Thứ Tư, 10 Tháng Mười Hai, 2025

Tân Ước : Những năm 50-60

Tân Ước

Một số ngày tháng: Chúng ta không biết ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô. Có lẽ vào khoảng năm 7 đến 4 trước công nguyên. Chúng ta cũng không biết ngày Ngài quốct và phục sinh: vào khoảng năm 30 (ngày đôi khi được đề xuất là năm 33 cũng hợp lý như bất kỳ ngày nào khác!).

Chúa Giêsu thuộc nền văn hóa Do Thái Palestine, tiếng mẹ đẻ là tiếng Aram và bản thân Ngài chưa bao giờ rời khỏi Palestine nhưng sự di chuyển của con người và ý tưởng vào thời đó đã khiến Kitô giáo nhanh chóng lan rộng khắp Đế quốc La Mã. Tác nhân chính là Tông đồ Phao-lô: ông thuộc nền văn hóa Do Thái nhưng sống tại Tácxô, ở Tiểu Á, vùng đất có ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp.

Ngôn ngữ và tư tưởng Hy Lạp chiếm ưu thế rộng rãi trong Đế quốc và không có gì ngạc nhiên khi Tân Ước được suy nghĩ và viết hoàn toàn bằng ngôn ngữ này, ngoại trừ có lẽ Phúc Âm Mát-thêu mà một số người cho ban đầu có thể được viết bằng tiếng Aram trước khi được dịch sang tiếng Hy Lạp. Các văn bản cổ nhất là các thư của Phao-lô.

Những năm 50-60

Phao-lô

Từ năm 50 đến 60, Phao-lô đã viết các thư gửi người The-xa-lô-ni-ca, người Ga-lát, người Phi-líp-phê, người Cô-rin-tô, người Rô-ma.

Từ năm 61 đến 63, bị tù tại Rô-ma, ông đã có thể viết bức thư nhỏ gửi Phi-lê-môn. Chắc chắn một trong những môn đồ của ông đã viết các thư gửi người Cô-lô-xê và người Ê-phê-xô và sau đó một môn đồ khác đã viết các thư gửi Ti-tô và Ti-mô-thê.

Ông biến mất khỏi hiện trường mà không ai biết liệu ông có bị tử đạo tại Rô-ma trong cuộc bắt bộ lớn của Nê-rô hay ông đã được thả và có thể đi truyền giáo tại Tây Ban Nha như ông đã dự định (Rô-ma 15,28).

"Nếu chúng ta đã trở thành một cây với Chúa Kitô qua sự phù hợp với cái quốct của Ngài, chúng ta cũng sẽ như vậy qua sự phù hợp với sự phục sinh của Ngài... nếu chúng ta đã quốct với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ sống với Ngài." (Rô-ma 6,5-8)

"Tôi đã bị đóng đinh trên thập tự giá với Chúa Kitô, không phải tôi đang sống nữa, mà là Chúa Kitô đang sống trong tôi" (Ga-lát 2,20). Phao-lô lấy làm của riêng mình và trích dẫn một khúc của một bài thánh ca cổ:

Phi-lípphê 2,5 Hãy có trong các ngươi những tình cảm đã có trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng có điều kiện là của Đức Chúa Trời, Ngài không coi việc ngang hàng với Đức Chúa Trời như một chiến lợi phẩm để nắm giữ, nhưng Ngài đã từ bỏ chính mình, nhận lấy điều kiện của người nô lệ, trở nên giống như con người... Ngài đã hạ mình xuống bằng cách vâng phục cho đến quốct, cái quốct trên thập tự giá. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời cũng đã tôn cao Ngài lên cao nhất, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, để nhân danh Chúa Giêsu mọi đầu gối phải quỳ xuống trên trời, dưới đất và dưới lòng đất, và mọi lưỡi phải xưng nhận rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để vinh danh Đức Chúa Trời, Đức Chúa Cha.

Trong tư tưởng của Phao-lô, trọn vẹn thần tính vẫn hoàn toàn ở trên con người Chúa Giêsu, người vẫn hoàn toàn là con người. Không có sự thần thánh hóa Chúa Giêsu nào cả; cái quốct và sự phục sinh của Ngài hoàn toàn là của một con người:

I Cô-rin-tô 15,21 Vì vì sự quốct đã đến qua một con người, nên sự phục sinh của kẻ quốct cũng đến qua một con người. Và như mọi người đều quốct trong A-đam, thì mọi người cũng sẽ sống lại trong Chúa Kitô.

