Chương một
Hoàng hôn đã bảng lảng ở hướng tây với ánh nắng vàng vọt cuối ngày. Mặt trời hồng gắng gượng tỏa ra những tia sáng yếu ớt rồi khuất hẳn ở chân trời. Tiếng chuông chùa thu không nơi Phật tự hòa lẫn với tiếng côn trùng tỉ tê bên bờ ruộng tạo một âm thanh buồn nơi thôn dã. Nhà ông bà hội đồng Thân đã lên đèn. Ngồi ở ghế trường kỷ, ông trầm ngâm bên ấm trà, lơ đảng nhìn ra sân lờ mờ trong màn đêm, miệng bập bập điếu thuốc rê, phà khói rồi hớp một ngụm trà nóng. Bà ngồi trên bộ ván gõ, một chân chống, một chân xếp, chọn một lá trầu trong ô, trét lên chút vôi, ghép miếng cau tươi vào rồi đưa vô miệng nhai bỏm bẻm, tay xỉa thuốc, mắt nhìn chồng:
- Ông à, hôm nay đi ăn giổ về, tôi thấy ông không được vui?
Vẻ mặt đăm chiêu, ông thở dài:
- Thì chuyện thầy phán Thông tiết lộ với tôi trong bửa tiệc đó, bộ bà quên sao?
Bà hội chợt nhớ:
- Việc đó có gì mà ông lo dữ vậy?
Ông cau mày:
- Theo bà thì thế nào?
Bà cười khanh khách, giọng đầy hân hoan:
- Con trai mình được nhà nước Pháp chọn cho qua Tây học thì hãnh diện lắm chớ, tại sao ông lại buồn?
Biết vợ mình không am tường thời sự, ông liền giải thích:
- Bà có biết chiến tranh sẽ bùng nổ ở Âu châu mà chiến trường là nước Pháp. Nếu cho thằng Sang đi Tây thì tôi sợ nó không có ngày về.
Mặt bà đang hớn hở bỗng tái nhợt:
- Trời đất qủy thần ơi, vợ chồng mình chỉ có nó là con trai, tôi nhứt quyết không đưa nó vào chỗ chết đâu.
Miên man suy nghĩ, ông thiểu não:
- Ý bà như ý tôi, bởi thế tôi đang lo tìm phương cách.
Bà thấp thỏm:
- Rồi ông tìm ra chưa?
Ông lắc đầu chán nản:
- Chưa, nhưng thế nào cũng phải có.
Không nén được nỗi lo âu, ông tiếp:
- Bà biết không, ai cũng cho mình có phước vì cả lục tỉnh Nam kỳ, chính quyền chỉ chọn có mười gia đình trung thành với họ và đặc ân cấp học bổng cho con qua Tây học. Nếu như bình yên thì đó là đại phước cho thằng Sang, nhưng hiện nay thật quá nguy hiểm cho con mình.
Bà nhanh nhẩu đề nghị:
- Hay là ông cứ từ chối không nhận.
Vốn là người nịnh bợ mẫu quốc gây phiền nhiễu cho dân, ông nhăn mặt khó chịu:
- Xưa nay, lịnh trên ban xuống tôi răm rắp thi hành, nếu chuyện này tôi cải lại sẽ làm phật lòng quan đầu tỉnh vì ông đã đề nghị thằng Sang.
Đoạn ông tìm lời trấn an vợ:
- Để thủng thỉnh rồi tôi tính. Vã lại mình cũng chưa được giấy báo, chỉ mới nghe thầy phán Thông bên tòa bố Sađéc cho biết thôi.
Bà hội quắc mắt nhìn chồng:
- Ừ, ông tính thế nào thì tính miển là thằng Sang không đi Tây là được.
Rồi bà nhắc khéo:
- Mình phải lo trước, đừng đợi nước tới trôn mới nhảy e không kịp.
Hơi cáu kỉnh, ông lừ mắt:
- Tôi biết mà bà !
Ngoài trời đêm, gió thổi hiu hiu lay động tàu lá chuối ;đàn đom đóm lập lòe, bầy cúm núm gọi buồn trong lung, ngọn đèn dầu vẫn lạnh lùng rọi bóng hai người lên vách. Thằng Tâm từ sau bếp tiến ra đóng cửa, gài then rồi lặng lẽ trở vào trong phòng giăng mùng, đập muỗi chuẩn bị giường chiếu cho chủ ngủ.
Ông hút xong điếu thuốc rê thì bà cũng vừa nhổ bã trầu đoạn ra sau bếp múc gáo nước xúc miệng trước khi lên giường nằm. Đêm nay ông thao thức, bà trăn trở, thỉnh thoảng họ buông tiếng thở dài. Ở phòng bên cạnh, cô hai Giàu và cậu ba Sang thản nhiên đi vào giấc ngủ êm đềm.
Nhà ông bà hội đồng tọa lạc trong vùng châu thổ sông Cửu long, được xây cất theo lối kiến trúc xưa. Vì kiêng cữ không muốn làm đường từ cổng rào đâm thẳng vào nhà, ông bảo thợ lót gạch tàu làm lối đi bên phải của sân để người ngoài vào hoặc rẽ trái bước lên năm bậc thềm trước mặt tiền nhà rồi vô cái hàng ba có lan can bao quanh, hoặc họ đi theo bên hông nhà ra sau bếp cũng tiện. Từ cửa ngõ bước vô, ông cho trồng dọc theo đường hai hàng cau thẳng tắp, tàu lá xòe như đuôi công. Giữa sân, ông mướn xây một hòn non bộ gồm những viên đá tàn ong đỏ xen lẫn với đá trứng nhẵn nhụi. Có tượng ngư ông câu cá, tiều phu vác củi, hai tiên ông ngồi đánh cờ bên cạnh cây cầu vòng và cái tháp ba tầng bằng đất nung. Gần hòn non bộ là các chậu kiểng mà hàng ngày ông uốn nắn cắt tỉa. Mỗi độ xuân về, ông hội tự tay lặc lá hai cây mai chiếu thủy. Quanh nhà sum xuê nhiều cây ăn trái như cam, quít, ổi, mãng cầu, xoài, mít, đu đủ, dừa. Sau hè có thêm hàng cây cau phủ đầy dây trầu xanh leo từ gốc lên đến buồng. Bà hội thích nằm đong đưa trên chiếc võng bắt ngang hai thân cây dừa, đưa mắt nhìn hàng cau sai trái, hoa cau trắng ngà rơi lả tả theo gió, tỏa hương thơm ngạt ngào mộc mạc.
Qua khỏi cái hàng ba là ba gian rộng nền lót gạch bông. Gian phải và trái đều có cửa sổ song sắt trông ra vườn; hai bộ ván gõ mun đen dày được kê sát vách, hai cái tủ cẩm lai màu nâu nằm gần bên. Gian giữa có một tủ lớn bằng gỗ trắc cẩn ốc xà cừ chạm trổ rất khéo dùng làm bàn thờ tổ tiên. Trước tủ thờ, ông đặt bộ trường kỷ để tiếp khách. Tám tấm hoành phi mang nhiều câu đối treo lủng lẳng trên hai hàng cột gỗ song song nâng mái nhà lợp bằng ngói đại và ngói tiểu.
Sau hai bức màn cạnh tủ thờ là phòng ngủ thoáng mát của vợ chồng ông và cô Giàu cậu Sang nhờ mấy cửa sổ nhìn ra sông. Phải xuống năm bậc thềm để đi qua cái sân rộng lót gạch tàu dùng làm nơi phơi lúa. Bên trái sân, ông cho xây một nhà tắm, một cái bếp rộng không xa bồ lúa và căn phòng cho hai gia nhân : con Lan mười tám tuổi còn thằng Tâm mới lên chín. Lối đi từ nhà trên xuống bếp được lợp mái ngói che nắng mưa.
Dựa bên mương sau nhà là cầu tiêu hướng ra sông, gần đó có chuồng nuôi gia súc. Vì nhà nằm cạnh giòng Sa giang, ông hội mướn xây một nhà thủy tạ ve ra sông để gia đình ngồi hóng mát đồng thời làm bến đỗ cho ghe bầu và tam bản vào chở lúa hoặc mua mão trái cây.
Trước nhà ông thấp thoáng hương lộ đi từ Sađéc qua Cao lảnh. Bên kia đường trải dài ngút ngàn ruộng lúa của gia đình ông bà hội.
Qua một đêm thao thức, vợ chồng hội đồng Thân trổi dậy khi trời vừa hừng sáng. Các vì sao đang tắt dần, bình minh bắt đầu ló dạng. Dưới ánh nắng rạng đông, cỏ cây vẫn còn đẫm ướt hơi sương. Mái ngói đình làng hiện ra dưới tàng cây. Ông hội ra sân nhìn bầy gà lục đục kéo nhau ra khỏi chuồng. Con gà trống dõng dạc nhảy lên đóng rơm vỗ cánh phành phạch vươn cao cổ gáy lanh lảnh át tiếng của những con gà tre gáy đua theo. Vài chị gà mái tơ theo đuôi anh gà trống tìm mồi rồi phủ phục nằm yên cho anh gà trống nhảy phóc lên lưng đạp mái. Con vịt mẹ đủng đình dẫn đàn con nhỏ ì ạch lội xuống ao trong khi con gà mẹ dắt bầy con ra vườn bới đất tìm trùng. Đàn heo trong chuồn ủn ỉn tranh nhau ăn.
Mặt trời lên cao dần, ánh nắng ban mai chiếu chênh chếch trên mái ngói ngôi nhà khang trang bề thế. Con Lan cho gia súc ăn xong liền quày quả vào bếp nấu nước pha trà mới cho ông bà chủ. Thằng Tâm cũng vén mùng chui ra, tất tả chạy lên phòng đánh thức cô hai, cậu ba chuẩn bị đến trường.
Tâm mồ côi cha lẫn mẹ lúc nào nó cũng không biết. Nó chỉ biết nó còn sống là nhờ tình thương của dì Hai Lụa, bạn của mẹ nó lúc hai người còn đi cấy thuê, gặt mướn. Theo dì Hai kể lại thì cha nó chết vì trúng gió cảm lạnh sau một ngày trầm mình dưới nước móc bùn đấp bờ mương vườn ông hội đồng. Vài tháng sau, mẹ nó cũng bỏ nó ra đi vĩnh viễn vì bạo bịnh. Dì Hai mang thằng bé mồ côi về đùm bọc cho đến khi nó lên tám tuổi. Vì nhận thấy mẹ nuôi mình mang một gánh nặng trên vai, bà góa chồng hẳm hiu nuôi đứa con gái tên Lài rồi đèo thêm nó nữa nên Tâm năn nỉ xin Dì Hai cho nó đi ở mướn nhà ông hội đồng. Công việc bà hội giao cho nó chỉ là những chuyện vặt vãnh, lắt nhắt, nhưng điều chính yếu là cõng cậu ba Sang đi học mỗi ngày rồi ở đó chờ cậu tan trường về.
Tâm có nước da ngâm đen mặn mòi, tính tình mộc mạc, một nhân dáng quê kệch với nụ cười hệch hạc dễ thương. Ngày hai buổi, thằng Tâm đưa lưng cõng cậu ấm Sang đi học, nhếch nhác như mèo tha chuột. Cô chiêu Giàu lẽo đẽo theo sau cười nói vô tư lự. Có hôm vì trời mưa, bờ đê trơn trợt, nó với cậu ba té ùm xuống ruộng, mình mẩy ướt mem. Mặt mày tái mét, lòng thấp thỏm sợ bị đuổi nên nó theo năn nỉ cô hai đừng mách lại với ông bà hội, đoạn cắm đầu chạy trở về nhà len lén mang quần áo khác cho cậu ba thay.
Nhớ lại ngày cậu Sang mới đến trường học vỡ lòng, Tâm đứng thập thò bên cửa sổ lớp để cậu ba trông thấy ngồi yên. Nếu bất chợt vắng bóng Tâm, cậu ré khóc inh ỏi rồi bỏ lớp chạy ra sân tìm. Cô giáo Hoàng bực mình nhưng vì nể bà hội đồng nên lặng thinh. Biết bạn đồng nghiệp khó xử, thầy giáo Lê đề nghị cô Hoàng cho thằng Tâm vào ngồi chung bàn với cậu ấm Sang cho yên cả lớp. Nhờ thế, Tâm có dịp học bằng hai mắt. Có đôi lúc nó quay sang nhắc cậu ba hoặc liếc qua nhắc con Lài trước sự ngạc nhiên của cô giáo. Không sách vở cũng chẳng bút mực, thằng Tâm nghe lóm cô giảng rồi cho vào trí nhớ. Chiều tan học về, nó giúp cậu ba đánh vần đoạn chạy sang nhà dì Hai Lụa xem con Lài tập đọc thông chưa ?
Thời gian lặng lẽ trôi. Cậu ba lên lớp tư học với thầy Lê thì thằng Tâm cũng được thầy cho vào ngồi chung bàn với cậu. Nhờ ông giáo nhiều lòng nhân ái, Tâm học hùn suốt niên khoá. Cả thầy Lê cũng như cô Hoàng đều nhìn nhận thằng bé quê mùa cục mịch mà lại có trí thông minh lạ lùng. Cậu ba Sang ngược lại ham chơi nhiều hơn học nên bị thầy cảnh cáo luôn. Lúc trời chạng vạng tối, Tâm phải kèm cậu chủ làm bài, học bài.
Tính cậu Sang hay láu cá, ỷ con nhà giàu thường hiếp đáp bạn cùng lớp. Học thì dở mà ranh mãnh lại giỏi nên có lần cậu chơi trò gian lận bị thằng Đực đánh bầm mặt. Tưởng được đầy tớ trung thành binh vực, nào ngờ Tâm làm ngơ nên cậu khóc la ầm ĩ. Chiều về, cô hai Giàu mách chuyện khiến bà hội nóng ruột con, rút cây chổi lông gà quất túi bụi vào mình Tâm. Tội nghiệp, nó co rúm người chịu đòn rồi thẩn thờ đi dọc theo bờ đê sang nhà dì Hai ngồi rắm rức khóc. Dì gạn hỏi Tâm mới kể hết đầu đuôi và lý do tại sao nó bị đòn. Con Lài nhìn Tâm xót xa bèn vào bên trong lấy chai dầu gió ra thoa lên những vết sưng trên lưng nó. Chạnh lòng, dì Hai nói lầm bầm trong miệng :
- Con bã ngỗ nghịch không biết dạy mà lại đi đánh người ở.
Đoạn dì vuốt tóc Tâm an ủi :
- Chiều giờ con ăn gì chưa ?
Nó lắc đầu.
