Chủ Nhật, 30 Tháng Mười Một, 2025

Nẻo vào lịch sử Thánh qua các nhân vật lớn trong Cựu ước: Ngôn sứ Giêrêmia

Ngôn sứ Giêrêmia

Giêrêmia hoạt động từ năm 626 đến 587 trước Công nguyên, hơn một trăm năm sau Isaia.

I. Bối cảnh lịch sử

Giêrêmia sống trong một thời kỳ đầy biến động, được mô tả trong sách các Vua quyển thứ hai (2V 22-25) và sách Sử Biên Niên quyển thứ hai (2Sb 34-36), cũng như trong các tường thuật lịch sử được chèn vào trong sách Giêrêmia.

Vương quốc nhỏ bé Giuđa bị ba đế quốc thường xuyên cạnh tranh với nhau bao vây: Átsua, đang dần mất quyền lực ; Babylon có quyền lực ngày càng tăng lên bằng cách lấn át Átsua ; và Ai Cập, trước đây là đối thủ Átsua và giờ đây sẽ đến cứu viện chống lại các cuộc tấn công từ vua Babylon. Tuy nhiên, Giuđa đã nằm trên con đường từ Ai Cập đến Átsua, cũng không xa con đường từ Ai Cập đến Babylon.

Thời kỳ Giêrêmia hoạt động có thể được chia thành ba giai đoạn:

1. 17 năm cuối cùng triều đại vua Giôsigiahu (626-609), tiếp theo 3 tháng trị vì với con trai là Giôakha.

Giôsigiahu một vị vua xuất sắc, rất trung thành với YHWH. Ông cải cách tôn giáo, vốn đã bị ô nhiễm nặng nề trong thời kỳ trước đó, có lẽ dựa vào phần cốt lõi ban đầu sách Đệ Nhị Luật được đưa vào hiệu lực sau khi được phát hiện trong các văn khố Đền Thờ.

Hơn nữa, Giôsigiahu tận dụng người Átsua suy yếu đã tái chiếm miền Bắc Ítraen, vốn đã trở thành một tỉnh Átsua kể từ khi Samaria thất thủ (721). Mọi hy vọng cuối cùng dường như trở nên khả thi với thủ đô Átsua, Ninive sụp đổ, vào năm 612 dưới sự tấn công từ liên minh người Medes và Babylon.

Nhưng đáng tiếc trước đế quốc Átsua sụp đổ và cân bằng quốc tế sắp xảy ra. Ai Cập không thờ ơ, Pharaô Necho lên đường để cứu viện vị vua Átsua cuối cùng vào năm 609. Vua Giôsigiahu hy vọng Átsua sụp đổ sẽ mang lại lợi ích cho vương quốc mình, cố gắng ngăn cản Necho đi qua, nhưng ông đã bị giết trong trận chiến ở Meggiddo. Con trai và người kế vị ngắn ngủi Giôakha bị bắt làm tù binh ở Ai Cập, và người Ai Cập thay thế bằng anh trai Giôiakim, một người con khác của Giôsigiahu (2V 22,1-23,35).

2. 11 năm vua Giôiakim (609-598) trị vì, tiếp theo 3 tháng con trai Giôiakim II trị vì.

Hai vị vua không bất trung với YHWH.

Giôiakim được người Ai Cập đặt lên ngôi và trở thành chư hầu, nhưng bị Nabucôđônoxo (Babylon) tấn công. Khoảng năm 599, Giôiakim nổi loạn chống lại Nabucôđônoxo và chết ngay sau đó. Con trai Giôiakim lên kế vị. Nabucôđônoxo đến vây hãm Giêrusalem vào năm 598, Giôiakim đầu hàng và bị đày đến Babylon cùng với nhiều thần dân. Nabucôđônoxo sau đó đặt ông chú Giôiakim tên Xítkigia lên ngôi vua Giêrusalem (2V 23,36 - 24,17).

3. 10 năm Xítkigia (597-587).

Ông không trung thành với YHWH như ba người tiền nhiệm, Xítkigia luôn do dự giữa việc tôn trọng hiệp ước chư hầu đã ký với Babylon và những lời Ai cập xúi giục, thúc đẩy nổi loạn chống lại Nabucôđônoxo. Những cố vấn này cuối cùng thắng thế, và Babylon trả đũa không chậm trễ. Vào năm 587, Giêrusalem bị quân đội Nabucôđônoxo chiếm đóng, cướp bóc và phá hủy hoàn toàn, và cuộc Lưu đày Lớn bắt đầu (2V 24,18 - 25,30).

II. Các văn bản Giêrêmia

Chính trong bối cảnh lịch sử này Giêrêmia can thiệp. Thật đáng tiếc những người biên soạn sách đã không sắp xếp các hành động và lời nói ông theo thứ tự thời gian. Họ đã nhóm lại theo một trật tự logic, thành các tập hợp lớn.

Để theo dõi nghiệp tiên tri ông, do đó cần phải đặt các lời sấm Giêrêmia vào đúng thời điểm.

III. Sứ vụ Giêrêmia

1. Dưới thời Giôsigiahu

Chính trong bầu không khí đổi mới, nơi có nhiều việc phải làm để loại bỏ các lạm dụng, Giêrêmia nhận thức được ơn gọi.

