờ sợ sệt, vị nể ai hết. Chính con ngừơi thích tranh luận ấy lại làm cho Đức cha vừa ý. Vì chung quanh Đức cha, toàn những người tu-hành kính cẩn và trang nghiêm, thường giữ tinh thần vâng phục hơn, cho nên Đức cha muốn thấy một người « dám ăn dám nói » như cha sở Lộ Đức trong hàng giáo sĩ của mình.

   Bữa cơm trưa vừa xong, người giúp việc mở rộng cửa phòng khách.Chủ và khách bước vào...

   Sau khi dạo xem qua vài bức tranh treo trên tường, Đức cha dành cho cha sở một trọng vọng ưu đãi thứ hai nữa. Ngài yêu cầu người giúp việc đem lên hai cốc cà phê nóng vào phòng của ngài. Chính nơi đây, ngài làm việc và ngủ đêm. Đây là một phòng cỡ trung bình, gồm có một cái giường bằng sắt, một ghế quỳ, một cái bảng và vài chiếc ghế. Trên tường, một thánh giá và một ảnh Đức Mẹ đã cũ. Ngài không muốn thay đổi gì hết trong nếp sống của ngài, cho dù nay ngài là một giám mục.Trước kia nghèo, nay ngài vẫn nghèo...

   Đức cha bắt đầu vào câu chuyện:

   -Thưa cha sở, những biến cố tại hang đá mà cha đã trình bày cho tôi lúc ăn cơm trưa, càng làm cho tôi thêm xác tín là thái độ của chúng ta bấy lâu là đứng đắn.Ông Đô trưởng không bao giờ có thể tin tưởng được là những hàng rào bằng gỗ họ cho đóng vây quanh hang đá, đã bị dân chúng tháo gỡ mỗi ngày. Tôi thành thật cám ơn cha. Nhưng trước hết, tôi có một câu hỏi: Bernadette là ai?

   -Thưa Đức cha, phải thú nhận rằng lúc đầu con cho nó là một con bé giả vờ, và sau đó có lúc con xem nó có vẻ như một đứa điên khùng. Sau cùng, có lẽ con phải thú nhận nó là một đứa trẻ được thị kiến. Con bé không bao giờ để cho ta hững hờ, lãnh đạm. Không biết có cái gì trong đứa bé ấy. Đó là một con bé rất tầm thường, một khuôn mặt quê mùa như phần đông dân chúng trong xóm.Điều này lại làm cho ta thêm khó hiểu, bực bội, khi nghĩ rằng một con bé không ra gì, lại làm cho cả nước Pháp căng thẳng đến hụt hơi, với những cử chỉ và sự việc của nó. Rồi bỗng nhiên, một câu trả lời của nó, với một giọng hết sức thản nhiên, làm cho ta nhiều khi thức suốt đêm suy nghĩ.

   Thưa Đức cha, con bé thành thật một cách rất lạ lùng, kỳ dị. Nó có một lối lý luận riêng của nó, đến nỗi không phải những câu hỏi của con làm cho nó lúng túng, mà chính những câu trả lời của nó làm cho con phân-vân và bối-rối.

   Con đến đây để xin Đức cha chỉ giáo. Con không thể làm gì được để soi sáng hay làm dịu bớt lòng căm phẩn của con chiên bổn đạo, chống lại những cản trở và ngăn cấm của nhân viên công lực và của chính quyền địa phương. Xin Đức cha hãy nghĩ đến suối nước « nhiệm mầu » đến em bé Bouhorts được « cải tử hoàn sinh. » Vừa mới hôm qua, tin đồn khắp nơi về suối nước kỳ diệu đã làm cho một người như mù được sáng mắt. Những « phép lạ » liên tiếp không thể chối cãi được đã nối đuôi nhau xảy ra.

   Đức cha vội cắt ngang:

   - Xin Cha sở đừng vội vã. Cha thừa biết là không phải thuộc quyền của tôi hay của cha để phổ biến quan niệm hết sức khó khăn đó. Chỉ có thẩm quyền của Giáo hội mới quyết định việc nào là « phép lạ », việc nào không.

   - Thưa Đức cha, điều đó rất đúng.Nhưng Giáo hội muốn ban hành quyết định phải nắm trong tay những dữ kiện cần thiết do vị Giám mục địa phận trình lên. Hôm nay với tất cả khiêm tốn, con đến trình Đức cha hãy lên tiếng vì tình hình đã căng thẳng giữa cảnh sát và dân chúng rồi đó. Nhóm « cực đoan » của bà Millet đã cư xử một cách nóng nảy, và nhóm vô tín ngưỡng đã lợi dụng thời cơ tuyên truyền xuyên tạc.

   Sự im lặng của Giaó hội là một sự nguy hiểm cho giáo dân, cũng như cho chính quyền. Những hiện tượng xảy ra ở hang đá,một là những « phép lạ », hai là chỉ những giả dối! Cả hai đều đòi hỏi Giáo hội lên tiếng công nhận hay phủ nhận. Vị Giám mục địa phận phải quyết định dứt khoát. Vì những lý do đó, con mạn phép xin Đức cha triệu tập một ỦY BAN ĐIỀU TRA của Tòa Giám Mục để làm sáng tỏ dư luận. »

   Đức cha chống gậy đứng lên, rồi đến gần bàn giấy, lấy trong ngăn kéo ra một xấp giấy đặt lên bàn:

   - Tất cả là đây này! Đây là ỦY BAN ĐIỀU TRA CỦA TÒA GIÁM MỤC với những chi tiết đã soạn thảo.

