Thứ Ba, 09 Tháng Mười Hai, 2025

Cựu ước Thế kỷ V: Thời kỳ Ba Tư

Cựu ước Thế kỷ V: Thời kỳ Ba Tư

Năm 538 trước Công nguyên, Cyrus, vua Ba Tư, xâm chiếm Ba-by-lon và giải phóng người Do Thái cùng các dân tộc bị lưu đày khác. Đó là cuộc trở về Pa-les-tin đầy khó khăn, việc tái thiết đền thờ (đền thờ thứ hai).

Ở Hy Lạp, đây là thế kỷ của Pericles, Socrates, việc xây dựng đền Parthenon.

Năm 490, sự bành trướng không thể cưỡng lại của Ba Tư bị người Hy Lạp ngăn chặn tại trận Marathon, gần Athènes.

Trong sự vắng mặt của vua-Đấng Mê-si-a, các tư tế từ đây thiết lập bản sắc tinh thần và đạo đức của dân tộc:

• Lê-vi 19,9-18

Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng ; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt : (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian : làm thế là (các) ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA. Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của ; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA. Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử : không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là ĐỨC CHÚA. Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA..

• Isaia III (các chương 56-66)

60.1 Hãy chỗi dậy, hãy chiếu sáng, vì ánh sáng ngươi hiện ra, vinh quang của Đức Chúa bừng lên trên ngươi. Này, bóng tối bao phủ trá đất, và sự u ám bao phủ các dân tộc; nhưng trên ngươi Đức Chúa bừng lên, trên ngươi vinh quang Ngài xuất hiện. Các dân tộc sẽ đi theo ánh sáng ngươi, và các vua theo sự rực rỡ của bình minh ngươi.

61.1 Thần của Chúa, Đức Chúa, ở trên ta, vì Đức Chúa đã xức dầu cho ta để đem tin mừng đến người bất hạnh; Ngài đã sai ta để chữa lành những người có tấm lòng tan vỡ, để công bố tự do cho những kẻ bị giam cầm, và sự giải thoát cho những tù nhân; để công bố một năm ân sủng của Đức Chúa, một ngày báo thù của Thần chúng ta; để an ủi mọi người sầu khổ; để ban cho những người sầu khổ ở Si-on, để trao cho họ một vương miện thay cho tro bụi, một dầu vui mừng thay cho tang chế, một áo choàng ngợi khen thay cho tâm thần chán nản, để người ta gọi họ là những cây thông của sự công chính, cây trồng của Đức Chúa, để tôn vinh Ngài.

Họ sẽ xây lại trên những tàn tích cổ xưa, họ sẽ dựng lại những đống đổ nát xa xưa, họ sẽ đổi mới những thành phố bị tàn phá, hoang tàn từ lâu. Những người ngoại bang sẽ ở đó và chăn giữ bầy gia súc của các ngươi, con trai của người ngoại bang sẽ là người cày ruộng và người làm vườn nho của các ngươi.

• Ét-ra, Nơkhêmia

Những sách này trình bày thực tế như đã được hiểu bởi những người Do Thái trở về từ cuộc Lưu đày ở Ba-by-lon. Việc bị đày không khắc nghiệt như nhau đối với tất cả mọi người và một số lượng lớn đã chọn ở lại Ba-by-lon nơi họ đã hòa nhập; họ đã tạo thành Cộng đồng Di cư đầu tiên. Những người khác, những người nghèo nhất không bị đày đi; họ vẫn ở lại Pa-les-tin và không theo kịp sự phát triển tinh thần và tôn giáo của đồng bào bị lưu đày. Họ đối xử khinh thường với họ gọi họ là "người Sa-ma-ri" và không muốn kết hôn với họ: xem Ét-ra 9; có lẽ, từ thời kỳ này có câu chuyện trong Sáng thế 24 nơi Áp-ra-ham từ chối gả con trai I-sác cho một cô gái bản xứ nhưng sai Ê-li-ê-de đem về cho ông một vợ từ Ba-by-lon.

• Thánh vịnh, I và II Sử biên niên, Ma-la-khi, Diễm ca

Những sách này được hoàn thành và xuất bản.