• Ê-phê-xô, Cô-lô-xê. Vai trò của Chúa Kitô ở đây mở rộng đến cấp độ vũ trụ:

Cô-lô-xê 1,12 Hãy vui vẻ cảm tạ Đức Chúa Cha, Đấng đã làm cho các ngươi có khả năng có phần trong cơ nghiệp của các thánh đồ trong ánh sáng; Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của bóng tối và đưa chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu của Ngài... Vì trong Ngài, mọi sự đã được tạo dựng trên trời và dưới đất, những gì có thể nhìn thấy và những gì vô hình, ngai, quyền cai trị, quyền lực, thế lực. Mọi sự được tạo dựng bởi Ngài và cho Ngài. Ngài có trước mọi sự, và mọi sự tồn tại trong Ngài. Đức Chúa Trời đã vui lòng cho toàn bộ sự đầy dẫy ở trong Ngài.

Thư Gia-cô-bê

Có lẽ đương thời với các thư của Phao-lô, tư tưởng rất khác, phản đối dữ dội giáo lý cứu rỗi bởi ân sủng trong thư gửi người Rô-ma:

2,14 Anh em của tôi, có ích gì nếu ai đó nói rằng họ có đức tin, nếu họ không có việc làm? Đức tin có thể cứu họ không? Nếu một anh em hoặc một chị em trần truồng và thiếu thức ăn hàng ngày, và một trong các ngươi nói với họ: "Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no!" và các ngươi không cho họ những gì cần thiết cho thân thể, thì có ích gì?

Đức tin cũng như vậy: nếu nó không có việc làm, nó đã quốct trong chính nó.

Ngươi tin rằng chỉ có một Đức Chúa Trời, ngươi làm tốt; nhưng các ma quỷ cũng tin như vậy, và chúng run rẩy. Áp-ra-ham, cha chúng ta, há không được xưng công chính bởi việc làm, khi ông dâng con trai mình là I-sa- ác trên bàn thờ sao?

Ngươi thấy rằng đức tin đã hoạt động với việc làm của nó. Như vậy, điều mà Kinh Thánh nói đã được hoàn thành: "Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và điều đó được kể cho ông là sự công chính".

Các ngươi thấy rằng con người được xưng công chính bởi việc làm, chứ không chỉ bởi đức tin.

Có vẻ như tác giả Mát-thêu, cùng hướng với Gia-côbê, đã nhắm đến tư tưởng của Phao-lô khi viết:

Mát-thêu 7:,9 Mọi cây không sinh trái tốt sẽ bị đốn xuống và quăng vào lửa. Vậy, các ngươi sẽ nhận biết họ qua trái của họ. Những kẻ nói với ta: "Chúa ơi, Chúa ơi!" sẽ không phải ai cũng vào được vương quốc thiên đàng, nhưng chỉ người nào làm theo ý muốn của Cha ta trên trời. Nhiều người sẽ nói với ta trong ngày đó: "Chúa ơi, Chúa ơi, chúng tôi há không đã nói tiên tri nhân danh Ngài sao? chúng tôi há không đã đuổi quỷ nhân danh Ngài sao? và chúng tôi há không đã làm nhiều phép lạ nhân danh Ngài sao?". Bấy giờ ta sẽ công khai nói với họ: "Ta chưa bao giờ biết các ngươi, hãy đi xa ta, những kẻ làm điều ác".

Tuy nhiên, Gia-côbê không thúc đẩy một cuộc đua lo lắng đến những việc làm tốt và càng ít thúc đẩy các cuộc hành hương, các bí tích và việc mua sự tha tội!

Thư thứ nhất Phê-rô

Có vẻ khó quy văn bản này cho chính Tông đồ Phê-rô: làm sao một môn đồ đã đồng hành với chức vụ của Chúa Giêsu lại không ám chỉ đến một lời nói hay một hành động mà ông không thể không chứng kiến? Làm sao một người đánh cá đơn giản ở hồ Ga-li-lê lại viết bằng tiếng Hy Lạp hoàn hảo như vậy? Chúng ta có thể đặt văn bản này vào những năm 60: có một số quan hệ với những mối quan tâm đạo đức và chính trị của các thư của Phao-lô.