- Dì nắm tay Tâm vỗ về :
- Thôi, ra sau ăn cơm với mẹ con dì.
Lài nhanh nhẩu tán thành :
- Phải đó, anh Tâm ở lại ăn cơm với em. Có cá bóng kho tộ ngon lắm .
Tâm đứng lên theo Lài vào bếp tỏ vẽ áy náy :
- Có anh, làm sao đủ cơm cho dì Hai với em ?
Miệng Lài cười tủm tỉm :
- Anh đừng lo, thiếu thì nấu thêm, nhà còn gạo mà !
Trời nhá nhem tối, đêm đang xuống, đồng ruộng mờ dần, rừng dừa bát ngát âm u, tiếng chuông chùa thu không rời rã. Trong túp lều tranh xiêu vẹo, ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ ngọn đèn dầu leo lét soi ba bóng người lên vách lá. Họ thân tình chia xẻ cho nhau vài con cá bóng kèo. Dì Hai Lụa nhìn Tâm chan nước cá kho vào cơm, cắn trái dưa leo ăn ngon lành, dì cảm thấy thương nó quá, muốn bảo Tâm thôi ở đợ, về sống hủ hỉ với mẹ con dì như xưa, làm những công việc đồng áng phát cỏ, nhổ mạ hay cấy lúa mướn mà tự do hơn, nhưng dì ngập ngừng vì biết Tâm không muốn tạo thêm gánh nặng cho mình.
Bên ngoài, mọi cảnh vật chìm hẳn trong bóng tối bao la, chỉ lập lòe vài con đom đóm trước ngõ, lũ ếch nhái, ễnh ương kêu inh ỏi ngoài truông tạo một âm thanh dật dờ trong khung cảnh thinh lặng chốn thôn quê. Tâm phụ giúp Lài rửa chén đũa xong rồi đứng lên chào dì Hai ra về để kịp dọn giường mắc mùng cho gia đình ông bà chủ.
Lúc chiều, con Lan chứng kiến cảnh thằng Tâm bị đòn, định chờ tối tìm lời an ủi. Lo bữa cơm chiều cho gia đình ông hội xong, nó dọn xuống bếp, lặng lẽ bưng chén cơm ăn với các món dư thừa còn lại. Thấy Tâm chưa về, Lan bới một tô cơm, sớt mớ rau lang vào dĩa để dành cho nó. Lan thương Tâm như đứa em ruột vì hoàn cảnh hai đứa chẳng khác chi lắm. Lan lớn hơn Tâm đến mười tuổi, giỏi xốc vác, quán xuyến mọi việc nên được ông bà hội tin tưởng và trả lương hậu, còn thằng Tâm thì coi như làm chuyện vặt vãnh nên bị chủ xem thường cho vài cắc mỗi tháng ăn bánh.
Năm tháng tiếp nối nhau, tình cảm anh em giữa Tâm và Lài cũng nẩy nở theo thời gian. Cậu ba Sang bị bạn học chế nhạo dè bỉu nên không bắt Tâm vác trên lưng như trước, họa hoằn lắm lúc đến cây cầu tre lắc lẻo cậu mới bảo Tâm cõng qua. Có lần vì lười học, cậu bị thầy Trọng mắng một trận nên thân:
- Học hành như mầy sau nầy đi kéo xe mà ăn.
Thầy Lê và cô Hoàng nghe qua ôm bụng cười:
- Ba má nó giàu nhứt vùng nầy, của ăn bốn đời chưa hết thì làm gì nó đi kéo xe? Coi chừng ông bà hội nghe được thì nguy.
Biết mình lỡ lời, thầy Trọng chột dạ lo:
- Tại tôi tức nó quá nên mắng bậy.
Đoạn thầy phân bua thêm với hai đồng nghiệp:
- Anh chị thấy, thằng Tâm, đầy tớ của nó, chỉ học lóm thôi mà giỏi bằng mười nó. Tội nghiệp thằng nhỏ bạc phận! Nếu có phương tiện thì với trí thông minh đó nó thừa sức học tới thành chung hay lên đến tú tài.
Y như thầy Lê và cô Hoàng đã đoán trước, hôm sau, bà hội đồng xách giỏ trầu ngoe ngoẩy đến trường tìm thầy giáo Trọng gây sự vì cậu ba Sang về mách lại với cha mẹ lời xỉ vả của ông giáo. Thầy Trọng phải hạ mình xin lỗi bà hội và hứa suốt niên học sẽ không nói nặng đến con trai bà. Nhìn thấy trò đời, thầy Lê cũng như cô Hoàng đều ngao ngán, chỉ còn biết an ủi bạn thôi.
Ngày cô hai Giàu và cậu ba Sang thi rớt bằng tiểu học thì chính là ngày ông bà hội nhận được giấy báo tin con trai họ được nhà nước Pháp cấp học bỗng cho sang mẫu quốc du học. Ngày giờ ra đi đã được ấn định trong thư. Ông bà hội phải đưa con lên Sàigòn họp mặt với chín đứa trẻ được chọn trong lục tỉnh Nam kỳ để người đại diện quan toàn quyền Pháp đưa xuống tàu. Bà hội được chồng thông dịch cho nghe, mặt biến sắc, tay run rẩy, miệng lấp bấp:
- Trời ơi! Làm sao đây ông?
Ông hội điềm nhiên:
- Bà đừng lo, tôi đã có cách.
Bà quýnh lên:
- Mà cách gì?
Muốn nói hết mưu kế cho vợ nghe nhưng ông do dự:
- Bây giờ chưa tiện cho bà biết. Điều cần nhứt là bà cứ làm theo lời tôi thì mọi việc sẽ ổn.
Đoạn ông nhướng đôi mắt sắc nhìn vợ:
- Ngày mai bà đi mua sắm vài bộ quần áo mới cho thằng Sang và cho cả thằng Tâm, mỗi đứa một đôi giày tây và cái nón nỉ.
Bà trố mắt không hiểu:
- Tại sao lại mua cho thằng Tâm?
Mặt ông điềm nhiên:
- Bà cứ nghe tôi đi.
Chợt ông nhớ thêm:
- Chút nữa tôi quên. Bà phụ con Lan chuẩn bị một bữa tiệc đãi con mình đi Tây.
Bà lừ mắt trân trối nhìn chồng:
- Ông đã hứa giữ thằng Sang lại, bây giờ ông tính tiễn nó đi. Trời ơi, tôi điên mất.
Rồi bà cay cú tiếp:
- Tôi nói thiệt, nếu mất thằng Sang tôi sẽ chết cho ông xem.
Sợ bà làm ầm nên ông vội giã lã:
- Bà yên tâm đi!
Ông ngồi tư lự trên ghế trường kỷ, hớp ngụm trà nóng, mắt nhìn ra vườn nhíu mày nghĩ ngợi đoạn hút thêm hơi thuốc rê, bà cũng têm thêm miếng trầu.
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi ngọn cau, ánh nắng ban mai xuyên qua cành mận, bà hội thuê xe thổ mộ đưa bà cùng cậu ba Sang với thằng Tâm ra chợ Sađéc mua sắm y như lời chồng căn dặn. Còn ông hội thì vận áo dài khăn đống đi mời vài khách qúy đến dự tiệc tiễn con trai ông đi học xa. Chỉ riêng thằng Tâm không hiểu ất giáp gì hết. Quả thật từ ngày nó vào ở đợ nhà ông bà hội, Tâm chỉ được bố thí cho chiếc áo cũ, cái quần sờn đít của cậu ba Sang, hôm nay tự nhiên bà hội đưa ra chợ mua đồ mới cho con trai bà và cho nó nữa. Hai chân lấm bùn của Tâm có bao giờ được diễm phúc xỏ vào đôi giày tây đâu? Lại có cả cái nón nỉ màu xám. Tâm tưởng chừng như từ trên cung trăng rớt xuống.
Chiều hôm đó, nó chạy sang nhà dì Hai Lụa kể chuyện lạ đời làm dì cũng chưng hửng, lẽ nào bà hội tử tế với nó đến thế sao? Tối lại, ông hội đồng gọi thằng Tâm đến gần bảo nó lo thu xếp để vài ngày nữa theo cậu ba lên Sàigòn. Nét mặt thơ thới hân hoan, Tâm khoanh tay:
- Thưa ông, cậu ba lên Sàigòn ăn học, còn con lên trển làm gì?
Bà hội xen vào:
- Hồi đó đến giờ, cậu ba ở đâu thì mầy ở đó. Nay cậu đi học xa, mầy cũng đi theo lo cho cậu.
Vốn tính thật thà chất phác, Tâm ngoan ngoản tuân theo. Nó liền xuống nhà sau báo tin cho chị Lan biết rồi ung dung chui vào mùng chìm trong giấc ngủ đầy mộng mị. Sáng sớm, mặt trời hiện lên đỏ rực. Tâm trỗi dậy phụ Lan cho gia súc ăn. Vẫn đàn vịt xiêm đủng đỉnh dắt con ra ao, vẫn mấy con gà mái bới đất ngoài vườn, lũ gà con chiêm chiếp bu quanh chân mẹ. Con gà trống bệ vệ trong bộ lông trắng, mồng đỏ, vươn cao cổ cất tiếng gáy, lông phùng tròn xung quanh. Hôm nay bỗng nhiên Tâm cảm thấy thương cảnh vật quê mùa mộc mạc này quá. Nó đi thơ thẩn ra sau vườn, đưa tay vuốt ve buồng chuối sắp chín bói. Những trái chuối no tròn sẽ được chị Lan ép thành miếng phơi khô. Nó nhìn trân trối chú năm Ca đứng trên xuồng, hạ tay chèo, chống sào tránh đám lá dừa nước và nhánh bần ve ra sông. Tâm đi rong từ bờ đầu này đến giáp mương đầu kia, thu lượm những mo nang cau mà nó thường dùng để chơi phu xe với Lài. Vài hôm nữa, Tâm sẽ giã từ kỷ niệm ấu thơ. Trong đầu nó cứ lẩn quẩn câu hỏi : « Đi Sàigòn rồi chừng nào về? ». Tâm thả bộ ra con đường mòn dẫn đến nhà dì Hai. Vài mái tranh tỏa khói, nhà ai đó đã nổi lửa nấu cơm để mang theo ra ruộng. Những cây me keo hoang mọc bên đường rì rào theo làn gió thoảng. Cảnh vật sao thân thương đối với Tâm quá.
Dì Hai chuẩn bị quảy gánh cải ra chợ bỗng trông thấy Tâm mở cổng tre bước vào. Lài tiến đến gần chớp mắt cười lỏn lẻn:
- Cậu ba đâu mà anh đi một mình vậy?
Tâm thản nhiên:
- Còn ngủ.
Ánh mắt đăm chiêu, nó thuật chuyện đêm qua cho dì Hai với Lài nghe. Một thoáng buồn hiện trên gương mặt, Lài nghẹn lời rướm lệ:
- Anh đi rồi chừng nào anh về?
Tâm lắc đầu:
- Ông bà hội không có nói.
Đoạn nó tìm lời an ủi:
- Lâu lâu anh xin phép về thăm dì với em.
Dì Hai thở dài thương cảm cho thân phận nổi trôi của đứa bé sớm mồ côi. Nếu Tâm ở đây thì theo năm rộng tháng dài, đời nó như sáng nắng chiều mưa, cứ đem thân đi ở mướn, chi bằng nó cứ đi Sàigòn để tìm một dịp may vươn lên. Nghĩ thế, dì thân mật vỗ về:
- Đừng buồn con à. Con đi theo cậu ba lên Sàigòn, biết đâu con học được nhiều điều hay, nhờ thế mà tương lai con sẽ khá hơn ở dưới này.
Nghe lời dì Hai, Tâm thấy phấn khởi, nhưng nghĩ đến Lài sẽ lẻ loi hiu quạnh, lòng nó se lại. Tình cảm của đứa con trai mười hai tuổi đối với đứa bé gái mới lên chín thì chỉ là tình anh em qua nhiều năm chung sống dưới một mái nhà. Chợt nhớ đến giờ nhóm chợ, dì Hai quảy gánh lên vai rồi quay đầu lại hỏi:
- Mà chừng nào con đi?
- Dạ hai hôm nữa.
Dì phì cười:
- Hèn chi hôm qua bà hội mua sắm quần áo mới cho con.
Bỗng nhớ ra, dì tiếp:
- Trưa mai con qua đây ăn cơm. Dì kho mắm đãi con. Nhớ nghe!
Tâm khoái chí:
- Dạ, con cám ơn Dì.
Bà Lụa hối hả ra đi để Tâm ở lại với Lài. Nó trìu mến nhìn đứa bé gái:
- Anh đi, Lài có buồn không?
Rơm rớm nước mắt, Lài chỉ gật đầu. Tâm cũng bùi ngùi theo:
- Tại sao em buồn?
Cô bé ấp úng:
- Vì không còn ai chơi đùa với em, không còn ai binh vực em mỗi khi bị cô Hai ăn hiếp.
Lòng đau nhói, Tâm thấy thương Lài quá. Nó bắt sang chuyện khác để Lài quên buồn.
Chiều hôm đó, ông bà hội đồng tổ chức một bữa tiệc linh đình trên nhà thủy tạ để mừng con đi học xa. Các món đặc sản của Sađéc được bà hội chỉ vẻ cho con Lan nấu nướng để đãi khách. Nào là gỏi ngó sen tôm càng, lươn um, cá lóc nướng, vịt luộc nước mắm gừng. Ông hội niềm nỡ mời khách, cười nói hả hê rồi cầm chiếc nem Lai vung cắn một nửa với tiêu sọ, tỏi sống, đoạn đưa ly đế lên môi nốc cạn, khà một hơi sảng khoái. Thức ăn ê hề, khách vừa ăn vừa tấm tắc khen tài nữ công gia chánh của bà hội làm bà sung sướng cười híp mắt. Chỉ có con Lan với thằng Tâm chạy hụt hơi phục vụ mọi người.
Tiệc tàn thì mặt trời cũng bắt đầu xế bóng. Quả thật, từ ngày cha sanh mẹ đẻ, con Lan với thằng Tâm mới được một bữa ăn ngon, dù là các món dư thừa của khách để lại.
Sau một ngày vất vả, tối nay, Lan định ngủ sớm nhưng Tâm cứ ngồi cạnh bên thủ thỉ đến khuya. Những ngày sắp tới, vắng nó, Lan cũng thấy buồn. Ngoài trời đêm, cơn mưa lớn trút xuống. Những giọt mưa quất mạnh vào vách, gió rít từng hồi xoáy qua khe cửa, thổi thốc vào vườn cây, ánh chớp lập loè xé không gian tăm tối. Tâm kéo chiếc mền cũ trùm đầu đít, nằm co rúm vào góc bộ ván.