• Giô-na

Sách này thể hiện tinh thần cởi mở thừa hưởng từ nền văn minh Hy Lạp: các nhân vật đều là người ngoại giáo và đáng yêu; chỉ có người Do Thái Giô-na là khó ưa! Thần được coi lần đầu tiên là Đấng sáng tạo cả biển (1.9).

4.11 Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao ?”

• Ét-te, Đa-ni-ên

Trái ngược với sự cởi mở của Giô-na, những sách này thể hiện nhu cầu của một số người khẳng định bản sắc Do Thái và lòng trung thành với Thần trong sự đối lập với một thế giới bên ngoài được cảm nhận như thù địch.

Thế kỷ IV Thời kỳ Hy Lạp hóa

333. Alexander chinh phục và Hy Lạp hóa thế giới. Ít-ra-en mở cửa cho tâm trạng quốc tế này.

• Da-ca-ri-a

Alexande huy động thanh niên Giê-ru-sa-lem vào Đại quân của ông và phát triển một đội kỵ binh ấn tượng. Người ta gần như coi ông như Đấng Mê-si-a. Da-ca-ri-a phản đối: (đã gạch chân những ám chỉ đến Alexande và in đậm sự khác biệt với Đấng Mê-si-a)

9.9 Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò ! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi : Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa , một con lừa con vẫn còn theo mẹ. Người sẽ quét sạch ochiến xa khỏi Ép-ra-im và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem ; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất

• Thánh vịnh 47

Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi !

Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo !

Vì ĐỨC CHÚA là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,

là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.

Chính Người bắt muôn dân muôn nước

phải phục quyền và quỵ luỵ chúng tôi.

Người chọn lựa cho chúng tôi phần cơ nghiệp,

cơ nghiệp làm cho kẻ Người thương là Gia-cóp

được nở mặt nở mày đ.

Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,

CHÚA ngự lên, vang dội tiếng tù và e.

Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,

đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta !

Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu,

hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.

Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,

Thiên Chúa ongự trên toà uy linh cao cả.

Kìa vương hầu các dân tề tựu

cùng dân Thiên Chúa, Chúa của Áp-ra-ham.

Mọi thủ lãnh trần gian g thuộc quyền Thiên Chúa,

Đấng siêu việt ngàn trùng.

• Thánh vịnh 148

Ca tụng CHÚA đi, tự cõi trời thăm thẳm,

ca tụng Người, trên chốn cao xanh.

Ca tụng Chúa đi, mọi osứ thần của Chúa,

ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên binh !

Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt,

ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi.

Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút,

cả khối nước phía trên bầu trời.

Nào ca tụng thánh danh ĐỨC CHÚA,

vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành ;

Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở,

ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua.

Thế kỷ III, II

Nền văn minh Hy Lạp hóa đang chiến thắng. Người ta điêu khắc tượng Vệ nữ Milo và tượng Thần chiến thắng Samothrace. Người Hy Lạp đôi khi bị sốc bởi chủ nghĩa đặc thù Do Thái, cương quyết với tư tưởng mới. Năm -167, họ cống hiến đền thờ Giê-ru-sa-lem cho thần Zeus; đó là sự gớm ghiếc của sự hoang tàn dẫn đến cuộc nổi dậy của nhà Mác-ca-bê. Những thành công đầu tiên của họ được kỷ niệm ngày nay bởi lễ Do Thái Hanouka, lễ Cung hiến.

Tuy nhiên nhiều người Do Thái đã rất Hy Lạp hóa; như vậy là Giảng viên.

Giảng viên (Qohéleth). Tư tưởng cởi mở, không có dấu vết các giáo lý của Do Thái giáo truyền thống: không đề cập đến giải phóng khỏi Ai-cập, lời hứa về đất đai, giao ước thánh tập trung vào Luật Si-na-i và lòng trung thành với các điều răn.