Vì vậy, mối quan tâm hòa nhập vào xã hội La Mã thời đó và thực tế là chưa có thời kỳ bắt bớ (mặc dù những ám chỉ đáng lo ngại đã làm cho được cảm nhận trước):

I Phê-rô 2,11 Những người yêu dấu, tôi khuyên các ngươi, như những người lạ và khách hành hương trên đất, hãy tránh xa những ham muốn xác thịt gây chiến với linh hồn. Hãy có hành vi tốt giữa những người ngoại giáo, để ngay cả khi họ vu khống các ngươi như thể các ngươi là những kẻ làm ác, họ nhận thấy những việc làm tốt của các ngươi và tôn vinh Đức Chúa Trời vào ngày Ngài viếng thăm họ. Hãy phục tùng, vì Chúa, mọi quyền lực được thiết lập giữa loài người, dù là vua như người tối cao, hay các thống đốc như những người được gửi bởi Ngài để trừng phạt những kẻ làm ác và để tán thành những người tốt. Vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời rằng bằng cách thực hành điều tốt, các ngươi khiến những người vô tri và điên rồ im lặng. Hãy cư xử như những người tự do, không biến tự do thành một tấm màn che giấu sự xấu xa, nhưng hãy hành động như những tôi tớ của Đức Chúa Trời. Hãy tôn trọng tất cả mọi người; hãy yêu anh em; hãy kính sợ Đức Chúa Trời; hãy tôn trọng vua.

Có thể nghĩ rằng văn bản thanh thản và tự tin này, mang lại lòng can đảm và sức mạnh nội tại, đại diện tốt cho thế hệ Kitô hữu đầu tiên, chưa phát triển giáo lý sẽ theo sau với các nhà thần học vĩ đại là Lu-ca, Mát-thêu và Gioan.

Còn về thư thứ hai của Phê-rô, người ta thường đặt vào năm 125.

Thư gửi người Do Thái

Thời điểm xuất bản còn tranh cãi; chúng ta cũng có thể đặt vào cùng thời kỳ này: một đề cập đến các lễ tế thường xuyên được cử hành trong đền thờ Giê-ru-sa-lem có lẽ sẽ không được thực hiện sau khi Titus phá hủy đền thờ vào năm 70:

Do thái 10,1 Luật pháp (của Môsê) không thể, bởi những lễ tế giống nhau được dâng mãi mãi mỗi năm, đưa chúng ta đến sự hoàn hảo. Nếu không thì, người ta đã không ngừng dâng chúng, vì những người thực hiện sự thờ phượng này, một khi đã được thanh tẩy, sẽ không còn ý thức về tội lỗi của họ nữa? Nhưng sự nhớ lại tội lỗi được làm mới mỗi năm bởi những lễ tế này... Và trong khi mỗi thầy tế lễ mỗi ngày làm nhiệm vụ và thường xuyên dâng những lễ tế giống nhau, không bao giờ có thể xóa bỏ tội lỗi, (Chúa Kitô) sau khi dâng một lễ tế duy nhất cho tội lỗi, đã ngồi mãi mãi bên phải Đức Chúa Trời.

Bức thư này kỳ lạ; diễn đạt theo cách khó hiểu đối với chúng ta ngày nay bằng cách sử dụng các hình ảnh như các lễ tế, chức tế lễ của thầy tế lễ cả Do Thái, v.v. và gán tất cả những danh hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô.

Ở phần phía đông Đế quốc, thư gửi người Do thái được chấp nhận (người ta thậm chí còn tin rằng chính Tông đồ Phao-lô là tác giả) trong khi ở đó người ta không đọc sách Khải huyền; phương Tây đã có thái độ ngược lại: ở đó người ta đọc sách Khải huyền và hầu như không đọc thư gửi người Do thái. Chỉ đến cuối thế kỷ IV, thư gửi người Do thái và sách Khải huyền mới được chấp nhận chính thức trong Kinh Thánh.

Bài viết khác