Trưa hôm sau, lúc mặt trời đứng bóng, Tâm khoan khoái đi ven theo bờ sông đến nhà dì Hai Lụa. Rừng dừa xanh bát ngát xỏa tóc soi mình trên sóng nước Tiền giang, những cụm điên điển vàng bông lắc lư trên thảm lúa trổ đòng đòng, đám lục bình lung linh trôi theo giòng nước . Xa xa văng vẳng tiếng gà eo ốc gáy, tiếng nhịp võng đong đưa kẻo kẹt hòa lẫn với tiếng hát ru con của nhà ai vọng lại làm Tâm chạnh buồn. Nó được sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi thôn dã, tình cảm gói tròn sau lũy trúc, bờ tre. Thế mà ngày mai nó phải ra đi, bỏ lại sau lưng nhiều kỷ niệm êm đềm. Suy nghĩ vẩn vơ, Tâm đến trước cổng nhà dì Hai lúc nào không biết. Con Lài chạy ra mừng:
- Anh Tâm, làm gì mà thẩn thờ vậy?
Nó châu mày:
- Tại anh buồn.
Lài cũng ngậm ngùi:
- Đâu phải chỉ một mình anh.
Nghe tiếng đối đáp của hai trẻ, dì hai bớt lửa riu riu nồi mắm kho, từ bếp bước ra. Tâm gượng cười:
- Thưa Dì con mới qua.
Dì Hai vui vẻ:
- Vào nhà đi con.
Lài giục mẹ :
- Xong chưa má ? Con dọn lên nghe!
Dì liếc con :
- Ừ.
Tâm đang đứng xớ rớ bên cạnh bộ ván :
- Để con phụ em Lài một tay.
Sáng nay đi bán về, dì mua các thứ để đãi Tâm một bữa mắm kho ăn với rau ghém. Dân Sađéc ăn mắm rất cầu kỳ. Mỗi người có một chén cơm nóng và một tô bằng sành để trộn rau với mắm. Ngó bông súng lột sạch chỉ, cắt từng khúc ngắn trộn chung với rau húng, tía tô, giấp cá, bắp chuối hột, dưa chuột xắt nhỏ cho vào tô rồi múc mắm đổ vào, vắt thêm chút chanh. Vài miếng thịt ba rọi thái mỏng, một khứa cá lóc, vài khoanh cà tím cũng đủ làm cho nồi mắm béo ngậy.
Dì Hai đưa bàn tay gầy guộc vuốt mấy sợi tóc xõa trên vầng trán nhăn nheo, mắt sung sướng nhìn con gái mình và thằng Tâm húp xì xụp, hết tô này chúng thêm rau cho đầy tô khác. Hai đứa trẻ ngây thơ nhai ngồm ngoàm hả hê khiến dì thấy vui lây.
Dọn rửa chén đũa xong, Tâm rủ Lài ra bờ sông chơi vì hôm nay ông bà hội đồng cho nó tự do để ngày mai sáng sớm lên đường đi Sàigòn. Trưa hè oi ả, bầu trời trong xanh, vài cụm mây trắng bồng bềnh lơ lửng trên không trung. Lài thân mật nắm tay Tâm :
- Chắc Sàigòn vui lắm hả anh ?
Tâm cười xòa :
- Anh chưa đi thì làm sao anh biết?
Tâm trìu mến nhìn Lài, lòng miên man nghĩ rồi đây Lài cũng là một thôn nữ quê nghèo như mẹ, sáng chiều hồn nhiên quanh quẩn bên mảnh vườn sào ruộng. Cuộc đời tuy lam lũ nhưng sạch trong, lòng dạt dào tình nghĩa. Cha mẹ Tâm ngày trước cũng từng dầm mưa dãi nắng, cuốc bẫm cày sâu, trái gió trở trời phó thác mạng sống cho số mệnh. Phải chi tía má nó còn sống thì chắc nó không bỏ nơi chôn nhau cắt rún nầy.
Gió lồng lộng từ mặt nước sông Cửu long thổi lên tung hai mái tóc rối bời. Vài đứa con trai ở truồng bì bõm tắm sông, tiếng chửi thề dòn dã thốt ra từ những cái miệng còn hôi sữa khiến Lài ngượng ngùng cúi đầu gầm mặt. Lài và Tâm vắt vẻo trên cây mận hồng đào rồi quanh quẩn rong chơi cho đến trời nhá nhem tối Tâm mới đưa Lài về. Nó bịn rịn từ giã dì Hai với Lài đoạn theo bờ đê trở lại nhà ông bà hội.
Trời vừa hừng sáng, Tâm trỗi dậy ngồi cạnh Lan bên bếp lửa. Bà hội đánh thức cậu ba Sang đoạn gọi con Lan căn dặn chăm nom cô hai Giàu và coi sóc nhà cửa lúc họ vắng mặt. Tâm cũng ăn mặc chỉnh tề ngồi đợi. Dĩa xôi được Lan dọn ra bàn cho gia đình ông bà chủ ăn lót dạ. Tâm vét nồi cơm nguội chan chút nước mắm tỏi ớt nhanh nhẩu nhai. Trước cổng nhà, chiếc xe thổ mộ được thuê bao chờ sẵn. Lúc ánh nắng chênh chếch rọi xuyên hàng cau thì cũng là lúc ông bà hội cùng con trai và thằng Tâm ôm hành lý ra xe. Nghe theo lời chồng, bà hội bắn tiếng cho láng giềng biết cậu ba Sang lên Sàigòn học có thằng Tâm theo phục dịch;bà giấu nhẹm chuyện đi Tây của con mình.
Chiếc xe thổ mộ vừa ra tới hương lộ, Tâm bỗng thấy con Lài chạy lúp xúp trên bờ ruộng vẫy tay chào. Nó mỉm cười đáp lại cho đến khi bụi đường phủ mờ hình bóng đứa bạn gái thân thương.
Ra đến Sađéc, họ xuống xe, khệ nệ chuyển hành lý qua chiếc xe đò đang chờ khách đi Sàigòn. Tiếng người bán vé mời gọi xen lẫn với tiếng anh lơ giục giã khách vào chỗ ngồi. Đúng giờ, tài xế cho xe từ từ lăn bánh qua cầu nhà thờ rời thị xã. Tâm ngồi cạnh cậu ba Sang nghe lóm bà hội giới thiệu cho con trai mình biết Nha mân, Cái tàu hạ, bắc Mỹ thuận. Sang sông Tiền giang, xe chạy qua An hữu, Cai lậy, Trung lương rồi trực chỉ Sàigòn.
Gần xế chiều, chiếc xe đò ỳ ạch vào Chợ lớn. Họ phải ngủ đêm trong một khách sạn nhỏ chờ sáng mai đưa con vào trường trình diện theo sự chỉ dẫn trong giấy báo. Ăn uống, tắm rửa xong, ông bà hội gọi thằng Tâm vào phòng họ. Đã đến lúc ông phải nói cho nó biết nhiệm vụ nó sắp lãnh. Khi nghe xong, Tâm mới vở lẽ vì sao thời gian gần đây ông bà đối xử với nó quá tử tế. Thì ra Tâm phải thay cậu ba đi Pháp học. Theo lời căn dặn của ông hội, nó thuộc nằm lòng tên mới của nó là Lê quang Sang, con ông Lê văn Thân và bà Trần thị Hợi.
Tâm ngỡ ngàng sửng sốt trước tin vui; nó bàng hoàng không biết đang mơ hay tỉnh? Vốn phận côi cút, Tâm đi đâu hay ở đâu cũng thế. Một vùng trời mở rộng trước mắt, nó phải nắm lấy cơ hội để vươn lên.
Hừng sáng, chỉ có ông hội đồng đi xe kéo với thằng Tâm đến trường vào gặp một ông tây đại diện nhà nước đưa mười học sinh của lục tỉnh Nam kỳ sang Pháp. Chỉ mất vài phút kiểm soát giấy tờ, Tâm được đưa lên lầu ở chung với chín cậu công tử chờ ngày mai xuống tàu. Cả bọn mặt mày ủ rũ, chỉ có Tâm vui vẻ hân hoan.
Ông hội đồng vội vã trở về khách sạn, lòng nhẹ nhõm vì mưu kế ông có hiệu quả. Ông tự nhủ nếu đại chiến có bùng nổ, nếu thằng Tâm có bỏ xác bên Tây thì cũng chẳng thiệt thòi cho ai, miễn con trai ông còn sống để nối dõi tông đường là được.
Hôm sau, ông cũng chẳng thèm ra bến nhà rồng tiễn Tâm mà trái lại ông giục vợ nhanh chóng cùng con rời Sàigòn trở xuống Vĩnh Long. Ông gởi gấm cậu ba Sang cho cha mẹ vợ rồi cùng bà hội về Sađéc. Cửa nhà vắng hai người trở nên quạnh quẻ. Ngày ngày, ông hội vẫn ngồi trên bộ trường kỷ khảm xà cừ nhâm nhi uống trà nhìn cây cảnh ngoài sân;bà vẫn ngồi trên bộ ván gõ bỏm bẻm nhai trầu. Mỗi tháng bà hội âm thầm xuống Vĩnh long thăm con để đốc thúc nó học hành. Nhưng khổ nỗi, không có thằng Tâm bên cạnh, cậu ba Sang trốn học thường xuyên vì không có ai làm bài giúp cậu. Sang lại tập tểnh theo ông ngoại đi đá gà rồi mê luôn.
Chương hai
Thấm thoát đã mười lăm năm rồi, cuộc đời bao nhiêu thay đổi. Trên đất Pháp, Tâm có dịp biết đủ bốn mùa xuân hạ thu đông. Xuân về thì hoa đào rực nở chen lẫn với lá xanh bát ngát rừng phong. Hè đến mang theo ánh nắng chan hòa trên thảm cỏ, vườn hoa, nhuộm vàng cả cánh đồng hướng dương. Trời vào thu, rừng phong đổi màu, gió rít từng cơn, lá vàng, lá đỏ rụng bay lả tả khắp sườn đồi. Lập đông, mênh mông tuyết phủ, không gian mờ mịt, cảnh vật trắng xóa một màu, trời lạnh căm căm.
Khi xưa, lúc mới đến Pháp, mười đứa học sinh Việt nam được chính phủ phân tán đi nhiều nơi. Một gia đình khá giả nhận bảo trợ Tâm mang về Paris cho ăn học. Ông bà Colombani chỉ có một đứa con trai tên Charles đồng lứa tuổi với Tâm. Nhờ thế, nó bập bẹ thực tập nói tiếng Pháp được nhiều. Vốn thông minh và ham học, hai năm sau Tâm trở thành một học sinh xuất sắc trong trường, được thầy cô đề nghị cho nhảy lớp.
Thời cuộc biến chuyển nhanh. Khi Tâm và Charles đỗ tú tài thì đệ nhị thế chiến bùng nổ. Đức xâm lăng Ba lan xong liền xua quân đánh Pháp. Muốn tránh bom đạn, ông bà Colombani tản cư về quê ở Marseille. Charles bỏ nhà đi biệt dạng. Tâm được họ tín cẩn giao trọng trách quản lý nhà cửa và tiếp tục học y khoa; mỗi tháng ông bà chu cấp tiền cho chàng sống. Cũng may Tâm chưa xin vô quốc tịch Pháp nên chàng không bị động viên vào quân đội; Tâm đứng ngoài vòng chiến yên tâm học hành. Xem báo, Tâm được biết các nước thuộc địa, trong đó có cả Việt nam, phải tuyển mộ binh lính gởi sang mẫu quốc đánh Đức. Cầm cự chống trả chẳng được bao lâu thì chính phủ Pháp đầu hàng;toàn lãnh thổ bị quân thù chiếm đóng. Một nội các thần phục Hitler ra đời. Cuộc lùng bắt dân Do thái được phát động mạnh. Quân đội Đức dựng lên nhiều trại tập trung với lò sát sinh để giết người Do thái, dù họ là đàn bà hay trẻ con. Đạo quân của tướng De Gaulle di tản sang Anh quốc tiếp tục kháng chiến. Nước Mỹ cũng nhảy vào vòng, đánh Đức hầu cứu Anh và Pháp.
Tâm đã lên năm thứ sáu trường y khoa và đang thực tập tại một bịnh viện công. Một hôm, trên đường đến nhà thương, Tâm sực nhớ vì lơ đểnh quên khoá cửa, chàng hối hả trở về. Lúc bước vào, Tâm giật mình nhận ra dưới cầu thang có một bé gái ngồi co ro run rẩy. Chàng đến thân mật cầm tay nó:
- Em tên gì? Tại sao lại vào đây?
Quẹt ngang đôi hàng nước mắt, bé ấp úng:
- Sylvie.
Tâm vồn vã hỏi tiếp:
- Tại sao Sylvie ở đây?
Trong tiếng nấc nghẹn ngào, bé nói tiếng được, tiếng mất:
- Mẹ em bảo cứ chạy vô đây trốn.
Tân còn thắc mắc:
- Vì sao Sylvie phải trốn?
Đứa bé không trả lời, đưa tay rút trong túi áo một mảnh giấy trao cho Tâm. Chàng cầm lấy, liếc nhanh đọc vài chữ viết vội: « Xin cứu con gái chúng tôi, nó là đứa bé Do thái. Cha mẹ nó đã bị Đức bắt mang đi. Vô vàn đội ơn. » Tâm nhanh lẹ bế Sylvie xuống hầm rượu dưới nhà, đồng thời vứt mảnh giấy vào lò sưởi còn đang cháy. Ngay lúc đó có tiếng xôn xao trước cổng, Tâm vội chạy ra, giữ vẽ điềm tĩnh. Một thầy đội hiến binh Pháp, mặt hầm hầm nhìn Tâm:
- Ông có thấy một con bé Do thái chạy vào đây không?
Chàng lạnh lùng:
- Dạ không.
Lão vểnh râu gằn giọng:
- Ông cho chúng tôi khám nhà.
Trái tim muốn vỡ tung ra khỏi lồng ngực, Tâm cố gắng lấy lại bình tĩnh:
- Vâng, các ông cứ tự tiện.
Lão vênh váo nhìn quanh rồi đưa tay ra hiệu cho lính vào lục soát các phòng. Tâm lẽo đẽo theo họ, bỗng chợt thấy một sĩ quan bước vào, chàng mở lời:
- Chào trung úy.
Ông ta nhìn Tâm, nhíu mày ra chiều suy nghĩ, đoạn mừng rỡ vỗ vai chàng:
- Bác sĩ quên tôi rồi sao?
Moi trong trí nhớ, Tâm lắc đầu:
- Xin lỗi, tôi chịu.