Nơi hai chương đầu tiên Giêrêmia, sẽ khám phá trong đó ý nghĩa được Thiên Chúa tiền định cho một công việc lớn lao, và điều đó thậm chí trước khi được hình thành trong bụng mẹ (tôn trọng bào thai, mang một kế hoạch thiêng liêng); ông do dự được gọi, ý thức về tuổi trẻ và thiếu kinh nghiệm; nhưng sức mạnh được Chúa truyền vào, thực sự biến Giêrêmia thành "miệng" qua đó Ngài muốn bày tỏ; những người nghe không chỉ ở cấp quốc gia còn ở cấp quốc tế đòi hỏi ông kiên trì để đứng vững trước những bách hại từ bên trong và những cuộc xâm lược từ bên ngoài đến từ Phương Bắc đáng sợ!.

Câu Thiên Chúa trả lời tuyệt vời những gì được yêu cầu từ Giêrêmia, cụ thể hoán cải ("Hãy trở về"), với chính những từ ngữ ông sử dụng để yêu cầu anh em mình hoán cải ("Hãy trở về" 3,11,14 và 22) ; những gì được hứa với Giêrêmia: những cuộc đấu tranh và bách hại sẽ tiếp tục; Thiên Chúa hỗ trợ không thay đổi (xem lại các câu 8,18 và 19 của chương 1); đảm bảo ông sẽ tiếp tục là miệng của Thiên Chúa (xem lại 1,9); và một mức độ ảnh hưởng nào đó đối với anh em (15,19-21).

2. Nỗi đau Giêrêmia và cám dỗ từ bỏ sứ vụ Lời Chúa, nhưng cuối cùng ông không thể giữ được (xem 20,7-18 sẽ nhận thấy cách các câu Thiên Chúa trả lời im lặng hay hùng hồn, mâu thuẫn với những lời Giêrêmia than phiền, đôi khi một cách mỉa mai, thường xuyên một cách cha con, và luôn luôn một cách chiến thắng. Nhà tiên tri đã giữ vững lòng trung thành qua giai đoạn khó khăn, kết thúc bằng cái chết của Giôiakim và triều đại ngắn ngủi của Giôiakim II).

Giêrusalem bị vây hãm (chương 35) và bị chinh phục; Giôiakim II bị đày đến Babylon cùng với nhiều thần dân (22,20-30).

3. Dưới thời Xítkigia

Trong triều đại vua bù nhìn, Giêrêmia quan tâm đến những người bị lưu đày năm 597, những người đã trải qua thử thách sẽ trở thành những tín đồ vững chắc, những người xây dựng lại trong tương lai, tốt hơn nhiều so với những người an cư ở Palestine (chương 24); nhà tiên tri viết cho những người bị lưu đày về cách cư xử (chương 29). Ông tố cáo các tiên tri giả và nhắc lại các tiêu chí tiên tri thật (chương 27 và 28); và phán xét nghiêm khắc các vị vua, trái ngược với vua đang trị vì có tên "YHWH-là-công-lý-của-tôi", ông báo trước về vị vua tốt lành dòng dõi Đavít, Đấng Mêsia, có thể được gọi "YHWH-là-công-lý-của-chúng-ta" (23,1-6). Trong thời gian Giêrusalem bị vây hãm, ông can thiệp thường xuyên và bị bỏ tù nhiều lần (34, 8-22 và các chương 37 đến 39); và trong thời điểm đau khổ sâu sắc nhất, ông báo trước Ítraen phục hồi trong tương lai (32; 33,1-13) và đặc biệt Giao Ước Mới (31,31-34 và lưu ý trong Giao Ước Mới, trọng tâm được đặt vào sự tha thứ đổi mới được Thiên Chúa ban cho và nội tâm hóa tôn giáo.

Sau khi Giêrusalem bị phá hủy và Xítkigia bị bắt (39,1-14 và chương 52), Giêrêmia bị một nhóm người lo sợ Babylon trả thù sau vụ ám sát tổng trấn Gơđangia, người đã được người chiến thắng đặt ở Giêrusalem, kéo đi Ai Cập trái với ý muốn của ông (chương 40 đến 44).

Cho đến cuối cùng, Giêrêmia rao giảng lòng trung thành với Chúa, và sau khi đưa ra thông điệp cuối cùng, người ta không biết gì thêm về ông trong lịch sử sau đó.

IV. Những ý tưởng chủ đạo của Giêrêmia

Giêrêmia đào sâu các dữ kiện truyền thống, về Thiên Chúa Đấng Chủ Tể Vũ Trụ (27,5; 31,35) tất cả các quốc gia (chương 18), mỗi cá nhân, Ngài dò xét tâm hồn (11,20; 17,10). Thiên Chúa loại trừ tất cả các thần tượng các thần Baan (Canaan) bị từ chối rõ ràng 13 lần; về Giao ước, để thực hiện kế hoạch Chúa đưa Ítraen vào Giao Ước với Ngài. Chính Ngài hoàn toàn trung thành (31,35-37), nhưng các đối tác con người đôi khi thất bại, và thậm chí thường xuyên vì vậy Giêrêmia nhấn mạnh; về tội lỗi cố hữu (7,25-26; 16,11-12; v.v...), phổ biến (2 ; 8,26 và 29; 5,1-5; 6-13; v.v...), ăn sâu (13,23; 17,1 và 9). Do đó có những lời đe dọa về tai họa và những lời hứa về phục hồi sau thử thách.