   Cha sở mừng rỡ, vội vàng đứng lên:

   - Bao giờ thì Đức cha ra lệnh khởi sự điều tra?

   - Không bao giờ hết! Đức cha nói với một giọng chua chát,và ra dấu cho cha sở ngồi xuống.

   Rồi đến gần cửa sổ, nhìn ra quãng trời xa xôi, ngài nói:

   - Tôi nghĩ rằng nếu tôi ra lệnh cho Ủy Ban điều tra bắt đầu, tức là tôi đã gián tiếp công nhận có những diễn biến siêu nhiên. Điều này tôi chưa thể làm được. Hoặc nếu tôi có thể làm, thì chỉ khi nào không còn phương cách tự nhiên nào để giải thích. Nếu tôi hành động quá sớm,hay hấp-tấp, tôi có thể sẽ lôi kéo,không những con chiên bổn đạo, mà cả giáo phận vào vực thẳm của chê cười, nhạo báng. Hai ba người được lành bệnh, có nghĩa lý gì đâu. Và có tầm quan trọng đến đâu để mở cuộc điều tra? Nhất là bản chất thực sự của việc lành bệnh chưa được một đoàn Y-sĩ quốc tế nào kiểm tra và xác nhận. Nó chưa chứng minh được gì hết!

   Cha hãy nghĩ đến thời đại chúng ta là thời đại ưa chỉ trích, phê phán của khoa học thực nghiệm rất phát triển. Các giới này sẽ đánh giá thế nào về một Giám mục chỉ biết nhắm mắt tin tưởng vào một con bé ngu dốt, hoặc chạy theo các bà già thích bịa chuyện, phao đồn về suối nước kỳ diệu. Thế rồi, ra lệnh xúc tiến Ủy ban điều tra phép lạ, để rồi, nếu sau cùng phát giác ra một trò ảo thuật, bịp bợm thì sự thiệt hại về phần thiêng liêng sẽ vô tận, vô biên, không biết lấy gì chống đỡ nỗi. »

   Sau vài phút im lặng, Đức cha cảm thấy như có một sự xác tín nào trong nội tâm, ngài nói: 

   - Nhưng từ nay cho đến ngày Giáo hội phán quyết, vì là trách nhiệm của vị Giám mục điạ phận Tarbes, tôi sẽ chiến đấu đến cùng với tất cả quyền hạn của tôi để cho sự thể sáng tỏ..., cho giáo dân khỏi hoang mang!

Chương 11 : Lần từ biệt

Sau ngày Thứ năm đáng ghi nhớ Bà hiện ra lần sau cùng, trong 15 ngày liên tiếp, Bernadette không còn đến hang đá nữa. Những tuần lễ trôi qua, tuy nhiên những chống đối phép lạ của chính quyền địa phương vẫn tiếp tục. Lộ Đức đã trở thành Đại bản doanh của các ông Biện-lý, Đô-trưởng, Cảnh-sát trưởng để lập những chương trình, kế hoạch chống lại kẻ thù tại hang đá.

   Một hàng rào bằng gỗ kiên cố được dựng lên bao vây hang đá, có cảnh-sát túc trực ngày đêm. Chính hàng rào này làm cho dân chúng càng thêm quyết tâm phá hủy để giải thoát Bà. Đây là một vấn đề danh dự. Cho dù phải dùng mưu kế hay bạo lực. Ví dụ, vào khoảng ba giờ sáng, trong khi toàn thể thung lũng còn ở trong bóng tối, bọn lính canh gác mệt mỏi nằm ngủ chốc lát trên đống rơm, thì dân chúng ẩn nấp trong các đường mòn của núi Espéluges, được thám tử cho biết tình hình, liền lẻn vào, dùng các chất bốc lửa, đốt cháy rụi hàng rào gỗ. Sau khi hàng rào bị đốt cháy đến lần thứ tư, thì các thợ mộc từ chối không chịu làm hàng rào gỗ nữa!

   Trong thời gian đó, thì Bernadette ngày ngày làm công việc nhà. Đời sống không êm ả, dễ dàng chút nào. Từ khắp nơi, những kẻ tò mò tìm đến nhà và hỏi những câu tọc mạch,ngớ ngẩn. Em tìm cách lẫn tránh, những người hàng xóm thì lại hãnh diện. Họ ca tụng và khoe khoang em với khách lạ kéo đến thăm. Em không quan tâm đến điều gì hết. Điều quan trọng là các ông biện lý, cảnh sát trưởng để cho em được yên thân.Tai của em không muốn nghe những lời kêu gọi hàng ngày của những kẻ nhiệt tình ủng hộ em: « Ôi kẻ đầy ơn phước! Kẻ được tuyển chọn! Kẻ đã làm những phép lạ! » Em chẳng hiểu gì hết. Chính em cũng chẳng biết có một phép lạ nào hết. Bà bảo: « Hãy đến suối nước,uống và rửa! » Em vâng lời Bà. Chỉ thế thôi. Có gì là phép lạ trong việc này?