Viên sĩ quan cười ngất:
- Hôm qua bác sĩ đã giải phẫu cứu con gái tôi.
Chàng gật gù:
- Đúng rồi!
Đoạn Tâm nói giã lã:
- Có lẽ tại ông mặc quân phục nên tôi nhận không ra.
Viên sĩ quan phân trần:
- Bác sĩ cảm phiền. Có người trông thấy một con bé Do thái buông tay mẹ nó, cắm đầu chạy về hướng nầy.
Tâm giã vờ hỏi:
- Thế còn cha mẹ nó đâu lại bỏ con?
Đọc được tư tưởng của Tâm, viên sĩ quan liếc xéo khinh khỉnh:
- Bị đưa hết lên xe lửa chở về Đức rồi.
Một người lính dưới quyền bước ra báo cáo:
- Thưa trung úy, các phòng trống không, trên trần nhà cũng chẳng có ai.
Ông sĩ quan quay lại hỏi Tâm:
- Nhà bác sĩ có hầm rượu không?
Chàng điếng hồn:
- Dạ có. Tôi đưa trung úy xuống xem.
Gã gật đầu:
- Vâng, xin bác sĩ đi trước dẫn đường.
Tâm bật đèn vừa đủ sáng, từ từ bước xuống thang, miệng cầu xin ơn trên phù hộ. Viên sĩ quan dùng khẩu súng lục gỏ mạnh vào vài cái thùng cây, nghe bên trong có rượu nên bỏ đi. Lão trung sĩ tập họp lính chờ lịnh trước sân. Viên trung úy bắt tay chào từ giã chàng rồi quày quả ra khỏi nhà. Tâm cẩn thận đóng cửa lại, đứng bên trong nghe ngóng. Tiếng thì thầm của lão trung sĩ vọng vào tai chàng:
- Tức quá, cô bán hoa bên kia đường thấy con bé chạy vô đây. Thế thì nó biến nơi đâu?
Trung úy phân trần:
- Tao mới chịu ơn ông bác sĩ hôm qua, nay mình làm mạnh quá khó coi. Mầy cứ cho vài tên mặc thường phục rình trước nhà xem.
Khi cả toán lên xe rời khỏi khu phố, Tâm mới hoàn hồn, chạy nhanh xuống hầm rượu, leo vào mở nấp cái thùng cây rổng ở giữa, kéo Sylvie ra. Vừa lạnh, vừa sợ, con bé run lập cập choàng tay ôm Tâm. Chàng bồng Sylvie lên lầu, tìm trong tủ quần áo ấm rộng thùng thình cho nó mặc tạm, đoạn hé màn cửa sổ xem tiệm bán hoa ở hướng nào để dễ bề giấu đứa bé đáng thương.
Nhìn Sylvie, Tâm chợt nhớ đến Lài. Ngày chàng ra đi, Lài cũng cở tuổi nầy. Tâm mường tượng giờ đây Lài đã trở thành một cô thôn nữ hồn nhiên với cây cỏ ruộng đồng hoặc đã có chồng con, tay bồng tay bế. Dĩ vãng năm xưa vùng sống lại. Nhớ quá góc bếp, chái hè, con đường đê mép ruộng, nhớ nhịp cầu tre dãi dầu sáng nắng chiều mưa, nhớ đàn cò trắng xoải cánh dài bay, nhớ những kỷ niệm buổi thiếu thời. Biết đến bao giờ gió tha hương chuyển hướng trở về nguồn?
Từ ngày có sự hiện diện của Sylvie , Tâm cảm thấy bớt cô đơn. Làm việc cật lực trong bịnh viện hai buổi sáng chiều, tối về, Tâm dạy Sylvie học. Nhờ thế, năm tháng cũng nối tiếp đi qua; chỉ tội nghiệp cô bé bất hạnh phải sống phập phòng lo sợ triền miên.
Tâm trình luận án bác sĩ xong thì quân đồng minh cũng đổ bộ lên Normandie giải phóng nước Pháp. Mỗi ngày, tin chiến thắng đưa về làm nức lòng dân chúng. Càng lớn, Sylvie có một vẽ đẹp diễm kiều, dáng dấp thanh tú, da trắng, môi son, thân hình cân đối, mái tóc vàng óng ả xõa bờ vai.
Khi đạo quân của tướng De Gaulle vào thủ đô Paris, Sylvie cùng Tâm ra khải hoàn môn chào đón chiến sĩ giải phóng. Lúc trở về, tình cờ Tâm chạm mặt viên sĩ quan hiến binh ngày trước. Hắn bẽn lẽn đến bắt tay chàng:
- Chào bác sĩ, ông vẫn còn ở chỗ cũ?
Tâm giữ vẽ thản nhiên:
- Chào đại úy, tôi luôn ở trọ nơi đó.
Hắn liếc nhìn Sylvie đoạn hỏi nhỏ:
- Bạn gái của ông đấy à?
Với nụ cười mỉa, Tâm đáp:
- Đúng thế, cô bé mà ông tìm bắt mấy năm trước đó.
Gã trố mắt kinh ngạc:
- Thế chính ông giấu con bé à?
Sylvie quắc mắt phẫn nộ:
- Nhờ vậy tôi mới còn sống đến ngày nay để gặp lại ông.
Cảm thấy không khí căng thẳng, Tâm nắm tay Sylvie kéo đi trước vẽ mặt sượng sùng trơ trẽn của gã đại úy.
Hai người về đến nhà thì Charles cũng đang đứng trong sân chờ. Lâu ngày gặp lại, hai bạn ôm nhau mừng rỡ. Tâm liền giới thiệu Charles với Sylvie rồi thư thả kể cho bạn nghe cuộc đời nghiệt ngã của cô gái Do thái. Đêm về, ngôi nhà rộn rã tiếng cười. Trong phòng khách, Charles tâm tình kể cho bạn và Sylvie nghe những năm theo De Gaulle kháng chiến giải phóng quê hương, dù bao lần vào sanh ra tử, chàng vẫn toàn mạng trở về thủ đô ca khúc khải hoàn. Sylvie chăm chú theo dõi với ánh mắt ngưỡng mộ người trai yêu nước.
Từ Marseille, ông bà Colombani hối hả đáp xe lửa lên Paris gặp lại con. Sylvie vui vẻ theo Tâm và Charles ra ga đón chào họ. Giây phút trùng phùng thật cảm động. Động lòng trắc ẩn nhớ đến mẹ cha, Sylvie không cầm được nước mắt; Tâm cũng bùi ngùi thương hại cô gái bạc phần.
Ngày vui tương ngộ qua mau. Tâm tiếp tục đầu tắt mặt tối với nhiệm vụ lương y trong khi Charles rảnh rỗi đưa Sylvie đi đó đây nghe ngóng tin tức cha mẹ nàng. Đôi lúc hai cặp mắt nhìn nhau nhưng không cùng một suy nghĩ. Charles cảm nhận chàng đã yêu Sylvie trong khi nàng vẫn hờ hững.
Một chiều cuối tuần, Ông bà Colombani đi dự dạ hội, Tâm ở lại nhà với Sylvie. Hai người ngồi trong phòng khách chuyện trò. Mặt đuộm buồn, Sylvie nhìn Tâm bóng bẩy hỏi:
- Anh có dự tính tương lai chưa?
Tâm không chút chần chừ:
- Có chứ.
Mắt chớp nhanh, đôi môi nàng mấp máy:
- Em có thể biết được kỳ vọng của anh không?
Tâm nghiêm chỉnh đáp:
- Cố gắng làm việc hầu có một số vốn.
Nàng cười tủm tỉm:
- Để mở phòng mạch tư tạo cơ ngơi chứ gì?
Chàng lắc đầu:
- Không phải thế.
Ngơ ngác không hiểu, Sylvie sốt ruột giục:
- Vậy nói cho em nghe đi!
Nét mặt Tâm thơ thới hân hoan:
- Anh sẽ về nước giúp dân tộc anh.
Đầy vẽ thán phục, nàng ấp úng:
- Em xin lỗi vì đã nghĩ sai về anh.
Bất chợt, Charles từ trong phòng riêng bước ra, tiến đến ngồi đối diện hai bạn góp lời:
- Tao không ngờ mầy có tinh thần yêu nước đến thế. Hoan hô người đồng chí!
Sylvie rúc rích cười còn Tâm thì tròn mắt nhìn Charles:
- Ê, nghe lén hả bạn?
Quay sang Sylvie, Charles thấp thỏm:
- Em có tìm được người quen chưa?
Lệ chảy vòng quanh khóe mắt, nàng buồn bã:
- Chưa anh à !
Tâm tìm lời an ủi :
- Có bọn anh phụ giúp, thế nào em cũng biết được tin cha mẹ em. Mình nên ẩn nhẩn chờ đợi.
Giọng nàng nghẹn ngào đầy cảm xúc:
- Chắc bọn Đức đã giết chết ba má em rồi.
Charles xen vào:
- Đừng nói gở, theo tin báo chí, có nhiều người Do thái được cứu thoát ra khỏi trại tập trung. Hy vọng đi Sylvie !
Ngoài trời đêm, cơn mưa lớn đổ xuống thành phố nhạt nhòa. Họ nhìn mưa rơi với nỗi niềm riêng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ.
Ngày tháng bước dần vào cuối xuân, Charles về Marseille thăm cha mẹ, đồng thời tiết lộ hoài bão của Tâm. Ông bà Colombani thương Tâm như con nên âm thầm tính toán. Ở Paris, một chiều thứ bảy, Tâm đang ngồi đọc sách bỗng thấy thấp thoáng Sylvie đi phố về, bên cạnh có người đàn ông đứng tuổi. Chàng ngạc nhiên bước ra. Nhìn vẽ mặt hớn hở của Sylvie, Tâm đoán nàng có tin vui. Quả thật, Sylvie vừa gặp được người chú ruột từ bên Anh về bôn ba tìm anh chị và đứa cháu gái. Nhờ lối xóm kể chuyện xưa, ông mới hỏi han thăm dò và tình cờ gặp được Sylvie đang hội họp với những người Do thái vừa thoát chết để biết tin cha mẹ mình.
Sylvie hân hoan giới thiệu chú Jacob với Tâm, chàng mời ông vào phòng khách trò chuyện. Sợ Tâm không tin, ông móc bóp rút ra hai bức ảnh gia đình chụp chung ngày xưa lúc Sylvie còn bé. Dù bao năm xa cách, ông vẫn chắt chiu kỷ niệm kể cho cháu nghe. Ông trốn sang Anh hai ngày trước khi anh chị và cháu mình bị hiến binh Pháp bắt giải giao cho Đức. Đôi mắt chợt buồn, ông bùi ngùi cho Tâm biết cha mẹ Sylvie đã bị giết chết trong lò hơi ngạt. Sylvie ngả đầu vào vai Tâm nức nở khóc. Chàng bàng hoàng trước nỗi khổ của người con gái, đưa tay vuốt mái tóc nàng vỗ vành. Qua cơn xúc động, ông Jacob thân mật nắm tay Tâm :
- Thay mặt gia đình, tôi chân thành cám ơn bác sĩ đã cứu cháu tôi.
Chàng vội khoát tay :
- Ông đừng bận tâm.
Đoạn chàng đổi đề tài:
- Rồi ông có dự tính gì?
Gương mặt ông rạng rỡ niềm vui:
- Được Sylvie cho biết kỳ vọng của bác sĩ nên tôi xin tặng ông một số tiền để sớm hồi
hương thực hiện điều ông mong muốn.
Tâm cương quyết từ chối:
- Cám ơn lòng tốt của ông, nhưng tôi không thể nhận vì người Việt chúng tôi có câu: « Thi ơn bất cầu báo ». Làm việc phải mà chờ được trả ơn thì việc mình làm không còn ý nghĩa nữa.
Ông Jacob khẩn khoản:
- Số tiền tuy lớn nhưng không thể nào sánh được với mạng sống của cháu tôi. Tôi chỉ xin bác sĩ cho tôi góp phần vào việc thiện khi ông về nước.
Với nhân dáng đôn hậu đằm thắm, Tâm từ tốn:
- Một lần nữa, xin ông hiểu cho, tôi không thể nhận.
Rồi Tâm điềm đạm hỏi:
- Còn Sylvie ?
Lặng lẽ nghe chú và Tâm đối đáp, Sylvie thầm cảm phục người thanh niên Việt khí khái, giàu lòng nhân ái, nàng thỏ thẻ :
- Em sẽ qua Luân đôn sống với chú em một thời gian rồi thu xếp về Jérusalem tiếp tay tái lập quốc gia Do thái.
Tâm hoan hỷ:
- Ồ hay quá ! Mừng cho em và cho cả dân tộc Do thái.
Biết không thuyết phục được Tâm, ông Jacob đành đứng lên siết tay chàng kiếu từ, hẹn vài ngày nữa sẽ đến đón cháu mình. Tối hôm đó, Tâm và Sylvie thức thật khuya để tâm sự. Họ tự hào có trong tim một mẫu số chung, mắt cùng nhìn về một hướng, đó là tình yêu quê hương dân tộc.
Sylvie đi rồi, ngôi nhà trở nên trống vắng lạ. Tâm vẫn miệt mài làm việc trong bịnh viện. Ông bà Colombani và Charles trở lại Paris sống, giao cơ sở chế biến rượu nho cho người quản gia ;ngoài ra, họ cũng đã có quyết định về Tâm. Ăn tối xong, gia đình quây quần trong phòng khách ấm cúng, Charles lấy bốn cái ly pha lê, mang ra chai rượu champagne ướp lạnh. Thoáng thấy không khí có vẽ trịnh trọng, Tâm cất tiếng hỏi:
- Ăn mừng gì đây Charles? Lên cấp bậc à ?
Bà Colombani đáp thay con trai mình :
- Khao con đấy.
Chàng chưng hửng:
- Con có làm gì đâu ?
Charles góp lời:
- Ba má có một quyết định quan trọng về mầy.
Tâm không hiểu nên ấp úng:
- Con xin chờ nghe.
Ông Colombani nhìn Charles rồi ngó Tâm mỉm cười hãnh diện gật gù:
- Nào Charles, con mở champagne đi. Mình cụng ly xong ba mới tuyên bố.
Charles vui vẻ làm theo lời cha trong khi Tâm ngơ ngác:
- Mừng sức khoẻ ba má.
Charles phụ họa theo:
- Mừng hạnh phúc gia đình mình.
Ông Colombani khoan khoái cười còn bà thì cảm động rớm nước mắt. Cạn ly xong, ông dõng dạc nói:
- Con đã đỗ đạt thành tài; nghe Charles kể con muốn trở về Việt Nam để giúp quồc gia dân tộc nên ba má đã ký vào chương mục ngân hàng cho con một số tiền lớn để về nước có phương tiện mở phòng mạch hay xây nhà thương, tùy ý.