Sách thể hiện từ chối chủ nghĩa nguyên lý thống và những tuyên bố giáo lý. Mọi tuyên bố đều bị quét sạch, mọi thứ đều hư không: chỉ còn lại Thần và... đức tin! (hư không trong tiếng Do Thái nói là abel, thuật ngữ chỉ sự thoáng qua của hơi nước; đó là tên của A-ben bị Ca-in giết, do đó cuộc đời đã quá ngắn ngủi, quá ít ỏi)

Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời ? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn. Mặt trời mọc rồi lặn ; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. Gió thổi xuống phía nam, rồi xoay về phía bắc : gió xoay lui xoay tới rồi gió đi ; gió trở qua trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra obiển, nhưng biển cũng chẳng đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục. Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới. Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra : dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ ? Nếu có điều gì đáng cho người ta nói : “Coi đây, cái mới đây này ”, thì điều ấy đã có trước chúng ta từ bao thế hệ rồi. Chẳng ai còn nhớ đến người xưa, và đối với những người đến sau thì cũng thế ; các thế hệ mai sau sẽ chẳng còn nhớ đến họ l. Ta đã thấy mọi điều được làm dưới mặt trời; và này, mọi thứ đều hư không và theo đuổi gió.

3.1 Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời : một thời để chào đời, một thời để lìa thế ; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành ; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng ; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười ; một thời để than van, một thời để múa nhảy.

9.2 Được yêu thương hay bị ghét bỏ,con người đâu có biết ! Mọi sự đều có thể xảy ra. Mọi người đều như nhau, cùng chung một số phận : người công chính cũng như đứa gian tà, người tốt cũng như kẻ xấu, người thanh sạch cũng như kẻ ô uế, người dâng của lễ cũng như kẻ không dâng, người tốt lành cũng như kẻ tội lỗingười thề hứa cũng như kẻ sợ không dám thề hứa. Tai hoạ thảm hại nhất trong tất cả những gì xảy ra dưới ánh mặt trời là hết mọi người đều chịu chung một số phận như nhau. Cũng vì thế mà lòng dạ con cái loài người đầy những điều gian ác, tâm địa luôn ấp ủ chuyện điên rồ bao lâu còn sống trên trần gian, để rốt cuộc rơi vào cõi chết.

9.7 Vậy cứ ăn cho vui vẻ, uống cho thoả thích, vì Thiên Chúa đã vui nhận b những việc bạn làm. Lúc nào cũng hãy ăn mặc cho sang, mái tóc luôn xức dầu thơm phức. Cùng với người vợ yêu thương, bạn hãy hưởng trọn cuộc đời, hết mọi ngày trong kiếp sống phù du đã được ban cho bạn dưới ánh mặt trời, vì đó là phần bạn đáng được hưởng trong cuộc đời, giữa bao nhiêu công việc khó nhọc bạn làm dưới ánh mặt trời, trong những ngày của kiếp sống phù du.

Được thêm vào chính thức các bản dịch của Bản Bảy mươi (LXX) và Vulgata

• Nền văn hóa Hy Lạp hóa thống trị thế giới Địa Trung Hải. Người Do Thái sống phân tán, đặc biệt ở Ai-cập. Pharao, người có học thức, tổ chức tại Alexandria thư viện lớn nhất thế giới, cho việc này ông cho dịch Kinh Thánh Do Thái sang tiếng Hy Lạp. Bản dịch này được gọi là Bản Bảy mươi để tưởng nhớ bảy mươi giáo sĩ, theo truyền thuyết, đã thực hiện một cách nhất trí.

Ngũ thư được dịch như vậy vào năm 285 trước Công nguyên và giữa 250 và 200 đã xuất bản bản dịch các sách được gọi trong Kinh Thánh Do Thái "các tiên tri" (Các tiên tri đầu tiên: Giô-suê, Các Thủ lãnh, Sa-mu-en và Các Vua; các tiên tri sau: Isaia, Giê-rê-mia, Ê-dê-ki-en, mười hai tiên tri nhỏ).

Bản dịch của toàn bộ này gợi ý vào thời kỳ những sách này đã được coi là thánh thư. Khoảng năm 70 sau Công nguyên tại công đồng Pharisêu ở Jamnia, "Các Sách" cũng được công nhận là được cảm hứng, đó là Thánh vịnh, Gióp, Châm ngôn, Rút, Diễm ca, Giảng viên, Ai Ca, Ét-tê, Đa-ni-ên, Ét-ra, Nơkhêmia, Sử biên niên.