   Ở trường, đời sống lại khó chịu hơn nữa. Các bạn bè bỗng nhiên thay đổi thái độ, trở nên dè dặt, kính nể. Những đứa ngồi bên cạnh, giờ đây cũng cảm thấy ái ngại, rút lui. Không mấy đứa dám nói chuyện với em nữa. Đến giờ ra chơi, em đi qua đi lại một mình.Jeanne và những đứa con gái khác cũng không đến trò chuyện như xưa nữa.

   Nữ tu Vauzou thì xem em như không có mặt trong lớp. Không bao giờ gọi tên, hay kêu lên đọc bài. Bà bực tức vì thấy dân chúng nghèo mà chạy theo một con bé khốn khổ này, bởi vì nó rêu rao đã thấy một « cô gái áo trắng » nào đó, ăn mặc lố lăng chả có điểm nào giống Đức Mẹ cả.

   Trường học tại Lộ Đức đóng cửa nghỉ hè vào tháng Bảy... Mỗi buổi chiều làm cho các bóng cây kéo dài thêm. Em thẩn thờ tìm đến một bãi cỏ, bên cạnh suối Lacapa. Chỗ này là hướng đối diện với hang đá. Chính chỗ này em thích nhất. Dưới bóng những cây sến cao của xứ Provence, tâm hồn em tìm được an tịnh.Xa xa, dãy núi Pyrénées với những đỉnh phủ tuyết trắng, in hình lên bầu trời trong xanh.

   Giờ đây em có được một mùa hè dài và lý tưởng để ôn lại những cảm giác trước kia của mình. Những tư tưởng, những kỷ niệm của em luôn xoay quanh một câu hỏi, một thao thức: BAO GIỜ, bao giờ thì sẽ có một cuộc tái- ngộ với Bà? Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra tại đâu? Tại Hang đá này hay tại một nơi khác? Hàng rào bằng gỗ kiên cố và một số hiến binh canh gác ngày đêm, có thể là những chướng ngại vật ngăn cản ý muốn của Bà được không?

   Nhưng thực ra chẳng có gì là quan trọng cả. Thời gian có qua đi, thì cũng không làm phai tàn hy vọng của em, vì hy vọng này kéo dài suốt đời em! Tháng Tư, tháng Năm, tháng Sáu... đã qua rồi. Nay là giữa tháng Bảy, giữa mùa hè. Hoàng hôn nhuốm đỏ cảnh vật. Bỗng chuông nhà thờ Lộ Đức gióng lên trong làn không khí tĩnh mịch.Trước khi tiếng chuông cuối cùng lắng xuống và im bặt trong cảnh hoàng hôn, em đã có một tiếng trả lời cho câu hỏi BAO GIỜ. Đó là tiếng BÂY GIỜ với âm vang trang trọng, đặc biệt khác thường. Chưa bao giờ em cảm thấy xúc động thôi thúc mãnh liệt như giờ đây. Em liền chạy về nhà...

   Vào lối 8 giờ tối, bóng đêm đã bắt đầu bao trùm cảnh vật. Bỗng chốc em lại cảm thấy có tiếng gọi trong tâm hồn thôi thúc ra hang đá. Đã ba tháng qua, em đâu còn nghĩ đến việc ra đó nữa đâu. Vì thế, lần này không thể trì hoãn được nữa, không còn giờ để xin phép mẹ cha; và nếu làm như thế, sẽ gây náo động,dân chúng biết và đòi đi theo. Cho nên em khoác vội áo choàng rộng khác mọi ngày để trá hình và âm thầm ra đi với bà dì Lucile, mới 25 tuổi. Nhưng rủi thay, dọc đường có hai người bắt gặp được và đòi đi theo. Từ chối thì sẽ có tiếng qua lại, người khác nghe thấy, nên họ đành phải cho hai người kia đi với.

   Họ chạy ra hang đá. Không hiểu sao em lại không chạy băng qua cánh rừng mà lại chọn đúng con đường mà ngày 11 tháng Hai, em đi kiếm củi và lượm xương khô với Toinette và Jeanne Abadie. Phía bên kia bờ sông, trước hang, viên cảnh sát Callet và hiến binh Pays đang canh chừng. Nhìn thấy đoàn người chạy theo em, họ vội nắm lấy súng, đứng trong tư thế sẵn sàng. Nhưng em không băng qua suối. Em quỳ xuống, đúng ngay chỗ mà lần đầu tiên em đã quỳ, buổi sáng 11 tháng Hai, rồi lấy chuỗi ra lần.

   Đám đông càng lúc càng tăng. Bà mẹ, cô em, Bà dì, gia đình Nicolau, không hiểu sao, cũng đã đến. Mọi người cũng quỳ đọc kinh, tay còn thắp nến sáng.Mặc dầu ánh mặt trời hoàng hôn còn chiếu vào hang đá, nhưng các tấm gỗ đã che hết phân nửa,nên không thể trông thấy được, nếu Bà hiện ra tại đó. Em nhìn chung quanh như tìm kiếm một nơi mà Bà có thể hiện ra và trông thấy được. Trong lúc em tìm kiếm chung quanh,trong một giây phút, mắt em nhìn vào bờ sông Gave... Em nheo mắt, quay đầu,rồi nhìn lại. Không thể nào có được! Giống như lần đầu tiên,em dụi mắt, rồi mở mắt ra.Em bắt đầu lần hạt thì mặt em biến đổi rồi em kêu lên: Bà kìa! Bà kìa!