Sự việc xảy đến quá bất ngờ, Tâm cảm động nghẹn lời, chàng tiến lại ôm chầm cha mẹ nuôi hôn lên má cám ơn; Charles cũng thân mật choàng vai Tâm chia vui.
Đời có lắm chuyện trớ trêu. Trong khoảng thời gian Tâm chuẩn bị hồi hương thì Charles cũng nhận được lịnh theo đoàn quân viễn chinh Pháp sang tái chiếm cựu thuộc địa Việt nam. Charles bẽ bàng trao giấy báo cho Tâm xem, mặt thẫn thờ:
- Như mầy thấy, ngày trước tao trở lại Paris được đón tiếp như người anh hùng vì đã đuổi được quân xâm lăng ra khỏi nước. Hôm nay, cũng chính tao lại đi xâm lược nước khác. Cái hào quang người hùng bị đánh mất vô lý.
Chàng thông cảm nỗi khổ tâm của Charles :
- Mầy chỉ là kẻ thừa hành. Tao sợ đời đưa đẩy mầy với tao ở hai chiến tuyến.
Charles phẫn nộ cay cú:
- Không thể như vậy được.
Tâm thở dài não nuột:
- Tại sao có những hạng người tự nhận mình có sứ mệnh cai trị thế giới rồi đi xâm chiếm nước khác ? Họ tự cho mục đích của mình là cao cả nhứt, sức mạnh của mình là vô địch, đường lối chính trị của mình là tuyệt hảo. Họ đâu biết thái độ của họ quá trịch thượng, chính sách của họ đã lỗi thời.
Lộ vẽ ương ngạnh, Charles cương quyết:
- Tao xin giải ngũ.
Tâm choàng vai bạn:
- Tao rất cảm phục mầy và chúc mầy toại nguyện.
Ngoài vườn, hoa hồng khoe sắc lung linh dưới ánh nắng chan hòa tỏa hương thơm ngào ngạt. Mây trắng bồng bềnh lang thang ngoài cửa sổ.
Chương ba
Cậu ba Sang ở với ông bà ngoại được ba năm rồi khăn gói trở về quê cũ với cha mẹ. Nhạc phụ ông hội đồng sợ trách nhiệm nên gọi con gái xuống Vĩnh long giao trả đứa cháu ngoại vì càng ngày Sang càng nhiểm nhiều thói hư tật xấu. Bà hội lại bắn tiếng cho láng giềng biết cậu ba đã học xong ở Sàigòn, nay trở về làng chăm sóc ruộng vườn phụ cha mẹ. Lối xóm không màng biết cậu đi hay về, họ chỉ thắc mắc tại sao thằng Tâm theo phục dịch cậu lại biệt tích ? Hai người lo lắng nhứt là dì Hai với con Lài. Trong đầu dì cứ lẩn quẩn câu hỏi không giải đáp: Nó đi đâu ? Sao không trở lại ?
Một hôm quảy gánh từ chợ về, dì gặp cậu ba Sang ôm con gà nòi đi đá độ bèn gạ hỏi:
- Cậu ba ơi, sao thằng Tâm nó không về với cậu ?
Hắn lúng túng kể:
- Hôm lên đến Sàigòn, nó theo ba tôi ra chợ Bến thành mua gì đó còn tôi thì ở lại khách sạn. Lúc trà trộn vào đám đông, Tâm bị lạc. Ba tôi tìm kiếm suốt buổi sáng cũng không gặp đành ra về.
Sang chấm dứt câu chuyện nơi đó. Nó không đề cập đến việc cha mẹ đưa nó về Vĩnh long ở với ngoại vì ông bà hội cấm Sang nói với bất cứ ai. Dì Hai nghe qua bán tín bán nghi lửng thửng về nhà thuật lại đầu đuôi cho Lài biết. Nó không tin và nhất quyết phải có uẩn khúc gì đây, lòng xao xuyến tự hỏi Sàigòn Sađéc có xa xôi gì đâu mà Tâm không trở lại ? Phải chăng Tâm muốn xa lánh cảnh đồng không mông quạnh quê mùa nầy mà tương lai trước mắt chỉ là một ngõ cụt đen tối ? Lài đứng ngơ ngẩn một lúc, hồn như lạc ở đâu đâu, lòng nghe nỗi buồn gậm nhấm.
Từ ngày đậu xong bằng tiểu học, Lài ở nhà phụ mẹ lo việc đồng áng, chiều chiều thơ thẩn ra bờ đê nhìn về hướng trời xa thấp thỏm chờ đợi một người.
Xuân đi rồi xuân đến, thời gian cứ hững hờ trôi. Thoáng cái mà đã mười mấy năm. Đám lau sậy ở ven sông không ai trồng vẫn mọc;con bé lam lủ cũng theo năm tháng trở thành cô thôn nữ trong trắng đẹp xinh. Lài có khuôn mặt trái soan, mái tóc óng mượt, cặp mắt nai tơ đen huyền, đôi môi đỏ mộng, hàm răng đều, chiếc mũi dọc dừa nho nhỏ, ngực thanh tân, eo thon, mông tròn, hai bàn tay búp măng thật xinh xắn. Chiếc áo bà ba đen ôm gọn người Lài càng làm nổi bật làn da trắng mịn. Tính tình nàng thùy mị, đằm thắm, nết na. Nếu so sánh Lài với các thiên kim tiểu thư, mắt thanh mày tú, nàng trội hơn họ nhiều nhờ dáng dấp thon thả, thân hình mảnh khảnh, một vẽ đẹp thanh thoát gợi cảm.
Lài càng trẻ đẹp thì dì Hai Lụa càng già nua, thân người khô đét, đôi vai còm cõi, vầng trán nhăn nheo, miệng móm sọm, bàn tay gầy guộc. Tội nghiệp dì đã bao phen vật vã với cảnh nghèo thiếu trước hụt sau, tảo tần buôn bán chỉ mong cho Lài no cơm ấm áo. Làm mẹ một cô gái có sắc đẹp trời ban, dì Hai vừa mừng vừa lo sợ vẩn vơ vì người xưa có câu hồng nhan đa truân.
Ngày thầy giáo Hoài nhờ người đánh tiếng dạm hỏi cưới Lài, mặt dì rạng rỡ. Nhưng khi hỏi ý con, nó lắc đầu từ chối, dì tiu nghĩu buồn. Ép dầu ép mỡ chớ ai nỡ ép duyên con, nghĩ thế, dì đành chìu Lài. Sau thầy Hoài lại đến con trai ông phán Thông cũng lân la đến làm thân với dì Hai vì cậu ta thập thò muốn làm rễ dì. Dù ông bà Thông chê bà Lụa nghèo không đáng mặt thông gia nhưng cậu hai Thái bất chấp, cứ lẽo đẽo bám theo Lài tán tỉnh.
Một buổi trưa hè, trời oi ả nóng, Lài ngồi tựa chái hè hong tóc mới gội còn thoang thoảng mùi bồ kết. Dì Hai lấy lược chải tóc cho con, miệng thì thầm khuyên nhủ:
- Con à, hoa chỉ nở một lần, người con gái cũng chỉ có một thời được thiên hạ ngấm nghé. Nếu cứ để tuổi xuân đi qua thì người thiếu nữ sẽ lỡ thời. Theo má thấy, thầy giáo Hoài rất đứng đắn, đàng hoàng, sao con không ưng ?
Đưa mắt nhìn lên bầu trời trong xanh lơ lửng cánh cò, Lài nũng nịu đáp:
- Con đâu có chê người ta, nhưng con chưa muốn lấy chồng má à !
Dì Hai cốc nhẹ lên đầu con:
- Bộ con tính ở vậy tới già sao ?
Ngả đầu vào vai mẹ, Lài cười lỏn lẻn:
- Thì có sao đâu ?
Tỏ vẽ không đồng ý, dì lẩm bẩm:
- Trai lớn lên có vợ, gái lớn lên có chồng, đó là lẽ tự nhiên của trời đất.
Đọc được tư tưởng của mẹ nên Lài giã lã:
- Thủng thỉnh rồi con tính mà má.
Dì Hai hơi yên tâm, tiếp tục chải mái tóc mượt mà của đứa con gái cưng. Từ xa tiếng hát ru con của thím năm Ca vọng lại :
Ầu ơ, sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ bao năm em cũng chờ.
Ánh mắt cô thôn nữ thoáng buồn, Lài cúi đầu che giấu. Tiếng kẽo kẹt võng đưa hòa với lời hát ân tình lảnh lót nối tiếp:
Trên trăng, dưới nước, em giao ước một lời.
Trăng mờ, nước cạn, không mấy đời phụ anh.
Lệ chảy vòng quanh khoé mắt rồi lăn dài xuống đôi má Lài làm dì Lụa sửng sốt;trong thâm tâm dì đoán được nỗi niềm riêng của con mình. Lài đứng lên, thẫn thờ cầm chiếc nón lá ra ven sông. Dì hai áy náy hỏi theo:
- Trưa nắng chang chang, con đi đâu vậy ?
Lòng héo hắt, Lài lầm lủi:
- Con rảo quanh trong vườn dừa cho mát.
Dựa lưng vào cây ô môi, Lài ngậm ngùi nhìn sóng nhấp nhô, mặt sông Tiền mênh mông trải dài, lục bình rời rạc trôi, con bìm bịp kêu nước lớn. Kỷ niệm chắt chiu từ thuở ấu thơ bỗng hiện về. Cây me già cằn cỗi vẫn còn đó, con đường đê bờ ruộng, đám bần ổi, mấy hàng cau vẫn y nguyên, chỉ có một người Lài thương tưởng lại biệt tăm. Mười mấy năm rồi còn gì. Cô đơn cứ vây quanh, nỗi buồn cứ chất ngất, ai hiểu được lòng Lài ? Nàng buông tiếng thở dài rồi lửng thửng lê bước đi qua những nơi đầy ấp kỷ niệm.
Cuối chân trời mây đen vần vũ kéo đến, gió rì rào thổi lắc lư tàu dừa nước. Lài quay gót trở về nhà phụ mẹ mang củi phơi khô trước sân vào vì cơn mưa to sắp đổ xuống. Ánh chớp lập lòe, tiếng sét inh ỏi, cả một khung trời âm u buồn hiu hắt.
Sáng tinh sương, trời se se lạnh, vài hạt sương mai còn đọng trên cành lá, tiếng tre già cọ nhau kẽo kẹt, lá mít khô nô đùa trên sân. Dì hai quảy gánh ra đi khi mặt trời lên khỏi ngọn cau, ánh sáng le lói xuyên qua kẽ vách. Vài người trong xóm, tay xách giỏ đựng nước uống, thức ăn, tay vác phảng đi thấp thoáng sau bờ đất. Con chó nhà ai sủa vang làm lũ chim chìa vôi đang hót líu lo hốt hoảng cất cánh. Mái ngói ngôi đình làng ẩn hiện dưới tàn cây đa già.
Lài ra sau vườn lấy vài nắm lúa cho gà vịt ăn rồi ngồi gần sàn nước xem đám gà con chiêm chiếp tung tăng dưới chân mẹ. Bỗng Lài ngẩng đầu nhìn ra cổng khi có tiếng ai oang oang; thì ra cậu ba Sang đang ôm gà đi đá độ. Lài đến bên nhánh xoài ve ra sông, hái mớ đọt non đem vào rửa để ăn với mắm lóc chưng.
Trưa nay, dì Hai có việc ra chợ Sađéc nên Lài lặng lẽ ngồi ăn cơm một mình. Rửa xong chén đũa, nàng đặt lưng nằm trên bộ ván chờ làn gió hiu hiu đưa Lài vào giấc ngủ. Bên kia nhà, giọng bà ru cháu rời rã buồn tênh:
Ầu ơ, chiều chiều chim, vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau.
Đang nhắm mắt chập chờn bỗng Lài hốt hoảng trỗi dậy vì có hai bàn tay ai nắm chặt vai nàng. Lài hớt hải cuống lên la :
- Cậu ba làm gì kỳ vậy ? Buông tôi ra.
Sang đỏ ngầu đôi mắt, miệng nồng nặc hơi men, tay ôm ghì lấy Lài, cười khả ố:
- Đừng la, qua thương em mà Lài.
Nàng cố sức vùng vẫy :
- Tôi lạy cậu, tội nghiệp tôi mà !
Hắn nham nhở :
- Chìu qua đi, qua sẽ cưới em làm vợ.
Lài phẫn nộ :
- Nhưng tôi đâu có thương cậu.
Tên công tử vườn háo sắc nhảy xổm lên bộ ván, hùng hổ xông tới kéo rách toạt chiếc áo Lài. Nàng chới với đưa tay ôm lấy ngực tức nghẹn lời. Gã bất chấp những lời van xin năn nỉ của Lài, chẳng nói chẳng rằng, dùng sức mạnh tuột quần Lài rồi đè lên người nàng. Lài chống trả mãnh liệt. Thừa lúc hắn đang quờ quạng, nàng đạp thật mạnh vào hạ bộ hắn, xô gã xuống đất đoạn phóng nhanh ra cửa la toáng lên cầu cứu rồi chạy sang nhà chú Năm Ca nức nở khóc. Ba Sang điên tiết rượt theo. Thím Năm nhìn thấy quần áo Lài rách tả tơi, thân thể gần như trần truồng, bèn lấy cái mền quấn ngang người nàng, còn chú Năm Ca thì đưa tay chụp cái rựa chẻ củi thủ thế, miệng thách thức :
- Đồ khốn nạn, ỷ giàu đi ăn hiếp nhà nghèo. Có giỏi bước vô tao chém bỏ mạng.
Trước cơn thịnh nộ với lời lẽ đanh thép của người tá điền, Cậu ba Sang chùn bước buột miệng phân trần :
- Tôi có làm gì nó đâu mà nó hô hoán như thế ?
Chú Năm Ca xỉ vả :
- Không làm gì mà quần áo nó rách te tua ?
Sượng sùng trơ trẽn, Sang huênh hoang :
- Mà tôi có sơ múi gì được đâu ?
Thái độ trịch thượng hống hách của ba Sang làm thím Năm bực dọc, ngoảnh mặt dìu Lài ra sau, lấy quần áo mình cho Lài thay. Bên ngoài, tên dâm ô vẫn mồm năm miệng mười, cả vú lấp miệng em, leo lẻo tráu trở. Chú Năm trề môi dè bỉu :
- Chuyện rõ như ban ngày, cậu có nói gì tôi cũng không tin.