• Trong Bản Bảy mươi, xuất hiện những sách mới, các sách được thêm vào chính thức ("danh sách thứ hai"): Tô-bit, Giu-đi-tha, I và II Mác-ca-bê, Khôn ngoan, Sirach, thư của Giê-rê-mia, sách Ba-rúc, các chương 13 và 14 của Đa-ni-ên kể về câu chuyện của Su-san-na và các tư tế của Bel.

Tiếng Hy Lạp cho Kitô giáo, tiếng Do Thái cho Do Thái giáo. Cộng đồng Do Thái đã từ bỏ Bản Bảy mươi để trở lại tiếng Do Thái trong cuộc tranh luận với Kitô giáo đang hình thành. Các cuộc trao đổi lập luận kinh thánh diễn ra rất tự nhiên trên văn bản tiếng Hy Lạp của Bản Bảy mươi.

Đây là một ví dụ. Trong Isaia 7.14 Bản Bảy mươi nêu:

Này, trinh nữ sẽ có thai và sinh một con trai mà người ta sẽ đặt tên là Em-ma-nu-en.

Văn bản tiếng Do Thái, được gọi là "văn bản Massoretic" sử dụng từ alema chỉ một phụ nữ trẻ, vợ của vua hoặc tiên tri. Người Do Thái đã chọn tiếng Do Thái không đề cập đến sự sinh nở đồng trinh.

Các Kitô hữu tiếp tục đọc Bản Bảy mươi cho đến thánh Giêrônimô. Ông này, vào thế kỷ IV của thời đại chúng ta, định cư tại Bê-lem, đã dịch Kinh Thánh sang tiếng La-tinh, ngôn ngữ phổ thông của Đế chế. Đó là Vulgata Giáo hội Công giáo đã sử dụng cho đến gần đây. Giêrônimô chọn dựa trên bản gốc tiếng Do Thái hơn là Bản Bảy mươi: "veritas hebraica". Tuy nhiên ông bổ sung vào cuối tập Tô-bit, Giu-đi-tha, và các chương bổ sung của Đa-ni-ên dịch từ tiếng Hy Lạp.

Trong cuộc Cải cách thế kỷ XVI, Luther đã đưa ra đánh giá nghiêm khắc về những sách này, điều này theo phản ứng đã thu hút chú ý tích cực các Giáo phụ tại công đồng Trente. Các Tin lành đã đọc các sách được thêm vào chính thức cho đến thế kỷ XIX bằng cách coi chúng là thứ yếu nhưng hữu ích cho lòng đạo đức. Dưới ảnh hưởng của Hội Kinh Thánh Anh bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa nguyên lý mới nổi, các sách được thêm vào chính thức đã biến mất khỏi các ấn bản Tin lành. Ngày nay chúng không còn được đọc trong các Giáo hội Tin lành; người Công giáo hầu như không phân biệt với các sách khác trong Kinh Thánh.

Khi Bản dịch Đại kết Kinh Thánh được xuất bản vào năm 1975, người Tin lành và Công giáo đồng ý đưa chúng vào bằng cách quay trở lại trật tự Kinh Thánh Do Thái và đặt ở cuối Cựu ước.

Qumran, các bản thảo Biển Chết

Tại Qumran, vào thế kỷ III hoặc II trước Công nguyên, cộng đồng Étxênô, sống trong một môi trường khép kín, tách biệt với những người Do Thái khác, trong sự tìm kiếm sự trong sạch tối đa, chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng của Con cái ánh sáng nhân danh Thầy Công lý. Người ta đã tìm thấy ở đó thư viện của giáo phái được giấu một cách bí ẩn trong các bình, trong các khe hở của tảng đá và, trong số những thứ khác, các bản thảo Kinh Thánh tiếng Do Thái, do đó, lâu đời hơn một ngàn năm so với những bản người ta biết cho đến lúc đó. Thật vậy, các giáo sĩ, theo chủ nghĩa văn tự, phá hủy các bản thảo Kinh Thánh khi chúng cũ bằng cách đốt chúng hoặc nhét chúng vào tường của một giáo đường Do Thái.

Các bản thảo cổ khác của Cựu ước có từ thế kỷ XVI của thời đại chúng ta, và tuy nhiên giống hệt với những bản của Qumran, cổ xưa hơn không thể so sánh được, chỉ trừ một số khác biệt chính tả.

Thêôphilê

Bài viết khác