   Đám đông xa tận phía sau, cũng nhắc lại tiếng kêu trong nghẹn ngào... Bà đã hiện ra trước hang đá, gần bờ sông, nên em sợ cảnh sát và hiến binh đến gần, nhưng họ quay mặt về phía bên kia để canh chừng những ai đến múc nước, hoặc đến uống nước suối. Lần đầu tiên, Bà đặt chân đến gần sát mặt đất,những bông hồng sáng chói trên đôi chân của Bà. Hơn bao giờ hết, Bà đúng là Bà đã hiện ra lần đầu tiên buổi trưa 11 tháng Hai, với vẻ đẹp kiều diễm của tuổi trẻ thiên thu.

   Trong thời gian 15 ngày liên tiếp, lúc kêu mời Bernadette đến hang đá để giao cho em một Sứ mệnh, thì chính hôm nay, và chỉ hôm nay, Bà không còn một điều gì để phán dạy nữa, một mục đích gì để em thực hiện nữa. Chính hôm nay, và chỉ hôm nay, Bà sẽ ban cho em một tình thương tinh ròng, không còn pha trộn. Trong khi đó thì em muốn thì thầm điều gì tự đáy lòng của em. Nhưng Bà ra dấu: « Con hãy im lặng! Con còn muốn bày tỏ cho ta điều gì nữa mà ta không biết rồi sao. » Nhưng em không thể giữ mãi trong lòng về câu hỏi muôn đời mà em hằng háo hức. Em buột miệng:

   - Thưa Bà, phải chăng đây là buổi gặp gỡ cuối cùng? Có thật đây là lần hội ngộ sau hết không Bà?

   Bà không trả lời vì Bà đã thấu hiểu câu hỏi ấy. Tuy nhiên Bà cười hiền dịu và âu yếm hơn...

   Hoàng hôn đã bắt đầu từ lâu. Như đi từng bước nhẹ, đêm đã đến.Bầu trời đầy sao của tháng Bảy như trải rộng ra... Ánh sáng các cây nến sáng rực chiếu soi hình dáng em đang quỳ,đang tập trung tất cả nghị lực và tâm hồn hướng nhìn sâu thẳm, như để in sâu hình ảnh của Bà giờ đây đang còn hiện diện trước mắt mình, để lưu giữ mãi về sau, cho đến giờ phút em từ giã trần gian.Vì em biết đây là giờ TỪ- BIỆT ! Bà vẫn chưa rút lui.

 Trong muôn vàn âu yêm giữ kín trong tim,Bà đã chờ đúng lúc,đúng giây phút này để sự ra đi của Bà hòa lẫn với sự giã từ của ánh sáng. Lúc em còn có thể nhận ra được trước mắt một ánh sáng lờ mờ, thì Bà đã bắt đầu lên cao,trong bầu trời đã bắt đầu mờ phủ bóng đêm. Rất chậm rãi và vẫn hướng nhìn Bernadette. Và hình như Bà đưa tay lên vẫy,như ở trần gian, lúc người ta từ giã nhau!

   Em cũng đưa tay,nhưng không còn hơi sức để vẫy nữa. Em nhìn vào bóng đêm. Ánh sáng lờ mờ ở bờ sông bên kia, có phải là Bà không? Hay không phải là Bà? Ngàn sao lấp lánh, ánh sáng như càng tỏ rạng hơn,như niềm nở đón chào NỮ VƯƠNG trở về lại THIÊN QUỐC ! Em cố đứng dậy ra về. Thế là hết. Em định giữ im lặng trở về nhà, mang theo hình ảnh của Bà vào phút chót, thì mấy bà đi theo, chạy đến vây hỏi:

   - Bà nói gì không?

   - Không nói gì cả.

   - Nhưng làm sao em thấy được Bà khi hàng rào và sông Gave cản ngăn?

   - Tôi không thấy hàng rào hàng dậu gì hết cả.  Cũng không thấy con sông Gave ngăn cách. Tôi có cảm tưởng như xưa kia quỳ ở trước hang đá, không có gì ngăn cách hết. Tôi chỉ thấy có Bà.

   Bà Louise, tiến đến, vội trùm chiếc khăn lên đầu cô con gái thân yêu đang tràn đầy xúc động, vì trời đêm đã bắt đầu giá lạnh. Thế rồi, cả hai mẹ con và bà con lặng lẽ về nhà... Ngay sau khi về nhà, em cảm thấy lạnh và ho nhiều, nên người ta vội vàng đi mời bác sĩ Dozous. Nhận thấy tình trạng này là do cơn suyễn nặng có thể làm nghẹt thở và tim ngừng đập, ông ra lệnh chở ngay đến Bệnh viện Lộ Đức do các Bà điều khiển. Sau khi khám nghiệm, ông nói vài lời an ủi cha mẹ em. Đây không phải là bệnh nguy hiểm, mà vẫn là bệnh suyễn em bị từ nhỏ. Thêm vào đó là vì em bị suy nhược trong tuần lễ có hiện ra. Bác sĩ yêu cầu để cho em nghỉ ngơi tại Bệnh viện, để có thể thường xuyên theo dõi bệnh lý.