Đoạn chú quắc mắt quát :
- Tôi khuyên cậu đừng bén mảng tới xóm này nữa. Nếu tái diển, tôi sẽ thí mạng với cậu đó.
Với nhân dáng điếm đàng, đầu óc đần độn, ăn nói hàm hồ, con trai ông hội đồng đe dọa :
- Ê, tụi bây đừng quên là đang ở trong đất của ba má tao. Tao muốn đi đâu thì đi, còn bọn mầy có ở được lâu hay không thì tùy.
Nói xong, hắn hằn học bỏ đi, miệng lầm bầm chửi thề. Vợ chồng Năm Ca giữ Lài ở lại nhà mình cho đến trời nhá nhem tối, dì Hai mới về tới. Lài chạy về ôm mẹ khóc sướt mướt kể lại tự sự cho mẹ tường. Tức giận cành hông, dì hối hả sang nhà Năm Ca cám ơn lòng tốt của bạn láng giềng đoạn hỏi ý :
- Tôi muốn làm lớn chuyện này cho thằng Sang bỏ tánh ngang ngược dâm đãng của nó. Theo ý chú thím thì sao ?
Chú Năm ái ngại :
- Chi Hai biết trên đời nầy phủ binh phủ, huyện binh huyện. Chị có làm thế mấy rồi cũng thua họ.
Thím tiếp lời chồng :
- May mà con Lài nó chạy thoát được nên chưa đến nỗi nào. Theo tôi thì chị nên qua gặp ông bà hội nói rõ cớ sự cho họ biết để họ dạy con, chớ thưa gởi càng gây thù chuốc oán.
Dì Hai nghe theo lời, sáng hôm sau tìm ông bà hội mắng vốn. Trong khi chồng ngượng đỏ mặt xấu hổ thì vợ lại dẩy nẩy nguýt xéo dì Hai Lụa. Ông tìm lời an ủi người đàn bà nhân hậu chất phác còn bà thì ương ngạnh thách thức:
- Ai có giỏi thì cứ đi thưa, vợ chồng tôi sẽ đi hầu.
Vốn từng trải sành đời, ông biết lúc nào phải nhún nhường nên khuyên vợ:
- Chị Hai có thưa gởi gì đâu mà bà nói vậy. Chuyện con trai mình sàm sỡ mà không dạy nó lại đi nặng lời với chòm xóm, coi sao được ?
Bà hội lừ mắt, hứ một tiếng đoạn ngoe ngoẩy bỏ ra sau vườn trầu. Tiển Dì Hai tới ngõ, ông còn mềm mỏng:
- Tôi xin lỗi chị về tư cách của thằng Sang và những lời nói không phải của vợ tôi. Chị đừng buồn nghe chị .
Lời nói nhã nhặn của ông hội cũng xoa được phần nào nỗi khổ của dì Hai Lụa. Xuân đi hè đến, năm tháng nối tiếp nhau qua, cuộc đời luôn thay đổi. Vì buồn con, ông hội ngã bịnh rồi nhắm mắt lìa đời khi trời sắp vào thu. Trước khi chết, ông thều thào căn dặn vợ một ngày gần đây, thằng Tâm có trở lại quê nhà, bà tìm cách gã con Giàu cho nó vì ông đoán nếu không bị chiến tranh đoản mạng thì với trí thông minh trời ban, thế nào thằng Tâm cũng thành đạt. Bà hội quẹt nước mắt gật đầu lấy lệ nhưng trong lòng ấm ức cho rằng chồng mình lẩm cẩm.
Chôn cất ông xong, bà cùng con trai xồng xộc đến nhà dì Hai ra lịnh một tháng phải dọn đi nơi khác. Mẹ Lài sững sờ hỏi:
- Tiền mướn đất tôi đóng đủ, tại sao bà đuổi tôi ?
Với giọng hằn học, bà quát tháo:
- Đất ruộng của tôi, tôi muốn lấy lại lúc nào cũng được, chị đừng nhiều lời.
Đoạn bà ỡm ờ hăm dọa:
- Nếu tới kỳ hạn mà không đi, tôi cho người đến cào nhà.
Lài nghe qua, nắm tay mẹ kéo vô nhà:
- Thôi má à, người ta đuổi thì mình đi, tiếc nuối gì chỗ nầy ?
Bà hội biết Lài mỉa mai mình nên nhìn chòng chọc nàng rồi hầm hầm bỏ về. Vợ chồng Năm Ca và bà Sáu Hát tỏ vẽ bất mản tột cùng, nỗi lo âu hiện ra trên gương mặt quê mùa. Họ thương mẹ con Lài nhưng bất lực trước hạng người nhiều của ăn của để.
Tờ mờ sáng, Lài cùng mẹ ra hương lộ đón xe đi Cai châu, nơi chôn nhau cắt rún của dì Hai. Nhờ người em bà con thương tình, thuận ý cho dì trở về chốn cũ, dựng một căn nhà lá, bên ngoài làm quán bán còn bên trong để ở.
Chương bốn
Hoàng hôn bóng đã xế chiều, ánh lửa nhà ai bập bùng trong bếp. Trên con đường mòn cặp theo bờ sông, một thanh niên mặc chiếc áo sờn vai, quần vá đít, đầu đội cái nón lủng lỗ lửng thửng bước về hướng nhà cũ của dì Hai. Chàng chưng hửng khi thấy trước mắt cái nền đất nằm chơ vơ còn túp lều tranh biến đâu mất. Người thanh niên thẫn thờ đi sang nhà bên cạnh :
- Xin lỗi, chú cho cháu hỏi thăm.
Ông Năm Ca đang ngồi trước sân chẻ củi, ngẩng đầu lên nhìn:
- Cậu hỏi ai ?
- Dì Hai Lụa không còn ở đây nữa sao chú ?
Giọng ông bùi ngùi :
- Bị họ đuổi nên mẹ con chĩ dọn về Cai châu một năm rồi.
Chàng ngơ ngác :
- Tại sao dĩ bị đuổi vậy chú ?
Với tâm trạng chán chường, ông khẽ đáp :
- Con trai bà hội đồng toan dỡ trò hãm hiếp con Lài, nhưng nó chạy thoát qua nhà tôi. Chị Hai tới nhà họ mắng vốn. Ông hội đồng còn biết điều phải trái xin lỗi chĩ, còn bà vợ thì binh con để tâm thù vặt. Sau khi ổng chết, bã thẳng tay xua đuổi mẹ con chĩ.
Chàng xúc động thở dài :
- Tội nghiệp dĩ quá !
Qua phút chạnh lòng, ông Năm Ca ngó sững chàng trai:
- Cậu có bà con gì với chị Hai không ?
Người thanh niên cười xòa:
- Chú Năm quên cháu rồi sao ?
Nhíu đôi mày rậm, ông nông dân lắc đầu:
- Thiệt tình tôi không nhớ.
Chàng kề tai:
- Thằng Tâm đây nè !
Tròn mắt kinh ngạc, ông Năm nắm vai Tâm lắc mạnh đoạn cất tiếng gọi vợ:
- Mình ơi, ra đây xem !
Bà đang dọn cơm, nghe tiếng chồng vội bỏ chạy ra :
- Gì đấy mình ?
Ông cười khanh khách:
- Mình có biết ai đây không ?
Ngơ ngác, bà vợ nhìn người lạ gải đầu :
- Ai vậy mình ?
- Thằng Tâm ở cho ông hội đồng ngày trước đó.
Bà trố mắt :
- Mèn ơi ! thằng Tâm đó sao ? Đi đâu mà biệt tăm vậy cháu ?
Chàng bùi ngùi xúc động :
- Dạ cháu đi làm ăn xa.
Ông Năm hoan hỷ :
- Rồi có khấm khá gì không ?
Tâm lắc đầu :
- Dạ nghèo vẫn hoàn nghèo.
Ông thương hại an ủi :
- Thôi thì trở về quê mình làm ruộng kiếm sống.
- Dạ để cháu tính.
Bà Năm Ca cố mời Tâm ở lại ăn cơm dưa muối với gia đình nhưng chàng từ chối đứng lên giã biệt. Ra đến cửa ngõ, Tâm nhét vào túi quần xà lỏn của chú Năm một số tiền. Ông tặc lưỡi :
- Trời ơi !cháu có dư dã gì mà cho chú ?
Tâm thân tình :
- Nghèo giúp nhau mới thảo chứ chú.
Rồi chàng hối hả :
- Để cháu ghé thăm bà hội và hỏi bã vài câu.
Trời chạng vạng tối, bóng Tâm khuất dần sau lũy tre. Con chó nhà bà hội đồng sủa vang khi thấy có bóng người thấp thoáng ngoài cổng. Tâm đưa mắt nhìn xóm cũ hoang sơ, cây cối um tùm, dây tơ hồng màu vàng nhạt bò đầy trên hàng rào dâm bụt. Từ sau bếp, chị Lan đi theo con đường lót gạch tàu bên hông nhà ra mở cửa. Kỷ niệm năm xưa ập về, Tâm ôm chầm lấy Lan :
- Chị còn nhớ em không ?Thằng Tâm, em của chị nè !
Lan mừng quýnh :
- Đi đâu mà biệt tích vậy em ?
Chàng chẫm rãi :
- Chuyện còn dài, để rồi em sẽ kể cho chị nghe.
Đoạn Tâm hỏi:
- Bà hội có ở nhà không chị ?
Lan nhanh nhẩu:
- Vừa ăn cơm xong, bà và cô cậu đang uống trà.
- Em vào thăm một chút nhé !
Tâm hăm hở bước lên thềm nhà. Có tiếng bà hội hỏi vọng ra:
- Ai đó Lan ?
Bỗng mẹ con bà ngẩn người chưng hửng khi Tâm xuất hiện. Bên ngoài, Lan nói vói theo :
- Chút nữa xuống bếp ăn cơm với chị nghe Tâm. Chị chờ em đó.
- Dạ.
Tâm bèn giỡ nón :
- Thưa bà con mới về.
Rồi chàng quay sang cô Giàu, cậu Sang :
- Cô Hai, cậu Ba vẫn mạnh ?
Dường như hai người có chuyện gì u uẩn nên chào hỏi qua loa đoạn bỏ vào phòng. Bà hội ngồi trên ghế trường kỷ ném ánh mắt soi bói nhìn Tâm đang đứng xớ rớ bên bộ ván gõ, ăn mặc xốc xếch, chiếc áo sờn vai nhầu nát bỏ trong cái quần tây vá mấy chỗ nên tỏ vẽ khinh khi :
- Mầy còn sống mà trở về sao Tâm ?
Câu hỏi phũ phàng làm Tâm bật cười :
- Dạ con chưa chết.
Giọng bà cộc lốc :
- Bộ đi lính Tây ít lương lắm sao mà mầy nghèo quá vậy ?
Chàng từ tốn đáp :
- Còn mạng sống mà trở về là phước đức ông bà rồi đó bà.
Chợt nhớ ra, bà cười khẩy :
- Bởi vậy ông mầy đâu để cậu Ba đi Tây, sợ nó bỏ thây bên đó.
Biết được thâm tâm của chủ cũ, chàng ngao ngán nói sang chuyện khác:
- Cô Hai, cậu Ba chưa có gia đình sao bà ?
Bà hội lộ vẽ lúng túng:
- Mấy nơi dạm hỏi rồi mà con Giàu nó chưa ưng ai.
Tâm mỉa mai:
- Chắc không môn đăng hộ đối chớ gì .
Chàng hỏi tiếp :
- Còn cậu Ba ?
Bà ỡm ờ:
- Ối, nó là con trai mà gấp gáp gì.
Tâm xin phép đến bàn thờ đốt nén nhang cắm trước di ảnh ông hội đồng rồi lặng lẽ ra sau bếp. Chàng ngồi bên cạnh chị Lan thủ thỉ :
- Em tưởng chị có chồng con rồi chứ ?
Lan cười khúc khích :
- Nghèo quá ai mà thèm em ơi.
Lan cũng nhìn Tâm sốt ruột muốn biết:
- Em đi đâu mà biệt tăm vậy ?
Chàng điềm nhiên:
- Em đi làm ăn xa lắm chị à.
Bỗng nhớ ra hai chị em chưa có hột cơm nào trong bụng, Lan kéo Tâm vào ngồi ăn chung. Chàng vừa ăn vừa nhìn quanh quẩn gợi nhớ kỷ niệm thời đi ở mướn. Lan đoán được ý :
- Em thấy có gì thay đổi không ?
Tâm lắc đầu:
- Cũng vậy thôi.
Lan rúc rích cười:
- Tại mới về em không thấy chứ thật ra có nhiều chuyện lạ lắm.
Tâm lắc nhẹ vai Lan thúc giục:
- Chị nói cho em nghe đi !
Nàng kề tai kể:
- Từ ngày ông mất, cửa nhà sa sút nhiều. Cậu Ba cờ bạc, đá gà lại hút á phiện nữa nên mắc nợ ngập đầu, bà phải bán ruộng đất để trang trải; giờ thì chỉ còn cái nhà hương hỏa này với mấy mẫu ruộng gần đây thôi.
Tâm gật gù:
- Còn cô hai, nghe bà nói có mấy nơi coi mắt mà cổ chưa ưng.
Lan ra vẽ hiểu biết, nhún vai bĩu môi:
- Người ta chê thì có.
Chàng chưng hửng :
- Tại sao lạ vậy ?
Lan nhanh miệng giải thích:
- Mai mối đến dọ dẫm thấy gia tài của bà hội không còn bao nhiêu nên họ rút lui hết.
Nhớ lại chuyện chú Năm Ca kể lúc nảy, Tâm buồn ray rứt muốn biết rõ:
- Còn việc cậu Ba toan cưỡng hiếp em Lài ?
Lan nhìn Tâm trân trối:
- Làm sao em biết ?
- Chú Năm nói.
Giọng Lan bùi ngùi:
- Tội nghiệp nó lắm em ơi !Cũng may con Lài chạy thoát thân được qua nhà thím Năm cầu cứu, chứ không thì cẫu đã hiếp dâm con nhỏ rồi.
Căm tức tràn hông nhưng Tâm cố đè nén:
- Rồi dì Hai có phản ứng gì không ?
Lan hăm hở tiếp:
- Sao lại không ? Dĩ đến nhà mắng vốn ông bà hội. Ổng thì biết điều xin lỗi còn bã lại binh con. Sau khi ông mất, mẹ con dì Hai bị bã buộc phải dọn nhà đi nơi khác.
Tâm nhận thấy chú Năm và Lan kể giống nhau, chàng cau mày ngẫm nghĩ rồi ngẩng đầu nhìn Lan:
- Lài có chồng con gì chưa chị ?