Giêrêmia mang thông điệp mới mẻ đến từ một trải nghiệm độc đáo được sống (ơn gọi), được bày tỏ (những lời thú nhận), được đề xuất cho anh em (Giao Ước Mới).

V. Ảnh hưởng Giêrêmia

Giáo lý Giêrêmia thường ảnh hưởng đến các tác giả Kinh Thánh sau này, đặc biệt Êdêkien, Đệ nhị Isaia và tác giả sách Gióp.

Lòng đạo đức của ông đã truyền cảm hứng cho Nơkhêmia, Đanien và nhiều Thánh vịnh.

Hơn nữa, quyền uy ông lớn đến mức người ta đã gán cho ông những tác phẩm vô danh (sách Ai ca; bức thư được tìm thấy trong Barút 6) hoặc ngụy thư (2 Maccabê 2,1) và đã biến ông thành một trong những vị thánh bảo trợ quốc gia (2 Maccabê 15,13-16).

VI. Giêrêmia và Chúa Giêsu

Chúng ta biết từ Tin mừng Mátthêu một số người coi Chúa Giêsu là Giêrêmia trở lại giữa họ (16,14). Thật vậy, có thể so sánh Giêrêmia và Chúa Giêsu từ nhiều khía cạnh. Một số hình ảnh trong giáo huấn như nước hằng sống (Ga 2,13); gai góc (Gr 4,3); cây vả không ra trái (Gr 8,13); v.v... Những lời chỉ trích cách sử dụng hình thức các thể chế tôn giáo. Chúa Giêsu cũng nói theo hướng này như về Đền Thờ (Mt 21,12-13; 24,1-2; 26,60-61). Và thái độ Chúa Giêsu đối với Đền Thờ sẽ là một phần những yếu tố buộc tội trong phiên tòa xét xử Ngài ; về việc thờ phượng hình thức (Mt 23,23-32) ; về luật pháp (Mt 15,3-6; 23,2-4) ; về các tiên tri giả (Mt 7,15-20; 24,4-5 và 24) ; về Giêrusalem sẽ bị phá hủy (Lc 19,41-44).

Giêrêmia và Chúa Giêsu đau khổ bị hiểu lầm, thậm chí bởi người thân (so sánh Gr 12,6 và Chúa Giêsu theo Mc 3,21; 6,1-6; Lc 4,16-30; Ga 7,5). Cả hai đều bị bức hại đến chết. Với chủ đề về Giao Ước Mới, Giêrêmia báo trước và Chúa Giêsu hoàn thành (Lc 22,20; 1Cr 11,25).

Ví dụ, có thể so sánh Gr 3,6-13 và Ed 23; Gr 31,29-30 và Ed 18; Gr 23, -6 và Ed 34; Gr 1 và Is 49,1; Gr 11,19 và Is 53,7; Gr 12 và Gióp 21; v.v... Xem Nơkhêmia 9 và Đaniên 9; có thể so sánh Gr 17,5-8 và Tv 1,3; Gr 9,1-8 và Tv 55,8-15 và 22; v.v...

Tóm tắt cuộc đời tiên tri Giêrêmia

Giêrêmia, một trong những tiên tri lớn nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo, sinh ra khoảng năm 650 trước Công nguyên tại Anathoth, một ngôi làng nhỏ gần Giêrusalem thuộc vương quốc Giuđêa. Ông xuất thân từ một gia đình tư tế.

Khi còn rất trẻ, khoảng 20 tuổi, Giêrêmia được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri. Ban đầu, ông do dự vì tuổi trẻ, nhưng Thiên Chúa đã trấn an và hứa sẽ ở bên ông. Sứ mệnh Giêrêmia là cảnh báo dân Giuđa Thiên Chúa phán xét sắp tới do tội lỗi và bất trung.

Trong suốt sự nghiệp tiên tri kéo dài hơn 40 năm, Giêrêmia không ngừng kêu gọi dân chúng ăn năn và quay trở lại với Thiên Chúa. Ông tiên đoán sự sụp đổ của vương quốc Giuđêa và Giêrusalem, cũng như việc lưu đày đến Babylon. Những lời ông tiên tri thường gây tranh cãi và không được hoan nghênh.

Giêrêmia chứng kiến nhiều biến cố lịch sử quan trọng, bao gồm cải cách tôn giáo dưới thời vua Giôsia, đế quốc Babylon trỗi dậy, và cuối cùng Giêrusalem sụp đổ vào năm 586 trước Công nguyên. Trong suốt thời gian này, ông phải đối mặt với nhiều khó khăn và đau khổ, bị bắt bớ, tù đày, và thậm chí bị đe dọa tính mạng.

Ông được biết đến với biệt danh "tiên tri khóc than" vì những lời tiên tri đau buồn và những bài ca than khóc. Giêrêmia viết sách và được cho là tác giả sách Ai ca trong Kinh Thánh, hai cuốn sách phản ánh nỗi đau của ông trước hủy diệt dân tộc mình.

Sau khi Giêrusalem thất thủ, Giêrêmia bị ép buộc phải di cư đến Ai Cập cùng với một nhóm người Do Thái.

Những năm cuối đời

Giêrêmia sống cuối cuộc đời đầy biến động và bi kịch. Sau khi Giêrusalem thất thủ vào năm 586 trước Công nguyên. Lúc ban đầu Giêrêmia được phép ở lại Giuđa dưới bảo hộ Gedaliah, thống đốc do Babylon bổ nhiệm. Ông tiếp tục rao giảng và an ủi những người còn sót lại.