   Bác sĩ là người đã từng có mặt trong đám đông vây quanh hang đá. Ông đã từng khám bệnh cho em tại chỗ lúc hiện ra, bằng cách đo nhịp tim đập lúc ngất trí, theo dõi phản ứng của đôi mắt, của con ngươi của em, và đã làm Tờ trình lên Thị-trưởng. Kết quả cuộc khám-nghiệm: «Bernadette không có triệu chứng điên, hay là mất trí. Không có lừa bịp, nói dối. »

   Sau khi khám em tại Bệnh viện Lộ Đức xong, bác sĩ đến gặp Cha sở. Hai người thảo luận với nhau và đồng ý rất nhanh chóng. Bác sĩ giải thích:

   - Căn nhà cha mẹ em là nhỏ hẹp, hoàn toàn thiếu vệ sinh, rất có hại cho một con bé đang suy-yếu, và hơn nữa, bệnh suyễn đang gia tăng. Thiếu không khí và thiếu ánh sáng sẽ rất nguy hiểm cho em, vì chẳng bao lâu sẽ đưa đến bệnh đau ngực. Bác sĩ đề nghị nên để cho em ở lại bệnh viện để được săn sóc kỹ lưỡng hơn. Cần phải hành động kịp thời, càng sớm càng tốt.

   Đề nghị của bác sĩ được cha sở chấp thuận ngay, vì rất hợp lý và rất hợp tình, vì cả hai người bắt đầu có một chút tin tưởng vào con bé « quê mùa » này. Liền sau đó, cha sở đến bệnh viện gặp Mẹ Bề trên và đề nghị, nhân danh bác sĩ Dozous và nhân danh ngài, để cho em được ở lại Bệnh viện cho đến lúc nào thấy không cần thiết nữa. Đề nghị này không những dựa trên lý do sức khỏe, mà còn vì nhiều nguyên nhân khác rất quan trọng. Mẹ Bề trên chấp thuận ngay,vì có lòng yêu mến Bernadette, và cũng lấy làm vui mừng được dịp làm hài lòng cha sở, một kẻ đáng vị nể.

   Sau vài ngày được nghỉ ngơi, em cảm thấy khỏe mạnh lại. Thế rồi, một hôm kia, cha sở cho gọi em, trong lúc em đang sửa soạn để xuất viện. Gặp lại cha sở, em không còn ái ngại như ngày xưa... Nhưng em tự hỏi: « ngài còn muốn gì nữa đây? » Nhưng kìa, biết bao thay đổi nơi con người mặc áo chùng thâm này, kể từ ngày khi em sợ sệt đến gặp ngài... Bây gìờ trông ngài gầy đi nhiều, như có vẻ thu mình lại trong chiếc áo linh mục. Tiếng nói của ngài không còn bùng nổ như xưa. Hôm nay, sau thái độ nhã nhặn,hiền lành, người ta nhận thấy nơi ngài một ít dè dặt, tự chế. Ngài nói:

   - Hỡi Bernadette! Bây giờ thì con đã bình phục rồi, và con có thể trở về nhà. Tuy nhiên, bác sĩ Dozous và Cha đây, nghĩ rằng vì lợi ích cho con, tốt hơn, con nên ở lại Bệnh viện thêm một ít thời gian nữa. Mẹ Bề trên, vì lòng nhân ái, đã chấp thuận. Còn phần con, con nghĩ thế nào?

   Em nhìn cha sở, lưỡng lự... Tưởng rằng đời sống tại Bệnh viện không có gì vui vẻ, cha sở nói tiếp:

   - Chắc chắn rồi. Con không phải ở chung vơí các người bệnh đâu. Mẹ Bề trên sẽ cho con một phòng riêng, suốt ngày con muốn làm gì thì làm. Ban đêm, nữ tu Giám thị bệnh viện sẽ đến ngủ trong phòng vơí con. Lẽ dĩ nhiên, con phải tuân giữ lề luật và giờ giấc trong các bữa ăn. Các Bà sẽ lưu ý cho con ăn uống có chất bổ. Như thế là chúng ta đã thỏa thuận với nhau rồi phải không ?  - Chưa hết đâu! Cha biết rằng nhiều khi còn bị nhiều khách lạ đến quấy rầy, và những kẻ tò mò đến thăm, hỏi những câu vô ý thức. Vì thế, ở bệnh viện thì con sẽ tránh được các điều đó và con có thể đi dạo chơi trong vườn hoa, lớn nhỏ... Tất cả những thứ này có làm cho con vui thích không?

   - Ồ, dạ thưa cha, con rất bằng lòng và rất thích.

   Đây là lần đầu tiên trong đời, em mỉm cười và trả lời thẳng thắn với cha sở... Quả thật em mãn nguyện có một nơi để ẩn trú và được tự do. Cuộc sống ở gia đình rất ngột ngạt, nhất là trong tuần lễ vừa qua. Ngày nào dân chúng cũng đến, hết lớp này đến lớp khác. Bây giờ em cần một nơi yên lặng, cô-tịch, một sự hiu quạnh để tưởng nhớ đến những lần hiện ra. Giờ phút từ-biệt kia, đâu có làm phai lạt tình yêu của em đối với Bà.Trái lại, nó càng thêm êm đềm, da-diết. Những gì em đã thấy, đã cảm xúc trước đây, và đã chất chứa trong tim em, những gì ngày nay em đang hồi tưởng, cũng như những hình ảnh em còn có thể phác-họa trong trí nhớ... em không thể nào bày tỏ cho một ai.  Chỉ có một mình em, chỉ riêng một mình em mới có thể hoài-niệm những giây phút thần tiên đó

   Nơi em trú ngụ là một phòng nhỏ, chỉ có một cái giường bằng sắt hẹp và một cái bàn nhỏ; tường được quét vôi trắng. Nhưng nó có cửa sổ mở ra vườn hoa Bệnh viện, nhờ đó mà theo sở thích của mình, em có thể ngồi hàng giờ ngắm bầu trời và các ngọn cây cao mà không biết chán! 