Nàng đáp nhanh:
- Lúc còn ở đây thì chưa, sau nầy không gặp chị đâu biết.
Hai chị em tâm tình đến khuya rồi mỗi người lên bộ ván nhỏ giăng mùng ngủ như thuở nào. Hướng Đông mặt trời đã ló dạng. Tâm thức dậy sớm đi dạo quanh vườn. Lũ gà nòi thi nhau vươn cổ gáy. Con chim chìa vôi nhảy từ cành cây nầy sang cành cây khác. Những giọt sương long lanh dưới ánh nắng ban mai lăn tròn trên tàu lá bạc hà. Hàng cau già cằn cỗi, dây trầu héo xác xơ. Trước sân nhà, hai cội mai chiếu thủy tàn tạ theo thời gian. Hòn non bộ xinh đẹp năm nào nay cũng xanh rì rong rêu. Nhìn cảnh nhà cũng đoán được gia chủ đang lâm vào thời kỳ sa sút. Bà hội miệng nhai trầu bước ra đứng cạnh Tâm bóng bẩy nói:
- Nhà nầy đâu còn việc gì cho mầy làm nữa.
Tâm cười xòa:
- Thưa bà, con đã có công ăn việc làm ở Sađéc rồi.
Nét mặt bà khinh khỉnh:
- Họ mướn mầy làm gì ?
- Dạ làm cu li khuân vác bến tàu.
Vẫn vẻ vênh váo, bà gật gù :
- Ừ, cũng được đó.
Đoạn Tâm lạnh nhạt chào từ giã bà hội. Chàng trở vào bếp lấy cái nón, ôm gói đồ ra đi. Lan bin rịn tiễn Tâm đến cửa ngõ. Chàng cầm tay Lan:
- Em có để cái bao giấy nhỏ dưới gối chị. Vô lấy cất đi.
Rồi Tâm trìu mến nhìn Lan:
- Em đi nghe chị. Một ngày nào đó em rước chị về ở với em.
Nàng cười lỏn lẻn:
- Một thân em chưa xong lại lo cưu mang thêm chị.
Tâm đi rồi, Lan quày quả trở vô bếp, lật cái gối lên lấy gói giấy mở ra xem. Nàng ngẩn ngơ thấy nhiều tờ giấy bạc và bức thư vỏn vẹn có vài chữ: « Em xin gởi chút ít tiền giúp chị. Của ít lòng nhiều, chị nhận cho em vui. Hẹn gặp lại. » Cảm xúc dâng trào, Lan không cầm được nước mắt.
Bà hội đồng mặt mày ủ rũ leo lên bộ ván gõ ngồi chưn chống chưn xếp, trét vôi lên lá trầu, bỏ chung với cau tươi vô cái ống ngoáy, mắt nhìn lên bàn thờ lẩm bẩm: « Ông có thấy ông tính sai không ? Làm sao tôi gã con Giàu cho thằng nghèo xơ nghèo xác đó được ? Gà là gà, phượng là phượng, gà không thể chung chuồng với phượng; đỉa không thể đeo chưn hạc. Dầu gì, con gái mình cũng tiểu thư đài các, phải có tấm chồng xứng đáng ». Rồi bà tự toại cho mình quyết định đúng.
Ra đến hương lộ, Tâm thơ thới ngồi trong góc quán nước, ăn cái bánh ếch nhân đậu, uống ly trà nóng, đón xe Sađéc-Cao lảnh để quá giang đi Cai châu. Gió sớm từ cánh đồng mênh mông phe phẩy thổi, thảm mạ non xanh rì ngả nghiêng gợn sóng.
Tâm đến Cai châu lúc trời vừa đứng bóng. Chàng phải đi quanh co hỏi thăm thật lâu mới tìm được nhà dì Hai Lụa. Lũ chó hàng xóm thấy người lạ sủa hoảng , đám trẻ con thập thò bên giậu mồng tơi ngó sang. Dì Hai lửng thửng bước ra. Tâm trân trối nhìn người mẹ nuôi đã nhiều năm xa cách, giờ đây héo gầy với bao sóng gió cuộc đời, chàng nghẹn ngào:
- Dì Hai !
Giương mắt to nhìnTâm tần ngần, dì run rẩy:
- Mèn ơi, thằng Tâm đó sao ?
Tâm ôm chặt lấy dì, lệ đầm đìa:
- Con mới về đây Dì.
Nước mắt chảy dài ướt đẫm khuôn mặt nhăn nheo, Dì vuốt tóc Tâm như lúc chàng còn bé:
- Đi đâu mà bặt vô âm tín vậy con ?
Nén cảm xúc, Tâm bồi hồi :
- Chuyện dài dòng lắm Dì Hai, thủng thỉnh rồi con kể cho Dì nghe.
Đoạn chàng nhìn quanh:
- Còn em Lài đâu Dì ?
Đưa tay quẹt nước mắt, Dì nói nhỏ:
Dì đăm đăm nhìn Tâm, ánh mắt thoáng buồn, lòng se lại. Vốn thân phận bọt bèo, bao năm trôi nổi, nay trở về vẫn lam lũ như xưa. Dì xót xa thương nó quá. Tâm ra sau hè lấy gáo dừa múc nước trong lu rửa mặt thì cũng vừa lúc Lài thấp thoáng bước qua cây cầu khỉ. Chàng sửng sờ nhìn đứa bé lem luốc năm nào, nay trở thành một cô thôn nữ xinh đẹp. Chiếc nón lá quai đen nghiêng nghiêng che khuôn mặt trắng ngần, tóc mây sợi vắn sợi dài xõa trên vầng trán còn lấm tấm mồ hôi. Chiếc áo bà ba ôm gọn thân hình thon thả.
Bước vào nhà, nàng đặt giỏ lên bàn, tay cầm nón lá phe phẩy quạt. Muốn dành cho Lài sự ngạc nhiên, dì Hai im lặng nhìn con. Từ sau bếp, Tâm bước ra, Lài tròn mắt kinh ngạc. Nàng mơ chăng ?
- Em Lài, làm gì mà ngó sửng anh vậy ? Anh về với em nè !
Tiếng của Tâm kéo Lài trở lại thực tế. Đúng rồi, Tâm đây mà. Tâm đang đứng trước mặt nàng. Giòng nước mắt chợt tuôn ra:
- Anh Tâm !
Bao nhớ nhung chất ngất, bao khắc khoải đợi chờ chỉ được diễn tả qua hai tiếng « Anh Tâm » thân thương. Bốn mắt nhìn nhau, lòng rộn rã niềm vui, Tâm tiến đến ôm lấy vai Lài khiến nàng ngượng đỏ mặt nhưng tim ngập tràn sung sướng. Lài lỏn lẻn chớp mắt:
- Hai mươi năm anh mới quay về.
Bàng hoàng xúc động, Tâm gật đầu:
- Thời gian dài quá phải không em ?
Cũng như mẹ, Lài thấy Tâm xốc xếch trong chiếc áo cũ, cái quần vá víu, nàng chạnh lòng thương Tâm nhiều hơn. Chợt nhớ ra, Lài vồn vã hỏi:
- Sao anh biết nhà mà tìm ?
Tâm chẩm rải kể :
- Chiều hôm qua, anh về chốn cũ, chỉ thấy cái nền nhà nên qua hỏi chú Năm Ca mới biết Dì và em đã dọn đi nơi khác.
Nỗi buồn ập đến, nàng ngậm ngùi:
- Anh có biết vì sao không ?
- Chú Năm đã nói hết.
Đoạn nàng sầm mặt:
- Anh có sang nhà bà hội chứ ?
Tâm gật đầu:
- Có, để chứng kiến cảnh giậu đổ bìm leo.
Lài lộ vẻ ngơ ngác:
- Anh nói gì em không hiểu ?
Tâm liền giải thích :
- Theo lời chị Lan, sản nghiệp của bà hội sắp tan hoang rồi cũng vì cậu ba Sang cờ bạc mang nợ ngập đầu nên đất ruộng cầm bán gần hết.
Dì Hai Lụa từ nảy giờ lẳng lặng nghe bèn góp lời:
- Có ai giàu ba họ, khó ba đời đâu bây ?
Đoạn nhớ lại chuyện xưa, Dì cay cú:
- Con nên nhớ câu: giang sơn dễ đổi, bản tánh khó dời. Thằng Sang tánh tình hỗn xược, láu cá lưu manh, dâm đãng đểu giả, hút xách cờ bạc thì sớm muộn gì cũng làm tiêu tan nhà cửa.
Chợt nhớ ra đã quá trưa, Lài vội vả ra sau bếp:
- Hôm nay em đãi anh ăn cơm với rau lang luộc chấm tương hột nhe ! Có xả bầm nhỏ với ớt , đậu phộng trộn vào nữa.
Tâm sung sướng:
- Cái gì cũng ngon, miễn là được ăn chung với Dì và Lài.
Ửng hồng đôi má, mắt chớp nhanh, Lài nũng nịu:
- Thiệt không đó ?
- Anh nói thật mà !
Cảnh cũ quay về. Trong mái nhà tranh ọp ẹp, ba mái đầu chụm vào chia xẻ cho nhau từng cọng rau luộc, chén cơm vơi nấu bằng gạo lức đỏ, họ vừa ăn vừa cười nói vui vẻ.
Chiều về, hoàng hôn buông xuống, những tia nắng vàng vọt cuối ngày tắt dần sau lũy tre bụi trúc. Mặt trời xuống dần rồi khuất hẳn phía rừng dừa chập chùng. Cảnh hoàng hôn chiều nay không còn buồn nữa vì Lài đã có Tâm bên cạnh. Giòng Tiền giang đục ngầu phù sa chứng kiến hai mái đầu thì thầm tâm sự:
- Tại sao Lài chưa chịu lấy chồng ?
Ánh mắt tình tứ, nàng cười lỏn lẻn:
- Em cũng không biết.
Hiểu được lòng người thôn nữ, Tâm ngọt ngào :
- Có phải em đợi chờ anh không ?
Lài lừ mắt trách yêu:
- Biết mà còn hỏi, ghét thấy mồ !
Tâm tinh nghịch:
- Ghét thiệt không đó ? Anh đi luôn à !
Nàng dỗi hờn phụng phịu :
- Anh đi cưới vợ đi !
Đưa tay vuốt nhẹ mái tóc nhung mượt mà của Lài, Tâm trìu mến:
- Em giận anh sao ?
Lài vùng vằng :
- Chớ nói vậy mà nghe được à?
Tâm đắm đuối nhìn Lài:
- Cho anh xin lỗi nghe.
Đoạn Tâm khẻ nắm tay nàng :
- Em có biết anh yêu em nhiều lắm không ?
Theo tháng rộng năm dài, mòn mỏi chờ đợi, Lài đã được đền đáp bằng tình yêu của chàng trai lam lủ nhưng thật thà chất phác. Ửng hồng đôi má, nàng sung sướng thỏ thẻ :
- Chớ bộ em không yêu anh sao ?
Tâm ướm lòng Lài :
- Nếu anh không trở lại thì em làm gì ?
Nàng nguýt Tâm nũng nịu :
- Em sẽ chờ anh trọn kiếp.
Ôm tấm thân thon của người yêu vào lòng, Tâm đặt nụ hôn dài lên môi, lên má Lài. Nàng e ấp trong vòng tay Tâm đón nhận. Rồi chàng rót vào tay người tình:
- Tối nay, anh sẽ thưa với Dì Hai chuyện chúng mình. Em đồng ý chớ ?
Nàng mỉm cười:
- Còn phải hỏi.
Trời nhá nhem tối, một làn gió nhẹ từ mặt sông thổi lên xào xạc hàng phi lao mọc ngang tầm mắt. Trăng lưỡi liềm chênh chếch trên ngọn dừa. Tay đan tay, Lài cùng tâm thư thả lần bước trở lại nhà. Dì Hai cũng đang chong đèn dầu ngồi đợi trên bộ ván. Trong bữa cơm chiều, Tâm trố mắt nhìn nồi canh chua cá lóc nấu với bông so đủa, trứng nổi vàng lền; ơ tôm càng kho, gạch đỏ tươi. Lài tủm tỉm cười đồng lõa với mẹ. Thì ra dì Hai đã chẻ ống tre lấy tiền chắt chiu dành dụm, ra chợ chiều mua các món nấu đãi Tâm. Chàng cảm động ngó đôi bàn tay gầy guộc của dì múc canh ra tô.
Tối hôm đó, dọn dẹp xong, Lài ngồi cạnh mẹ trên cái giường tre còn Tâm thì leo lên bộ ván tựa lưng vào vách. Chàng thưa chuyện với Dì để xin cưới Lài. Dì hoan hỷ nhận lời và đề nghị Tâm ở luôn đây, tìm việc vặt vãnh kiếm sống qua ngày, hủ hỉ với mẹ con dì. Vì Tâm chưa diễn trọn vai tuồng trong vở kịch đời chàng đang đóng nên lựa lời:
- Sáng mai con phải về Sađéc lo công việc, vài hôm nữa con sẽ trở lên để chuẩn bị đám cưới.
Dì Hai lừ mắt hứ một tiếng:
- Nghèo mà bày đặt. Mình nấu một mâm cơm cúng ba con Lài với tía má con là được rồi.
Tâm gải đầu cười tủm tỉm:
- Dì tính sao con cũng nghe theo. Nhưng sáng mai con xin phép đi Sađéc vài ngày.
Lài lo lắng hỏi:
- Ra Sađéc, anh ở đâu?
Chàng hơi lúng túng:
- Nhà người bạn.
Dì hai nhìn Tâm:
- Còn tiền đi xe không ? Dì cho nè !
Tâm cảm động :
- Dạ còn.
Nét mặt tươi cười hớn hở, Lài đi giăng mùng trải chiếu trên bộ ván cho Tâm ngủ còn nàng nằm với mẹ trên chiếc giường tre.
Ngày Tâm hồi hương, chàng ở tạm trong một khách sạn lớn tại Sàigòn. Vài hôm sau, Tâm lần mò về Sađéc tìm mua được một ngôi nhà lớn tọa lạc trên con lộ ngoài trông ra sông vừa để mở phòng mạch, vừa để ở cho thoáng mát. Tâm cũng vào đại lý Citroen ỡ Sàigòn mua một chiếc xe hơi mới làm phương tiện di chuyển.
Hôm chàng quyết định tìm về quê cũ, Tâm mượn của ông quản gia một bộ đồ nhầu nát mặc vào, lấy cái nón nỉ lủng lỗ đội lên đầu rồi thản nhiên ra đón xe thổ mộ đi sang cầu quây về hướng Cao lảnh. Ông Thịnh ngơ ngác chẳng hiểu ất giáp gì ?