Tuy nhiên, khi Gedaliah bị ám sát, một nhóm người Do Thái, lo sợ Babylon trả thù, quyết định chạy trốn đến Ai Cập. Mặc dù Giêrêmia cảnh báo chống lại, họ vẫn cưỡng ép ông đi cùng.

Tại Ai Cập, Giêrêmia tiếp tục sứ mệnh tiên tri. Ông cảnh báo cộng đồng lưu vong về việc thờ các thần ngoại bang và tiên đoán Babylon xâm lược vào Ai Cập.

Theo truyền thống, có nhiều câu chuyện khác nhau về cái chết Giêrêmia:

1. Một số nguồn cho ông bị ném đá đến chết bởi chính cộng đồng người Do Thái tại Ai Cập vì những lời tiên tri gay gắt.

2. Những người khác tin ông sống đến già và qua đời một cách tự nhiên tại Ai Cập.

3. Có truyền thuyết nói ông trở về Giêrusalem vào cuối đời.

Dù thế nào, hầu hết các học giả đều đồng ý Giêrêmia qua đời tại Ai Cập, có thể vào khoảng năm 570 trước Công nguyên.

Mặc dù cuộc đời đầy thử thách và kết thúc trong lưu đày, di sản Giêrêmia vẫn tồn tại qua các thế kỷ. Ông được tôn kính như một trong những tiên tri vĩ đại nhất trong Do Thái giáo và Kitô giáo, và những lời ông dạy tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc đến ngày nay.

Bài đọc thêm

Giêrusalem cổ đại dưới ánh nắng chói chang, một bóng người đơn độc đứng trước cổng Đền Thờ. Giêrêmia, vị tiên tri của Chúa mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng và gánh nặng lời tiên tri. Giọng nói vang vọng qua những con đường nhỏ hẹp, mang theo thông điệp hy vọng và cảnh báo tình yêu và phán xét. Tiên tri Giêrêmia một nhân vật phức tạp và đa chiều trong lịch sử tôn giáo Do Thái. Sứ vụ ông diễn ra trong một thời kỳ đầy biến động lịch sử Ítraen, từ năm 626 đến 587 trước Công nguyên, một giai đoạn vương quốc Giuđa phải đối mặt với những thách thức chính trị và tôn giáo nghiêm trọng.

Giêrêmia sinh ra trong một thời đại đầy biến động. Vương quốc Giuđa, như một chiếc thuyền nhỏ, chao đảo giữa những cơn sóng dữ các đế chế hùng mạnh Ai Cập, Átsua và Babylôn. Trong bối cảnh này, tiếng nói Giêrêmia vang lên như tiếng kèn báo động, kêu gọi dân tộc quay về với Đấng Tạo Hóa.

1. Ơn gọi 1,4-16

Ơn gọi Giêrêmia, được mô tả trong Gr 1,4-16, một điểm khởi đầu quan trọng để hiểu về nhân vật này. Khác với ơn gọi Isaia hoành tráng trong Đền Thờ, ơn gọi Giêrêmia mang tính cá nhân và thân mật hơn. Thiên Chúa nói với ông đã biết và chọn ông từ trước khi ông được hình thành trong lòng mẹ. Lời Ngài như một dấu ấn thiêng liêng, định hình cả cuộc đời vị tiên tri trẻ. Ông run rẩy trước sứ mệnh to lớn nhưng Chúa đặt tay Ngài lên môi ông, biến lời nói ông thành lời Chúa nhấn mạnh ý niệm về tiền định trong sứ mệnh tiên tri, một khái niệm sẽ trở nên quan trọng trong thần học Do Thái và Kitô giáo sau này.

Giêrêmia phản ứng "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa, con không biết nói, vì con còn trẻ quá!" cho thấy khiêm nhường và ý thức về giới hạn con người trước sứ mệnh thiêng liêng. Tuy nhiên, Thiên Chúa đáp lại bằng cách chạm vào miệng Giêrêmia và đặt lời Ngài vào đó, một hành động tượng trưng cho việc trao quyền và ủy thác thiêng liêng, minh họa quan niệm về tiên tri như "miệng" Thiên Chúa, một công cụ qua đó ý muốn thiêng liêng được bày tỏ cho nhân loại.

Những khác biệt về mọi mặt giữa ơn gọi Isaia và ơn gọi Giêrêmia

Ơn gọi Isaia và Giêrêmia, hai nhà tiên tri vĩ đại của Ítraen, có những điểm khác biệt đáng chú ý, phản ánh không chỉ hoàn cảnh cá nhân còn cả bối cảnh lịch sử và thần học thời đại họ.