Chương 12 : Các cuộc khám nghiệm y khoa

Sự thôi-thúc sâu xa nhất của lòng dạ một số người, hình như là niềm tự hào kiêu hãnh. Nói đúng hơn, đó là nhu-cầu nồng nhiệt của tinh thần tự cao tự đại. Thực vậy, mỗi giai cấp có một cá tính và một mức độ kiêu hãnh riêng của họ. Nhưng có lẽ sự kiêu căng của một viên chức Nhà nước, lúc người ta đụng đến, sẽ cao hơn sự kiêu-ngạo của các tầng lớp khác trong xã hội. Khi họ ngồi vào bàn giấy, họ tự xem chính họ là Nhà nước.Họ cho rằng họ thuộc vào một giai cấp cao hơn đám dân chúng thường.

   Với tư-cách là Quan tòa, là Cảnh sát trưởng, là Viên chức quan thuế, họ nắm trong tay vận mạng dân chúng, còn rõ rệt hơn là sự an-bài của Thượng đế nữa. Mọi người tiếp xúc với họ một cách khúm núm, sợ hãi, vì Luật pháp là « sáp ong » trong tay của họ, họ muốn biến đổi thế nào tùy ý họ. Quyền hành của họ do Nhà Vua ban cho. Đó là một thứ uy-quyền thần diệu, họ càng bảo vệ một cách ác-liệt. Hai nhân vật quan trọng tại Pháp cảm thấy khó chịu nhất về sự thất bại đối với Bà tại hang Massabielle là ông Vital Dutour, Biện lý của Lộ Đức và người thứ hai là Bá-tước Massy, Đô trưởng của vùng Hautes-Pyrénées.

   Bá-tước cho rằng: không thể nào tha thứ và cứ để cho mọi việc cứ tiếp tục như thế được.Trường hợp của Bà ở hang đá không thể chấm dứt bằng sự chỉ trích Nhà nước được. Các báo chí rõ ràng là đã hơi dịu giọng, kể từ ngày hang đá bị cấm. Sự kiêu căng của Bá tước không cho phép ngài nhẫn nhục đợi chờ đến lúc biến cố « hoang đường » tại Massabielle được chôn vùi trong một tương lai xa xôi.

   Ông đã bị Bộ trưởng chỉ trích ; ông đã phải bắt buộc hai lần ngồi tại Phòng chờ đợi của ĐGM mà chẳng thâu lượm được kết quả nào. Nhưng ông sẽ ngã bệnh, nếu phải nhượng bộ, rút lui, có nghĩa là phải từ bỏ cuộc chiến.

   Bernadette mà ông chưa bao giờ gặp mặt, nên ông có một cảm tưởng rất xa vời, không rõ rệt. Nhưng ông tin chắc rằng, chính nơi con bé này, và chỉ nơi con bé đó, mới tìm được nguyên do của sự bất đồng ý-kiến giữa chính quyền và một số dân chúng mê muội, dễ tin. Bao lâu con bé chưa biến mất khỏi tâm tư dân chúng thì sẽ không bao giờ có sự yên ổn tại Lộ Đức, cũng như tại các vùng quê chung quanh. Tất cả những cố gắng đã thực hiện, đã kết án con bé này, là phỉnh phờ, bịp bợm, hay ít nhất về tội lợi dụng khai thác lòng nhẹ dạ, dễ tin của dân chúng,đều đã thất bại do mưu kế của nó, và cũng do sự nhu-nhược, thiếu bản lĩnh của cảnh sát trưởng. Tuy nhiên, đâu phải là một sự thúc-thủ, đầu hàng! Bá tước Massy còn có trong tay một khí giới lợi hại khác: đó là Barbe-Rousse, một nhà phẫu-thuật tâm thần rất tài giỏi, nổi tiếng.

   Mặt trời mùa hè chiếu vào làm cho văn phòng nóng bức.Thế mà Bá tước Massy vẫn mặc áo đuôi tôm màu đen, cổ áo giả cứng và cao, hai măng-sét hồ bột, trong lúc các nhân viên làm việc chỉ mặc có áo sơ mi.

   Ông đang nghiên cứu một bản văn nhận được đã nhiều tuần qua, trong tư-cách là Đô-trưởng vùng Hautes-Pyrénées.Đó là bản y-khoa khám nghiệm Bernadette vào cuối tháng Ba. Ủy ban này gồm có bác sĩ Balenci, Lacamp. Nhưng không có tên bác sĩ Dozous. Bá-tước đọc đi đọc lại Tờ trình: « Con bé Bernadette 14 tuổi, hoàn toàn khỏe mạnh, ngoài trừ bệnh suyễn bẩm sinh.Không bao giờ nhức đầu, hoặc có những rối loạn thần kinh. Ăn và ngủ rất điều hòa, khó mà tim thấy một dấu hiệu mang một chứng bệnh nào. Do bản tính tự nhiên, con bé này rất nhây cảm trước mọi cảm giác, có lẽ đây là một cô bé dễ xúc động, có thể làm mồi cho bao tưởng tượng cố định hay mọi ảo giác...