Trưa nay, ông thấy cậu chủ trở về, mặt vui hớn hở. Tâm thay quần áo ra chợ Sađéc, vào tiệm vải gần cầu Cái sơn chọn mua nhiều loại để may áo dài cho dì Hai và Lài; đoạn chàng đến tiệm vàng Phạm Trọng lựa một số nữ trang rồi lửng thửng đi dạo bờ sông.
Sáng sớm, Tâm nhờ ông Thịnh ra tiệm Ba Số lấy con heo sữa quay được đặt trước, sau đó vào nhà lồng chợ mua bánh hỏi, rau sống, trái cây rồi đi xe lôi về. Sắp đặt các thứ xong, chàng căn dặn ông quản gia vài câu đoạn lên xe rồ máy đi. Tâm theo con đường lộ giữa, quẹo phải, vượt qua cây cầu sắt bắt ngang sông Sa giang chia thị xã làm hai vùng :một bên là khu thương mãi, một bên là toà hành chánh và nhà thương. Sau đó, chàng rẽ sang hương lộ, qua chùa cao đài, tiến ra mũi Cản gió. Đường gập gềnh, xe nhồi lên, xụp xuống. Chạy dọc theo sông Cửu Long đỏ ngầu phù sa, gió mát phần phật thổi, sóng nhấp nhô, mặt nước mênh mông trải dài. Chỉ mất một giờ, xe đến Cai châu. Tâm ăn mặc chỉnh tề từ từ bước xuống, mang các thức ăn vào nhà dì Hai.
Lài đang giặt quần áo trên chiếc cầu ván bắt ve ra sông, nghe chó sủa, ngẩng đầu nhìn. Nàng trố mắt kinh ngạc bỏ cái thau đồ chạy lên, nhìn sửng Tâm sang trọng trong bộ đồ tây xám. Còn dì Hai nghe tiếng con nít ơi ới gọi nhau đi xem chìếc xe hơi mới toanh đậu dưới tàng cây trứng cá, cũng hăm hở bước ra. Giống như Lài, dì sửng sốt đứng thừ người ra :
- Thiên địa ơi ! mắt tao có lầm không ?
Tâm cười khúc khích chào Dì Hai, đặt thức ăn lên bàn rồi nắm tay Lài kéo ra ngõ phụ chàng mang các món lỉnh kỉnh vào. Dì Hai bỏ nhà bươn bả đi theo, nét mặt rạng rỡ. Đâu đó xong xuôi, Tâm mở gói hàng lụa ra trao tặng Dì với Lài. Chàng lấy trong hộp nữ trang cái kiềng vàng, chiếc xuyến và đôi bông tai đeo cho Lài. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nàng sung sướng ngập lòng trong khi dì Hai sốt ruột muốn biết :
- Con làm gì mà giàu dữ vậy Tâm ?
Lài cũng chen vào :
- Anh có vẽ bí mật quá !
Tâm nhìn hai người thương rồi từ tốn kể chuyện hai mươi năm trước, từ ngày chàng theo ông bà hội lên Sàigòn, vâng lịnh chủ thay tên đổi họ xuống tàu đi Pháp thế chổ cậu ba Sang. Trên đất khách quê người, chàng được vợ chồng ông Colombani giàu có bảo trợ, thương yêu chăm sóc như đứa con ruột cho Tâm ăn học đến bác sĩ. Được biết nguyện vọng của chàng muốn về phục vụ quê hương dân tộc, ông bà tặng Tâm một số tiền lớn để làm phương tiện xây nhà thương hay mở phòng mạch. Tâm tình gói trọn trong lòng suốt thời gian dài được trút cạn, chàng cảm thấy thơ thới nên đề nghị :
- Tụi con dọn thức ăn lên bàn thờ nghe Dì ?
Dì Hai hân hoan :
- Ừ, để tao phụ bây.
Lài vui như mở hội, cuống quít bên Tâm sắp xếp đồ cúng. Dì Hai vô trong lấy chiếc áo dài cũ ngã màu mặc vào rồi trở ra đứng trước bàn thờ, tay đốt nhang, miệng lâm râm khấn vái. Tâm khui chai rượu tây, rót đầy mấy chum đặt cạnh lư hương. Cúng xong, ba người quây quần ăn uống. Lài tấm tắc khen thịt heo quay giòn rụm; Dì Hai cũng cao hứng uống vài hớp rượu. Nhìn mẹ vui, Lài cười rúc rích :
- Coi chừng say nghe má !
Tâm pha trò :
- Thì Dì sẽ thấy hai thằng Tâm với hai con Lài.
Đoạn chàng đề nghị:
- Ăn xong, con đưa Dì với em Lài trở ra Sađéc cho thợ đo ni may quần áo.
Dì cằn nhằn:
- Làm gì mà gấp dữ vậy con ?
Tâm cười xòa:
- Để mặc đám cưới tụi con.
Dọn dẹp đâu đó xong, Tâm lái xe đưa mẹ con Dì Hai đi Sađéc. Thoáng thấy chủ về, ông Thịnh chạy ra mở cổng sắt; Tâm rẽ vào trong sân cỏ tắt máy xe. Dì Hai và Lài ngẩn ngơ không ngờ Tâm có một ngôi nhà đồ sộ. Chàng đưa hai người thân đi viếng trước sau rồi cả ba bách bộ ra lộ giữa đến tiệm may lớn. Trên đường đi, Lài liếc Tâm hỏi:
- Chừng nào anh mới bắt đầu khám bịnh ?
Tâm điềm đạm:
- Chờ giấy phép tới, chắc nay mai em à .
Ra chiều suy nghĩ, chàng tiếp :
- Anh định làm thêm bên nhà thương công để giúp người nghèo.
Thình lình chú Năm Ca đi trờ tới gặp :
- Ủa, chị Hai, con Lài đi đâu đây ?
Rồi chú hoa mắt tần ngần nhìn Tâm :
- Thằng Tâm đây sao ? Hèn chi...
Gặp lại người bạn láng giềng tốt bụng, mẹ con Dì Hai mừng rỡ hỏi han ríu rít khiến Tâm cũng vui lây. Chú Năm cười hả hê kể chuyện Tâm ăn mặc nghèo nàn trở về quê tìm mẹ con Dì. Tâm mời chú nán lại ăn cơm chiều với Dì Hai và Lài.
Hôm sau, thím Năm Ca rỉ tai cho hàng xóm biết chuyện thằng Tâm rách rưới ngày xưa, nay đỗ đạt thành bác sĩ trở về Sađéc mở phòng mạch. Tiếng đồn lan dần đến tai gia đình bà hội. Bã không tin vì chính mắt đã trông thấy và nói chuyện với nó hôm nào. Cô hai Giàu và cậu ba Sang cũng bồn chồn muốn biết hư thực nên âm thầm rủ nhau ra chợ Sađéc tìm xem. Con Lan còn quả quyết Tâm có ngôi nhà lớn gần cầu quây. Lúc cô cậu trở về, bà hội vồn dập hỏi:
- Có đúng không bây ?
Cô Hai gật đầu:
- Má ơi, tin đồn không sai chút nào.
Bà tá hỏa tam tinh, mặc nhanh chiếc áo dài, xách giỏ trầu ra hương lộ bao xe thổ mộ đi Sađéc. Ông quản gia Thịnh thấy loáng thoáng một bà già đứng lớ ngớ trước cổng bèn ra hỏi :
- Bà tìm ai ?
Bà hội bẽn lẽn :
- Có phải đây là nhà của bác sĩ không ?
Ông tròn mắt:
- Bà bịnh à ?
Bà hội tê tái trong lòng :
- Dạ không.
Ông Thịnh ngạc nhiên:
- Vậy bà tìm bác sĩ làm gì ?
Bà làm ra vẻ thân quen:
- Lâu quá không gặp nên tôi đến thăm.
Bên trong, Tâm nghe tiếng đối đáp, bước ra nhìn, chàng ngẩn người :
- Chào bà hội, xin mời vào.
Ông Thịnh hé mở cánh cửa sắt, bà lầm lũi bước theo. Vô nhà, bà hội chóa mắt trước lối chưng bày đồ đạc theo âu tây.
- Mời bà hội ngồi.
Tiếng của Tâm làm bà giật mình, bà ngượng ngùng đổi lối xưng hô:
- Sao cậu nỡ giấu tôi ?
Tâm cười ngất:
- Con đâu dám.
Bà giả vờ hối hận :
- Hôm cậu đến thăm, tôi có những lời không phải, xin cậu bỏ qua cho.
Chàng nhăn mặt khó chịu trước trò đời tráo trở, thay đen đổi trắng :
- Bà yên tâm, dù sao con cũng là người ăn kẻ ở trước kia của bà.
Đoạn Tâm thanh thản tiếp :
- Hôm nay bà đến tìm con có việc gì ?
Bà sượng sùng tìm lời lấp liếm:
- Trước khi ông nhà tôi mất, ổng có trối trăn...
Chàng chưng hửng:
- Về vấn đề gì ?
Bà hội muối mặt làm thân:
- Ổng căn dặn tôi khi cậu trở về nước hãy gả con Giàu cho cậu.
Tâm nhìn bà sững sờ :
- Sao hôm con đến thăm, bà không cho biết ?
Bà lấp la lấp lửng :
- Tại tôi quên.
Trước con người trơ tráo, chàng cười mỉa :
- Là thân tôi tớ, làm sao con dám trèo đèo ?
Bà chống chế ve vãn:
- Nhưng con gái tôi nó thương cậu mà !
Tâm điềm nhiên:
- Còn con thì theo phận gối rơm nên sắp cưới Lài. Cuối tháng con sẽ gởi thiệp mời đến bà và cô cậu.
Hầm hầm quắc mắt, bà hội đứng lên, ngoe ngoẩy xách giỏ trầu đi một mạch không nhìn lại. Tâm cũng lặng lẽ ra đóng cửa.
Cả châu thành Sađéc trầm trồ khen đám cưới sang trọng của một bác sĩ từ bên Pháp về sánh duyên với cô thôn nữ xinh đẹp ở miệt Cai châu. Ngày rước dâu, Lài diễm kiều trong chiếc áo dài màu đỏ lựu, quần trắng, mặt trang điểm đơn sơ, môi tô son hồng nhạt, cổ mang kiềng vàng, lổ tai lấp lánh đôi bông hột xoàn, cùm tay đeo chiếc xuyến, chân mang giày trắng. Quan khách trầm trồ khen cô dâu đẹp dịu dàng. Quả thật, Lài đẹp thướt tha với hai tà áo dài lúc khép, lúc mở, lúc cuống quít, lúc lả lơi bay nhờ làn gió sông lay động tài tình tạo nên. Chàng rể lịch lãm tủm tỉm cười hãnh diện có người vợ đẹp hiền thục nết na, gắn bó đồng hành với mình trên bước tương lai. Tâm nhận thấy Lài là mẫu người an phận, không hề đòi hỏi, không sống với tham vọng, lòng đầy nhân ái. Chàng thầm hứa sẽ đưa vợ đi trọn quảng đường đời với tình mặn nghĩa nồng.
Dì Hai niềm nở tiếp đãi bà con láng giềng xưa, nào là vợ chồng Năm Ca, bà Sáu Hát, chú Tư Kiên, có cả mấy thầy cô giáo cũ của Lài nữa. Lan cũng được Tâm mời nên ăn uống, cười nói không ngớt. Chỉ có gia đình bà hội không đến dự dù đã nhận được thiệp mời.
Hôm sau, Tâm đưa Lài ra Long hải hưởng tuần trăng mật. Lần đầu tiên trông thấy biển, Lài thích thú nhìn đại dương mênh mông. Hai vợ chồng in gót chân trên bãi cát trắng mịn màng còn đậm dấu ấn thiên nhiên. Rặng thùy dương rũ bóng, nước biển trong xanh, bờ biển uốn lượn những đường cong mềm mại theo bãi cát trắng phau. Chiều tà bảng lảng ánh hoàng hôn, đêm xuống dần. Tâm ôm gọn thân hình mảnh mai của vợ trong vòng tay xiết chặt;Lài đồng lõa xoắn lấy chồng. Họ chơi vơi ngụp lặn trong hạnh phúc tuyệt vời.
Dì Hai chìu ý chàng rể bán nhà về Sađéc ở hủ hỉ với con. Lan cũng xin bà hội nghỉ việc vì Tâm nhứt quyết đem chị Lan về chung sống với vợ chồng chàng. Những con người vật vã với khổ đau, dằn vặt với số mệnh không may, nay được xum vầy dưới mái nhà ấm cúng, họ thảnh thơi sống chuỗi ngày còn lại.
Thị xã Sađéc giờ đây có hai người mang tên Lê quang Sang: một bác sĩ giàu lòng nhân ái và một gã đàng điếm lưu manh, cờ bạc hút xách.
Một năm trôi qua, Lài sinh đôi: một trai, một gái. Vợ chồng Tâm sung sướng chọn tên con, lòng đầy hạnh phúc. Chàng ra sức giúp đỡ người nghèo. Bịnh nhân neo đơn túng thiếu được Tâm khám miễn phí, cho tiền mua thuốc và đi xe lôi về.
Tiếng đồn gần lan dần ra xa. Ngày Tâm ra ứng cử nghị viên hội đồng tỉnh, các phu xe kéo, xe lôi tự nguyện vận động cho chàng. Người nghèo được họ đón đi bỏ phiếu không lấy tiền xe. Tâm thắng cử vẻ vang. Từ đó, quan đầu tỉnh không còn ỷ quyền cậy thế hiếp đáp dân lành vì ngại Tâm uyên bác, tốt nghiệp Paris về, lại quen biết với nhiều chính khách ở Sàigòn.
Khi giậu đổ thì bìm leo. Gia đình bà hội đồng tìm nguời bán số ruộng còn lại, kể cả ngôi nhà hương hỏa. Tá điền nơm nớp lo sợ bị đuổi đi. Tâm không ra mặt, chỉ để mẹ vợ đứng ra mua. Trước bạ điền thổ xong, chàng liền cho tá điền cũ làm ăn sinh sống như xưa, không thu lúa, không lấy tiền cho thuê ruộng.
Bà hội đồng xấu hổ, trang trải hết nợ nần của con trai rồi dắt dìu cô hai Giàu và cậu ba Sang về Vĩnh long sống. Từ đó, châu thành Sađéc bớt đi một Lê quang Sang hống hách vênh váo, mồm năm miệng mười, mưu mô xảo quyệt, sàm sỡ điếm đàng. Còn Lài và Tâm như hoa đồng cỏ nội nhờ đất phù sa mầu mỡ bồi dưỡng nên mãi mãi thắm tươi.
Viết xong ngày 2 tháng 4 năm 2003