Những khác biệt:

a. Bối cảnh và thời điểm

Ơn gọi Isaia diễn ra trong Đền Thờ, vào "năm vua Útdigiahu băng hà" (Is 6,1). Một thời điểm chuyển giao quyền lực, tạo nên cảm giác về thay đổi và bất ổn trong vương quốc. Ơn gọi Giêrêmia xảy ra trước khi ông được sinh ra (Gr 1,5), nhấn mạnh tính tiền định trong sứ mệnh tiên tri. Thời điểm cụ thể "năm thứ mười ba đời vua Giôsigiahu" (Gr 1,2), một giai đoạn cải cách tôn giáo.

b. Hình thức ơn gọi

Isaia trải nghiệm một thị kiến hoành tráng về Thiên Chúa ngự trên ngai, được bao quanh bởi các Sêraphim (Is 6,1-4). Giêrêmia nghe tiếng Chúa trực tiếp, không có thị kiến về Thiên Chúa (Gr 1,4-10).

c. Phản ứng ban đầu

Isaia nhận ra mình bất xứng và dân tộc tội lỗi: "Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là người môi miệng ô uế" (Is 6,5). Giêrêmia cảm thấy không đủ khả năng vì tuổi trẻ: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa, con không biết nói năng, vì con còn trẻ quá!" (Gr 1,6).

d. Cách Thiên Chúa đáp ứng

Với Isaia một Sêraphim bay đến, lấy than hồng chạm vào môi để thanh tẩy (Is 6,6-7). Nơi Giêrêmia Chúa trực tiếp chạm vào miệng và đặt lời Ngài vào đó (Gr 1,9).

e. Nội dung sứ điệp

Isaia được giao nhiệm vụ rao giảng một thông điệp khó khăn về dân chúng cứng lòng (Is 6,9-10). Giêrêmia được giao nhiệm vụ rộng lớn hơn, bao gồm cả "nhổ và phá, hủy diệt và lật đổ, xây dựng và trồng" (Gr 1,10).

f. Phạm vi sứ vụ

Isaia chủ yếu tập trung vào Ítraen và Giuđa. Giêrêmia được chỉ định làm "ngôn sứ cho các dân tộc" (Gr 1,5), mở rộng phạm vi sứ vụ ra ngoài Ítraen.

g. Biểu tượng

Isaia thấy than hồng từ bàn thờ, tượng trưng cho thanh tẩy. Giêrêmia thấy cây hạnh đào và nồi nước sôi, tượng trưng cho tỉnh thức và phán xét sắp đến.

h. Tính cách cá nhân

Isaia thể hiện sẵn sàng ngay lập tức: "Dạ, con đây, xin sai con đi!" (Is 6,8). Giêrêmia tỏ ra do dự và cần được Chúa khuyến khích nhiều hơn.

Những khác biệt không chỉ phản ánh cá tính riêng mỗi nhà tiên tri, còn cho thấy đa dạng trong cách Thiên Chúa gọi và sử dụng các đầy tớ Ngài, nhắc nhở ơn gọi Thiên Chúa có thể đến theo nhiều cách khác nhau, nhưng luôn đòi hỏi sự đáp trả trung thành và can đảm.

2. Sự táo bạo và đau khổ (7, 1-15; 26,7-15; 36,1-4, 9-32; 38)

Cuộc đời Giêrêmia một bức tranh về can đảm và đau khổ. Ông đứng một mình trước các vua chúa, các thầy tư tế và đám đông, không ngần ngại nói lên sự thật, dù có cay đắng đến đâu. "Các ngươi đặt niềm tin vào lời dối trá," ông kêu gọi, chỉ tay vào Đền Thờ. "Các ngươi ăn cắp, giết người, ngoại tình, và rồi đến đây, đứng trước mặt Ta trong ngôi đền này và nói: “Chúng con được an toàn!”

Trong Giêrêmia 7,1-15, thấy ông đứng tại cổng Đền Thờ, nơi công cộng Giêrusalem để rao giảng. Ông cảnh báo niềm tin mù quáng vào hiện diện Đền Thờ sẽ không bảo vệ họ khỏi Thiên Chúa phán xét nếu họ không thay đổi cách sống. Một thông điệp táo bạo thách thức trực tiếp niềm tin phổ biến thời đó Giêrusalem không thể bị hủy diệt vì có Đền Thờ.

Can đảm này dẫn đến nhiều cuộc đối đầu nguy hiểm. Trong Giêrêmia 26,7-15, ông bị đe dọa tử hình vì những lời tiên tri. Tuy nhiên, ông vẫn kiên định tuyên bố chỉ nói những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông, minh họa một trong những đặc điểm cốt lõi tiên tri thực sự, tức là trung thành tuyệt đối với thông điệp Thiên Chúa bất chấp hậu quả cá nhân.

Nhưng tiếng nói sự thật thường bị chối bỏ. Giêrêmia bị ném vào ngục tối, bị đe dọa tính mạng, bị coi kẻ phản bội. Trong những giờ phút đen tối nhất, ông kêu lên với Chúa: "Lạy Chúa, Ngài đã lừa dối con! Con như một con chiên non bị dắt đến lò mổ." Tuy nhiên, ngay cả trong nỗi đau đớn, ông vẫn không thể im lặng. Lời Chúa như ngọn lửa cháy trong xương cốt, không thể dập tắt.

3. "Những lời thú nhận" (20,7-18)

Trong bóng tối Giêrusalem cổ đại, tiếng Giêrêmia thở dài nặng nề vang lên. Vị tiên tri già nua, mệt mỏi bởi gánh nặng sứ mệnh, ngồi một mình, đối diện với nỗi đau và cô đơn. Một khoảnh khắc để được gọi "tiên tri khóc", lộ ra những vết thương sâu thẳm trong tâm hồn.

"Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng." (Gr 20,7). Lời mở đầu không phải lời ca ngợi, nhưng tiếng kêu đau đớn một tâm hồn bị dằn vặt. Giêrêmia cảm thấy mình như một nạn nhân tình yêu Thiên Chúa, bị cuốn vào một sứ mệnh không thể thoát ra. Ông sử dụng ngôn ngữ tình yêu để diễn tả cảm giác bị phản bội, như thể Thiên Chúa đã lừa dối bằng lời hứa về một sứ vụ vinh quang, chỉ để đẩy ông vào vực thẳm đau khổ và cô đơn.

"Mỗi lần con nói là con phải kêu lên, phải la lớn: Bạo tàn! Phá huỷ! Quả thật, lời Đức Chúa đã trở nên cớ cho con bị nhục nhã và chế giễu suốt ngày" (Gr 20,8). Giêrêmia thấy mình bị mắc kẹt giữa tiếng Thiên Chúa gọi không thể cưỡng lại và dân chúng chối bỏ. Mỗi lời ông nói đều mang đến cho ông chế nhạo và khinh miệt. Ông cảm thấy như một diễn viên hài kịch bi thảm, bị buộc phải diễn một vở kịch không ai muốn xem.

"Con tự nhủ: Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa. Nhưng lời Người thì như ngọn lửa bừng cháy trong tim, giam hãm trong xương cốt con. Con những cố nén trong lòng, nhưng làm sao chịu nổi" (Gr 20,9). Đỉnh điểm Giêrêmia đấu tranh nội tâm, ông muốn từ bỏ, im lặng, muốn sống một cuộc đời bình thường không phải chịu đựng gánh nặng lời tiên tri. Nhưng lời Chúa như ngọn lửa cháy trong ông, không thể dập tắt, và bị giằng xé giữa mong muốn được giải thoát và thôi thúc không thể cưỡng lại để rao giảng.

"Nguyền rủa ngày tôi đã chào đời! Ngày mẹ sinh ra tôi, chớ có được chúc phúc bao giờ!" (Gr 20,14). Trong cơn tuyệt vọng cùng cực, Giêrêmia nguyền rủa ngày sinh, ước chưa từng được sinh ra để không phải chịu đựng gánh nặng. Một tiếng kêu một linh hồn đau khổ, một người đã cho đi tất cả nhưng dường như chỉ nhận lại sự chối bỏ và đau đớn.

"Những lời thú nhận" Giêrêmia không chỉ những lời than thở cá nhân, còn là cửa sổ nhìn vào tâm hồn một nhà tiên tri, cho thấy cái giá phải trả cho việc trung thành với tiếng Thiên Chúa gọi, đức tin không phải lúc nào cũng con đường trải hoa hồng, đôi khi một cuộc đấu tranh đau đớn với chính Đấng ta yêu mến và phụng sự.

Qua những lời này, Giêrêmia trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết. Ông không còn một nhân vật xa vời trong lịch sử, nhưng một người đang vật lộn với đức tin. Ông cho thấy ngay cả những người được Chúa chọn cũng có những khoảnh khắc nghi ngờ và tuyệt vọng, nhưng cuối cùng tình yêu và lòng trung thành với Thiên Chúa vẫn chiến thắng.

"Những lời thú nhận" nhắc nhở đức tin thực sự không phải chấp nhận mù quáng, còn một cuộc đối thoại liên tục với Thiên Chúa, đôi khi đầy đau đớn nhưng luôn chân thành, và trong những khoảnh khắc tối tăm nhất cuộc đời vẫn có thể đến với Chúa với tất cả nỗi đau và thất vọng.

Cuối cùng, qua những lời thú nhận đau đớn, Giêrêmia trở thành một hình ảnh tiên báo về Đấng Mêsia, Người sẽ gánh lấy mọi đau khổ nhân loại. Trong tiếng kêu Giêrêmia, thấy tiếng vọng tiếng Chúa Giêsu kêu trên thập giá: "Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Ngài lại bỏ rơi con?"

Như vậy, "những lời thú nhận" Giêrêmia không chỉ tiếng kêu đau khổ, còn là lời chứng cho sức mạnh đức tin, có thể đối diện với những nghi ngờ sâu sắc nhất và vẫn trung thành. Lời mời gọi đến với một đức tin trưởng thành hơn, sâu sắc hơn, một đức tin có thể ôm lấy cả niềm vui lẫn nỗi đau cuộc sống vẫn giữ vững hy vọng vào tình yêu và lòng Thiên Chúa thương xót.

4. Vào thời điểm xảy ra những thảm họa, Giêrêmia báo trước Giao Ước Mới (31,2-9, 20, 31-34)

Trong những ngày đen tối nhất lịch sử Ítraen, khi lời Giêrêmia tiên tri đầy đau thương đang trở thành hiện thực, vị tiên tri già nua vẫn không ngừng rao giảng. Giêrusalem, thành phố thánh đang chìm trong khói lửa và tiếng khóc than. Đền thờ niềm tự hào dân tộc giờ chỉ còn đống đổ nát. Dân chúng, những người từng chế nhạo lời ông cảnh báo, giờ đây đang bị xiềng xích, lê bước trên con đường lưu đày đến Babylon xa xôi.

Giữa cảnh hoang tàn đổ nát, khi mọi hy vọng dường như đã tắt, Giêrêmia lại cất tiếng. Nhưng lần này, giọng ông không còn tiếng kêu gọi ăn năn hay lời cảnh báo phán xét. Thay vào đó, từ môi ông tuôn ra những lời hy vọng và phục hồi, một tầm nhìn về một tương lai tươi sáng chỉ có đức tin mới có thể nhìn thấy giữa đêm tối dày đặc hiện tại.