   Có thể một tia ánh nắng chiếu vào hang đá, làm cho cô bé có aỏ ảnh đó là một người hiện ra. Những kẻ nhậy cảm tuyệt độ thường có xu hướng thổi phồng những ấn tượng, hay cảm giác của mình, mà trong những trường hợp nghiêm trọng, có thể đi đến sự mờ-ảo, quái-dị! Nhưng không có lý do nào để bảo cô bé này mắc phải chứng bệnh đó.

   Chúng tôi ký tên dưới đây đều đồng ý là đối với cô bé Bernadette, người ta không thể loại trừ những tình trạng xuất thần, nhập định, một chứng bệnh về tâm thần, giống như trạng thái mộng du, mà đến nay người ta biết rất ít về nguyên do, nhưng không làm cho bệnh nhân bị nguy-hiểm. »

   Đô trưởng Massy gầm gừ khi đọc các danh từ dè dặt, rào đón của Bản phúc trình do Uy ban Y-khoa đệ trình.Không còn tin tưởng vào Uy Ban Y-khoa, Bá tước Đô trưởng đã đặc biệt cho mời nhà phẫu-thuật tâm thần nổi tiếng từ Pau lên.Ông này hiện đang điều khiển một trại những người trí óc bị rối loạn. Nhà phẫu-thuật là một người khả-ái, có bộ râu màu đỏ hung-hung, cho nên được gọi là Barbe Rousse. Có thể bảo ông là một người tốt tướng, nếu gò mép của ông không bị xếch lên, và đôi mắt màu xám của ông không nhỏ như mắt chuột. Cuộc gặp gỡ giữa hai người rất ý hợp tâm đồng. Ông Đô trưởng giải thích vắn tắt trường hợp của Bernadette, và cho biết quan điểm của Nhà nước. Barbe-Rousse hiểu ngay những điều ông Đô trưởng muốn, mặc dầu ông chỉ nói những lời ẩn ý, những câu bóng gió, hoặc có thể hiểu hai nghĩa, làm cho nhà phẫu thuật biết ngay cách xử trí, tuy không cần nói rõ ý-định.

   Đối với Barbe-Rousse thì con bé Bernadette chỉ có hai xu hướng: một là bịp bợp, hai là chứng điên... Với tư cách là nhà phẫu thuật tâm thần, ông cho Bernadette là một con bé bị điên. Đô trưởng Massy áp dụng đạo luật ngày 30 tháng Sáu năm 1838, cho phép ông Biện lý bắt giam tất cả công dân được xem là mất trí, nếu cuộc khám nghiệm y-khoa chứng minh điều đó, và nếu bệnh nhân trở thành một sự nguy hiểm cho dân chúng.

   Nhà phẫu thuật mỉm cười:

   - Thưa ngài Đô trưởng!Giữa sự tự do hoàn toàn và sự cấm cố tuyệt đối, còn có một biện pháp trung dung nữa mà tôi thường áp dụng cho những trường hợp khó khăn. Đó là đặt bệnh nhân vào trường hợp để quan sát. Một nhà phẫu thuật tâm thần dù sao cũng không phải là một nhà y-sĩ chỉnh-hình, bắt buộc phải hàn gắn ngay một cái chân bị gảy.

   Bá tước Massy đưa hai tay tỏ ý hoan nghênh:

   - Thật là tốt đẹp và hoàn hảo.Hỡi ông bạn già của tôi ơi! Nếu sự « quan sát » là cần thiết, thì đó là một điều tuyệt diệu! 

   Ngay sáng hôm sau, Barbe-Rousse đến Bệnh viện Lộ Đức và yêu cầu được khám nghiệm Bernadette. Người ta mang cô bé đến. Đôi mắt em xem thản nhiên, như người luôn luôn có sự thật trong mình. Barbe-Rousse làm ra vẻ ông chú hiền từ, tốt lành và đáng tin cậy. Nụ cười thật hấp dẫn, đôi môi nói nhỏ nhẹ, mục đích là để gài bẫy cô bé và cho nó thấy mình kém cỏi.Nhưng Bernadette trả lời rất đúng và xác đáng. Em biết lúc nào mặt trời mọc vào mùa hè, hiện tại ai cai trị nước Pháp, làm toán cọng toán trừ được. Nhưng khi được hỏi 15 x 17 là bao nhiêu, thì em nói thẳng vào mặt nhà phẫu-thuật:

   -Thưa ông, phải làm tóan nhân trước mới biết bao nhiêu chứ!

   Hai cô y-tá tham dự buổi khám nghiệm, bèn cười chế riễu, vì thấy chính cô bé đã chế nhaọ nhà phẫu thuật, vì ông này muốn làm cho cô bé lúng túng. Barbe-Rousse thay đổi chiến thuật, liền lấy trong túi áo ra một cái thước vải và đo đầu và sọ của cô bé, vì lối nghiên cứu sự thông minh như thế rất thịnh hành bấy giờ. Rồi Barbe-Rousse nghiên cứu sự phản ứng của bắp thịt và nhất là con ngươi.