"Này đây, sẽ đến ngày - Đức Chúa phán - Ta sẽ lập với nhà Ítraen và nhà Giuđa một giao ước mới." (Gr 3,31). Lời hứa Giao Ước Mới vang lên như một bài ca giữa bản nhạc ai oán tàn phá. Đây không phải một giao ước như xưa được khắc trên bia đá và dễ dàng bị phá vỡ, nhưng được viết trong tâm khảm con người, một biến đổi sâu sắc từ bên trong.

"Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta." (Gr 31,33). Giêrêmia vẽ nên bức tranh về một mối quan hệ mới mẻ và thân mật giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Giờ đây không còn khoảng cách, không còn rào cản. Mỗi người sẽ biết Chúa cách trực tiếp và cá nhân, từ người bé nhỏ nhất đến người cao trọng nhất.

"Người này sẽ không còn phải dạy người kia, hay nói với người nọ: Hãy học cho biết Đức Chúa, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta." (Gr 31,34). Nhưng điều kỳ diệu nhất Giao Ước Mới ở lời hứa về tha thứ trọn vẹn. Tội lỗi quá khứ sẽ được xóa sạch, không còn để lại vết tích.

"Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa." (Gr 31,34). Lời Giêrêmia tiên tri không chỉ một tia sáng hy vọng giữa bóng tối lưu đày, nhưng một bước ngoặt trong lịch sử tôn giáo, báo hiệu chuyển đổi từ một tôn giáo dựa trên luật lệ và nghi thức bên ngoài sang một đức tin dựa trên mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa.

Giêrêmia đang vẽ nên viễn cảnh một "tôn giáo của tâm hồn", nơi vâng phục không còn gánh nặng, nhưng kết quả tình yêu tự nhiên và hiểu biết về Thiên Chúa. Một chuẩn bị cho Tin Mừng, một tiền đề cho sứ điệp Chúa Giêsu nhiều thế kỷ sau.

Trong những ngày đen tối nhất lịch sử dân tộc, khi mọi thứ dường như đã mất, Giêrêmia đã nhìn thấy bình minh một kỷ nguyên mới. Ông đã nghe thấy nhịp đập trái tim Thiên Chúa, đầy lòng thương xót và tha thứ, khao khát được gần gũi với con người hơn bao giờ hết.

Lời tiên tri về Giao Ước Mới đã trở thành ngọn hải đăng hy vọng, không chỉ cho những người Do Thái bị lưu đày, còn cho tất cả những ai khao khát một mối quan hệ sâu sắc với Đấng Tạo Hóa. Và lời hứa ngay cả trong những thời khắc tăm tối nhất, Thiên Chúa vẫn đang hành động, vẫn đang mở ra những con đường mới, vẫn đang kéo mọi người đến gần Ngài hơn.

Giêrêmia, vị tiên tri của nước mắt, cuối cùng đã trở thành người mang đến niềm hy vọng lớn nhất. Qua ông, học được đôi khi chính trong những thời điểm đen tối nhất, ánh sáng tương lai lại tỏa sáng rực rỡ nhất. Và Thiên Chúa, trong tình yêu vô biên, luôn có một kế hoạch để biến đổi thất bại thành chiến thắng, biến đau thương thành niềm vui, và biến kết thúc thành khởi đầu mới.

5. Niềm hy vọng trong các lời sấm Giêrêmia

Giữa những lời tiên tri đầy u ám và cảnh báo nghiêm khắc, Giêrêmia vẫn để lại những tia sáng hy vọng rực rỡ. Những lời sấm hy vọng như những ngọn đèn le lói trong đêm tối, hứa hẹn một bình minh mới sau những cơn bão tố lịch sử. Giữa những lời cảnh báo về phán xét, Giêrêmia vẫn mang tia sáng hy vọng. Ông nói về một Giao Ước Mới không được khắc trên bia đá, nhưng được viết trong tâm hồn con người. Chúa phán qua môi Giêrêmia "Ta sẽ đặt luật pháp Ta trong tâm trí họ và khắc nó vào lòng họ,". Lời hứa về một mối quan hệ mới, sâu sắc và cá nhân hơn với Thiên Chúa.

Khi Giêrusalem sụp đổ và dân chúng bị đày đi sang Babylon, lời Giêrêmia vẫn vang vọng, về hy vọng giữa đổ nát, về phục hồi sau tàn phá. "Vì Ta biết kế hoạch Ta dành cho các ngươi," ông nhắc lại lời Chúa "là kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai họa, để ban cho các ngươi một tương lai và một hy vọng."

Ban đầu, hy vọng trong lời sấm Giêrêmia gắn liền với lời kêu gọi ăn năn. "Hỡi Ítraen bất trung, hãy trở về," (Gr 3,12). Một hy vọng được neo vào lòng Thiên Chúa thương xót vô biên, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Hy vọng không phụ thuộc vào con người xứng đáng, nhưng vào tình yêu Chúa bất diệt dành cho dân Ngài.