   - Tại sao em nghiêng bên này rồi nghiêng bên kia vậy?

   - Bởi ông làm tôi mệt.

   - Có phải em trông thấy Đức Trinh Nữ trong hang ?

   - Tôi không bao giờ nói như thế.

   - Em nói thấy một Bà, mà đâu có Bà nào.Thế là em bệnh hoạn.

   - Tôi đã thấy Bà nhiều lần. Bây giờ tôi không thấy nữa, vì Bà đã từ giã đi rồi. Tại sao gọi là bệnh hoạn?

   Câu nói rất hợp lý đó làm cho nhà phẫu thuật phải bối rối. Ông ta liền đổi chiến thuật nữa, lên giọng mời mọc, dụ dỗ:

   - Do vài dấu-chỉ trong cuộc khám nghiệm này, tôi thấy em có phần bệnh hoạn. Em có muốn về nhà tôi ăn ở để tôi điều trị cho một thời gian không? Rồi sau đó, cơn bệnh sẽ chấm dứt vĩnh viễn. Em sẽ không còn trông thấy Bà nào nữa. Cha mẹ em sẽ khỏi phải trả chi phí gì hết...

   - Thưa ông, tôi không muốn đi đâu hết. Tôi muốn ở lại đây. Tôi không lo sợ gì cho tương lai của tôi cả.

   Nói xong,em phóng ra khỏi phòng, chạy ra khỏi bệnh viện, về nhà, không ai ngăn trở gì hết! Trong khi đó có người đi báo cho cha sở.

   Hai giờ sau, nhà phẫu-thuật và ông Biện Lý đến nhà em. Bất ngờ họ gặp cha sở đứng ngay nơi cửa làm họ kinh ngạc. Gia đình François thì ở trong nhà, nép vào một góc, gần lò sưởi. Barbe-Rousse ngạc nhiên, mở lời chào:

   - Có phải đây là Cha sở Lộ Đức mà tôi hân hạnh được gặp?

   - Ông quả thực được sự hân hạnh đó. Tôi có thể giúp gì cho hai ông không?

   - Tốt hơn, ông Biện lý nói, là chúng ta nên thảo luận ở một nơi khác.

   - Chính hai ngài đã muốn chọn nơi đây để thảo luận, không phải tôi. Tôi biết ông Biện lý, nhưng ông kia, tôi chưa được biết. Phải chăng đó là Y-sĩ tâm-thần của Pau mà ông Đô-trưởng mới gửi tới cho chúng ta?

   Barbe-Rousse xác nhận:

   - Tôi là giáo sư chuyên về khoa tâm thần, và chuyên trị khoa thần-kinh.

   - Tôi sợ rằng, thưa giáo sư, tại Lộ-đức ông sẽ không tìm được vùng đất để dụng võ cho việc nghiên cứu của ông.

   - Thưa cha sở, tôi hành động nhân danh các nhà chức trách Y-tế. Có một bản Phúc trình y-khoa ngày 26 tháng Ba nhận thấy con bé có triệu chứng bất thường, có hại cho trật tự công cọng. Ông Đô trưởng muốn thẩm tra lại những điểm của Bản điều tra và đặt cô bé dưới sự quan-sát của tôi trong một thời gian.

   Cha sở có vẻ khó chịu:

   - Tôi biết tờ phúc trình đó. Nó chẳng có giá trị gì, vì sai sự thật. Nhưng thưa giáo sư, giáo sư đã chẩn đoán con bé, giáo sư thấy nó có những chứng bệnh nào ?

   Barbe-Rousse ngập ngừng:

   - Có những chứng bệnh mà lần đầu tiên khám, không thấy phát hiện.

   - Vậy thưa giáo sư, tôi xin nhắc giáo sư đến lời tuyên thệ của giới Y-sĩ mà chắc là giáo sư đã tuyên thệ. Vậy tôi xin hỏi giáo sư: « Bernadette có phải là con bé mắc chứng bệnh khùng, nguy hiểm cho trật tự công cọng không? »

   - Trời ơi! có ai nói điên khùng, nguy hiểm cho trật tự công cọng đâu?

   - Như thế thì chiếu theo Luật nào mà các ông làm cho con bé mất sự tự do của nó?

   - Thưa cha sở, nếu đạo luật 1838 được áp dụng là chỉ có một mục đích duy nhất: bảo vệ bệnh nhân. Do đó, ông Đô trưởng có thể ra lệnh đặt con bé dưới sự bảo trợ của tôi để tôi chữa trị cho nó bằng mọi phương pháp khoa học hiện đại...

   Cha sở không còn cầm giữ đựơc nữa:

   - Đây quả là một sự giả-trá xấu hổ nhất, chưa bao giờ tôi thấy! Tôi cam đoan sẽ làm sáng tỏ bộ mặt lừa đảo này, dù phải khuấy động cả nước Pháp!

   Nói xong, cha sở gọi em ra như để bảo vệ cho em. Thấy không vào nhà được, và không làm gì hơn, Barbe-Rousse và ông Biện lý đành rút lui. Họ đâu có ngờ cha sở đã đổi thái độ về chuyện con bé. Họ ra đi, thì thầm với nhau: con bé này ghê thật. Phải đánh điện lên cấp trên để xin chỉ thị!

Xem phần kế tiếp…

Bài viết khác