Khi bóng tối cuộc lưu đày đã gần kề, Giêrêmia vẽ nên một bức tranh hy vọng mới Chúa phán qua môi ông "Vì Ta biết các kế hoạch Ta có cho các ngươi," "là kế hoạch thịnh vượng, không phải tai họa, để ban cho các ngươi một tương lai và một hy vọng" (Gr 29,11). Một lời hứa về phục hồi sau thời kỳ lưu đày, một lời hứa dân Ítraen có thể bám víu vào trong những ngày tháng lịch sử tối tăm nhất.

Nhưng Giêrêmia không dừng lại ở đó. Ông nâng tầm nhìn lên cao hơn, xa hơn, vượt ra ngoài ranh giới thời gian và không gian. Trong một khoảnh khắc, ông nhìn thấy một tương lai nơi Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới với dân Ngài "Ta sẽ đặt luật pháp Ta trong tâm trí họ, ghi tạc vào lòng họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân của Ta" (Gr 31,33). Một hy vọng về một mối quan hệ mới, sâu sắc và cá nhân hơn với Thiên Chúa, một mối quan hệ không còn bị ràng buộc bởi luật lệ bên ngoài, nhưng được khắc ghi trong tâm hồn.

Giêrêmia cũng mang đến hy vọng về một vị vua công chính từ dòng dõi Đavít "Này, sẽ đến những ngày - Đức Chúa phán - Ta sẽ cho mọc lên một mầm non ngay chính... Người sẽ thi hành công minh chính trực trong xứ sở" (Gr 23,5). Một hạt giống hy vọng Mêsia, một hy vọng sẽ nở hoa trong niềm tin Kitô giáo nhiều thế kỷ sau đó.

Cuối cùng, Giêrêmia mở rộng tầm nhìn hy vọng ra toàn thế giới, tiên báo một ngày khi "các dân tộc sẽ quy tụ bên Đức Chúa tại Giêrusalem" (Gr 3,17). Một hy vọng về một tương lai nơi không chỉ dành cho Ítraen, nhưng tất cả các dân tộc đều sẽ nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa chân thật.

Niềm hy vọng trong các lời sấm Giêrêmia không phải một hy vọng hời hợt hay dễ dãi, nhưng được sinh ra từ đau thương, được tôi luyện trong lò lửa thử thách. Hy vọng nơi một người đã nhìn thẳng vào vực thẳm phán xét nhưng vẫn tin tưởng vào lòng Thiên Chúa thương xót vô biên.

Hy vọng Giêrêmia là một hành trình, phát triển từ lời kêu gọi ăn năn đơn giản đến viễn cảnh về một trật tự thế giới mới chính Thiên Chúa cai trị. Hy vọng bắt đầu với Ítraen nhưng kết thúc bằng việc ôm lấy toàn thể nhân loại. Một hy vọng được neo vào bản chất Thiên Chúa bất biến, Đấng luôn trung thành với lời hứa, ngay cả khi con người thất tín.

Qua những lời sấm hy vọng, Giêrêmia cho thấy hy vọng thực sự không phải lạc quan mù quáng, nhưng niềm tin sâu sắc Thiên Chúa vẫn đang hành động, ngay cả trong những thời điểm tối tăm nhất. Ông cho thấy hy vọng có thể tồn tại song song với đau khổ, tương lai tươi sáng nhất thường được nhìn thấy từ đáy sâu thung lũng tối tăm.

Trong thế giới hôm nay, khi đối mặt với những thách thức và khủng hoảng dường như không thể vượt qua, lời sấm hy vọng Giêrêmia vẫn vang vọng qua các thế kỷ ; nhắc nhở Thiên Chúa vẫn đang viết nên câu chuyện, sau mỗi kết thúc đều có một khởi đầu mới, và tình yêu và lòng Ngài thương xót sẽ luôn có tiếng nói cuối cùng trong lịch sử nhân loại.

Giêrêmia một nhân vật phức tạp, vừa can đảm vừa dễ bị tổn thương, người loan báo phán xét và người mang lại hy vọng. Ông đại diện cho một bước phát triển quan trọng trong hiểu biết về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nhấn mạnh tầm quan trọng đức tin nội tâm và cá nhân. Sứ điệp ông tiếp tục có ý nghĩa sâu sắc đối với những người tin ngày nay, thách thức xem xét lại mối quan hệ mình với Thiên Chúa và với nhau.

Tóm lại, cuộc đời ông như một bài thơ về đức tin và lòng trung thành. Ông mang hình ảnh một người đã đấu tranh với Chúa và với chính mình, nhưng luôn giữ vững niềm tin. Thông qua nỗi đau và thử thách, ông trở thành tiếng nói của Chúa, một ngọn đèn soi đường cho dân tộc trong những thời khắc đen tối.

Tiếng nói Giêrêmia vẫn vang vọng qua các thế kỷ, nhắc nhở đức tin thực sự không phải về nghi lễ bề ngoài, nhưng biến đổi nội tâm. Lời sấm thách thức đối mặt với sự thật, dù có đau đớn đến đâu. Và trên hết, hứa hẹn ngay cả trong những thời điểm tối tăm, hy vọng vẫn tồn tại, và tình yêu Chúa không bao giờ thất bại. Qua ông, cho thấy đức tin thực sự đòi hỏi can đảm, tình yêu đôi khi đòi hỏi đối đầu, và ngay cả trong đau khổ sâu sắc nhất, Chúa vẫn luôn ở bên nhân loại hứa hẹn một tương lai tốt đẹp hơn.

Thêôphilê

Bài viết khác